You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT HÌNH SỰ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ TƯ

BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU

MÔN : Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế
GVHD : Ths. Nguyễn Tấn Hoàng Hải
LỚP : 129 - HS46A
NHÓM : 3
Thành viên nhóm:

1 Nguyễn Đức Anh 2153801013013


2 Nguyễn Thị Hồng Anh 2153801013016
3 Nguyễn Việt Anh 2153801013018
4 Phạm Phương Anh 2153801013020
5 Điểu Thị Cảm 2153801013039
6 Lê Thị Hồng Cẫm 2153801013040
7 Thông Quốc Công 2153801013041
8 Lê Thị Hồng Diễm 2153801013046
9 Nguyễn Ngọc Dung 2153801013048
10 Trần Vũ Dũng 2153801013051
11 Lê Văn Gia 2153801013069
MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: ĐÒI ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA


1.1. Trâu là động sản hay bất động sản?........................................................................Trang
1.2. Trâu có là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu không?............................................Trang
1.3. Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của ông
Tài? ........................................................................................................................ Trang
1.4. Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh có tranh chấp
trên?.......................................................................................................................Trang
1.5. Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn cứ pháp luật không? Vì sao?
............................................................................................................................... Trang
1.6. Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu cơ sở pháp lí
khi trả lời................................................................................................................Trang
1.7. Người như hoàn cảnh của ông Dòn có là người chiếm hữu ngay tình không? Vì sao?
................................................................................................................................ Trang
1.8. Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định về đòi tài sản trong
Bộ luật Dân sự?.....................................................................................................Trang
1.9. Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bủ hay không có đền bù? Vì
sao?......................................................................................................................... Trang
1.10. Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm giữ ngoài ý chí của ông Tài
không?.................................................................................................................... Trang
1.11. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn không?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?..............................................................Trang
1.12. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao.......................................................................................................................... Trang
1.13. Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có quy định nào
bảo vệ ông Tài không?............................................................................................Trang
1.14. Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài được
quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?...Trang
1.15. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao.......................................................................................................................... Trang

VẤN ĐỀ 2: ĐÒI BẤT ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA


2.1. Đoạn nào của Quyết định giám đốc thẩm cho thấy quyền sử dụng đất có tranh chấp
thuộc bà X và đã được bà N chuyển giao cho người thứ ba ngay tình?..................Trang
2.2. Theo quy định (trong Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015), chủ sở
hữu bất động sản được bảo vệ như thế nào khi tài sản của họ được chuyển giao cho
người thứ ba ngay tình?..........................................................................................Trang
2.3. Để bảo vệ bà X, theo Toà án nhân dân tối cao, Toà án phải xác định trách nhiệm của
bà N như thế nào đối với bà X?..............................................................................Trang
2.4. Hướng của Toà án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên đã được quy định trong Bộ luật
dân sự chưa?...........................................................................................................Trang
2.5. Theo anh/chị, hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao (trong câu hỏi trên) có
thuyết phục không? Vì sao?....................................................................................Trang

