You are on page 1of 20

KHOA QUẢN TRỊ

LỚP QUẢN TRỊ - LUẬT 44B.1

BÀI THẢO LUẬN THỨ BẢY


BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
(PHẦN CỤ THỂ)
Bộ môn: Pháp luật về hợp đồng và bồi thường ngoài hợp đồng

Nhóm 05
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Nguyễn Ngọc Tuyết Nhung 1953401020166
2 Đào Bùi Duy Tân 1953401020196
3 Nguyễn Long Thiện 1953401020213
4 Cao Phạm Kim Thoa 1953401020214
5 Phạm Mai Nhất Thống 1953401020216
6 Nguyễn Anh Thư (Nhóm trưởng) 1953401020217
7 Nguyễn Anh Thư 1953401020218
8 Nguyễn Ngọc Anh Thư 1953401020221
9 Vũ Thị Diễm Quỳnh 1853401020227
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 01........................................................................................................................ 1
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO CON CHƯA THÀNH NIÊN GÂY RA.........................1
Tình huống:..................................................................................................................... 1
Tóm tắt Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012 Toà án nhân dân huyện Cưm’ Gar
tỉnh Đắk Lắk...................................................................................................................1
1.1. Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.......................................................................................................1
1.2. Toà án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do sức
khoẻ bị xâm phạm không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời................................................2
1.3. Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh Hùng giá trị chiếc đồng hồ
và chiếc xe đạp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết
trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự..........................................................3
1.4. Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu đồng
mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự............3
1.5. Tòa án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử......................4
1.6. Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn có ảnh hưởng gì tới việc xác định người phải chịu
trách nhiệm bồi thường không? Cuối cùng, Tòa án đã buộc ai phải chịu bồi thường
thiệt hại........................................................................................................................... 4
1.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (dưới góc độ văn bản
cũng như so sánh pháp luật)...........................................................................................5
VẤN ĐỀ 02........................................................................................................................ 6
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI LÀM CÔNG GÂY RA....................................6
Tóm tắt Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009 Của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định................................................................................................................................ 6
2.1. Vì sao đã có quy định của Điều 584 mà BLDS còn thêm quy định của Điều 600?. .6
2.2. Đoạn nào trong bản án cho thấy Toà án đã áp dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do người làm công gây ra?...............................................................................6
2.3. Trên cơ sở Điều 600, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do người làm công gây ra.................................................................................7
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều
600 BLDS 2015) để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường (đánh giá từng điều kiện
nêu ở câu hỏi trên đối với vụ việc được bình luận).........................................................8
2.5. Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông Hùng thì
ông Hùng có phải bồi thường không? Vì sao?................................................................8
2.6. Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Tòa án, ông Hùng không phải thực hiện
nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại?...................................................................9
2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách
nhiệm của ông Hùng đối với người bị thiệt hại...............................................................9
2.8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu trực
tiếp ông Hùng bồi thường...............................................................................................9
2.9. Lỗi của người làm công trong Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015)
cần được hiểu như thế nào? Vì sao?.............................................................................10
2.10. Theo Tòa án, ông Hùng có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) không? Vì sao?...................................................................................................11
2.11. Theo Tòa án, Công ty Hoàng Long có được yêu cầu ông Hùng hoàn trả một
khoản tiền đã bồi thường cho người bị hại không? Đoạn nào của bản án cho câu trả
lời.................................................................................................................................. 11
2.12. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách
nhiệm hoàn trả của ông Hùng.......................................................................................12
VẤN ĐỀ 03...................................................................................................................... 13
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT GÂY RA....................................................13
Tóm tắt Bản án số 23/2017/DS-ST ngày 08/5/2017 của Toà án nhân dân huyện Đầm
Dơi tỉnh Cà Mau...........................................................................................................13
3.1. Quy định nào của BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật”?........................................13
3.2. BLDS có định nghĩa “súc vật” là gì không?..........................................................13
3.3. Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu như thế nào?........................13
3.4. Đoạn nào của bản án cho thấy thiệt hại là do chó gây ra?....................................14
3.5. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra?...........................................................................................14
3.6. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại
do súc vật gây ra?.........................................................................................................15
3.7. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về lỗi của người bị thiệt hại.15
3.8. Suy nghĩ của anh chị về viê ̣c Tòa án xác định bà Nga có lỗi trong viê ̣c lợn nhà bà
Nga bị xâm hại?............................................................................................................16
3.9. Viê ̣c Tòa án không buộc ông Nhã bồi thường toàn bộ thiê ̣t hại cho bà Nga có
thuyết phục không? Vì sao?..........................................................................................16
VẤN ĐỀ 01
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO CON CHƯA THÀNH NIÊN GÂY RA
Tình huống:

Vào lúc 16 tuổi, Hùng đã đánh anh bình bị thương( tổng thiệt hại là 10tr đồng), lấy
của anh Bình một đồng hồ ( bán cho người đi đường được 2 triệu đồng) và 1 xe đạp hiện
đang gửi nhà 1 người bạn. Sau khi bị bắt Hùng khai là có ăn trộm 1 số đồ vật của những
người trong chợ và bán được 7 triệu đồng. Hiện nay, Hùng không có bát kì tài sản nào.
Tóm tắt Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012 Toà án nhân dân huyện
Cưm’ Gar tỉnh Đắk Lắk.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nam kiện bị đơn bà Nguyễn Thị Thêm về bồi thường
thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.

