You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

MÔN HỌC: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ
THỪA KẾ
BUỔI THẢO LUẬN THỨ BẢY

(THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT)

GIẢNG VIÊN: ĐẶNG THÁI BÌNH

DANH SÁCH NHÓM 1.3 – LỚP TM48A1

STT Họ và tên sinh viên Mã số sinh viên


1 Nhữ Phương Anh 2353801011020
2 Phạm Mai Quỳnh Anh 2353801011021
3 Trần Nhật Anh 2353801011025
4 Trần Thị Minh Anh 2353801011027
5 Trần Thị Phương Anh 2353801011028
6 Dương Đặng Kim Châu 2353801011039
7 Đoàn Thị Huyền Diệu 2353801011062
8 Võ Phước Duy 2353801011076
9 Trương Hồ Xuân Hằng 2353801011101
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: XÁC ĐỊNH VỢ/CHỒNG CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN .................... 1
Tóm tắt bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao tại Hà Nội .................................................................................. 1
1.1. Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật? .... 1
1.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong
Bản án số 20. ............................................................................................................ 2
1.3. Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời. ................................................................................................... 2
1.4. Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào
của bản án cho câu trả lời? ..................................................................................... 2
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý. .. 3
1.6. Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào trong
Bản án số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? ........................................... 3
1.7. Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối
năm 1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời. ............................................................................................................. 3
1.8. Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở
miền Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời? ............................................................ 4
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của
cụ Thát trong Bản án số 20. .................................................................................... 4
Tóm tắt Án lệ số 41/2021/AL ..................................................................................... 5
1.10. Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S có được hưởng di sản do ông
T1 để lại không? Đoạn nào Án lệ có câu trả lời. ................................................... 6
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về việc Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của ông
T1 đối với bà T2 và bà S. ........................................................................................ 6
VẤN ĐỀ 2: XÁC ĐỊNH CON CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN ................................. 7
2.1. Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời. ................................................................................................... 7
2.2. Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di
sản. Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời........................................................................... 7
2.3. Trong bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi
không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời? ..................................................... 7
2.4. Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào
của bản án cho câu trả lời? ..................................................................................... 8
2.5. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý. .. 8
Tóm tắt Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao. ......................................................................................................... 8
2.6. Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế
với tư cách nào? Vì sao? ......................................................................................... 9
2.7. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh
Tùng .......................................................................................................................... 9
2.8. Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ
Cầu và cụ Dung không? Vì sao? ............................................................................ 9
2.9. Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời. ................................................................................................. 10
2.10. Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát. ................ 10
2.11. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến.
................................................................................................................................. 11
2.12. Ở Việt Nam con dâu, con rể của người để lại di sản có là người thừa kế
của người để lại di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .......................... 11
2.13. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác định con dâu, con rể là người
thừa kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật
mà anh/chị biết....................................................................................................... 12
VẤN ĐỀ 3: CON RIÊNG CỦA VỢ/CHỒNG ........................................................... 12
3.1. Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao? ........................ 12
3.2. Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời. ....................................................................................... 12
3.3. Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần không? Vì
sao?.......................................................................................................................... 12
3.4. Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến
được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời. ............................................................................................................... 13
3.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của
bà Tiến đối với di sản của cụ Tần ........................................................................ 13
3.6. Suy nghĩ anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của
con riêng của vợ/chồng trong BLDS hiện nay. ................................................... 14
VẤN ĐỀ 4: THỪA KẾ THẾ VỊ VÀ HÀNG THỪA KẾ THỨ HAI, THỨ BA ...... 14
Tóm tắt Bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội ................................................................................................................... 14
4.1. Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của
cụ T5 không? Vì sao? ............................................................................................ 15
4.2. Ở nước ngoài, có hệ thống pháp luật nào ghi nhận thừa kế thế vị trong
trường hợp từ chối nhận di sản/tước quyền hưởng di sản (không có quyền
hưởng di sản) không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết. .. 15
4.3. Ở Việt Nam, khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời. ............................................................................................................... 16
4.4. Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha mẹ có được hưởng thừa
kế thế vị không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .................................................. 16
4.5. Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế
vị của cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục không? Vì sao? .......................... 17
4.6 Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được
hưởng thừa kế thế vị của cụ T5. ........................................................................... 17
4.7 Suy nghĩ của anh chị về việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa
kế thế vị của cụ T5? ............................................................................................... 18
4.8 Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa
kế theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời ........................................ 18
4.9. Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với
thừa kế theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .............................. 19
4.10. Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp
thừa kế theo di chúc không? Vì sao? ................................................................... 19
4.11 Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba? ........................... 20
4.12 Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao? ......................................................................... 20
4.13 Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao? ......................................................................... 21
4.14 Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong vụ việc
trên? Vì sao? .......................................................................................................... 21
4.15 Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi
trên (áp dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai) ............. 21
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật Dân sự
CSPL Cơ sở pháp lý
VẤN ĐỀ 1: XÁC ĐỊNH VỢ/CHỒNG CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN
Tóm tắt bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Tiến, bà Nguyễn Thị Bằng, bà Nguyễn Thị Triển
Bị đơn: ông Nguyễn Tất Thăng
Tranh chấp: chia thừa kế
Lý do tranh chấp: Cụ Nguyễn Tất Thát (mất năm 1961) và cụ Nguyễn Thị Tần
(mất năm 1995) là vợ chồng,bà Tần là vợ cả, hai người có bốn người con chung: ông
Nguyễn Tất Thăng, bà Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn Thị Triển. Cụ
Nguyễn Tất Thát có người vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ (mất năm 1994), có một người
con chung là Nguyễn Thị Tiến. Cụ Thát, cụ Thứ khi chết không để lại di chúc. Cụ Tần
có để lại mấy lời dặn dò được bà Bằng chắp bút ghi lại nhưng ông Thăng không công
nhận và đã xé đi, do đó coi như các cụ không để lại di chúc. Các nguyên đơn đã đệ đơn
yêu cầu chia thừa kế đối với ông Nguyễn Tất Thăng.
Tòa án giải quyết: Công nhận cụ Thứ là vợ hai của cụ Thát, bà Tiến là con chung
của cụ Thát và cụ Thứ; công nhận thời điểm mở thừa kế vào các năm 1961 (cụ Thát
chết), năm 1994 (cụ Thứ chết), năm 1995 (cụ Tần chết) và xác định di sản để lại của
từng người; chia di sản cho bà Nguyễn Thị Tiến.
1.1. Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?
Điều 649 BLDS 2015 quy định về trường hợp thừa kế theo pháp luật:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không
có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với