VẤN ĐỀ 3: LẤN CHIẾM TÀI SẢN LIỀN KỀ


3.1. Đoạn nào của Quyết định số 23/2006/DS-GĐT ngày 07-9-2006 cho thấy ông Tận đã
lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa và phần lấn cụ thể là bao
nhiêu?...................................................................................................................... Trang
3.2. Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không
gian, mặt đất, long đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?....Trang
3.3. Bộ luật dân sự có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian
thuộc quyền sử dụng của người khác không?.........................................................Trang
3.4. Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào?............................Trang
3.5. .......Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn sang không gian, mặt đất
và long đất của ông Trụ, bà Nguyên?......................................................................Trang
3.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao.......................................................................................................................... Trang
3.7. Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Tận tháo dỡ nhà đã
được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2 m2)?.........................................................Trang
3.8. Ông Trường, bà Thoa có biết và phản đối ông Tận xây dựng nhà trên không?.......Trang
3.9. Nếu ông Trường, bà Thoa biết và phản đối ông Tận xây dựng nhà trên thì ông Tận có
phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trường, bà Thoa không? Vì sao?...............Trang
3.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần đất ông
Tận lấn chiếm và xây nhà trên................................................................................Trang
3.11. Theo Tòa án, phần đất ông Tận xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trường, bà
Thoa được xử lý như thế nào? Đoạn nào của Quyết định số 23 cho câu trả lời?....Trang
3.12. Đã có quyết định nào của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như Quyết định
số 23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà không? Nêu rõ Quyết định mà
anh/chị biết.............................................................................................................Trang
3.13. Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong Quyết
định số 23 được bình luận ở đây?............................................................................Trang
3.14. Đối với phần chiếm không gian 10,71 m2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2 trên
đất lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm có buộc tháo dỡ không?........Trang
3.15. Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71m2 và căn nhà phụ trên
như thế nào?............................................................................................................ Trang
3.16. ...Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian ở Việt
Nam hiện nay...........................................................................................................Trang
3.17. Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 có còn phù hợp với Bộ luật
dân sự 2015 không? Vì sao?...................................................................................Trang
VẤN ĐỀ 1: ĐÒI ĐỘNG SẢN TỪ THỨ BA
Tóm tắt Quyết định số 123/2006/DS-GĐT ngày 30-5-2006 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao:
Ông Triệu Tiến Tài (nguyên đơn) có trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới sấn mũi
lần đầu và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi chăn thả ở bãi đất trống và bị anh Hà Văn Thơ
(bị đơn) chiếm hữu không căn cứ pháp luật. Do đó, ông Triệu Tiến Tài yêu cầu Tòa án nhân
dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai buộc anh Hà Văn Thơ phải trả lại trị giá 2 mẹ con con trâu
cho gia đình ông. Quyết định của Tòa án công nhận quyền sở hữu con trâu cho ông Tài, ông
Thơ chiếm hữu không có căn cứ pháp luật, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lào
Cai xét xử phúc thẩm lại.
1.1. Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao?
Trâu là động sản. Vì theo Điều 174 Bộ luật dân sự 2005:
1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công
trình xây dựng đó;
c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật quy định.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.
Trâu không thuộc một trong những trường hợp được quy định là bất động sản.
1.2. Trâu có là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu không? Vì sao?
Trâu không phải là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu. Vì theo khoản 2 Điều 106
Bộ luật dân sự 2015: “Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản không phải đăng
ký, trừ trường hợp pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác”.
1.3. Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của ông Tài?
Đoạn trích của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của
ông Tài: “Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến Tài (BL 06, 07, 08), lời khai của các nhân
chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20), anh Bảo (BL 22) và kết quả giám định con
trâu đang tranh chấp (biên bản giám định ngày 18-8-2004, biên bản xác minh của cơ quan
chuyên môn về vật nuôi ngày 17-8-2004, biên bản diễn giải biên bản kết quả giám định trâu
ngày 20-8-2004), (BL 40, 41, 41a, 42) thì có đủ cơ sở xác định con trâu cái màu đen 4 năm 9
tháng tuổi mới sấn mũi lần đầu và con nghé đực khoảng 3 tháng là thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của Triệu Tiến Tài.”
1.4. Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh có tranh chấp
trên?
Khoản 1 Điều 179 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về khái niệm chiếm hữu như
sau: "Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
như chủ thể có quyền đối với tài sản." Như vậy, việc chiếm hữu là hành vi của bất cứ chủ thể
nào. Do ghi nhận chiếm hữu là một tình trạng nắm giữ thực tế đối với tài sản nên bất cứ chủ
thể nào cũng có thể là người có quyền chiếm hữu đối với tài sản.
Hành vi chiếm hữu bao gồm việc nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp và gián tiếp.
Hành vi chiếm hữu gián tiếp đó là chủ thể xác lập hợp đồng gửi giữ hay ủy quyền quản lý tài
sản đối với người khác. Do đó, chủ thể có thể trực tiếp nắm giữ tài sản dưới một trạng thái
vật chất cụ thể, hoặc chiếm hữu gián tiếp thông qua áp dụng các biện pháp quản lý về mặt
pháp lý đối với tài sản như: Giao cho người khác chiếm hữu thông qua các quan hệ thuê
trông giữ hay ủy quyền quản lý tài sản.
Về mặt ý chí, người chiếm hữu coi mình là người có quyền đối với tài sản. Hành vi chiếm
hữu chỉ được pháp luật ghi nhận và bảo vệ khi chủ thể chiếm hữu có những xử sự giống như
họ là chủ sở hữu hay có quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản.
Trong hoàn cảnh có tranh chấp trên, ông Thơ là người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có
căn cứ pháp luật.

