You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

TP.HCM

Luật Hôn nhân và Gia đình


Họ và tên Mssv
Quách Phú Thành 1853401020237
Nguyễn Thị Thảo Nguyên 1853401020180
Nguyễn Đình Phước 1853401020207
Trương Vạn Ngọc 1853401020177
Nguyễn Kim Ngân 1853401020163

Buổi thảo luận thứ hai và ba

KHOA:QUẢN TRỊ
Lớp:QUẢN TRỊ LUẬT 43B.1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

Buổi thảo luận thứ hai và thứ ba

Vấn đề: Quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng

I. Trả lời/ phân tích/ làm sáng tỏ các câu hỏi

Câu 1: Vợ khởi kiện chồng yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị chồng xâm hại thì Tòa án có thụ lý giải quyết, cơ sở lý giải? Thực tiễn
việc thực hiện nghĩa vụ và

Vợ có thể khởi kiện yêu cầu chồng bồi thường thiệt hại do danh dự nhân phẩm, uy tín
bị chồng xâm phạm thì Tòa hoàn toàn có điều kiện khởi kiện vì:

Theo Điều 21 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 đã khẳng định giữa vợ chồng phải tôn
trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau. Trong Bộ luật dân sự 2015 cũng có quy
định rõ người gây ra tổn thương về danh dự, nhân phẩm, uy tín người khác phải bồi
thường thiệt hại cho người đó (Điều 592). Điều luật này không hề loại trừ bất kỳ
trường hợp nào, kể cả vợ, chồng đối với nhau. Như vậy vọe hoàn toàn có quyền kiện
chồng yêu cầu bồi thường thirjt hại do danh dưh, nhân phẩm, uy tind bị chồng xâm hại
và Tòa án phải thụ lý nếu việc khởi kiện này đảm bảo đủ điều kiện theo luật định.
Thực tiễn việc thực hiện quyền nhân thân giữa vợ và chồng:
Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì Nhà nước đã đem đến rất nhiều quyền
lợi phù hợp cho các gia đình để bảo đảm lợi ích và sự bảo vệ hợp pháp từ phía Nhà
nước như quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng tôn giáo, quyền đại diện vợ chồng…
Nhưng khi đưa vào thực tế xét xử, khi họ được những quyền này bảo vệ và có thể giải
quyết các tranh chấp thông qua Tòa án thì phần lớn họ dùng phương pháp thương
lượng, giảng hòa giữa các bên. Việc làm này cũng phù hợp với xu hướng chung của
các bên Tòa án mong muốn hướng đến “các bên tự thỏa thuận”. Nhưng trong đời sống
thực tiễn, khi các giao dịch dân sự, quan hệ nhân thân giữa các bên còn nhiều hạn chế,
sự phân tỏ trắng đen giữa các bên vẫn chỉ giải quyết đựa trên tình cảm mà không đặt rõ
nguyên nhân, cốt lõi thì rất nhiều trường hợp các gia đình còn đi vào bế tắc, dẫn đến
đường cùng.
Điển hình như tình trạng bạo lực gia đình xảy ra do không tìm được tiếng nói chung,

Luật Hôn nhân và Gia đình


1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

ngoại tình khi các bên chưa thật sự sẵn sàng đến với tình yêu và một trường hợp hiện
nay rất phổ biến ở các bạn trẻ là sống thử để tìm cảm giác tình yêu.
Thực tế đã từng xảy ra một vụ kiện mà theo đó, người vợ kiện đòi người chồng bồi
thường một đồng vì cho rằng người chồng đã xâm phạm danh dự, nhân phẩm của
mình khi thường xuyên cho rằng người vợ ngoại tình. Trường hợp này, Tòa án đã thụ
lý nhưng kết quả là bác yêu cầu của người vợ do không chứng minh được thiệt hại xảy
ra và hiện nay không còn mệnh giá tiền một đồng nên yêu cầu này không thể thực hiện
được.

Câu 2: Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với các giao dịch do một bên thực
hiện? Ý nghĩa của cơ chế?

- Trách nhiệm liên đới của vợ chồng: Trên cơ sở kế thừa Điều 25 Luật HN&GĐ năm
2000, Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định về trách nhiệm liên đới của vợ,
chồng. Theo đó, vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực
hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình (các nhu cầu về ăn, ở, mặc, học
hành, khám, chữa bệnh – khoản 1 Điều 30).Vợ, chồng cũng phải chịu trách nhiệm liên
đới đối với những giao dịch khác phù hợp với những quy định về đại diện theo quy
định tại các Điều 24, 25 và 26 của Luật HN&GĐ năm 2014. Ngoài ra, Luật đã quy
định cụ thể vấn đề vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ chung về tài
sản của vợ chồng trong Điều 37:

+ Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịutrách nhiệm;

+ Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của giađình;

+ Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

+ Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản
chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

+ Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dânsự thì
cha mẹ phải bồi thường;

+ Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

Luật Hôn nhân và Gia đình


2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

- Ý nghĩa cơ chế: Khi vợ hoặc chồng thực hiện các giao dịch đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của gia đình như những nhu cầu thông thường về ăn, mặc, ở,... nhằm đáp ứng cho cuộc
sống hàng ngày của các thành viên trong gia đình để đảm bảo sự tồn tại, và phát triển
bình thường của gia đình cũng như mỗi thành viên. Mặt khác trong những trường hợp
nhất định nhu cầu thiết yếu của gia đình còn có thể là những nhu cầu cấp bách, tức
thời, cần giải quyết ngay để đảm bảo lợi ích tối đa của mối thành viên cũng như cả gia
đình, những nhu cầu này vừa có tính thiết yếu và vừa cần thiết như việc chữa bệnh cho
con, vợ, chồng , tai nạn giao thông … Bên cạnh đó nhu cầu thiết yếu còn là những nhu
cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu đối với mỗi gia đình. Như vậy trách
nhiệm liên đới của vợ, chồng phát sinh trong trường hợp vợ hoặc chồng thực hiện các
giao dịch đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như ăn, mặc, ở, khám bệnh, chữa
bệnh…

Câu 3: Các hình thức đại diện giữa vợ và chồng? Ý nghĩa của cơ chế đại diện
đương nhiên trong quan hệ vợ chồng?