1
người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng
không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
Ngoài ra, còn tiến hành chia thừa kế theo pháp luật trong trường hợp: (1) giải
thích nội dung di chúc tại Điều 648 BLDS 2015; (2) di chúc bị hư hại tại khoản 1 Điều
642 BLDS 2015; (3) thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc tại Điều 644 BLDS
2015.
1.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong Bản
án số 20.
Việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong bản án số 20 là hợp lý và thỏa
đáng vì:
Theo lời khai của các nguyên đơn, cụ Thát và cụ Thứ chết không để lại di chúc;
riêng cụ Tần ông Thăng khai khi chết có để lại di chúc nhưng ông không xuất trình được.
Mặt khác, trong bản án cũng có nêu: “...chỉ có lời trăng trối của bà Tần nói với các
con…do bà Bằng ghi lại nhưng bị ông Thăng xé đi…”
Do đó, căn cứ theo khoản 5 Điều 630 BLDS 2015: “...5. Di chúc miệng được coi
là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất
hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người
làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể
từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng
viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người
làm chứng.…” xét thấy di chúc miệng của bà Tần không hợp pháp. Vì vậy, việc Tòa án
áp dụng Điều 678 BLDS 2005, tương tự nội dung là Điều 649 BLDS 2015 để chia thừa
kế theo pháp luật là có cơ sở.
1.3. Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Cơ sở pháp lý: điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;”
1.4. Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của
bản án cho câu trả lời?
Tòa án không coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần. Trong phần nhận thấy
của Tòa án cho thấy:

2
“1. Xác định cụ Nguyễn Tất Thát có 2 vợ: vợ cả là cụ Nguyễn Thị Tần, vợ hai là
cụ Phạm Thị Thứ.
Xác định cụ Thát và cụ Tần có 4 người con chung là: Nguyễn Tất Thăng, Nguyễn
Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn Thị Triển.
Xác định cụ Thát và cụ Thứ có 1 người con là Nguyễn Thị Tiến.
Xác định bà Nguyễn Thị Tý không phải là con nuôi của cụ Thát, cụ Tần, cụ Thứ”.
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.
Giải pháp của Tòa án liên quan đến bà Tý không thuyết phục. Theo điểm a khoản
1 Điều 651 BLDS 2015 quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” thì bà Tý vẫn thuộc diện con
nuôi của cụ Thát và cụ Tần. Nếu không chấp nhận bà Tý là con nuôi thì cần có minh
chứng thuyết phục hơn nếu như chỉ dựa vào lời khai anh Trần Việt Hùng, chị Trần Thị
Minh Phượng, chị Trần Thị Hồng Mai, chị Trần Thị Hoa. Theo Điều 653 BLDS 2015:
“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di
sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này” thì vẫn nên công bố bà Tý
là con nuôi và chỉ chấp thuận yêu cầu từ chối chia tài sản của người hưởng thừa kế.
1.6. Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào trong Bản
án số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Ngoài việc sống với cụ Thứ thì cụ Thát còn sống với cụ Nguyễn Thị Tần (mất
năm 1995) được thể hiện ở câu: “Cụ Thát và cụ Tần có 4 người con chung là: Nguyễn
Tất Thăng, Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn Thị Triển”
1.7. Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
CSPL: Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 1959
Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ không phải là người thừa kế của cụ Thát. Căn cứ vào Điều 5 Luật Hôn
nhân và gia đình 1959 có quy định: “Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người
khác.”
CSPL: điểm a khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990
Căn cứ vào điểm a khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 có quy định
rằng: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày
công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với

3
miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm
vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả
các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người
chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”. Vì thế dựa vào CSPL
có thể thấy rằng trường hợp có nhiều vợ thì tất cả người vợ đều là hàng thừa kế thứ nhất
của người chồng đối với miền Bắc là trước ngày 13-01-1960. Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ
bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960 thì trong trường hợp này cụ Thứ
không phải là người thừa kế của cụ Thát.
1.8. Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Câu trả lời trên khác khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam. Cụ thể là cụ Thứ
là người thừa kế của cụ Thát.
Căn cứ tại điểm a khoản 4 Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định về
thừa kế theo pháp luật:
“a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13/01/1960-ngày công
bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959-đối với miền Bắc, trước ngày 25/03/1977-ngày
công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước-đối với
miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm
vợ mà việc kết hôn sau không khi bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất
cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người
chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”
Do đó, cụ Thứ và cụ Thát sống ở miền Nam, hai người sống với nhau như vợ
chồng từ cuối năm 1960 thì đã rơi vào trường hợp của điểm a khoản 4 Nghị quyết này.
Suy ra, cụ Thứ là người thừa kế hợp pháp cụ Thát.
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát trong Bản án số 20.
Việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát cần được xem xét
dưới 2 góc độ khác nhau:
Xem xét dưới góc độ pháp luật và đạo đức trong hoàn cảnh chiến tranh: Theo
Nghị quyết 02/HĐTP Tòa án nhân dân tối cao ngày. Bên cạnh đó do hoàn cảnh chiến
tranh và sự ảnh hưởng của chế độ phong kiến vẫn còn nên việc vợ lẽ trong các gia đình
vẫn còn tồn tại. Do đó, họ cần được đảm bảo quyền lợi bình đẳng như vợ cả. Ngoài ra,
còn phải xét đến các yếu tố tự nguyện, có trách nhiệm với gia đình hai bên.

4
Xét đến dưới góc độ pháp luật hiện nay: Theo quy định tại khoản 2, và khoản 6
Điều 8 của Luật HNGĐ năm 2000:
“Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được biểu hiện như sau:
….2. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp
luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
6. Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”
Do vậy, việc chung sống nhưng không đăng ký kết hôn không được xem là hôn
nhân hợp pháp trong luật hiện nay. Vì vậy, cụ Thứ không được hưởng thừa kế của cụ
Thát và ngược lại.