1.5 Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn cứ pháp luật không? Vì sao?
Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn là không có căn cứ pháp luật. Bởi
vì:
Khoản 3 Điều 183 Bộ luật dân sự 2005 quy định trường hợp người được chuyển giao quyền
chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật được xem là
chiếm hữu có căn cứ pháp luật.
Do đó, chiếu theo bản án, tuy ông Thi thông qua giao dịch dân sự với ông Tài để mua trâu
mẹ với giá 3.800.000đ nhưng ông Tài được Tòa án xác định không phải là chủ sở hữu của
con trâu nói trên (ông Thơ mới là người được xác định là chủ sở hữu của trâu) nên đây được
xem là giao dịch không có căn cứ pháp luật. Vì vậy, ông Thi đổi cho ông Dòn chiếm hữu
trâu là không có căn cứ pháp luật nên việc ông Dòn chiếm hữu con trâu cũng không có căn
cứ pháp luật.
1.6 Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Theo Điều 189 BLDS 2005, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay
tình là:
Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ luật này là chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật.
Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà
không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.
Theo Điều 165 BLDS 2015, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là:
1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau đây:
a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy
định của pháp luật;
d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài
sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo
quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều
kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
e) Trường hợp khác do pháp luật quy định.
2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật.
Căn cứ theo Điều 180 Bộ luật dân sự 2015: “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà
người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.”
Như vậy, chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là việc chiếm hữu
không đủ căn cứ xác định quyền chiếm hữu được quy định của pháp luật, cụ thể là các
trường hợp không thuộc khoản 1 Điều 165 Bộ luật dân sự 2015 hoặc Điều 183 Bộ luật dân
sự 2005. Đồng thời, người chiếm hữu không biết hoặc không thể biết việc chiếm hữu tài sản
đó là không có căn cứ pháp luật.
1.7 Người như hoàn cảnh của ông Dòn có là người chiếm hữu ngay tình không? Vì sao?
Người như hoàn cảnh của ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình. Bởi vì:
Căn cứ theo Điều 189 Bộ luật dân sự 2005, người chiếm hữu ngay tình là “ người chiếm hữu
mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật”.
Trong trường hợp này, con trâu là động sản không cần đăng ký quyền sở hữu, vì vậy khi đổi
trâu từ ông Thi, ông Dòn không biết con trâu đó vốn là của ông Tài. Vì có căn cứ để tin rằng
việc trao đổi trâu của mình là đúng nên trong hoàn cảnh này, ông Dòn là người chiếm hữu
ngay tình.
1.8 Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định về đòi tài sản trong Bộ
luật dân sự?
Hợp đồng có đền bù: Là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi ích từ bên
kia chuyển giao thì phải chuyển giao lại cho bên kia một lợi ích tương ứng. Đa số các hợp
đồng dân sự là hợp đồng có đền bù. Tính chất đền bù trong hợp đồng được các bên áp dụng
để thực hiện việc trao đổi với nhau các lợi ích vật chất.
Ví dụ: Hợp đồng mua bán, trao đổi, thuê tài sản, hay các hợp đồng dịch vụ vận chuyển, gia
công, …
Hợp đồng không có đền bù: Là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi ích do bên kia
chuyển giao nhưng không phải chuyển giao lại bất kỳ lợi ích nào. Trong hợp đồng không có
đền bù thường không có sự trao đổi giữa các bên mà chủ yếu chỉ có một bên chuyển giao lợi
ích cho bên kia. Đây là những hợp đồng không chịu chi phối của quy luật giá trị mà mang
tính chất tình cam, tương trợ.
Ví dụ: Hợp đồng tặng cho tài sản, hợp đồng cho vay không có lãi, hợp đồng mượn tài sản,
hợp đồng gửi giữ tài sản không lấy thù lao, …
1.9 Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù hay không có đền bù? Vì sao?
Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù. Bởi vì trong hoạt động
trao đổi này, bên bán là ông Thơ nhận được số tiền thanh toán từ bên mua là ông Dòn còn
bên mua thì được tài sản là con trâu từ bên bán. Trong giao dịch này cả hai bên đều nhận
được lợi ích khác nhau.
1.10 Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý chí của ông Tài
không?
Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý muốn của
ông Tài. Bởi vì theo lời khai của ông Tài thì gia đình ông có 1 đàn trâu gồm 10 con, đến
tháng 2/2004 đẻ được một con nghé đực hàng tháng ông vẫn lên xem chiều ngày 18/4/2004
ông Hà văn Thơ dắt 1 con trâu mẹ và 1 con nghé 1 tháng tuổi đi qua nhà ông, ông nhận ra đó
là trâu và nghé nhà mình và có hỏi ông thơ nhưng ông thơ nói là ông mua con trâu đó vào
tháng 6/2004. Ông tài đã mất con trâu ngoài ý muốn và khi phát hiện thì con trâu đã bị ông
thơ chiếm hữu.
1.11 Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn không?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Theo tòa dân sự tòa án nhân dân tối cao, ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn.
Câu trả lời của quyết định ở đoạn: Tòa án phúc thẩm nhận định con trâu mẹ và con nghé con
là của ông Tài là đúng nhưng lại cho rằng con trâu cái đang do ông Dòn quản lý nên ông Tài
phải khởi kiện đòi ông Dòn và quyết định chỉ buộc ông Thơ phải trả lại giá trị con nghé là
900.000đ, bác yêu cầu của ông Tài đòi ông Thơ phải trả lại con trâu mẹ là không đúng pháp
luật
1.12 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Theo tôi, hướng giải quyết của Toà án dân sự Toà án nhân dân tối cao là chưa thoả