- Các hình thức đại diện giữa vợ và chồng:

* Đại diện theo pháp luật:

Theo Điều 24 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

“1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được
xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà
theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự
đồng ý của cả hai vợ chồng.

3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia
có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó,
trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phảo tự mình thực hiện quyền
và nghĩa vụ có liên quan.

Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu
cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự,
Luật Hôn nhân và Gia đình
3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lựchành vi dân sự để giải
quyết việc ly hôn”

Như vậy, điều kiện để vợ, chồng đại diện cho nhau được xác định như sau:

+Người vợ hoặc người chồng là người được đại diện khi bị mất năng lực hành vi dân
sự; người chồng hoặc người vợ còn lại là người đại diện có đủ điều kiện làm người
giám hộ.

+ Người vợ hoặc người chồng là người được đại diện bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự, người chồng hoặc người vợ còn lại là người đại diện khi được Toà án chỉ định là
người đại diện theo pháp luật.

* Đại diện theo ủy quyền:

- Khoản 2 điều 24 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định :” Vợ chồng có thể ủy quyền cho
nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật
dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.”

- Đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng chỉ đặt ra khi vợ chồng tham gia vào những
giao dịch bắt buộc phải có sự đồng ý của vợ chồng nhưng một bên không thể trực tiếp
tham gia thì có thể ủy quyền cho người còn lại thực hiện giao dịch đó.

- Với tư cách là người đại diện theo ủy quyền, người vợ hoặc người chồng đó có quyền
thực hiện các giao dịch vì lợi ích của vợ chồng hoặc vì lợi ích của người ủy quyền.

- Việc ủy quyền này phải được xác lập bằng văn bản, trong đó nêu rõ phạm vi đại
diện, những giao dịch được xác lập, thực hiện. Người đại diện chỏ được thực hiện gioa
dịch dân sự trong phạm vi đại diện ghi trong văn bản.

* Đại diện đương nhiên:

- Đối với những giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, vợ, chồng
đương nhiên có quyền đại diện.

VD: - Vợ chồng cùng kinh doanh hoặc bằng văn bản thỏa thuận để một bên đưa tài sản
chung vào kinh doanh: Điều 25, Điều 36 LHNGĐ 2014.

- Vợ chồng đứng tên tài khoản ngân hàng, chứng khoán (đang chiếm hữu động
sản không phải đăng kí): Điều 32 LHNGĐ 2014

Luật Hôn nhân và Gia đình


4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

* Ý nghĩa cơ chế đại diện đương nhiên trong quan hệ vợ chồng:

- Đại diện có ý nghĩa rất lớn trong mọi mặt của đời sống xã hội và trong nhiều mối
quan hệ, trong đó có vấn đề đại diện cho nhau giữa vợ và chồng trong các giao dịch
dân sự và kinh doanh theo Luật HN&GĐ. Quan hệ vợ chồng là một quan hệ đặc biệt
nhưng lại phổ biến trong đời sống xã hội mỗi quốc gia. Gia đình là chính kết quả của
vợ chồng xây dựng nên với những mục đích riêng. đó là xây dựng mối quan hệ bền
vững trong gia đình, giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Vợ và chồng cùng
nhau tạo dựng và thực hiện các chức năng: kinh tế, sinh đẻ và giáo dục con cái và phát
sinh những quan hệ đặc biệt cả về mặt tình cảm, luật pháp và xã hội. Ý chí của vợ
chồng trong nhiều trường hợp là điều kiện có hiệu lực của một số quan hệ pháp luật
nhất định, quyết định của người này đòi hỏi phải có sự thống nhất của người kiavà
ngược lại. Do đó, đại diện giữa vợ và chồng là một vấn đề cần thiết được đặt ra trong
các giao dịch dân sự và kinh doanh, bảo đảm lợi ích của cả hai bên, quyền, lợi ích hợp
pháp của chủ thể thứ ba trong các giao dịch đó.

Câu 4: Căn cứ và nguyên tắc xác định tài sản chung (tài sản pháp định) của vợ
chồng? Phân tích chế độ pháp lý về tài sản chung (tài sản pháp lý) của vợ chồng.