Mai Công Hậu (con của ông Thụ và bà Thêm) không đi đúng làn đường nên đâm
phải bà Nam. Hậu khi gây tai nạn cho bà Nam là chưa thành niên và không có tài sản
riêng nên bà Nam yêu cầu bà Thêm bồi thượng thiệt hại với tổng thiệt hại là: 65.020.000
vnđ. Bà đã ly hôn với cha của Hậu (ông Thụ) và Hậu đang được nuôi dưỡng bởi ông Thụ.
Được ông trực tiếp nuôi dưỡng, nhưng trong thời điểm gây tai nạn thì Hậu đang ở với mẹ
(bà Thêm).

Toà quyết định buộc ông Thụ và bà Thêm có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại
cho bà Nam là 42.877.000 vnđ, chia theo phần ông Thụ là 21.439.500 vnđ, bà Thêm là
18.438.500 vnđ.
1.1. Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo quy định tại Điều 586 BLDS 2015 cha mẹ của người phạm tội chưa thành
niên có trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do bị cáo khi thực hiện bao gồm 02 loại
trách nhiệm:

(1) Trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại;

(2) Trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu.

Trong đó:

Trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015:
“Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu,
trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này (trong đó, Điều 599 là Bồi thường
thiệt hại do người mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời
gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý).”

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự 2015, tuổi bắt đầu có năng lực
trách nhiệm hình đó là từ đủ 14 tuổi.

Như vậy, trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại của cha, mẹ bị cáo là người
chưa thành niên đặt ra trong trường hợp thiệt hại do hành vi phạm tội của con từ đủ 14
tuổi đến chưa đủ 15 tuổi gây ra.

Và đối với trường hợp này, cha, mẹ bị cáo chịu trách nhiệm bồi thường sẽ tham
gia tố tụng với tư cách bị đơn dân sự theo khoản 1 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Trách nhiệm bồi thường của cha, mẹ bị cáo với tư cách bị đơn dân sự là trách nhiệm của
chính mình, không phải là trách nhiệm nhân danh bị cáo.

Trách nhiệm bồi thường còn thiếu theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015:

“Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi
thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.”

Theo đó, trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu của cha, mẹ bị cáo là người chưa
thành niên chỉ đặt ra trong trường hợp thiệt hại do hành vi phạm tội của con từ đủ 15 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi gây ra khi mà con không đủ tài sản để bồi thường.

Ở đây, cha, mẹ bị cáo chịu trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu với thiệt hại của
bị cáo là người chưa thành niên sẽ tham gia tố tụng với tư cách người có nghĩa vụ liên
quan đến vụ án theo khoản 1 Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tư cách này xuất phát
từ lý do, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về bị cáo, nhưng việc tòa án quyết định bị
cáo phải bồi thường cho ai, với mức và các khoản bồi thường như thế nào ảnh hưởng đến
nghĩa vụ của cha, mẹ bị cáo trong trường hợp bị cáo không đủ tài sản để bồi thường..
1.2. Toà án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do
sức khoẻ bị xâm phạm không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong tình huống đã cho, Hùng đã gây thiệt hại về sức khoẻ cho anh Bình. Do đó,
theo khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 thì Hùng phải bồi thường thiệt hại cho anh Bình. Tuy
nhiên, Hùng mới 16 tuổi và không có bất kì tài sản nào nên theo quy định tại khoản 2
Điều 586 BLDS 2015 thì Tòa có thể buộc cha mẹ của Hùng phải bồi thường cho anh
Bình.
1.3. Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh Hùng giá trị chiếc
đồng hồ và chiếc xe đạp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải
quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự.

Hùng đã lấy của anh Bình một đồng hồ và bán cho người đi đường được 2 triệu
đồng. Ở đây, Hùng đã có hành vi xâm phạm đến tài sản của anh Bình theo quy định tại
khoản 1 Điều 589 BLDS 2015. Căn cứ vào khoản 1 Điều 584 BLDS 2015, Hùng phải bồi
thường cho anh Bình về trị giá chiếc đồng hồ trên. Mặt khác, Hùng chỉ mới 16 tuổi và
không có bất kỳ tài sản nào để bồi thường nên cha mẹ Hùng sẽ phải bồi thường thiệt hại
thay cho Hùng theo quy định tại khoản 2 Điều 586 BLDS 2015.
Xe đạp điện mà Hùng lấy được của anh Bình đang được gửi ở nhà bạn. Đó là tài
sản chưa bị mất đi hoặc bị hủy hoại nên vẫn có thể lấy về được. Tuy nhiên, nếu chiếc xe
bị làm cho hư hỏng khiến giá trị bị giảm sút thì ba mẹ Hùng phải thay Hùng bồi thường
phần thiệt hại bị giảm sút đó.

1.4. Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7
triệu đồng mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương
tự.
Nộp ngân sách nhà nước và bồi thường thiệt hại là khác nhau. Bồi thường là 1
khoản tiền mà bên gây thiệt hại phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Còn nộp ngân sách
nhà nước là việc 1 chủ thể giao 1 khoản tiền cho 1 chủ thể khác là nhà nước. BLDS 2015
chỉ đề cập đến trách nhiệm bồi thường của cha mẹ khi con chưa thành niên gây thiệt hại
chứ không đề cập đến việc cha mẹ phải nộp khoản tiền đó cho nhà nước.