Tóm tắt Án lệ số 41/2021/AL


Nguyên đơn: chị Trần Trọng P1
Bị đơn: anh Trần Trọng P2, anh Trần Trọng P3
Vấn đề tranh chấp: Hưởng di sản thừa kế, chia di sản thừa kế.
Nội dung tranh chấp: Bà Tô Thị T2 chung sống với ông Trần Thế T1 không
đăng ký kết hôn từ năm 1969 có 2 con chung là anh P2, P3. Khi quan hệ hôn nhân thực
tế giữa ông T1 và bà T2 chấm dứt, ông T1 chung sống với bà S có con chung là chị P1.
Xét năm 1987 ông T1 được cấp lô đất vườn có diện tích 8500m2 sau đó trên lô đất đã có
01 căn nhà cấp 4 do ông T1 và bà S xây dựng và một số tài sản chung khác. Đến năm
2003, ông T1 chết không để lại di chúc, toàn bộ tài sản do anh P2 và anh P3 quản lý sử
dụng. Nay chị P1 khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của ông T1 để lại và đo
đạc lại diện tích đất, bà S yêu cầu chia tài sản chung giữa và bà ông T1 và chia di sản
của ông T1 kể cả diện tích đất mà anh P3 và P2 bán cho ông L, C. Với yêu cầu chia thừa
kế cho chị P1, anh P2, P3 yêu cầu trưng cầu giám định AND để xác định hàng thừa kế
theo pháp luật. Tòa sơ thẩm đã chia di sản thừa kế của ông T1 cho bà S, chị P1, anh P2
và anh P3 cho rằng diện tích đất ông T1 và bà S tạo lập hiện còn là 6402m2 và các tài
sản chung khác.
Quyết định của Tòa án phúc thẩm: Đồng ý với quyết định của Tòa sơ thẩm bà
T2 không được hưởng di sản của ông T1 và chấp nhận P1 là con ruột của ông T1 do đó
chị P1 được hưởng thừa kế. Hủy bản án dân sự sơ thẩm vì xét thấy Tòa sơ thẩm không
tiến hành mời địa chính đo đạc xác định lại diện tích thực tế của lô đất đang tranh chấp
và chưa yêu cầu anh P2 đo đạc lại lô đất mà anh cho rằng đã mua của ông A để xem xét
cơ sở, dễ dẫn đến khó khăn ách tắc trong thi hành án, những vấn đề này cấp phúc thẩm
không thể khắc phục.

5
1.10. Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S có được hưởng di sản do ông T1 để
lại không? Đoạn nào Án lệ có câu trả lời.
Trong Án lệ số 41/2010/AL, bà T2 không được hưởng di sản do ông T1 để lại
còn bà S được hưởng di sản thừa kế của ông T1. “Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông
T1 không đăng ký kết hôn, đến năm 1982 bà T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con
chung từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ
lâu nên không còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1
để lại như án sơ thẩm xử là đúng.
Xét sau khi bà T2 không còn sống chung với ông T1 thì năm 1985 ông T1 sống
chung với bà S cho đến khi ông T1 chết có 1 con chung, có tài sản chung hợp pháp, án
sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và được hưởng di
sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ.”.1
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về việc Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của ông T1
đối với bà T2 và bà S.
Căn cứ vào CSPL có liên quan đến Án lệ trên như Điều 676 Bộ luật Dân sự năm
2005 (tương ứng với Điều 651 BLDS 2015), khoản b Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986, Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Hướng giải quyết của
Tòa trong Án lệ trên là thuyết phục, phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm xét
xử.
Xét khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 1986, quan hệ giữa ông T1 và bà
T2, giữa ông T1 và bà S đều là hôn nhân thực tế nhưng chúng không cùng lúc tồn tại hay
không được pháp luật công nhận đồng thời. Vì quan hệ nêu trên đã “xác lập quan hệ vợ
chồng với người khác trước ngày 03/02/1987 mà chưa đăng ký kết hôn” tức pháp luật
vẫn công nhận quan hệ nêu trên là quan hệ vợ chồng vì vậy quan hệ này thuộc điều chỉnh
của các quy phạm pháp luật về quan hệ vợ chồng như điểm a, Mục 3 Nghị quyết số
35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, cụ thể như
sau: “Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm
1987, ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn

1
Án lệ số 41/2010/AL của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án “Tranh chấp di sản thừa
kế và chia tài sản chung”,

6
thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa
án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”.
Với bản chất của hôn nhân thực tế, xét quan hệ của ông T1 và bà T2 là hôn nhân
thực tế nhưng đã chấm dứt trước khi ông T1 chung sống với bà S tức quan hệ hôn nhân
thực tế thứ nhất đã chấm dứt, sau đó mới hình thành quan hệ hôn nhân thực tế thứ hai.
Khi quan hệ hôn nhân thực tế thứ hai hình thành và được pháp luật công nhận thì quan
hệ hôn nhân thực tế thứ nhất đã chấm dứt, đồng nghĩa với việc quan hệ đó không còn
chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật có liên quan. Vì lẽ đó, ông T1 và bà T2
không còn nghĩa vụ gì với nhau, vậy Tòa xử bà T2 không được chia di sản thừa kế là
hoàn toàn phù hợp với các quy định về pháp luật và lẽ thường tình.

VẤN ĐỀ 2: XÁC ĐỊNH CON CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN


2.1. Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Theo điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về những người
thừa kế theo pháp luật có ghi nhận rằng:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết”.
2.2. Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di sản.
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trường hợp một người được coi là con nuôi của người để lại di sản là khi người
để lại di sản đã thực hiện việc đăng ký nuôi theo quy định của pháp luật và người đó
được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của pháp luật.
Theo điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Theo Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi
được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và
Điều 652 của Bộ luật này”.
2.3. Trong bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi không?
Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời?