Trả lời:

Căn cứ xác định: trong thời kì hôn nhân theo Điều 33 Luật Hôn nhân gia đình 2014
thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tại ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản
1 Điều 40 Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh
chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”

5
Nguyên tắc xác định: Suy đoán pháp lý.

Luật Hôn nhân và Gia đình


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

*Nguồn tài sản chung:


Tài sản hợp pháp: vợ chồng tạo ra do lao động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi
tức từ tài sản chung, tài sản riêng. Tài sản được thừa kế chung, tặng cho chung.
Quyền sử dụng đất có sau kết hôn.
Thu thập từ tài sản hợp pháp khác, tài sản riêng có thỏa thuận chung (Điều 9
Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31-12-2014).
*Đăng kí quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản chung: Điều 34 Luật Hôn nhân
gia đình 2014, Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31-12-2014).
Tài sản chung đăng kí: quyền sử dụng đất, động sản phải đăng kí, chứng nhận
quyền sở hữu ghi tên hai vợ chồng (trừ có thỏa thuận khác). Giao dịch đối với
tài sản chung mà chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng chỉ ghi tên một bên
thì phải đảm bảo quy định về đại diện.
-Phân tích chế độ pháp lý về tài sản chung (tài sản pháp định) của vợ chồng:
Điều 35 Luật Hôn nhân gia đình 2014, Điều 13 Nghị định 126/2014 ngày 31-
12-2014. Định đoạt tài sản phải có thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng:
+Bất động sản /động sản phải đăng kí quyền.
+Tài sản đang là nguồn thu nhập chủ yếu.

+Yêu cầu tuyên giao dịch vô hiệu nếu vi phạm

Câu 5: Phân tích chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân và nêu quan điểm cá nhân về chế định này trong việc bảo vệ quyền con
người về tài sản.

Chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
“Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ
tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này, nếu không thoả thuận
được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu
thì Toà án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59
của Luật này”. Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng có thể được giải quyết
theo thoả thuận của vợ chồng hoặc thông qua con đường Toà án. Bên cạnh đó, thoả

6
thuận về việc chia tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, có công

Luật Hôn nhân và Gia đình


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

chứng theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của vợ chồng.
Tại Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 06/01/2016 của
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
(1) Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thoả thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong
đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thoả thuận được mà có
yêu cầu thì Toà án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng
theo thoả thuận hay theo luật định, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án xử lý như
sau: Trường hợp không có văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo
thoả thuận hay theo luật định, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án xử lý như sau:
Trường hợp không có văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản
thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Toà án tuyên bố vô
hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thoả thuận để chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn.
Đối với những vấn đề không được vợ chồng thoả thuận hoặc thoả thuận không rõ ràng
hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và
các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn.
(2) Khi giải quyết ly hôn, nếu có yêu cầu tuyên bố thoả thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng bị vô hiệu thì Toà án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của
vợ chồng khi ly hôn.
(3) Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Toà án phải xác định vợ, chồng có
quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba và tham
gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ
có yêu cầu giải quyết thì Toà án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng.
Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu
giải quyết thì Toà án hướng dẫn họ để giải quyết bằng một vụ án khác.
(4) Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của
vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng
có tính đến các yếu tố sau: (i) “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng
về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu

Luật Hôn nhân và Gia đình


7
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà
vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so
với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống
của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng; (ii)
“Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của
vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc
chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu
nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp
nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn; (iii) “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong
sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu
nhập” là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt
động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất,
kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán
cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên
trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều
kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng
mất năng lực hành vi dân sự; (iiii) “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ
của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản
của vợ chồng dẫn đến ly hôn.

Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
Do đó, trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có quyền yêu cầu phân chia tài sản chung
của mình. Vợ, chồng có quyền thỏa thuận phân chia hoặc yêu cầu tòa án phân chia tài
sản chung của họ vào bất cứ lúc nào, họ có quyền yêu cầu phân chia một phần hoặc
toàn bộ tài sản chung, miễn là việc phân chia này không ảnh hưởng nghiêm trọng đến
lợi ích của gia đình; quyền và lợi ích hợp pháp của con đồng thời không nhằm mục
đích trốn tránh các nghĩa vụ về tài sản.
Luật HNGĐ 2014 quy định vợ chồng có quyền tự thỏa thuận với nhau trong việc phân
chia tài sản chung. Nếu vợ chồng thỏa thuận phân chia được, họ phải lập thành văn
bản, có chữ ký của 02 bên. Văn bản này có thể được công chứng theo yêu cầu của vợ

Luật Hôn nhân và Gia đình


8
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

chồng hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp không thỏa thuận được, họ
có quyền yêu cầu Tòa án phân chia. Tòa án sẽ dựa vào các quy định về phân chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn để giải quyết.
Khi vợ, chồng đã chia tài sản chung, hoa lợi, lợi tức phát sinh trên phần tài sản được
chia cũng như trên các loại tài sản riêng khác thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, trừ khi
họ có thỏa thuận khác.
Nhằm đảm bảo quyền lợi của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con đồng thời ngăn
ngừa việc phân chia tài sản chung nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ về tài sản, trong
một số trường hợp, việc phân chia sẽ bị vô hiệu. Cụ thể: (1) khi phân chia tài sản
chung làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp
của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; (2) phân chia tài sản chung
nhằm mục đích trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ: nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản,
nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác
đối với nhà nước; nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật HNGĐ 2014, BLDS
2015 và quy định khác của pháp luật liên quan
Luật pháp thừa nhận quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ,
chồng và dành cho họ có quyền tự thỏa thuận phân chia tài sản chung. Trong thực tế
rất khó kiểm soát việc phân chia của vợ chồng, đặc biệt là xác định các trường hợp
thỏa thuận phân chia để trốn tránh nghĩa vụ riêng về tài sảnc của một bên. Cơ chế giám
sát hiệu quả nhất là từ phía người có quyền, nghĩa vụ liên quan, tuy nhiên thực tế
những người này cũng khó biết khi nào thì vợ, chồng thỏa thuận phân chia tài sản
chung và thỏa thuận phải như thế nào.
Việc vợ chồng thỏa thuận phân chia để trốn tránh các nghĩa vụ về tài sản sẽ không
được thừa nhận như đã nói ở trên. Tài sản đã phân chia phải được khôi phục lại thành
tài sản chung như trước. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quyền lợi của chủ nợ đặc
biệt là chủ nợ riêng sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, vì chúng ta chưa có cơ chế để để kiểm
soát xem vợ, chồng có khôi phục lại tài sản chung hay không. Chẳng hạn, nhằm trốn
khoản nợ riêng của mình, người chồng bàn với vợ chia toàn bộ tài sản chung. Theo

Luật Hôn nhân và Gia đình


9
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

thỏa thuận, toàn bộ tài sản chung giao hết cho người vợ. Văn bản thỏa thuận đã được
công chứng.