Hướng giải quyết thực tiễn có theo nhiều quan điểm khác nhau:

Ví dụ 1: Bản án số 21/2019/HS-ST ngày 05/04/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với nội dung tóm tắt như sau: Ngày 06/8/2018,
A T đi bộ từ nhà mình đến các đường trên địa bàn thành phố Kon Tum và trộm cắp một
chiếc xe máy của ông M2. Sau đó, A T đã lắp một biển số khác vào xe mới trộm và bán
cho A H với giá 4 triệu đồng. Trong bản án trên, đoạn quyết định có ghi:

"... [11]Về biện pháp tư pháp: Đối với số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) bị cáo
A T có được do phạm tội mà có nên buộc bị cáo A T phải nộp số tiền 4.000.000đ (Bốn
triệu đồng) vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên bị cáo A T dưới 18 tuổi, không có tài sản
riêng, bà Y T3 là người đại diện hợp pháp của bị cáo đồng ý nhận nộp thay. Vì vậy bà Y
T3 có nghĩa vụ nộp thay cho bị cáo số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) vào ngân sách
nhà nước là có căn cứ.
[12] Về trách nhiệm dân sự: Ông M2 đã được nhận lại chiếc xe, những người
tham gia tố tụng khác không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự. Do đó, Hội đồng xét
xử không xem xét về mặt trách nhiệm dân sự. Tại phiên tòa,bị cáo A M không yêu cầu bị
cáo A T trả lại cho mình số tiền 4.000.000đ nên Hội đồng không xem xét." Theo em, ứng
xử lý trên theo em là không thuyết phục.

1.5. Tòa án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử.
Tòa án không thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình. Căn cứ
vào quy định tại Khoản 2 điều 586 BLDS 2015 quy định: "...Người từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu
không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản
của mình." Do đó, chỉ khi nào anh Hùng không có tài sản để bồi thường hoặc có tài sản
nhưng không đủ để bồi thường thì lúc đó cha mẹ anh Hùng mới phải bồi thường phần còn
thiếu. Có nghĩa rằng, người có hành vi vi phạm sẽ bồi thường trước, nếu không đủ thì
mới phát sinh trách nhiệm liên đới bồi thường của người có liên quan (cha mẹ anh Hùng)
chứ không đồng thời phát sinh trách nhiệm bồi thường của cả hai bên là anh Hùng và cha
mẹ anh Hùng.

Tiền lệ: Quyết định số 24/2006/HSGĐT ngày 1/8/2006 Hội Đồng Thẩm Phán
TANDTC liên quan đến Trung Duy Cường và Nguyễn Thanh Phương, tòa án sơ thẩm và
phúc thẩm đều buộc bị cáo cùng cha mẹ bồi thường nhưng theo tòa tối cao là không
chính xác.

1.6. Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn có ảnh hưởng gì tới việc xác định người phải
chịu trách nhiệm bồi thường không? Cuối cùng, Tòa án đã buộc ai phải chịu bồi
thường thiệt hại.

Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn không ảnh hưởng đến việc xác định người phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra. Cụ thể, mặc dù ông Thụ
và bà Thêm đã ly hôn nhưng việc ly hôn của vợ chồng không làm chấm dứt nghĩa vụ của
cha, mẹ đối với con chung; do đó, cả hai người có nghĩa vụ chung là bồi thường thiệt hại
do cháu Hậu (dưới 16 tuổi) gây ra. (đoạn 2 khoản 2 Điều 586 BLDS 2015, khoản 5 Điều
37 Luật HN&GĐ)

Vào thời điểm gây thiệt hại, cháu Hậu chưa đủ 16 tuổi và không có tài sản riêng.
Căn cứ vào đoạn 2 khoản 2 Điều 586 BLDS 2015, Tòa án đã buộc cả ông Thụ và bà
Thêm bồi thường thiệt hại do cháu Hậu gây ra, mỗi người sẽ phải chịu ½ mức bồi
thường.
1.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (dưới góc độ văn
bản cũng như so sánh pháp luật)

Hướng giải quyết trên của Tòa án là phù hợp, bởi lẽ:

Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật HN&GĐ, con sinh không phụ
thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha
mẹ của mình được quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
Như vậy, khi con con chưa thành niên gây ra thiệt hại và không có tài sản riêng thì cha,
mẹ của đứa trẻ sẽ có trách nhiệm bồi thường mà không phân biệt họ đã ly hôn hay chưa.

Quy định này của pháp luật Việt Nam có điểm tương đồng với hầu hết các nước
khác trên thế giới. Vì dụ, theo Bộ luật dân sự California quy định, bất kỳ hành vi trái
pháp luật do con chưa thành niên gây ra mà dẫn đến thiệt hại về sức khỏe, tính mạng
hoặc tài sản thì cha, mẹ hoặc người giám hộ sẽ có trách nhiệm bồi thường. Ngoài ra, pháp
luật California cũng quy định, cha, mẹ có phải thực hiện nghĩa vụ đối với con chung cho
đến khi con đủ 18 tuổi.
VẤN ĐỀ 02
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI LÀM CÔNG GÂY RA

Tóm tắt Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009 Của Tòa án nhân


dân tỉnh Bình Định

Cao Chí Hùng là người lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long
(bị cáo) có giấy phép lái xe hợp lệ, điều khiển xe ô tô khách tham gia giao thông ở
đoạn đường có vạch sơn liền nét nhưng điều khiển xe ô tô lấn qua phần đường bên
trái, va chạm với xe mô tô đi ngược chiều gây tai nạn làm chết anh Trần Ngọc Hải
(chị Nguyễn Thị Thu Thủy vợ anh Hải là người đại diện hợp pháp của bị hại).
Trong đơn kháng cáo Công ty TNHH vận tải Hoàng Long (bị đơn dân sự) không
chấp nhận bồi thường cho bị hại; người bị hại yêu cầu tăng mức phạt đối với bị cáo
và không đồng ý nhận tiền trợ cấp hàng tháng; bị cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.