đáng. Toà án quyết định ông Tài không có quyền đòi ông Dòn trả lại con trâu, nhưng theo
quy định tại Điều 257 Bộ luật dân sự 2015 "... trong trường hợp hợp đồng này hợp đồng có
đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp
khác ngoài ý chí của chủ sở hữu " thì ông Tài có quyền đòi vì hợp đồng giữa ông Thi và ông
Dòn là hợp đồng mua bán tức là hợp đồng có đền bù.
1.13 Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có quy định nào
bảo vệ ông Tài không?
Theo Điều 167 Bộ luật dân sự 2015: “Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản
không phải đăng kí quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người
chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người
không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở
hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị
chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”. Ở trường hợp này động sản chính là con trâu cái, chủ
sở hữu là ông Tài và người chiếm hữu ngay tình là ông Dòn, vì giao dịch của ông Thơ với
ông Dòn là hợp đồng có đền bù nên theo quy định trên ông Tài được quyền đòi con trâu đó.
1.14 Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ôngTài được
quyền yêu cầu ai trả giá trị con trâu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Khi ông Tài không đòi được trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài
được yêu cầu khởi kiện ông Thơ. Căn cứ theo khoản 1 Điều 579 Bộ luật dân sự 2015 về
nghĩa vụ hoàn trả: “Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có
căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó”
Đoạn cho thấy câu trả lời: “ Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã điều tra,
xác minh, thu thập đầy đủ chứng cứ và xác định con trâu tranh chấp giữa ông Tài và ông Thơ
và đã quyết định buộc ông Thơ là người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật phải
hoàn trả lại giá trị con trâu và con nghé cho ông Tài là có căn cứ pháp luật.
1.15 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án quyết định buộc ông Thơ hoàn lại giá trị con trâu và con nghé cho ông Tài là
hợp lý. Ông Dòn có được tài sản bằng giao dịch đền bù nên nếu đòi từ ông Dòn thì ảnh
hưởngđến quyền lợi của ông Dòn. Trong trường hợp này đòi bồi thường từ ông Thơ, người
đã chiếm hữu không có căn cứ pháp luật con trâu là hợp lý nhất, như vậy các bên làm đúng
sẽ không phải chịu thiệt hại
VẤN ĐỀ 2: ĐÒI BẤT ĐỘNG SẢN TỪ NGƯỜI THỨ BA
Tóm tắt Quyết định số 07/2018/DS-GĐT ngày 09/05/2018 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị X (chết ngày 05/01/2008); Những người thừa kế quyền,
nghĩa vụ tố tụng của bà X và đại diện của các nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thanh T. Đất
tranh chấp có diện tích 1.518,86m đất (đo thực tế là 1.466.1m), thuộc thửa 73, tờ Bản đồ số
27, tại số 46 (số cũ là 2/15) đường T, thành phố B, tỉnh B, theo Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà cấp cho bà Nguyễn Thị X đã được cấp ngày 09/6/1989, trên đất có nhà cấp bốn, do
bà Nguyễn Thị N (bị đơn) quản lý sử dụng, bà X yêu cầu bà N trả lại toàn bộ nhà đất nêu
trên.
2.1. Đoạn nào của Quyết định giám đốc thẩm cho thấy quyền sử dụng đất có tranh chấp thuộc
bà X và đã được bà N chuyển giao cho người thứ ba ngay tình?
Đoạn 5 của Quyết định giám đốc thẩm cho thấy quyền sử dụng đất có tranh chấp
thuộc bà X và đã được bà N chuyển giao cho người thứ ba ngay tình: “Trên cơ sở bản án
phúc thẩm số 123/2009/DS-PL ngày 23/10/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa… là các
giao dịch của người thứ ba ngay tình và được pháp luật bảo vệ.”
2.2. Theo quy định (trong Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015), chủ sở hữu
bất động sản được bảo vệ như thế nào khi tài sản của họ được chuyển giao cho người thứ
ba ngay tình?
Chủ sở hữu bất động sản sẽ được bảo vệ chiếu theo Điều 133 khoản 3 Bộ luật dân sự
2015: “Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch
dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền
khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải
hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.”
Khoản này tại Điều 138 Bộ luật dân sự 2005 chưa được quy định.
2.3. Để bảo vệ bà X, theo Toà án nhân dân tối cao, Toà án phải xác định trách nhiệm của bà N
như thế nào đối với bà X?
Ở đoạn 6 thuộc phần “Nhận định của Tòa án”, theo Tòa án nhân dân tối cao, tại phiên
tòa sơ thẩm, Tòa án lẽ ra phải xử: “Trong trường hợp này, Tòa án buộc bà N trả bằng giá trị
quyền sử dụng diện tích 914m2 đất cho nguyên đơn mới phù hợp.” Và tại phiên tòa phúc
thẩm, Tòa án lẽ ra phải xử: “Tòa án phải buộc bà N trả cho nguyên đơn giá trị đất
1.254.400.000 đồng mới phù hợp.”
2.4. Hướng của Toà án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên đã được quy định trong BLDS
chưa?
Tại thời điểm Quyết định được công bố, hướng của Toà án nhân dân tối cao trong
câu hỏi trên chưa được quy định trong Bộ luật dân sự 2005. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 133
Bộ luật dân sự 2015 lại có đề cập đến hướng giải quyết của Tòa án. Cụ thể: “Chủ sở hữu
không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này
không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ
thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí
hợp lý và bồi thường thiệt hại.”
2.5. Theo anh/chị, hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao (trong câu hỏi trên) có thuyết
phục không? Vì sao?
Theo tôi, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao là thuyết phục.
Giải thích:
Theo đoạn 6 thuộc phần “Nhận định của Tòa án”, Tòa án nhân dân tối cao đã đề xuất ra
hướng giải quyết có thể đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan. Cụ thể, Tòa án đề xuất việc
bà N phải trả cho nguyên đơn giá trị đất 1.254.400.000 đồng, nhưng cho phép bà N được