Quan điểm cá nhân về chế định này trong việc bảo vệ quyền con người về tài sản là
hợp lý, phù hợp với thực tiễn và đảm bảo quyền của con người về tài sản, Đảm bảo
được công sức đóng góp của mỗi người, hoàn cảnh gia đình, lợi ích chính đáng và lỗi
của mỗi bên… như đã phân tích của Mục (4).

Câu 6: Căn cứ xác định và chế độ pháp lý về tài sản riêng (tài sản pháp định) của
vợ hoặc chồng.

Căn cứ xác định: Điều 43 Luật Hôn nhân gia đình 2014

Chế độ pháp lý về tài sản riêng của vợ hoặc chồng.

Luật Hôn nhân gia đình 2014 đã quy định cụ thể tài sản được hình thành từ tài sản
riêng của vợ hoặc chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng trừ hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng phát sinh trong thời kì hôn nhân là tài sản chung.

Quy định cụ thể nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng như: nghĩa vụ của mỗi bên vợ,
chồng có trước khi kết hôn; nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực
hiện không vì nhu cầu của gia đình; nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật
của vợ chồng,…

Vợ chồng có nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực
hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác.

Câu 7: Quyền định đoạt về tài sản riêng của vợ chồng? Pháp định hạn chế quyền
định đoạt tài sản riêng vợ chồng tại khoản 4 Điều 44 LHNGĐ sửa đổi có trái với
nguyên tắc đảm bảo quyền định đoạt về tài sản của con người? Cơ sở lý giải?

Luật Hôn nhân và gia đình quy định chế độ sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng, theo
đó, tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng, tài sản chung của vợ

10
chồng thì vợ chồng có chung quyền sở hữu còn đối với tài sản riêng của vợ, chồng thì

Luật Hôn nhân và Gia đình


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

do vợ, chồng làm chủ sở hữu và định đoạt tài sản đó. Tuy nhiên pháp luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam cũng đã có quy định nhằm hạn chế quyền tự định đoạt tài sản riêng
của vợ, chồng với mục đích bảo vệ quyền lợi cho một bên vợ, chồng còn lại và đảm
bảo lợi ích chung của gia đình.
Cuộc sống gia đình không tránh khỏi những lúc gặp khó khăn về kinh tế, vợ chồng
không có tài sản chung hoặc tài sản chung của vợ, chồng không đủ để đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của gia đình mà người vợ, chồng có tài sản riêng thì để đảm bảo lợi ích
chung của cả gia đình, vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp phần tài sản riêng theo khả
năng kinh tế của mình để bảo đảm cuộc sống chung của gia đình. Trong đó, nhu cầu
thiết yếu được hiểu là “nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám
bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc
sống của mỗi người, mỗi gia đình” (khoản 20 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình
2014).

Về nguyên tắc, vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của
mình. Mặt khác, họ cũng có thể thỏa thuận về việc sử dụng tài sản riêng của mỗi bên
sao cho có thể khai thác tốt nhất giá trị sử dụng của tài sản. Tuy nhiên, để đảm bảo
cuộc sống chung của gia đình, giữ gìn truyền thóng yêu thương, chăm sóc giữa các
thành viên gia đình thì quyền tự định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng có thể bị hạn
chế. Theo đó, tài sản riêng của vợ chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi,
lợi tức từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản
riêng đó phải được sự đồng ý, thỏa thuận của vợ chồng.
Nhà ở là tài sản riêng của một bên vợ, chồng thì sau khi ly hôn tài sản đó vẫn thuộc sở
hữu riêng và chủ sở hữu là người có toàn quyền định đoạt, chiếm hữu. Xong, để tạo
điều kiện về nơi ở cho bên vợ, chồng không có chỗ ở có thể tìm được chỗ ở trong thời
gian nhất định, pháp luật quy định sau khi ly hôn nếu ngôi nhà là tài sản riêng của vợ,
chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà sau khi ly hôn mà bên chồng hoặc vợ
(không phải chủ sở hữu của ngôi nhà đó) gặp khó khăn về chỗ ở thì có qyền được lưu
cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày chấm dứt hôn nhân.

Theo Điều 44 LHNGD quy định về việc chiếm hữu, định đoạt tài sản riêng của vợ

Luật Hôn nhân và Gia đình


11
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

chồng thì vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình,
nhập hoặc không nhập vào tài sản chung, nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người sẽ
được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không
thể tự mình quản lý tài sản riêng và không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên
kia sẽ có quyền quản lý tài sản đó, nhưng phải đảm bảo được lợi ích của người có tài
sản. Bên cạnh đó, trong trường hợp vợ chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài
sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có
sự đồng ý của vợ chồng.