7
Trong bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi.
Theo Bản án: “Trước khi chết cụ Thát, cụ Thứ không để lại di chúc. Cụ Tần có
để lại mấy lời dặn dò, bà Bằng chắp bút ghi lại ngày 08/6/1994 về việc cho bà Tiến một
phần nhà đất của bố mẹ các bà để lại nhưng ông Thăng không công nhận nên các bà coi
như các cụ không để lại di chúc. Các bà có nghe nói trước đây bố mẹ các bà có nhận bà
Nguyễn Thị Tý làm con nuôi, sau đó bà Tý về với bố mẹ đẻ đi lấy chồng”.
2.4. Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của
bản án cho câu trả lời?
Tòa án không coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 28/2008/DS-ST ngày 29/4/2008 của Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội đã xác định rằng bà Nguyễn Thị Tý không phải là con nuôi của
cụ Thát, cụ Tần, cụ Thứ.
2.5. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.
Tôi đồng ý với hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.
Trong Bản án có ghi nhận: “Theo lời trình bày của anh Trần Việt Hùng, chị Trần
Thị Minh Phương, chị Trần Thị Hồng Mai, chị Trần Thị Hoa thì mẹ đẻ của các anh chị
là bà Nguyễn Thị Tý trước đây có là con nuôi cụ Thát và cụ Tần trong thời gian khoảng
6 đến 7 năm, sau đó bà Tý về nhà mẹ đẻ sinh sống. Trong lý lịch của cụ Thát, cụ Tần
không ghi nhận con nuôi là bà Tý, do đó nếu Tòa án công nhận bà Tý là con nuôi của
cụ Thát cụ Tần và bà Tý được hưởng thừa kế thì các anh các chị là người thừa kế thế vị
xin khước từ nhận di sản thừa kế và xin vắng mặt trong các buổi lấy lời khai tại phiên
tòa”.
Việc bà Tý chuyển về nhà mẹ đẻ sinh sống thì bà sẽ không được công nhận là con
nuôi của cụ Thát, cụ Tần. Cùng với đó, cụ Thát, cụ Tần không thực hiện việc đăng ký
nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật nên không thừa nhận bà Tý là con nuôi của
cụ Thát, cụ Tần của Tòa án là hoàn toàn hợp tình, hợp lý.
Qua đó, tại bản án dân sự sơ thẩm số 28/2008/DS-ST ngày 29/4/2008 của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội đã xác định rằng bà Nguyễn Thị Tý không phải là con nuôi
của cụ Thát, cụ Tần, cụ Thứ.

Tóm tắt Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: bà Phạm Thị Hồng Nga
Bị đơn: ông Phạm Văn Tùng, bà Võ Thị Tinh

8
Vấn đề tranh chấp: Tranh chấp tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất
Lý do tranh chấp: cụ Dung và cụ Cầu chết, không để lại di chúc. Hai cụ có một
ngôi nhà mái lá 3 gian (hiện nay chỉ còn nền móng nhà), giếng nước, cây lâu năm nằm
trên diện tích 3.127m2 đất. Hai cụ có người con là bà Nga. Nhưng bà Nga không có điều
kiện canh tác, sử dụng phần đất cha mẹ để lại nên đã giao cho ông Tùng là người bà con
trong quản lý, sử dụng. Khi bà Nga ở xa nhà thì ông Tùng là người đã trực tiếp nuôi
dưỡng hai cụ và khi hai cụ chết ông là người lo mai táng. Ông Tùng là người quản lý, sử
dụng diện tích 3.127m2 đất từ năm 1976 đến nay. Ông có xây dựng 1 căn nhà kiên cố và
cho anh Thanh (con trai ông Tùng) một phần diện tích đất để làm nhà trên 3.127m2 đất.
Ông có viết “Giấy tự báo” cam đoan, cam kết quyền sở hữu khu vườn kể cả nhà ở trên
hoàn toàn thuộc bà Nga và sau này khi cần ông sẽ cam kết trả. Nay bà Nga yêu cầu ông
Tùng phải trả cho bà một nền móng nhà, 2 giếng nước, 2 cây dừa, hàng tre và 3.127m2
đất nêu trên, yêu cầu anh Thanh phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho bà.
Hướng giải quyết của Tòa án: Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số
97/2008/DS-PT và Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2008/DSST về vụ án “tranh chấp tài sản
gắn liền quyền sử dụng đất”. Lý do chưa đủ chứng cứ, cần phải thu thập, xác minh về
lời khai của các nhân chứng và lời khai của ông Tùng về việc nuôi dưỡng, chăm sóc hai
cụ khi già yếu.
2.6. Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với
tư cách nào? Vì sao?
Trong Quyết định số 182, Tòa án có hướng xác định anh Tùng được hưởng thừa
kế với tư cách là con nuôi.
Vì anh Tùng ở với hai cụ từ lúc 2 tuổi. Hai cụ đã nuôi dưỡng anh từ nhỏ và khi
hai cụ già yếu anh là người phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ, khi hai cụ chết anh Tùng là
người lo mai táng cho hai cụ.
2.7. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh
Tùng
Hướng xác định trên của Tòa án hoàn toàn hợp tình và hợp lý bởi vì anh Tùng đã
ở với hai cụ từ lúc 2 tuổi. Hai cụ đã nuôi dưỡng anh Tùng từ nhỏ và khi hai cụ già yếu
ông là người phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ, khi hai cụ chết anh Tùng là người lo mai
táng cho hai cụ.
2.8. Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ Cầu và
cụ Dung không? Vì sao?