quyền tiếp tục sở hữu diện tích đất tranh chấp.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao là chiếu theo khoản 3 Điều 133 Bộ luật dân
sự 2015: “Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch
dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền
khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải
hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.”
VẤN ĐỀ 3: LẤN CHIẾM TÀI SÀN LIỀN KỀ
Tóm tắt quyết định số 67/2011/DS-GĐT:
Ngày 15/6/2017, ông Cường khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy quyết định số 714/QĐ-CCT
ngày 12/5/2016 của chi cục trưởng Chi cục thuế tỉnh Bến Tre. Ngày 21/9/2017 tòa án nhân
dân tỉnh Bến Tre ra quyết định số 22/2017/HC-ST tuyên bố chấp nhận yêu cầu của ông
Cường hủy quyết định số 714 ngày 12/5/2016 của Chi cục trưởng Chi cục thuế tỉnh Bến Tre.
Tóm tắt Quyết định số 23/2006/DS-GĐT ngày 07-09-2006 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao:
Ngày 19/09/2004, nguyên đơn Nguyễn Thị Châu có đơn kiện yêu cầu bị đơn chị
Nhữ Thị Vân và những người khác có liên quan trả lại căn nhà số 02 Hàng Bút. Ngày
12/04/2005, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn sau xét xử
sơ thẩm chị Nhữ Thị Vân và Nguyễn Thị Ngọc Lan kháng cáo ngày 29/11/2005 Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định 253/2005/DS-PT tuyên bố hủy bản án sơ thẩm
giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm và chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Sau khi phúc thẩm
thì anh Nguyễn Hồng Sơn, chị Dương Thị Ngọc Lan và chị Vân kháng cáo, ngày 30/05/2011
Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Hà Nội ra quyết định số 90/2011/DS-PT tuyên bố
chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc chị Vân, vợ chồng anh Nguyễn Hồng Sơn, chị
Dương Thị Ngọc Lan phải trả lại toàn bộ tầng 1 nhà số 02 Hàng Bút. Phía nguyên đơn và anh
Nguyễn Thanh Lâm có trách nhiệm bồi thường cho vợ chồng anh Nguyễn Hồng Sơn, chị
Dương Thị Ngọc Lan 25 triệu. Sau khi phúc thẩm anh Nguyễn Hồng Sơn, chị Dương Thị
Ngọc Lan và chị Vân có đơn đề nghị giám đốc thẩm. Ngày 25/05/2012 Tòa án nhân dân tối
cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 90/2011/DS-PT ngày 30/5/2011 của Tòa án phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số
49/2010/DS-PT 31/08/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội,giao cho Tòa án Nhân
dân thành phố Hà Nội sơ thẩm lại. Ngày 09/09/2013 Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội ra
quyết định số 111/2013/DS-GĐT tuyên bố hủy toàn bộ bản án phúc thẩm số 90/2011/DS-PT
ngày 30/05/2011 của Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao Hà Nội và hủy toàn bộ bản
án dân sự sơ thẩm số 49/2010/DS-PT ngày 31/08/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội giao hồ sơ vụ án cho Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại.
3.1 . Đoạn nào của Quyết định số 23/2006/DS-GĐT ngày 07-9-2006 cho thấy ông Tận đã lấn
sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa và phần lấn cụ thể là bao nhiêu?
Ở phần xét thấy của Quyết định số 23 có đoạn:
“Ông Diệp Vũ Trường và ông Nguyễn Văn Tận tranh chấp 185 m2 đất giáp ranh, hiện do ông
Tận đang sử dụng. Ông Tận cho rằng diện tích đất trên do ông nhận chuyển nhượng lại từ anh
Trần Thanh Kiệt; tuy nhiên, theo giấy biên nhận đề ngày 29-3-1994 giữa ông Tận với anh
Kiệt (giấy không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) thì diện tích đất mà ông
Tận mua từ anh Kiệt không nêu vị trí cũng như tứ cận, mốc giới cụ thể, cũng không có xác
nhận của các chủ đất liền kề. Trong khi đó, gia đình ông Trường đã quản lý, sử dụng đất tranh
chấp từ trước khi có việc sang nhượng giữa ông Tận với anh Kiệt và năm 1994 ông Trường đã
được Uỷ ban nhân dân huyện Cái Nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do bà Châu Kim Thoa - vợ ông Trường đứng tên); theo sơ đồ vị trí
đất được thể hiện trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thửa đất này có mốc giới rõ
ràng, đối chiếu sơ đồ này với sơ đồ tranh chấp do Toà án nhân dân huyện Cái Nước phối hợp
với các cơ quan chức năng đo vẽ ngày 28-3-2000 và tại Công văn số 01/XN-TNMT ngày 10-
3-2006 của Phòng tài nguyên và môi trường huyện Cái Nước gửi Toà án nhân dân tỉnh Cà
Mau vẫn khẳng định ranh giới đất đã cấp giấy chứng nhận cho bà Thoa với đất ông Tận đang
sử dụng là “ranh thẳng” thì có căn cứ xác định ông Tận đã lấn đất của ông Trường”.
Đã cho thấy ông Tân đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa.
Phần lấn cụ thể là:
 132,8 m2 đất trống.
 52,2 m2 đất đã xây dựng nhà.
 10,71m2 hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê.
 18,57m2 đất đã xây dựng một căn nhà phụ.
 Phần lấn chiếm tổng cộng: 214,28 m2.
3.2 Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian,
mặt đất, long đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?
Trong phần xét thấy của Quyết định số 617 có đoạn:
“Khi sữa chữa lại nhà gia đình ông Hòa có làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông và chôn
dưới đất một ống thoát nước nằm ngoài phía tường nhà. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án
cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định gia đình ông Hòa làm 4 văng ô của sổ, một
máng bê tông chờm qua phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên nên
quyết định buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là có căn cứ. Tuy nhiên, dưới lòng đất sát
tường nhà ông Hòa còn ống nước do gia đình ông Hòa chôn nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là không đúng, không đảm
bảo được quyền lợi của gia đình ôngTrụ”.
Đoạn trích dẫn trên cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt đất, lòng đất)
thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên.