Pháp định hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ chồng tại khoản 4 Điều 44
LHNGD sửa đổi đã trái với nguyên tắc đảm bảo quyền định đoạt về tài sản của con
người. Bởi vì, theo Điều 192 BLDS 2015 thì quyền định đoạt được hiểu là quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.
Tại Điều 194 của Bộ luật này có quy định các quyền về định đoạt của chủ sở hữu gồm
quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu
hủy, hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật
đối với tài sản. Có thể thấy con người có gần như toàn bộ quyền định đoạt đối với tài
sản của mình, miễn sao không trái với quy định của pháp luật. Tuy nhiên khoản 4 Điều
44 LHNGD lại quy định nếu tài sản riêng của cá nhân vợ hoặc chồng mà hoa lợi, lợi
tức từ tài sản riêng này là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản
phải có sự đồng ý của vợ hoặc chồng. Vậy trong trường hợp này chủ sở hữu sẽ mất
một nửa hay có thể gần như toàn bộ quyền định đoạt tài sản riêng của mình sau khi kết
hôn. Mặc dù đây được xác định là tài sản riêng mà họ có được ở trước hoặc trong thời
kỳ hôn nhân nhưng khác với các trường hợp khác, bởi nếu đối với các trường hợp đó
thì cá nhân vợ hoặc chồng mặc nhiên có quyền định đoạt đối với tài sản riêng của
mình mà không phải thông qua sự đồng ý của bên còn lại. Tuy nhiên trong trường hợp
này vì hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình nên luật
lại quy định quyền định đoạt cần có sự đồng ý của vợ chồng, như vậy là đã không đảm
bảo được toàn quyền định đoạt của chủ sở hữu.

Luật Hôn nhân và Gia đình


12
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

Câu 8: Phân tích quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng. Đánh giá thực tiễn áp
dụng pháp luật với việc đảm bảo quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng hiện
nay.

Quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng là một trong ba nguyên tắc chung quan trọng
trong chế độ tài sản của vợ chồng được luật HNGĐ 2014 quy định cụ thể ở Điều 29:

“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao
động có thu nhập.

2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình.

3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền,
lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.”

Những nguyên tắc này không phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn vì
vậy nên mọi chế độ về tài sản nào được lựa chọn thì cũng phải đảm bảo được quyền
bình đẳng giữa vợ và chồng. Quyền bình đẳng này được đặt ra nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho các bên vợ chồng, đặc biệt là những trường hợp khác biệt quá lớn về
thu nhập giữa hai vợ chồng. Sự khác biệt quá lớn về thu nhập dẫn đến việc lợi dụng sự
phụ thuộc về thu nhập của vợ/chồng mình, xâm phạm về quyền bình đẳng của
vợ/chồng trong hôn nhân. Quy định về quyền bình đẳng của vợ chồng ở K1, DD29
Luật HNGĐ 2014 ghi nhận công lao, các hoạt động đóng góp công sức của vợ chồng
trong việc tạo dựng nên tài sản chung, không phân biệt bên làm kinh tế với bên chăm
sóc gia đình, bảo vệ cho bên thực hiện hoạt động chăm sóc gia đình, không trực tiếp
tạo nên thu nhập . Ngoài ra, quy định này còn tạo nên trách nhiệm của vợ chồng trong
việc hoạt động, chăm lo sản xuất đóng góp vào tài sản chung của gia đình, phát triển
đời sống vợ chồng. Điều này nhằm tôn trọng công sức của các bên trong việc tạo nên
khối tài sản chung của vợ chồng.

Hiện nay, pháp luật đã dần dần chú trọng hơn về việc bảo vệ quyền bình đẳng về tài
sản của vợ chồng, cụ thể ở việc quy định cụ thể các trường hợp vợ hoặc chồng được sở
hữu tài sản riêng. Việc này cũng nói lên quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng sau

Luật Hôn nhân và Gia đình


13
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

khi kết hôn, không ảnh hưởng đến tình trạng hôn nhân và ngăn chặn việc kết hôn
nhắm vào lợi ích kinh tế mà không nhằm xác lập quan hệ vợ chồng. Ngoài ra, quy định
về tài sản riêng cũng có ý nghĩa quan trọng để định đoạt tài sản sau hôn nhân. Cụ thể
là trường hợp những người phụ nữ khi lấy chồng thường xác nhập những tài sản riêng
của mình thành tài sản chung của vợ chồng và ở nhà chăm lo cho gia đình không tạo
nên thu nhập được của riêng mình, đến khi li hôn thì tài sản riêng của người vợ đã bị
xác nhập vào tài sản chung và chia đều cho hai vợ chồng dẫn đến người vợ mất đi
quyền lợi và tài sản của mình. Ngoài ra, nhằm tránh những trường hợp sau khi li hôn
một bên gặp khó khăn, thiếu thốn cần được cấp dưỡng thì Luật HNGĐ Điều 115: “Khi
ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cầu.”. Bên cạnh đó, Luật còn ghi nhận
vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau khi một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố
chết. Quyền này được ghi  nhận tại Điều 676 BLDS 2015 và Điều 66 Luật HNGĐ
2014. Khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, người còn sống sẽ được thừa kế tài sản
của vợ hoặc chồng mình đã chết. Ngoài ra vợ, chồng còn được thừa kế tài sản của
nhau theo di chúc. Việc pháp luật quy định như vậy đã khẳng định quyền bình đẳng
giữa vợ và chồng trong quan hệ thừa kế nói riêng và trong quan hệ tài sản nói chung.
Nhìn chung, việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn trong việc bảo đảm quyền bình đẳng
về tài sản vợ chồng đang ngày càng hoàn thiện hơn.