Quyết định của Tòa phúc thẩm là chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo;
không chấp nhận yêu cầu không bồi thường của bị đơn dân sự, buộc Công ty
Hoàng Long phải bồi thường cho bị hại là 20.500.000đ ngoài số tiền 40.000.000đ
đã bồi thường trước; không chấp yêu cầu nhận cấp dưỡng một lần của bị hại.
2.1. Vì sao đã có quy định của Điều 584 mà BLDS còn thêm quy định của Điều
600?

Về nguyên tắc chung, người nào gây ra thiệt hại thì người đó phải tự mình bồi
thường thiệt hại và nguyên tắc này thể hiện ở khoản 1 Điều 584 BLDS 2015, theo đó:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường,
trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Ngoài nguyên tắc chung chung, BLDS 2015 còn có một số chế định đặc thù theo
đó người bồi thường không phải là người trực tiếp gây ra thiệt hại và một trong những
chế định đặc thù này là “bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra”. Cụ thể, theo
điều 600 BLDS 2015: “Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm
công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu
cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một
khoản tiền theo quy định của pháp luật.”
2.2. Đoạn nào trong bản án cho thấy Toà án đã áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra?

Đoạn cho thất Toà án đã áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do người
làm công gây ra nằm ở phần xét thấy: “… Bị cáo là người lái xe thuê cho Công ty TNHH
vận tại Hoàng Long, nên theo quy định tại Điều 622 và Điều 623 của Bộ luật dân sự thì
Công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Tri
Hùng gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu Cao Chi Hùng
là người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của
pháp luật…”
2.3. Trên cơ sở Điều 600, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra.

Điều 600. Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra

“Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm
công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật.”

Điều kiện áp dụng Điều 600 BLDS 2015:

Người gây ra thiệt hại là “người làm công”: BLDS không định nghĩa thuật ngữ
này. Nhìn chung, người làm công là người làm công việc cho người khác và nhận tiền
công, thù lao từ nhiệm vụ, công việc làm cho người khác nhưng không phải vì vậy mà cứ
làm công việc cho người khác thì được coi là làm công. Chúng ta chỉ nên xe xét sự tồn tại
của quan hệ “người làm công” khi một người thực hiện công việc theo “mệnh lệnh”, “chỉ
dẫn” của người khác; chính quan hệ “chỉ dẫn”, “mệnh lệnh” hay “chỉ dẫn” này cho phép
sự tồn tại hay không tồn tại quan hệ người làm công. Ngoài ra, quan hệ làm công không
nhất thiết phải gắn liền với quan hệ hợp đồng lao động.

Phải có thiệt hại: Tất cả các chế định bồi thường thiệt hại ngoiaf hợp đồng đều có
một điều kiện chung là phải có thiệt hại. Chế định bồi thường thiệt hại do người làm công
gây ra cũng không loại trừ “thiệt hại”.

Thiệt hại phải do người làm công gây ra “trong khi thực hiện công việc được
giao”. Điều này có nghĩa là nếu người làm công gây ra thiệt hại khi không “thực hiện
công việc được giao” thì phải tự mình chịu trách nhiệm bồi thường về thiệt hại mà mình
đã gây ra theo Điều 584 BLDS 2015.

Hành vi gây thiệt hại đủ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người
làm công: văn bản chỉ yêu cầu có hành vi gây thiệt hại của người làm công và không
nhất thiết hành vi gây thiệt hại này có trái pháp luật không; không nhất thiết là người gây
thiệt hại có lỗi hay không. Tuy nhiên, khi bản thân hành vi của người gây thiệt hại (người
làm công) không phát sinh nghĩa vụ bồi thường đối với người gây ra thiệt hại thì không
áp dụng chế định này, nếu không sẽ có một hệ quả pháp lý bất hợp lý. Như vậy, để phát
sinh trách nhiệm bồi thường của người làm công, trước hết phải hội tụ đủ các căn cứ làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường theo Điều 584 BLDS 2015.
Không cần lối của người sử dụng của người sử dụng người làm công: điều luật
này không cho phép loại trừ trách nhiệm của người sử dụng lao động (người làm công)
dù người này có lỗi hay không.
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là
Điều 600 BLDS 2015) để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường (đánh giá từng điều
kiện nêu ở câu hỏi trên đối với vụ việc được bình luận).

Việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005( nay à Điều 600 BLDS 2015) để
buộc công ty Hoàng Long bồi thường là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì Tòa án đã dựa vào
những điều kiện được quy định ở Điều 622 BLDS 2005 (Điều 600 BLDS 2015) để áp
dụng buộc công ty Hoàng Long bồi thường cụ thể như sau:

Thứ nhất, người bồi thường thiệt hại là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác
phải bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra, vì vậy Công ty Hoàng Long là chủ
thể phải bồi thường thiệt hại do ông Cao Chí Hùng gây ra.