3.3 Bộ luật dân sự có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian
thuộc quyền sử dụng của người khác không?
Bộ Luật dân sự có quy định điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian
thuộc quyền sử dụng của người khác cụ thể là:
Điều 175, Điều 176 Bộ Luật dân sự 2015, quy định điều chỉnh về ranh giới giữa các bất động
sản, mốc giới ngăn cách bất động sản. Liên quan đến việc lấn chiếm đất, lòng đất thuộc quyền
sử dụng của người khác:
“Điều 175. Ranh giới giữa các bất động sản
1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền…
Điều 176. Mốc giới ngăn cách các bất động sản
1.Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên
phần đất thuộc quyền sử dụng của mình…”.
Điều 178 Bộ Luật dân sự 2015, quy định về trổ cửa sổ nhìn sang bất động sản liền kề. Liên
quan đến điều chỉnh việc lấn chiếm không gian thuộc quyền sử dụng của người khác:
“Điều 178. Trổ cửa nhìn sang bất động sản liền kề
1. Chủ sở hữu nhà chỉ được trổ cửa ra vào, cửa sổ quay sang nhà bên cạnh, nhà đối diện và
đường đi chung theo quy định của pháp luật về xây dựng.
2. Mặt dưới mái che trên cửa ra vào, mặt dưới mái che cửa sổ quay ra đường đi chung phải
cách mặt đất từ 2,5 mét trở lên.”
3.4 Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào?
Ở nước ngoài, cụ thể là tại Quebec, quy định trong Điều 992, Bộ Luật dân sự Quebec
việc lấn chiếm nếu là đáng kể, gây thiệt hại nghiêm trọng hay được tiến hành một cách không
ngay tình thì chủ sở hữu bất động sản bị lấn chiếm có thể hoặc buộc người lấn chiếm nhận
bất động sản của mình và thanh toán giá trị hoặc buộc phải tháo dỡ phần xây dựng và khôi
phục lại tình trạng ban đầu. Có thể thấy pháp luật ở Quebec rất xem trọng các nguyên tắc
thiện chí vì nếu lấn chiếm không ngay tình thì chủ sở hữu có thể yêu cầu người lấn chiếm
tháo dỡ. Mức độ phải chịu trách nghiệm phụ thuộc rất nhiều vào sự ngay tình của người lấn
chiếm.
Hay tại Thụy Sỹ theo khoản 3, Điều 674, Bộ Luật dân sự Thụy Sỹ có nêu rằng:
“Nếu sau khi biết việc lần chiếm mà chủ sở hữu bị lấn chiếm không phản đối trong một thời
gian hợp lý và khi người lấn chiếm ngay tình và hoàn cảnh cho phép điều này, chủ thể của
những công trình xây dựng có thể yêu cầu phần đất lấn chiếm được giao cho mình với sự đền
bù một khoản tiền hợp lý”.
3.5 Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn sang không gian, mặt đất và
long đất của ông Trụ, bà Nguyên?
Tại phần Xét thấy của Quyết định số 617/2011/DS-GĐT có đề cập:
“Ngày 25-5-1995 UBND tỉnh Trà Vinh cấp giấy phép số 11/GPUBT cho phép gia đình ông
Hòa được xây dựng nhà 2 tầng (theo thiết kế).
Ngày 03-10-2002, UBND tỉnh Trà Vinh cấp giấy chứng nhận cho gia đình ông Hòa được
quyền sử dụng 184m2 đất thuộc thửa số 76, tờ bản đồ địa chính số 5.
Khi sửa chữa lại nhà gia đình ông Hòa có làm 4 ô văng cửa sổ, một máng bê tông và chôn
dưới đất một ống thoát nước nằm ngoài phía tường nhà. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án
cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định gia đình ông Hòa làm 4 ô văng cửa sổ, một
máng bê tông chờm qua phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên nên
quyết định buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là có căn cứ.
Tuy nhiên dưới lòng đất sát tường nhà ông Hòa còn ống nước do gia đình ông Hòa chôn
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông Hòa phải tháo
dỡ là không đúng, không đảm bảo được quyền lợi của gia đình ông Trụ.”
Đoạn trên đã cho thấy Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao theo hướng buộc gia đình ông
Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn sang không gian, mặt đất và lòng đất của ông Trụ, bà
Nguyên qua lời khẳng định về buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là có căn cứ và nhận định
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ phần ống
nhà ông Hòa chôn là không đúng và không đảm bảo được quyền lợi cho gia đình ông Trụ.