II. Tình huống

Tình huống 1:

1. Hành vi đơn phương bán xe của ông Khánh ( có trái với quy định về quyền định
đoạt tài sản của vợ chồng quy định tại Điểm b khoản 2 Điều 35 Luật HNGĐ?)

- Điều 33 Luật HNGĐ 2014 về tài sản chung của vợ chồng:

"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản
1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Luật Hôn nhân và Gia đình


14
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
 
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm
nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có
tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung".
 
Điều 35 về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung quy định:

"1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
 
2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng
trong những trường hợp sau đây:
 
a) Bất động sản;
 
b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
 
c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình".
 
Áp dụng các quy định trên, mọi giao dịch liên quan đến các tài sản này đều phải được
sự đồng ý của cả hai ông bà. Trường hợp này nếu muốn bán ô tô cho ông Tuấn, thì cả
ông Khánh và bà Dung có thể lập văn bản thỏa thuận hoặc lập văn bản ủy quyền.
Trông khi đó ông Khánh không hề thỏa thuận với bà Dung và cũng không tồn tại văn
bản thỏa thuận nào, do đó hành vi đơn phương bán xe của ông Khánh là trái với quy
địnhvề quyền định đoạt tài sản của vợ chồng quy định tại điểm b khoản 2 điều 35 Luật
HNGĐ.

Luật Hôn nhân và Gia đình


15
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

2. Lợi tức từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp K- D (thuộc quyền sở hữu của
ông Khánh hay của cả vợ chồng ông Khánh bà Dung)

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 33 Luật HNGĐ 2014 về tài sản chung của vợ chồng:

"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản
1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”

Theo đó, lợi tức thu được từ hoạt động kinh doanh của donah nghiệp K- D thuộc
quyển sở hữu của cả hai vợ chồng ông Khánh và bà Dung.

- Nếu ông Khánh và bà Dung chia tài sản chung để thực hiện việc góp vốn thành lập
doanh nghiệp theo tỷ lệ cụ thể khi đi đăng ký doanh nghiệp, thì tài sản góp vốn đó
thuộc sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng, đồng nghĩa với việc lợi tức thu vào cũng sẽ
được chia theo tỷ lệ đó. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ hoạt động kinh doanh sẽ thuộc
quyền sở hữu riêng của mỗi bên vợ chồng theo tỷ lệ góp vốn.

- Còn nếu, hai vợ chồng không thực hiện chia tài sản chung khi thành lập doanh
nghiệp. Tài sản do hai vợ chồng góp vốn là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Do đó, tài sản cũng như lợi tức phát sinh từ doanh nghiệp sẽ được chia đôi theo pháp
luật.

Tình huống 2:

Luật Hôn nhân và Gia đình


16
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

1.1 Xác định – có lý giải vợ ông Thăng theo quy định của pháp luật?

Do đặc điểm lịch sử của nước ta, Luật HNGĐ 1959 có hiệu lực ngày 13/1/1960 ở miền
Bắc và ngày 25/3/1977 ở miền Nam.

Xét thấy:

 Tháng 11/1952, ông Thăng kết hôn hợp pháp với bà Linh. Đối chiếu với quy
định tại điểm a khoản 3 NQ 35/2000 thì quan hệ vợ chồng của ông Thăng và bà
Linh được xác lập trước 3/1/1987 do đó bà Linh là vợ của ông Thăng.
 Tháng 2.1958, ông Thăng cưới bà Lan. Thời điểm này Luật HNGĐ 1959 chưa
có hiệu lực tức là vẫn chấp nhận chế độ đa thê và đối chiếu với điểm a khoản 3
NQ 35/2000 thì bà Lan và ông Thăng là vợ chồng hợp pháp.
 Năm 1978, ông Thăng đưa bà Ngọt về sống chung như vợ chồng. Thời điểm
này Luật HNGĐ 1959 đã có hiệu lực, theo Điều 5 của luật này thì cấm người
đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác. Do đó, quan hệ giữa ông Thăng
và bà Ngọt không được pháp luật công nhận là vợ chồng vì ông Thăng là người
đang có vợ (bà Linh, bà Lan).
 Tháng 5.1980, ông Thăng chuyển vào miền nam rồi sống chung với bà Dạ
Thảo. Thời điểm này ông Thăng vẫn là người đang có vợ nên theo Điều 5 Luật
HNGĐ thì quan hệ giữa ông Thăng và bà Thảo không được pháp luật công
nhận là vợ chồng.

Như vậy, ông Thăng chỉ có hai người vợ là bà Lan và bà Linh.

1.2. xác định di sản thừa kế của ông Thăng và cho biết đối tượng được hưởng di
sản thừa kế theo tình huống (biết rằng căn nhà 18A trị giá 4 tỷ đồng được quản lý
bởi bà Ngọt, ba Lan).