9
Nếu hoàn cảnh tương tự trong Quyết định 182 xảy ra say khi có Luật hôn nhân
và gia đình năm 1986, anh Tùng không được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung.
Vì trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, theo Điều 37: “Việc nhận nuôi con
nuôi do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con
nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch.”. Trong bản án, việc nhận anh Tùng là con nuôi
không được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú công nhận và ghi vào
sổ hộ tịch, dù cho anh Tùng đã được hai cụ nuôi dưỡng từ nhỏ, khi hai cụ già yếu, anh
là người phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ và là người mai táng khi hai cụ chết thì anh Tùng
vẫn không được hưởng.
2.9. Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Căn cứ tại khoản Điều 651 BLDS 2015:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.”
Vậy con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ nhất được quy định tại BLDS 2015.
2.10. Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát.
Nội dung của bản án số 20/2009/DS-PT ngày 11 và 12-02-2009 cho thấy bà Tiến
là con đẻ của cụ Thát: “Theo các nguyên đơn và bà Khiết thì cụ Thát có hai vợ là cụ
Phạm Thị Thứ (mất năm 1994) có 1 con là bà Tiến. Ông Thăng không công nhận cụ Thứ
là vợ hai cụ Thát và bà Tiến là con cụ Thát. Nhưng ông Thăng không đưa ra được chứng
cứ nào chứng minh cụ Thứ không phải vợ cụ Thát. Án sơ thẩm căn cứ vào vào lý lịch
của bà…
[…] Với các chứng nêu trên có đủ cơ sở để khẳng định là cụ Phạm Thị Thứ là vợ
hai cụ Thát, bà Nguyễn Thị Tiến là con chung của cụ Nguyễn Tất Thát và cụ Phạm Thị
Thứ; do đó mà yêu cầu của ông Thăng đề nghị giám định ADN để xác định bà Tiến có
phải con của cụ Thát không là không cần thiết đặt ra.”.

10
2.11. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến.
Giải pháp của Tòa án liên quan đến xác định bà Tiến là con đẻ của cụ Thát là
thuyết phục, phù hợp với quy định của pháp luật và hướng đến những giá trị nhân đạo
nhất định. Mặc dù ông Thăng không công nhận cụ Thứ là vợ hai cụ Thát và bà Tiến là
con cụ Thát nhưng ông Thăng không đưa ra được chứng cứ chứng minh điều này. Tòa
sơ thẩm đã căn cứ vào lý lịch của bà Tiến có xác nhận chính quyền địa phương, xác nhận
của họ hàng, hàng xóm. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Tiến có xuất trình các bản sơ yếu
lý lịch của bà và bà Khiết có chính quyền địa phương cấp và xác nhận và các lời khai
của nhân chứng là người thân của cụ Thát để chứng minh bà Tiến là con đẻ của cụ Thát.
Căn cứ vào các chứng cứ đầy đủ nêu trên, xét trên nhiều đối tượng vì dựa vào lời khai
của hàng xóm và họ hàng, Tòa phúc thẩm khẳng định bà Tiến là con đẻ của cụ Thát và
xét thấy yêu cầu giám định ADN là không cần thiết. Giải pháp nêu trên của Tòa phúc
thẩm đang hướng đến bảo vệ quyền lợi cho bà Tiến.
2.12. Ở Việt Nam con dâu, con rể của người để lại di sản có là người thừa kế của
người để lại di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có quy định nào là con dâu, con rể của người để lại
di sản trở thành người thừa kế của người để lại di sản. Căn cứ vào khoản 1 Điều 651
BLDS 2015 quy định về những người thừa kế theo pháp luật chỉ có những đối tượng
thuộc hàng thừa kế thứ nhất, hàng thừa kế thứ hai, hàng thừa kế thứ ba mới được thừa
kế di sản, trong đó con dâu và con rể không thuộc trong những đối tượng đó.
Từ đó, xác định con dâu và con rể không thuộc bất kì hàng thừa kế nào trong
những người thừa kế theo quy định của pháp luật. Như vậy, chỉ khi cha mẹ chồng hoặc
cha mẹ vợ chết và lập di chúc để lại di sản cho con dâu, con rể thì khi đó mới được thừa
kế di sản.
Ngoài ra còn có trường hợp khi con trai, con gái của người để lại di sản chết sau
khi cha mẹ chết thì con rể hoặc con dâu có thể thừa hưởng tài sản thừa kế. Sau khi cha
mẹ chồng, cha mẹ vợ chết nếu không để lại di chúc thì con trai, con gái của họ sẽ thuộc
hàng thừa kế thứ nhất, sau đó nếu con trai hoặc con gái chết thì tài sản thừa kế thuộc về
vợ hoặc chồng bởi vì vợ, chồng cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người này (Hàng
thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người chết). đẻ. Bởi vậy, khi người chồng, người vợ chết sau khi bố mẹ chồng, bố
mẹ vợ chết thì người con dâu, con rể đó có thể được quyền được hưởng thừa kế từ cha
mẹ chồng, cha mẹ vợ.

11
2.13. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác định con dâu, con rể là người thừa
kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị
biết.
Có hệ thống pháp luật nước ngoài xác định con dâu, con rể là người thừa kế của
cha mẹ chồng, cha mẹ vợ:
Pháp luật nước Ba Lan: Có quy định thừa kế theo pháp luật được ghi nhận cho
cha mẹ vợ hoặc chồng nghĩa là pháp luật này ghi nhận quyền thừa kế của con dâu, con
rể đối với cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng.

VẤN ĐỀ 3: CON RIÊNG CỦA VỢ/CHỒNG


3.1. Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao?
Bà Tiến là con riêng của chồng cụ Tần vì bà Tiến là con của cụ Thát và cụ Thứ.
Và bà Tiến cũng không có quan hệ huyết thống với cụ Tần. Trong phần xét thấy có ghi:
"Bản án sơ thẩm căn cứ vào lý lịch của bà Tiến có xác nhận của chính quyền địa phương
thì bà Tiến là con cụ Thát và là em ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết, bà Triển cũng như
xác nhận của họ hàng, hàng xóm khẳng định bà Tiến là con cụ Thứ, cụ Thát". "Bà Tiến
còn xuất trình lý lịch và giấy khai sinh chính do Ủy ban nhân dân phường Xuân La cấp
ghi bà Tiến có bố là Nguyễn Tất Thát, mẹ là Phạm Thị Thứ".
3.2. Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào Điều 654 BLDS 2015 quy định: "Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu
có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của
nhau và được thừa kế theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 BLDS 2015". Như vậy thì
trong điều kiện con riêng của chồng chăm sóc, nuôi dưỡng mẹ kế như mẹ con thì được
thừa kế di sản của vợ.
3.3. Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần không? Vì sao?
Bà Tiến không có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần. Vì căn cứ
theo Điều 654 BLDS 2015 (Điều 679 BLDS 2005) quy định: "Con riêng và bố dượng,
mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế
di sản của nhau và được thừa kế theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 BLDS 2015".
Tuy nhiên trong bản án không đề cập đến vấn đề bà Tiến và cụ Tần có chăm sóc hay
nuôi dưỡng nhau như mẹ con hay không, mặc dù có đề cập đến việc bà Tần có đề lại lời
dặn dò chia đất cho bà Tiến được bà Bằng ghi lại nhưng không đủ chứng cứ đề xác. Do
đó, mà bà Tiến không đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần.