3.6 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Việc Tòa án buộc ông Hòa phải tháo dỡ 4 ô văng cửa sổ, máng bê tông và buộc tháo
dỡ ống nước là hợp lý. Vì theo quy định tại khoản 2 Điều 265 của Bộ luật dân sự 2005, hành
vi của ông Hòa đã cản trở việc thực hiện quyền sử dụng đất một cách bình thường của ông
Trụ, bà Nguyên và ở tại Điều 189 bộ luật này thì hành vi này thực chất không ngay tình là
trái pháp luật nên chủ thể xâm phạm phải chấm dứt hành vi đó. Đồng thời, để đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của mình, ông Trụ bà Nguyên có thể yêu cầu ông Hòa khôi phục tình trạng ban
đầu của tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có). Tuy nhiên, về việc buộc tháo dỡ ống
nước cần phải được xem xét kỹ hơn trước khi đưa ra quyết định. Cụ thể, cần xác định rằng
liệu việc ông Hòa đặt ống nước lấn sang phần đất của ông Trụ là có cần thiết không dựa theo
Điều 273 và Điều 277 Bộ luật dân sự 2005. Nếu việc đặt ống nước này là cần thiết thì ông
Hòa phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho gia đình ông Trụ, còn nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường. Ngược lại, nếu việc đặt ống nước này là không cần thiết thì mới cần buộc
gia đình ông Hảo tháo dỡ ống nước.
3.7 Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Tận tháo dỡ nhà đã
được xây dựng trên đất lấn chiếm (52,2 m2)?
Đoạn trong Quyết định số 23 trả lời cho câu hỏi trên là: “Tòa án cấp phúc thẩm buộc
ông Tận trả 132,8m2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống do ông Trường, bà Thoa, còn phần
đất ông Tận cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2m2) thì giao ông Tận sử dụng
nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa là hợp tình hợp
lý”.
3.8 Ông Trường, bà Thoa có biết và phản đối ông Tận xây dựng nhà trên không?
Theo trình bày của ông Tận (bị đơn): “Sau khi sang nhượng xong ông đã làm nhà cơ
bản trên diện tích đất đang tranh chấp, lúc ông xây nhà gia đình ông Trường khôngcó ý kiến
gì”. Còn theo trình bày của nguyên đơn: “Trong quá trình sử dụng, ông Tận đã lấn chiếm
sang đất của ông Trường khoảng 185m2. Khi ông Trường yêu cầu chính quyền địa phương
giải quyết thì ông Tận đã chặt phá một số cây kiểng của gia đình ông”. Từ đó, có thể thấy
trong quá trình ông Tận xây dựng nhà trên phần đất đang tranh chấp thì gia đình ông Trường,
bà Thoa không có phản ứng gì. Nhưng khi căn nhà được đưa vào sử dụng thì ông Trường, bà
Thoa mới lên tiếng yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết.