Xác định di sản thừa kế: Căn nhà số 18A được xây dựng bằng nguồn tiền do bà nội
của ông Thăng cho ông Thăng khi ông cưới bà Ngọt năm 1978. Theo Điều 5 Luật
HNGĐ 1959, ông Thăng và bà Ngọt không được công nhận là vợ chồng và theo Điều
15 Luật HNGĐ 1959 thì không công nhận chế độ tài sản riêng giữa hai vợ chồng. Vì
vậy, nếu bà Ngọt chứng minh được công sức đóng góp của mình đối với căn nhà thì sẽ
được chia một phần tương ứng với công sức đóng góp của bà; phần còn lại sẽ là tài sản

Luật Hôn nhân và Gia đình


17
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

chung của ông Thăng, bà Lan, bà Linh. Theo tình huống trên, căn nhà được xây dựng
hoàn toàn bằng nguồn tiền mà bà nội cho ông Thăng, do đó đây là tài sản chung của
ông Thăng, bà Lan và bà Linh. Như vậy, di sản thừa kế ông Thăng để lại là 1/3 giá trị
căn nhà tương ứng 4/3 tỷ đồng.

Đối tượng được hưởng di sản: Do ông Thăng mất năm 2016 và không để lại di chúc.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 thì di sản này sẽ được chia theo pháp
luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: bà Linh, bà Lan, Thuận,
Hòa, Tiến.

Tình huống 3:

Anh, chị hãy cho biết, Tòa án giải quyết yêu cầu của bà Lê như thể nào cho đúng
pháp luật? (Viện dẫn căn cứ pháp lý khi phân tích).

Từ sự việc trên có thể thấy được bà Hà Lê có 2 yêu cầu:

1) Yêu cầu Tòa án xác định 1.470.000.000 đồng - số tiền có từ hợp đồng
cho thuê nhà 36A (giữa ông Xu và công ty X tính từ sau khi chia tài sân
đến thời điểm giải quyết tranh chấp) là tài sản chung của vợ chồng.
2) Yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Xu vì quyền lợi của bà và con trai là
Tú.

- Về yêu cầu đầu tiên của bà Lê về việc xác định số tiền có từ hợp đồng cho thuê nhà
giữa ông Xu và công ty X thì có thể xác định rằng yêu cầu này là vô căn cứ bởi vì theo
K1, Điều 40 Luật HNGĐ 2014 về hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kì
hôn nhân quy định: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài
sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài
sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.”

Bản án chia tài sản chung của ông Xu và bà Lê có hiệu lực ngày 22/8/2015 thì ngay
sau khi bản án có hiệu lực, ông Xu mới cho công ty X thuê nên lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của ông Xu. Vì vậy cho nên bác bỏ
yêu cầu xác định số tiền cho thuê nhà của ông Xu và công ty X là tài sản chung của vợ
chồng của bà Lê.
Luật Hôn nhân và Gia đình
18
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

- Về yêu cầu thứ hai về việc chia thừa kế của ông Xu thì bà Lê và con trai đẻ đều được
hưởng thừa kế của ông Xu vì ông Xu chết không để lại di chúc cho nên theo K1 Điều
650 BLDS 2015:

“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

a) Không có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp;

c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế;

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

Và theo K1 Điều 651 BLDS 2015: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy
định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha
nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.” Thì bà Lê Hà (vợ) và ông Nguyễn Tú
(con) đều được hưởng phần di sản để lại của ông Nguyễn Xu theo quy định của pháp
luật. Ông Nguyễn Xu và bà Hà Lê vẫn là vợ chồng của nhau bởi vì hai người chỉ chia
tài sản chung của vợ chồng và ly thân. Căn cứ theo Điều 57 Luật HNGĐ: “ Quan hệ
hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp
luật.” nên bà Lê vẫn là vợ hợp pháp của ông Nguyễn Xu và được hưởng phần di sản
được chia của ông Nguyễn Xu. Vì vậy nên chấp nhận yêu cầu của bà Lê về việc chia
di sản của ông Nguyễn Xu.

III. Bản án

Đọc bản án số 98/2016/HNGĐ-PT Ngày 26/7/2016 của TAND cấp cao tại Hà Nội
và trên cơ sở pháp lí anh/chị hãy:
1. Đánh giá phán quyết của Tòa án sơ thẩm ( thể hiện trong bản án Hôn nhân và
Gia đình sơ thẩm số 34/2015/HNGĐ-ST ngày 17/9/2015 của TAND tỉnh Nam
Định) về việc xác định quyền sở hữu tài sản là nhà, đất thửa số 2, tờ bản đồ số
9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam Định.
Luật Hôn nhân và Gia đình
19
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

2. Tòa án phúc thẩm trong bản án số 98/2016/HNGĐ-PT Ngày 26/7/2016 đã đánh


giá, xác điịnh nhà đất thửa số 2, tờ bản đồ 9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ,
xã Lộc An, thành phố Nam Định dựa trên căn cứ nào? Theo anh, chị nhà, đất
được tạo lập trong khoảng thời gian ông Tân, bà Hằng ly thân, do 1 bên đứng
tên và có tranh chấp thì bên nào có nghĩa vụ chứng minh?
3. Trên cơ sở pháp lí , hãy cho biết đường lối của Tòa án khi giải quyết lại theo
thủ tục chung phần tranh chấp tài sản là nhà đất 11A, giả thiệt:
- Thửa đất được nhận chuyển nhượng bằng số tiền 350.000.000 đồng-khoản tài
sản do bà Hằng tự tạo lập khi lao động tại Hàn Quốc và số tiền còn thiếu
(33.000.000 đồng) thì vay em trai là ông Lê Duy Hùng đúng như lời khai của bà
Hằng tại phiên Tòa phúc thẩm trước đó.
- Nhà trên đất được xây dựng với mục đích kinh doanh karaoke, từ nguồn tiền
của vợ chồng ông Tân, bà Hằng là 1.500.000 đồng, có sự góp vốn của ông Tuấn
Anh và ông Hùng là 1.500.000 đồng. Tại thời điểm giải quyết tranh chấp, nhà
định giá 4.000.000 đồng.