Thứ hai, người gây thiệt hại phải là người làm công: ông Hùng là người lái xe thuê
cho công ty TNHH vận tải Hoàng Long.

Thứ ba, Phát sinh “trong khi người làm công thực hiện công việc được giao”, ông
Hùng gây ra thiệt hại về tính mạng của ông Hải khi đang thực hiện ông việc do công ty
Hoàng Long giao là điều khiển xe ô tô khách BKS 16L- 3411của công ty TNHH vận tải
Hoàng Long chở khách đi từ Hải Phòng đến TP Hồ Chí Minh.

Thứ tư, phải có thiệt hại xảy ra: thiệt hại ở đây là mạng người làm cho anh Trần
Ngọc Hải chết gây tại chỗ.

Thứ năm, ông Hùng đã điều khiển xe ô tô khách tham gia giao thông ở đoạn
đường có vạch sơn liền nét nhưng điều khiển xe ô tô lấn sang làn đường bên trái, dẫn đến
va chạm với xe mô tô đi ngược chiều gây ra tai nạn là một người chết. Do đó ông Hùng
có lỗi trong việc gây ra thiệt hại.
2.5. Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông
Hùng thì ông Hùng có phải bồi thường không? Vì sao?

Nếu ông Hùng không làm việc cho công ty Hoàng Long và xe là xe của ông Hùng
thì ông Hùng vẫn phải bổi thường. Ông Hùng với lỗi vô ý đã gây ra cái chết cho anh Hải.
Vì vậy ông Hùng phải bồi thường theo Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 “Người nào có
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp
Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
2.6. Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Tòa án, ông Hùng không phải thực
hiện nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại?

Bản án cho thấy Tòa án không buộc ông Hùng phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường
cho người bị thiệt hại ở đoạn: “Bị cáo là người lái xe cho công ty TNHH vận tải Hoàng
Long nên theo quy định tại Điều 622 và Điều 623 của Bộ luật dân sự thì Công ty TNHH
vận tải Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí Hùng gây ra
trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu Cao Chí Hùng hoàn trả
theo quy định của pháp luật.”
2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
trách nhiệm của ông Hùng đối với người bị thiệt hại.

Tòa án đã áp dụng Điều 622 BLDS 2005 quy định về bồi thường thiệt hại do
người làm công, người học nghề gây ra: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải
bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thwujc hiện
công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong
việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.

Cụ thể trong bản án trên, ông Hùng chỉ là người làm công cho công ty Hoàng
Long và công ty Hoàng Long là người sử dụng người làm công (ông Hùng) nên phải chịu
trách nhiệm bồi thường dù công ty không có lỗi, không có hành vi trái pháp luật. Về
nguyên tắc, anh Hùng điều khiển xe để chở khách là đang thực hiện công việc vì lợi ích
của công ty, đang nhân danh công ty nên công ty phải chịu trách nhiệm về hành vi của
người này. Như vậy việc Tòa án giải quyết theo hướng ông Hùng không phải chịu trách
nhiệm bồi thường cho gia đình nạn nhân, thay vào đó là Công ty Hoàng Long có trách
nhiệm bồi thường là hợp lý theo Điều 622 BLDS 2005. Mặt khác, thiệt hại xảy ra là do
lỗi của ông Hùng (do ông Hùng điều khiển xe ô tô lấn sang phần đường bên trái, va chạm
với xe mô tô đi ngược chiều gây ra tai nạn). Như vậy việc Tòa án cho rằng sau khi bồi
thường cho người bị thiệt hại, Công ty Hoàng Long có quyền yêu cầu ông Hùng hoàn trả
một khoản tiền nhất định là đúng với quy định của Điều 622 BLDS 2005.
2.8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu
trực tiếp ông Hùng bồi thường.

Khả năng người thiệt hại được yêu cầu trực tiếp ông Hùng bồi thường là hoàn toàn
có thể xảy ra.

Thứ nhất, dựa trên tài liệu chuyên khảo mà nhóm thảo luận tìm hiểu, khi câu hỏi
đặt ra vấn đề: Ngoài việc có thể yêu cầu trực tiếp người sử dụng người làm công bồi
thường, người thiệt hại có quyền yêu cầu trực tiếp người gây thiệt hại (tức người làm
công) bồi thường thiệt hại không? Nếu chúng ta trả lời là “không” thì người bị thiệt hại
không được bảo vệ nhất là khi chủ thể sử dụng người làm công lâm vào tình trạng phá
sản hay không còn khả năng tài chính để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Hơn nữa
trong trường hợp này chúng ta ủng hộ sự “vô trách nhiệm” với người làm công vì, khi họ
biết không phải bồi thường, họ sẽ làm liều, thiếu thận trọng trong khi thực hiện công việc
được giao.

Thứ hai, về nguyên tắc, trong các trường hợp việc bồi thường thiệt hại vẫn dựa
trên các điều kiện chung làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
và trong vụ việc thì hành vi của bị cáo Hùng thoả mãn đầy đủ các căn cứ:

Có thiệt hại xảy ra trên thực tế.

Hành vi gây ra thiệt hại là hành vi trái pháp luật.

Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại và thiệt hại
trên thực tế.

Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 quy định “Người nào có hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật
này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Vậy thì người nào có hành vi xâm phạm tính mạng của người khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường, nên người bị thiệt hại trực tiếp yêu cầu bồi thường người gây
thiệt hại (ông Hùng) là có thể.

Thứ ba, về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, khi giải quyết tranh chấp về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải thực hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại
quy định tại Điều 585 BLDS 2015, mà ở đây nhóm xét đến nguyên tắc thứ nhất: Thiệt hại
thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời (Khoản 1 Điều 585 BLDS 2015), Toà án
phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định.
Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời
theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, chẳng
hạn có thể yêu cầu bồi thường trước khoản tiền viện phí hay chi phí ma chay. Do vậy,
trong trường hợp, pháp nhân hoặc cơ sở có người làm công, học nghề gây thiệt hại,
nhưng cần xác minh chính xác người làm công, học nghề đó có gây thiệt hại trong quá
trình làm việc, học nghề được chủ cơ sở giao phó hay không và người này có lỗi có sai
với thông lệ của công ty hay không. Nên trong quá trình đó, pháp nhân hoặc chủ cơ sở
không chấp nhận việc bồi thường thì trong trường hợp này bên bị thiệt hại có quyền yêu
cầu người gây thiệt hại bồi thường kịp thời khi sự cố xảy ra.
2.9. Lỗi của người làm công trong Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) cần được hiểu như thế nào? Vì sao?

Trong Điều 622 BLDS 2015 không quy định rõ ràng về yếu tố lỗi của người làm
công. Người sử dụng người làm công (người bồi thường) “có quyền yêu cầu người làm
công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật”.

Có lẽ, lỗi sẽ được hiểu theo 3 hướng sau:

Thứ nhất, lỗi của người làm công đối với người bị thiệt hại (lỗi theo hướng này đã
được phân tích khá rõ ở câu 7).

Thứ hai, lỗi của người làm công đối với người sử dụng người làm công. Đó là
trường hợp người làm công có lỗi với người sử dụng người làm công (có thể là không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng yêu cầu của người sử dụng người làm công và gây
ra thiệt hại).

Thứ ba, có thể là lỗi tổng hợp. Tức là lỗi của người làm công có cả lỗi của người
bị thiệt hại và người sử dụng người làm công. Ta thấy, theo tinh thần của điều 622 và
theo hướng có lỗi của người làm công mà ta đã phân tích, người sử dụng người làm công
có quyền yêu cầu người làm công hoàn trả một khoản tiền thì người sử dụng người làm
công là người bồi thường cho bên bị thiệt hại.
2.10. Theo Tòa án, ông Hùng có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600
BLDS 2015) không? Vì sao?

Theo Tòa án, ông Hùng có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015). Theo đó ông Hùng đang chạy xe theo hợp đồng với công ty TNHH vận tải Hoàng
Long thì gây ra tai nạn làm chết người, nên được xác định đây thuộc lỗi của người làm
công theo quy định của Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015).

Cụ thể trong đoạn Xét thấy: “Bị cáo là người lái xe thuê cho công ty TNHH vận
tải Hoàng Long, nên theo quy định tại Điều 622,623 BLDS thì công ty TNHH vận tải
Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí Hùng gây ra trong khi
thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu Cao Chí Hùng là người có lỗi trong
việc gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền theo quy định của pháp luật.”
2.11. Theo Tòa án, Công ty Hoàng Long có được yêu cầu ông Hùng hoàn trả
một khoản tiền đã bồi thường cho người bị hại không? Đoạn nào của bản án cho câu
trả lời.

Theo Tòa án, công ty Hoàng Long được yêu cầu ông Hùng hoàn trả mộtkhoản tiền
đã bồi thường cho người bị hại.

Theo Bản án số 285/2009/HSPTcó đoạn Xét thấy: “Bị cáo là người lái xe thuê
của công ty TNHH vận tải Hoàng Long, nên theo quy định tại Điều 622 và Điều 623 của
BLDS thì công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải cótrách nhiệm bồi thường thiệt hại do
Cao Chí Hùng gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu Cao
Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiềntheo
quy định của pháp luật.
2.12. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
trách nhiệm hoàn trả của ông Hùng.

Hướng giải quyết của Tóa án liên quan đến trách nhiệm hoàn trả của ông Hùng là
hợp lí vì:

Tòa án đã xác định người có lỗi gây ra thiệt hại là ông Hùng, mà ông Hùng là
người làm công cho công ty Hoàng Long nên công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ông Hùng gây ra theo Điều 622 BLDS 2005 ( nay là
Điều 600 BLDS 2015). Theo tinh thần của Điều 622 BLDS 2005 thì cá nhân, pháp nhân
phải bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra khi thực hiện công việc được giao và
có quyền yêu cầu người làm công có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản
tiền theo quy định của phápluật. Do đó, trách nhiệm hoàn trả của ông Hùng hoàn toàn là
có căn cứ.
VẤN ĐỀ 03
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT GÂY RA
Tóm tắt Bản án số 23/2017/DS-ST ngày 08/5/2017 của Toà án nhân dân huyện
Đầm Dơi tỉnh Cà Mau.

Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Nga

Bị đơn: ông Lê Phong Nhã

Ngày 05/1/2014 âm lịch, 5 con heo nhà bà Nga đi ăn dưới gầm cầu kênh Thầy Bảy
thì bị chó nhà ông Nhã cắn chết 1 con. Bà Nga yêu cầu ông Nhã phải bồi thường cho bà
1.000.000 đồng tương đương với giá trị của một con heo. Sau khi xem xét thấy cả 2 bên
đều có lỗi, Tòa án quyết định buộc ông Nhã có nghĩa phải bồi thường thiệt hại cho bà
Nga trị giá ½ con heo bằng 500.000 đồng.

Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nga. Căn cứ vào mức
độ lỗi của mỗi bên để buộc ông Nhã có nghĩa vụ bồi thường cho bà Nga trị giá ½ con heo
con bằng 500.000 đồng.
3.1. Quy định nào của BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật”?

Điều 603 BLDS 2015 về Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra sử dụng thuật ngữ
“súc vật”.
3.2. BLDS có định nghĩa “súc vật” là gì không?

BLDS không định nghĩa “súc vật” là gì.


3.3. Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu như thế nào?

Trong thực tiễn xét xử, “súc vật” được hiểu khá “mở”:

Trong vụ việc đã từng xảy ra, đối với tai nạn có sự hiện diện của bò, Tòa án đã áp
dụng Điều 603 BLDS 2015 để giải quyết. Như vậy, thực tiễn xét xử đã theo hướng bò là
một loại “súc vật”. Theo đó, khi bò là súc vật thì trâu cũng được xem là súc vật. Đây
cũng là hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang trong bản án số
306/2007/DSPT ngày 18/10/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

Ngoài trâu bò, chó cũng được coi là một loại súc vật như trong bản án
173/2008/DSPT ngày 06/6/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

Về khái niệm súc vật, trong môt bản án của Tòa án tỉnh Vĩnh Long đã vận dụng
các quy định bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra theo Điều 625 BLDS 2005 đối với tai
nạn do ngỗng gây ra. Theo Hội đồng xét xử thì “Ngỗng cũng là một loại súc vật và, khi
ngỗng là một loại súc vật thì không có lí do gì mà không coi ngan, vịt, chim bồ câu, gà là
súc vật để quy trách nhiệm của chủ sở hữu”

Từ những thực tiễn xét xử trên, có thể thấy khái niệm súc vật được hiểu theo nghĩa
khá mở do luật không có quy định cụ thể về vấn đề này.
3.4. Đoạn nào của bản án cho thấy thiệt hại là do chó gây ra?

“Vào khoảng 16 giờ ngày 05/01/2014 âl, 05 con heo con mỗi con khoảng 12kg
của bà đi ăn dưới gầm cầu kênh Thầy Bảy thì bị con chó của ông Nhã cắn chết 01 con.
Sau khi heo bị thương bà có báo chính quyền địa phương lập biên bản nhưng ông Nhã
không đến nên không lập được biên bản. Bà có đem con heo qua nhà ông Nhã yêu cầu
bồi thường nhưng ông Nhã cho rằng heo của bà qua phần đất của ông Nhã thì bị chó cắn
chết bỏ. Khi heo chết, bà mang cho con trăn của ông Chung Hoàng Việt ăn.”

“Khoảng 16 giờ chiều ngày mùng 06 tết năm 2014 nhà ông đang cúng tắc, heo
con của bà Nga đi qua phần đất ngay cột điện trên đất của ông thì bị chó của ông cắn.”

“Hội đồng xét xử thấy rằng vào ngày 06/01/2014 05 con heo con của bà Nga đi
ăn trên đất của ông Nhã thì bị chó của ông Nhã cắn bị thương 01 con là thực tế có xảy
ra, được các bên đương sự thừa nhận nên thuộc trường hợp những tình tiết, sự kiện
không phải chứng minh theo khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.”
3.5. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do súc vật gây ra?

Đoạn của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi thường thiệt hại
do súc vật gây ra:

“[…] Bà Nga và ông Nhã xác định vật nuôi của hai bên được thả rông theo tập
quán nên xảy ra sự việc chó cắn heo chết. Theo điều 625 Bộ luật dân sự 2005 quy định
“1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác, nếu
người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc làm chủ súc vật gây thiệt hại cho mình thì
chủ sở hữu không phải bồi thường”, “ 4. Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập
quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” […]”

“[…] do lỗi quản lý của ông Nhã nên chó nuôi của ông Nhã cắn chết heo nuôi
của bà Nga. Đối với bà Nga cũng là người sở hữu vật nuôi trong nhà là heo con nhưng
cũng không quản lý đúng quy định, để heo chạy qua đất nhà ông Nhã […]”

“[…] Mỗi bên phải chịu 50% mức độ lỗi […]”

Căn cứ vào Điều 625 BLDS 2005 thấy rằng ông Nhã là chủ sở hữu súc vâ ̣t (nuôi
chó), vâ ̣t nuôi trong nhà nhưng do lỗi quản lý của ông Nhã nên chó nuôi của ông Nhã cắn
chết heo nuôi của bà Nga. Đối với bà Nga cũng là người sở hữu vâ ̣t nuôi trong nhà là heo
con nhưng cũng không quản lí đúng quy định, để heo con chạy qua đất của ông Nhã, hâ ̣u
quả làm chó của ông Nhã cắn chết heo của bà Nga, làm cho bà Nga bị thiê ̣t hại 01 con
heo trị giá 1.000.000 đồng. Như vâ ̣y, trong trường hợp trên cả bà Nga và ông Nhã đều có
lỗi ngang nhau trong viê ̣c quản lý vâ ̣t nuôi của mình, đã gây thiê ̣t hại cho bà Nga nên mỗi
bên phải chịu 50% mức đô ̣ lỗi là đúng quy định của pháp luâ ̣t.
3.6. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra?