3.9 Nếu ông Trường, bà Thoa biết và phản đối ông Tận xây dựng nhà trên thì ông Tận có
phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trường, bà Thoa không? Vì sao?
Nếu ông Trường, bà Thoa biết và phản đối ông Tận xây dựng nhà trên thì ông Tận
phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trường, bà Thoa. Theo Điều 259 Bộ luật dân sự 2005
quy định về quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp:

“Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu
không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm”. Điều luật này quy định cho phép chủ
sở hữu yêu cầu “chấm dứt hành vi” và chúng ta có thể lý giải như sau: lấn chiếm quyền sử
dụng đất và không gian của người khác chính là hành vi cản trở chủ sở hữu thực hiện các
quyền sở hữu của mình. Do đó, tháo dỡ công trình lấn chiếm cho phép chấm dứt hành vi vi
phạm. Ở đây, gia đình ông Trường đã quản lý, sử dụng đất tranh chấp từ trước khi có việc
sang nhượng giữa ông Tận và anh Kiệt và năm 1994 ông Trường được Ủy ban nhân dân cấp
huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, ông Trường có quyền yêu cầu ông
Tận không được xây dựng hay sử dụng mảnh đất này.
3.10 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần đất ông
Tận lấn chiếm và xây nhà trên.
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp tình hợp lý. Thứ nhất, mặc dù theo đúng
quy định của pháp luật thì ông Tận đương nhiên phải chấm dứt hành vi lấn chiếm quyền sử
dụng đất và không gian của người khác, nhưng cần phải cân nhắc về lợi ích kinh tế của việc
tháo dỡ và không tháo dỡ. Ở đây, ông Tận đã xây dựng xong căn nhà cơ bản trên phần đất có
tranh chấp. Nếu bắt ông Tận phải tháo dỡ căn nhà để trả lại đất cho ông Trường, bà Thoa thì
sẽ khiến ông phải chịu thiệt hại rất lớn về mặt kinh tế. Thứ hai, trong thời gian ông Tận công
khai xây nhà trên phần đất của ông Trường và bà Thoa thì vợ chồng ông bà không có phản
ứng nào thể hiện sự phản đối. Từ đây có thể suy luận rằng vợ chồng ông Trường đã “ngầm”
chấp nhận để ông Tận “lấn chiếm” tài sản của mình nên quyền được yêu cầu tháo dỡ cần
được giới hạn.
3.11 Theo Tòa án, phần đất ông Tận xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trường, bà
Thoa được xử lý như thế nào? Đoạn nào của Quyết định số 23 cho câu trả lời?
Tại bản án sơ thẩm số 09/STDS ngày 21-7-2003, Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau
đã quyết định: Buộc ông Tận trả ông Trường, bà Thoa giá trị quyền sử dụng phần đất lấn
chiếm đã cất nhà là 52,2m2 bằng giá trị là 7,83 chỉ vàng 24K. Giữ nguyên phần đất có căn
nhà cho ông Tận sử dụng.
Theo Quyết định số 23 thì phần đất ông Tận lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2 m2) thì
giao ông Tận sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà
Thoa là hợp tình, hợp lý.
3.12 Đã có quyết định nào của Hội đồng thẩm phán theo hướng giải quyết như Quyết định số
23 liên quan đến đất bị lấn chiếm và xây dựng nhà không? Nêu rõ Quyết định mà
anh/chị biết.
Quyết đinh số 02/2006/DS-GĐT ngày 21-2-2006 của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao: “Căn cứ vào văn tự đoạn mãi nhà 30-12-1973 giữa ông Vui và bà Khanh
thì căn nhà bà Khanh có chiều rộng mặt tiền là 7,4m và căn cứ vào giấy phép xây dựng
số51/GP.SXD ngày 8-2-1996 của Sở Xây dựng tỉnh ĐL thì gia đình bà Khanh được xây nhà
có chiều rộng mặt tiền là 7,4m nhưng theo biên bản đo đạc của Tòa án nhân dân tỉnh ĐL thì
thực tế bà Khanh đã xây dựng chiều rộng mặt tiền là 7,63m, sai với giấy phép xây dựng, vượt
quá diện tích đất mà gia đình bà Khanh được quyền sử dụng là 23cm. Thực tế, bà Khanh đã
xây kiềng móng nằm đè lên 20cm móng nhà ông Tùng. Bà Khanh cho rằng khi xây dựng đã
thỏa thuận miệng với ông Tùng để bà Khanh được xây sát tường nhà ông Tùng nhưng ông
Tùng không thừa nhận và bà Khanh cũng không có chứng cứ để chứng minh vấn đề này. Về
nguyên tắc, bà Khanh đã lấn chiếm đất thuộc quyền sử dụng của ông Tùng thì bà Khanh phải
tháo dỡ công trình để trả lại đất cho ông Tùng. Tuy nhiên, khi gia đình bà Khanh xây dựng
sát tường nhà ông Tùng, làm kiềng trên móng nhà ông Tùng, ông Tùng không phản đối trong
suốt quá trình từ khi bà Khanh khởi công xây dựng (tháng2-1996) đến khi hoàn thành (tháng
6-1996). Do việc đã xây dựng hoàn thiện nhà cao tầng, nếu buộc bà Khanh phải dỡ bỏ và thu
hẹp lại công trình sẽ gây thiệt hại rất lớn cho gia đình bà Khanh, xét diễn biến thực tế như
trên, Hội đồng Thẩm phán nhất trí với quan điểm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao tại kháng nghị là Tòa án cấp phúc thẩm không buộc bà Khanh phải tháo dỡ phần tường
nhà đè lên phía trên móng nhà ông Tùng mà chỉ buộc bồi thường bằng tiền là hợp tình, hợp
lý”.
3.13 Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong Quyết
định số 23 được bình luận ở đây?
Hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong Quyết định số 23 là thỏa
đáng và đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự. Vì việc Tòa xác định ông Tận đã lấn đất
của ông Trường và buộc bị đơn phải trả 132,8m2 đất trống cho gia đình nguyên đơn là đúng
theo quy định của pháp luật. Còn phần đất lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2m2) thì
Tòa giao cho ông Tận quyền sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho
ôngTrường, bà Thoa là hợp tình, hợp lý. Bởi lẽ nếu buộc ông Tận phải tháo dỡ căn nhà thì sẽ
gây thiệt hại rất lớn cho gia đình ông Tận, không đảm bảo được quyền lợi của ông. Mặt khác,
trong quá trình ông Tận xây dựng căn nhà, gia đình ông Trường và bà Thoa không có thái độ
phản đối nên có thể ngầm hiểu là gia đình ông bà đã “chấp nhận” việc lấn chiếm này. Cho
nên quyền được yêu cầu tháo dỡ cần được giới hạn.
Ngoài ra, còn hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của nguyên đơn
có diện tích 10,71m2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57m2 chưa được Tòa án các cấp xem
xét giải quyết là chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ông Trường và bà Thoa
3.14 Đối với phần chiếm không gian 10,71 m2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2 trên đất
lấn chiếm, Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm có buộc tháo dỡ không?
Trong Quyết định số 23 có đoạn đã nêu - căn nhà của ông Tận còn có hai máng
xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trường và bà Thoa có diện tích
10,71 m2 chưa được Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xem xét buộc ông Tận
phải tháo dỡ hoặc phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trường và bà Thoa.
Còn còn có một căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2 của ông Tận xây dựng trên diện tích đất
mà Toà án các cấp buộc ông Tận trả lại cho ông Trường, bà Thoa nhưng Toà án các cấp cũng
chưa xem xét giải quyết, gây khó khăn cho việc thi hành án.
3.15 Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71m2 và căn nhà phụ trên
như thế nào?
Đối với vấn đề trên có thể có các hướng giải quyết sau:
 Với căn nhà phụ (18,57 m2):
 Có thể giao cho ông Tận quyền sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng
đất cho ông Trường bà Thoa.
 Với phần lấn chiếm không gian 10,71 m2 ta có thể xét 2 trường hợp:
 Nếu cơ quan thi hành án xét thấy việc tháo dỡ máng xối bê tông không gây ảnh hưởng
đến ngôi nhà của ông Tận thì ta ưu tiên việc tháo dỡ máng xối đúc bê tông chiếm
khoảng không trên phần đất của ông Trường bà Thoa
 Nếu cơ quan thi hành án xét thấy việc tháo dỡ máng gây ảnh hưởng đến ngôi nhà của
ông Tận thì có thể cho ông tận quyền sử dụng phần khoảng không trên phần đất của
ông Trường và bà Thoa nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng khoảng không
trên phần đất đó
3.16 Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian ở
Việt Nam hiện nay.
Hiện nay nhiều nơi ở Việt Nam, thực trạng quản lý đất đai vẫn còn lỏng lẻo.
Chẳng hạn, theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường thì hiện nay 190 nghìn ha đất đang
bị lấn chiếm. Tổng số diện tích đất nông, lâm nghiệp đang có tranh chấp, bị lấn chiếm là
190.469 ha. Mặc dù, con số này có dấu hiệu sụt giảm, tuy vậy, tính chất các vụ việc lấn
chiếm đất đai diễn ra khá phức tạp.
Vừa rồi, Chính phủ ban hành Nghị định 91/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính lĩnh
vực đất đai được kỳ vọng sẽ khắc phục được tình trạng lấn chiếm, không tuân thủ quy định
pháp luật.
3.17 Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 có còn phù hợp với
BLDS 2015 không? Vì sao?
Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 phù hợp với Bộ luật Dân sự 2015.
Cụ thể theo khoản 2 Điều 164 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền
khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc
người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Như vậy, ông Trường và bà Thoa có quyền yêu cầu Tòa án buộc ông Tận phải trả lại phần
đất 132,8m2 đã lấn chiếm, còn phần đất 52,2m2 đã xây dựng nhà thì giao cho ông Tận sử
dụng nhưng phải thanh toán giá trị sử dụng đất cho ông Trường, bà Thoa.
Ngoài ra, đối với hai máng xối đúc bê tông có diện tích 10,71m2 và căn nhà phụ 18, 57m2,
ông Trường, bà Thoa có quyền yêu cầu ông Tận phải tháo dỡ hoặc phải thanh toán giá trị sử
dụng đất cho vợ chồng ông Trường sao cho phù hợp.
Tóm lại, hướng giải quyết của Tòa là thỏa đáng với quy định tại khoản 2 Điều 164 Bộ luật
dân sự 2015.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ luật dân sự 2005
2. Bộ luật dân sự 2015
3. Chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật được quy định như thế nào? (lawkey.vn)
4. Thế nào là chiếm hữu tài sản? Người đang chiếm hữu tài sản có được pháp luật
bảo vệ khi có tranh chấp không? (luatminhkhue.vn)
5. Quyết định số 123/2006/DS-GĐT ngày 30/05/2006 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao
6. Quyết định số 07/2018/DS-GĐT ngày 09/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao;
7. Quyết định số 617/2011/DS-GDDT ngày 18/8/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao và Quyết định số 23/2006/DS-GĐT ngày 07-09-2006 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
8. https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=4eca57c0-
9579-4feb-b05f-55cd86c2d94b

You might also like