12
3.4. Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến
được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Nếu bà Tiến có đủ điều kiện đề hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến được
hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tần.
Căn cứ Điều 654 BLDS 2015: "Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ
chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và
còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này."
Căn cứ Điều 653 BLDS 2015:
"Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa
kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này."
Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di
sản hoặc từ chối nhận di sản.".
3.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà
Tiến đối với di sản của cụ Tần
Theo em, việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà Tiến đối với di sản
của cụ Tần là hợp lý.
Theo ông Thăng, cụ Tần chết có để lại di chúc nhưng ông lại không thể xuất trình,
các nguyên đơn khai chỉ có lời trăn trối của cụ được bà Bằng ghi lại nhưng bị ông Thăng
xé nên không còn chứng cứ do vậy Tòa áp dụng chia di sản thừa kế theo pháp luật là
chính xác. Theo đó tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về “Hàng thừa

13
kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết;”. Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tần được Tòa xác định gồm: ông Thăng, bà
Bằng, bà Khiết, bà Triển; bà Tiến không thuộc các loại quan hệ trên với cụ Tần nên Tòa
không thừa nhận tư cách thừa kế của bà.
Tại Điều 654 BLDS 2015 quy định về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”. Tuy nhiên, trong nội dung
bản án chưa có đủ cơ sở xác định cụ Tần coi bà Tiến như con nên án sơ thẩm xác định
diện thừa kế đối với di sản của cụ Tần là các con đẻ của cụ cũng là thấu tình đạt lý.
3.6. Suy nghĩ anh/chị (nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của con
riêng của vợ/chồng trong BLDS hiện nay.
Con riêng có thể được hưởng thừa kế của bố dượng, mẹ kế trong các trường hợp
Thứ nhất, người có di sản để lại di chúc cho con riêng. Quyền để lại tài sản sau
khi chết là quyền của người để lại di sản. Vì vậy, khi để lại di sản thừa kế, người lập di
chúc để tài sản của mình cho con riêng thì người con riêng được quyền hưởng thừa kế
và đương nhiên di chúc phải hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, tại Điều 654 BLDS 2015 quy định về quan hệ thừa kế giữa con riêng và
bố dượng, mẹ kế: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng
nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”. Như vậy, khi con riêng có
thể chứng minh đủ được các điều kiện quan hệ chăm sóc nhau như cha con, mẹ con thì
có thể được hưởng di sản của bố dượng, mẹ kế.
Ở trường hợp 2 đặt ra một vấn đề rằng: hiểu như thế nào là chăm sóc như cha con,
mẹ con? Quy định này rất chung, nên trong thực tiễn áp dụng nhiều khi rất khác nhau.
Điều đó là do không thống nhất về căn cứ đánh giá: thời gian nuôi dưỡng; mức độ nuôi
dưỡng, chăm sóc như thế nào; quan hệ chăm sóc như thế nào thì mới được xem là như
cha con, mẹ con để hưởng thừa kế không? Ví dụ: trường hợp người con riêng đi làm xa
chỉ thỉnh thoảng gửi tiền về cho bố dượng, mẹ kế thì họ có được xem là có quan hệ chăm
sóc, nuôi dưỡng như cha con, mẹ con không và có được hưởng thừa kế không?

VẤN ĐỀ 4: THỪA KẾ THẾ VỊ VÀ HÀNG THỪA KẾ THỨ HAI, THỨ BA


Tóm tắt Bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Hà Nội

14
Nguyên đơn: anh Thiều Văn C1.
Bị đơn: ông Đỗ Quang V.
Vấn đề tranh chấp: Tranh chấp quyền thừa kế
Lý do tranh chấp: Năm 1979 cụ T5 nhận chị C3 làm con nuôi nhưng không thực
hiện việc đăng ký nuôi con nuôi theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, mối quan hệ mẹ
nuôi, con nuôi giữa cụ T5 và chị C3 tồn tại trên thực tế và được phía gia đình bị đơn thừa
nhận. Năm 2003, chị C3 kết hối với anh C1 sau đó có hai người con chung là cháu T7
và cháu H4. Chị C3 chết năm 2007 và cụ T5 chết năm 2009 không để lại di chúc nên
anh C1 khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận cháu T7 và cháu H4 được quyền thừa kế di
sản của cụ T5 để lại.
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận kháng cáo của anh C1 và chấp nhận một
phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm
của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
xét xử sơ thẩm lại.
4.1. Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của cụ
T5 không? Vì sao?
Từ nội dung vụ án cho thấy bà T5 chết ngày 10/02/2009 và không để lại di chúc.
Nếu chị C3 còn sống thì chị C3 vẫn được hưởng thừa kế vì chị là con nuôi của cụ T5
theo hàng thừa kế thứ nhất và thuộc trường hợp thừa kế theo pháp luật. Theo điểm a
khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 quy định về những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
“a) Không có di chúc” và theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định: “Hàng
thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của
người chết”. Ngoài ra, theo luật hôn nhân gia đình năm 1986 thì chị C3 được ông Đỗ
Quang V và Bà Đỗ Thị T2 thống nhất, thừa nhận là cụ T5 có nhận chị C3 làm con nuôi;
do đó xác định chị C3 là con nuôi của cụ T5 là hợp lý.
4.2. Ở nước ngoài, có hệ thống pháp luật nào ghi nhận thừa kế thế vị trong trường
hợp từ chối nhận di sản/tước quyền hưởng di sản (không có quyền hưởng di sản)
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
Theo Điều 1260 BLDS Vương quốc Campuchia quy định: “Người muốn từ bỏ
quyền thừa kế phải xin phép Tòa án về điều đó”; Điều 1261 BLDS Vương quốc
Campuchia: “Người nào đã từ bỏ quyền thừa kế thì sẽ được xem là người không phải là
người thừa kế ngay từ đầu đối với việc thừa kế đó”.
Ngoài ra, theo Điều 1249 BLDS Vương quốc Campuchia: “Trường hợp người
thừa kế chết mà chưa thực hiện chấp nhận hay từ bỏ thì thời gian quy định tại Điều 1248