Tòa án đã áp dụng khoản 1 và khoản 4 Điều 625 BLDS năm 2005 làm căn cứ
pháp lý nhằm xác đinh mức độ lỗi của hai bên là hợp lý. Tòa án đã vận dụng các quy định
do súc vật gây ra quy định ở Khoản 1 Điều 625 BLDS 2005 để xác định phần lỗi của ông
Nhã “Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác”, là
chủ sở hữu của chó và người sở hữu đàn heo là bà Nga cũng có lỗi, do đó mỗi bên đều
phải chịu trách nhiệm 50% mức độ lỗi. Đồng thời, Tòa án xác định ở đây trường hợp
nguyên đơn và bị đơn xác định vật nuôi của hai bên được thả rông theo tập quán nên áp
dụng quy định tại Khoản 4 Điều 625 BLDS 2005 là đúng theo thực tế xảy ra và đúng quy
định của pháp luật.
3.7. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về lỗi của người bị
thiệt hại.

Theo BLDS 2015, những điểm mới về lỗi của người bị thiệt hại so với BLDS
2005 gồm có:

Thứ nhất, Loại bỏ yếu tố “Lỗi”: Nếu như trong BLDS 2005, yếu tố lỗi (kể cả lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý) được sử dụng như là căn cứ đầu tiên để xác định TNBTTH ngoài hợp
đồng thì trong BLDS 2015, căn cứ xác định TNBTTH đầu tiên lại là hành vi xâm phạm
của người gây thiệt hại. Thay đổi này được hiểu là BLDS 2015 đã quy định theo hướng
người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt hại nữa, họ chỉ cần
xác định được hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại là đã có thể yêu cầu bồi thường
(Trách nhiệm chứng minh lỗi giờ đây sẽ thuộc về người gây thiệt hại trong trường hợp
muốn được miễn trách nhiệm BTTH (Khoản 2 Điều 585 BLDS 2015) hoặc được giảm
mức bồi thường (Khoản 2, 4 Điều 586 BLDS 2015).

Thứ hai, bổ sung căn cứ “tài sản gây thiệt hại”. BLDS 2015 đã bổ sung thêm căn
cứ phát sinh trách nhiệm BTTH là “tài sản gây thiệt hại”. Cụ thể, theo Khoản 3 Điều 584
BLDS 2015: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do tài sản của mình gây ra.” Đây là một sự bổ sung hoàn toàn hợp lý bởi trên
thực tế, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng có thể phát sinh khi có sự kiện tài sản
gây ra thiệt hại.

Thứ ba, bao quát định nghĩa về chủ thể được bồi thường. Khi xác định chủ thể
được BTTH, BLDS 2015 đã quy định theo hướng khái quát hơn, không còn chia ra
trường hợp cá nhân và pháp nhân hoặc chủ thể khác như BLDS 2005 nữa. Khoản 1 Điều
584 BLDS 2015 chỉ quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường”. “Người khác” ở đây có thể được hiểu theo nghĩa rộng, bao
gồm cả cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác và như vậy đã bao hàm được tất cả các loại
chủ thể được BTTH như quy định tại BLDS 2005 trước đây.

Thứ tư, mở rộng chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường BLDS 2005 quy định người
nào thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách
nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, BLDS 2015 lại quy định thêm trường hợp ngoại lệ, đó là
“trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Đây là một quy định
rất phù hợp, bởi vì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là
được đặt ra cho chính chủ thể có hành vi gây thiệt hại, nhưng có khi lại là người khác.
3.8. Suy nghĩ của anh chị về viê ̣c Tòa án xác định bà Nga có lỗi trong viê ̣c lợn
nhà bà Nga bị xâm hại?

Viê ̣c Tòa án xác định bà Nga có lỗi trong viê ̣c lợn nhà bà Nga bị xâm hại là hoàn
toàn hợp lí. Tuy heo nhà bà Nga bị chó của ông Nhã cắn chết nhưng bà Nga có lỗi trong
viê ̣c quản lí vâ ̣t nuôi khiến heo của bà đi ăn trên đất của ông Nhã dẫn đến viê ̣c chó của
ông Nhã cắn chết heo của bà nên bà phải chịu 50% thiê ̣t hại.
3.9. Viê ̣c Tòa án không buộc ông Nhã bồi thường toàn bộ thiê ̣t hại cho bà Nga
có thuyết phục không? Vì sao?

Viê ̣c Tòa án không buô ̣c ông Nhã bồi thường toàn bô ̣ thiê ̣t hại cho bà Nga thuyết
phục. Vì ông Hải có lỗi trong viê ̣c quản lý chó khiến chó của mình cắn chết heo của bà
Nga nên phải bồi thường thiê ̣t hại theo quy định tại khoản 4 Điều 603 BLDS 2015: “4.
Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó
phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.” Tuy
nhiên đây là trường hợp người bị thiê ̣t hại cũng có lỗi nên Tòa án căn cứ khoản 4 Điều
585 BLDS 2015: “4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được
bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.” để yêu cầu ông Nhã bồi thường 50%
thiê ̣t hại là thuyết phục.

You might also like