15
(Thời gian chấp nhận hoặc từ bỏ) sẽ được tính từ khi người thừa kế của người đó biết
được việc thừa kế của mình đã phát sinh”.
4.3. Ở Việt Nam, khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Ở Việt Nam, chế định thừa kế thế vị được áp dụng trong các trường hợp dưới đây
Theo Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rằng: “Trường hợp con của
người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu
cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng lúc còn sống”.
Như vậy, theo điều luật được nêu ở trên, chế định thừa kế thế vị được áp dụng khi
thỏa mãn các điều kiện sau:
Một là, những người “thế vị” nhau phải là những người thuộc mối quan hệ thừa
kế thứ hai trong hàng thừa kế thứ nhất (quan hệ giữa cha, mẹ và con), trong đó người thế
vị phải là người ở đời sau (con thế vị cha, mẹ nhưng cha, mẹ không được thế vị con).
Như vậy, việc thế vị là mối liên hệ giữa hai bên, một bên được gọi là người được thế vị
(gồm cha hoặc mẹ đẻ), một bên gọi là người thế vị (gồm con đẻ).
Hai là, giữa họ phải có quan hệ huyết thống trực hệ (chỉ có con đẻ thay thế vị trí
của cha, mẹ đẻ).
Ba là, người thừa kế thế vị chỉ đặt ra khi người thừa kế chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người để lại di sản (cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng với ông, bà hoặc
các cụ).
Bốn là, người thế vị phải còn sống vào thời điểm người được thế vị chết hoặc nếu
sinh ra và còn sống sau thời điểm người được thế vị chết thì phải thành thai trước thời
điểm người được thế vị chết.
Năm là, khi còn sống người cha hoặc mẹ của người thế vị phải có quyền được
hưởng di sản của người chết (nếu bị tước hoặc truất quyền hưởng di sản thừa kế thì con
hoặc cháu của người này không thể thế vị).
Sáu là, bản thân người thế vị không bị tước quyền thừa kế theo khoản 1 Điều 644
Bộ luật Dân sự năm 2015.
4.4. Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha mẹ có được hưởng thừa kế
thế vị không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha mẹ không được hưởng thừa
kế thế vị.

16
Theo quy định của Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015: “Trường hợp con của người
để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di
sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng lúc còn sống”. Như vậy, điều khoản không
quy định rằng vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha mẹ được hưởng thừa
kế thế vị mà chỉ có cháu được hưởng phần di sản mà che hoặc mẹ của cháu được hưởng
lúc còn sống hoặc chắt (trong trường hợp cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm
với người để lại di sản).
Do giữa người thế vị và người được thế vị phải có quan hệ huyết thống trực hệ
nên vợ/chồng của người thế vị không thể hưởng thừa kế thế vị do quan hệ giữa vợ và
chồng là quan hệ hôn nhân.
4.5. Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục không? Vì sao?
Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị của
cụ T5 là hoàn toàn thuyết phục. Vì:
Theo Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rằng: “Trường hợp con của
người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu
cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Điều kiện của một người được hưởng thừa kế thế vị là phải có mối quan hệ huyết
thống trực hệ với người được thừa kế thế vị. Giữa chị C3 và chồng chị C3 là mối quan
hệ hôn nhân chứ không phải mối quan hệ huyết thống trực hệ. Vì thế nên việc Tòa án
không cho chồng của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5 hoàn toàn là thuyết
phục và có căn cứ.
4.6. Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị của cụ T5.
Trong quyết định số 69/2018/DS-PT có nêu: “...Chị C3 (chết năm 2007) và bà T5
(chết năm 2009) cả hai không để lại di chúc nên hai cháu T7 và Huy được thừa kế thế vị
di sản của bà T5 theo quy định tại Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005…”, cho thấy Tòa
án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị.

17
4.7. Suy nghĩ của anh chị về việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế
thế vị của cụ T5?
Việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị là hoàn toàn hợp
lý vì:
Trên thực tế, có căn cứ để khẳng định rằng giữa bà T5 và chị C3 có tồn tại quan
hệ mẹ nuôi, con nuôi. Trong quyết định số 69/2018/DS-PT có đoạn “...Mối quan hệ mẹ
nuôi, con nuôi giữa bà T5 và chị C3 tồn tại trên thực tế, được phía gia đình bị đơn thừa
nhận. Đồng thời căn cứ vào sổ hộ khẩu (BL238) gia đình bà Đỗ Thị T5 do Công an thị
xã H (nay là Công an thành phố H) cấp năm 1995, thể hiện chị C3 có quan hệ với bà T5
là con…”. Vì bà T5 cũng không có chồng và con khác cho nên chị C3 là người duy nhất
thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015:
“...a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;...”.
Mặt khác, chị C3 (chết năm 2007) và bà T5 (chết năm 2009) cả hai đều không để
lại di chúc cho nên có thể áp dụng Điều 652 BLDS 2015: “Trường hợp con của người
để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di
sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.” cho phép hai con đẻ của chị
C3 là cháu T7 và cháu H4 được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5 là có cơ sở.
4.8. Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa kế
theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thừa kế thế vị không được áp dụng đối
với thừa kế theo di chúc.
Căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 642 BLDS 2015:
“...2. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau
đây:
a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập
di chúc;...”
Căn cứ theo Điều 652 BLDS 2015:
“Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được
hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để

18
lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu
còn sống.”
Như vậy, di chúc sẽ trở nên vô hiệu một phần hoặc toàn bộ khi người thừa kế chết
trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc. Khi đó, việc xác định người thừa kế
thế vị phần di sản trong di chúc bị vô hiệu sẽ do luật định tại Điều 652 và việc phân chia
di sản sẽ tiến hành theo quy định của pháp luật.
4.9. Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa kế
theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
CSPL: Theo Điều 652 BLDS 2015 quy định thừa kế thế vị: “Trường hợp con của
người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu
cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Thừa kế thế vị được đặt ra khi con hoặc cháu chết trước hoặc cùng thời điểm với
người để lại di sản thì cháu/chắt được hưởng phần di sản mà cha/mẹ được hưởng nếu
còn sống.
Thừa kế thế vị chỉ phát sinh trên cơ sở thừa kế theo pháp luật, không phát sinh từ
căn cứ di chúc (trường hợp người thừa kế theo di chúc đã chết hoặc chết cùng thời điểm
với người để lại di sản thì phần di chúc đó vô hiệu và phải thực hiện chia di sản theo
pháp luật; chỉ phát sinh ở hàng thừa kế thứ nhất.
Người thừa kế thế vị phải bảo đảm nguyên tắc chung về thừa kế được quy định
tại BLDS là còn sống vào thời điểm người để lại di sản chết hoặc sinh ra và còn sống
sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
4.10. Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa
kế theo di chúc không? Vì sao?
Theo tôi, việc áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế theo di
chúc là không nên.
Theo Điều 610 BLDS 2015: “Trường hợp những người có quyền thừa kế di sản
của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể
xác định được người nào chết trước (sau đây gọi chung là chết cùng thời điểm) thì họ
không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người
đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652 của Bộ luật này”.
Theo Điều 652 BLDS 2015: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà

19
cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng
một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ
của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Về nguyên tắc chung, người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế,
nhưng pháp luật thừa kế nước ta quy định trường hợp khi con của người để lại di sản
chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì quyền thừa kế thế vị
của cháu vẫn được đảm bảo và nếu cháu cũng đã chết trước hoặc chết cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì cũng tương tự, quyền thừa kế thế vị của chắt cũng sẽ
không bị xâm phạm.
Như vậy, quan hệ thừa kế thế vị không phải là thừa kế theo trình tự hàng nhưng
hàng thừa kế lại là căn cứ để xác định quan hệ thừa kế thế vị. Thừa kế thế vị là một chế
định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người thân thích nhất của người để
lại di sản, tránh trường hợp di sản của ông, bà, cụ mà cháu, chắt không được hưởng lại
để cho người khác hưởng.
4.11. Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba?
Tại điểm b, c khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về người thừa kế theo pháp
luật:
“b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.”
4.12. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao?
Trong vụ việc trên, không còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế.
Căn cứ tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm:
vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”.
Ở thời điểm mở thừa kế, Tòa xác định bà T5 chết năm 2009 có cha mẹ đều chết
trước là cụ M (chết năm 1978) và cụ L (chết năm 1993), bà không có chồng, con đẻ và
chỉ nhận nuôi chị C3 vào năm 1979 (chết năm 2007).

20
4.13. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời điểm
mở thừa kế không? Vì sao?
Trong vụ việc trên, có ông Đỗ Quang V và bà Đỗ Thị T2 là các em ruột của cụ
T5 nên thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ ở thời điểm mở thừa kế.
Căn cứ tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “b) Hàng thừa kế thứ hai gồm:
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu
ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;”
4.14. Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong vụ việc trên?
Vì sao?
Cuối cùng, Tòa án đã không áp dụng hàng thừa kế thứ hai trong vụ việc trên.
Theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì năm 1979, bà Đỗ Thị T5 (không
có chồng) nhận chị Đỗ Đức Phương C3 làm con nuôi nhưng không thực hiện việc đăng
ký nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên về phía gia đình bị đơn thừa
nhận chị C3 được bà T5 nhận nuôi năm 1979, mối quan hệ mẹ nuôi, con nuôi giữa bà
T5 và chị C3 tồn tại trên thực tế, được phía gia đình bị đơn thừa nhận. Đồng thời trong
hồ sơ vụ án có nêu: “Theo điểm a Điều 6 Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật hôn nhân và gia đình thì trường hợp bà T5 nhận nuôi chị C3 là con nuôi thực tế.
Nên, chị C3 là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ nhất của bà T5 theo quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.”. Chị C3 kết hôn với anh Thiều
Văn C1 và có hai con chung là cháu Thiều Thụy Thùy T7 (sinh năm 2002) và cháu Thiều
Đỗ Gia H4 (sinh năm 2004). Chị C3 (chết năm 2007) và bà T5 (chết năm 2009) cả hai
không để lại di chúc nên hai cháu T7 và Huy được thừa kế thế vị di sản của bà T5 theo
quy định tại Điều 677 BLDS năm 2005 (Điều 652 BLDS 2015).
4.15 Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi trên
(áp dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai)
Theo em, hướng giải quyết của Tòa án về vấn đề trên là hợp lý và có căn cứ.
Căn cứ tại khoản 3 Điều 651 BLDS 2015: “3. Những người ở hàng thừa kế sau
chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có
quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”
Trong bản án này Tòa xác định chỉ có chị C3 là người được hưởng thừa kế của
cụ T5 ở hàng thừa kế thứ nhất vì chị là con nuôi thực tế của cụ. Tuy nhiên chị C3 đã chết
trước (2007) cụ T5 (2009) và cả hai người đều không để lại di chúc nên Tòa xác định
thừa kế thế vị là các con của chị C3 là cháu Thiều Thụy Thùy T7 và cháu Thiều Đỗ Gia

21
H4, căn cứ tại Điều 652 BLDS 2015: “Trường hợp con của người để lại di sản chết
trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản
mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc
mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”

22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
(1): Bộ luật Dân sự 2015 (Luật số:91/2015/QH13) ngày 24/11/2015
(2): Luật Hôn nhân và gia đình 1959 Số hiệu 2/SL
(3): Luật Hôn nhân và gia đình 1986 (Luật số: 21-LCT/HĐNN7) ngày 29/12/1986
(4): Bộ luật Dân sự 2005 (Luật số: 33/2005/QH11) ngày 14/06/2005
(5): Nghị quyết 02/HĐTP (Số: 02/HĐTP) ngày 19/10/1990
(6): Bộ luật Dân sự Ba Lan
(7): Bộ luật Dân sự Vương quốc Campuchia
B. Tài liệu tham khảo
(1): Án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế,
https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/an-le/34923/an-le-so-41-2021-
al-ve-cham-dut-hon-nhan-thuc-te, truy cập ngày 13/04/2024

You might also like