Tóm tắt bản án:


Ông Tân và bà Hằng kết hôn năm 1992 và có 2 ngưởi con là Nguyễn Đức Thuận và
Nguyễn Thị Hồng Anh. Năm 2005 ông Tân và bà Hằng ly thân. Bà Hằng yêu cầu Tòa
giải quyết cho ly hôn với ông Tân.
Về tài sản tranh chấp gồm:
- Nhà đất tại 3/35 Phan Đình Giót, phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định. (bà Hằng
đã rút đơn yêu cầu giải quyết.)
- Thửa đất số 2, tờ bản đồ số 9.1 tại số 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố
Nam Định và tài sản trên đất gồm nhà 4 tầng, 1 tum và trang thiết bị phòng hát
Karaoke.
Bà Hằng cho rằng thừa đất tại số 11A là do mình tự lo tiền mua được trong thời kì ly
thân, ông Tân không có đóng góp.
Ông Tân cho rằng thửa đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng, quá trình xây
dựng tài sản trên đất ông Tân có nhờ anh là Nguyễn Đức Kháng trông coi.

Luật Hôn nhân và Gia đình


20
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

Quyết định của Tòa:


Chấp nhận kháng cáo của ông Tân.
Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử lại phần tài sản tranh chấp.
Trả lời câu hỏi:
1. Đánh giá phán quyết của Tòa án sơ thẩm ( thể hiện trong bản án Hôn nhân
và Gia đình sơ thẩm số 34/2015/HNGĐ-ST ngày 17/9/2015 của TAND tỉnh
Nam Định) về việc xác định quyền sở hữu tài sản là nhà, đất thửa số 2, tờ
bản đồ số 9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam
Định.

Phán quyết của Tòa án sơ thẩm về việc xác định quyền sở hữu tài sản là nhà, đất thửa
số 2,tờ bản đồ số 9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An thành phố Nam Định:

Mặc dù năm 2005 ông Tân và bà Hằng đã ly thân và bà Hằng đã chứng minh được số
tiền bà mua nhà là tài sản riêng của bà còn ông Tân thì không chứng minh được nhưng
theo khoản 1 điều 43 Luật HNGĐ 2014:

“Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia
riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục
vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật
thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.”.

Và thửa đất này còn đứng tên của cả hai vợ chồng nên khi ly hôn bà Hằng phải dựa
theo giá trị hiện tại của mảnh đất và chia cho ông Tân nửa giá trị tiền đất

Còn phán quyết của Tòa Sơ Thẩm thì ngay tình nhưng chưa áp dụng chuẩn Luật
HNGĐ 2014.

2. Tòa án phúc thẩm trong bản án số 98/2016/HNGĐ-PT Ngày 26/7/2016 đã


đánh giá, xác điịnh nhà đất thửa số 2, tờ bản đồ 9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn
Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam Định dựa trên căn cứ nào? Theo anh,
chị nhà, đất được tạo lập trong khoảng thời gian ông Tân, bà Hằng ly thân,
do 1 bên đứng tên và có tranh chấp thì bên nào có nghĩa vụ chứng minh?

Luật Hôn nhân và Gia đình


21
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

Tòa án Phúc thẩm trong Bản án số 98/2016/HNGĐ-PT ngày 26/7/2016 đã đánh giá
xác định nhà đất thửa số số 2,tờ bản đồ số 9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc
An thành phố Nam Định dựa trên căn cứ:

- Thửa đất đứng tên của cả hai vợ chồng


- khoản 1 điều 43 Luật HNGĐ 2014 về chế độ tài sản riêng của vợ chồng: “Tài
sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được
chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này;
tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy
định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.”.
- Và khoản 3 Điều 33 Luật HNGĐ 2014 : “Trong trường hợp không có căn cứ để
chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi
bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”.
Nếu nhà đất được tạo lập trong khoản thời gian ông Tân và bà Hằng ly thân mà một
bên đứng tên và có tranh chấp thì :

Bên còn lại có nghĩa vụ chứng minh nếu hợp lý sẽ quy tài sản đó là của chung. Còn
không hợp lý thì tài sản đó vẫn là tài sản riêng của người đứng tên.

3. Trên cơ sở pháp lí , hãy cho biết đường lối của Tòa án khi giải quyết lại
theo thủ tục chung phần tranh chấp tài sản là nhà đất 11A, giả thiệt:
- Thửa đất được nhận chuyển nhượng bằng số tiền 350.000.000 đồng-
khoản tài sản do bà Hằng tự tạo lập khi lao động tại Hàn Quốc và số tiền
còn thiếu (33.000.000 đồng) thì vay em trai là ông Lê Duy Hùng đúng như
lời khai của bà Hằng tại phiên Tòa phúc thẩm trước đó.
- Nhà trên đất được xây dựng với mục đích kinh doanh karaoke, từ nguồn
tiền của vợ chồng ông Tân, bà Hằng là 1.500.000 đồng, có sự góp vốn của
ông Tuấn Anh và ông Hùng là 1.500.000 đồng. Tại thời điểm giải quyết
tranh chấp, nhà định giá 4.000.000 đồng.

Luật Hôn nhân và Gia đình


22
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM

Đường lối Tòa giải quyết:

Trường hợp 1: Thửa đất được chuyển nhượng do tính số tiền của bà Hà thì:

Theo khoản 2 điều 43 Luật HNGĐ 2014:

“Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ,
chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện
theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”

Mà bà Hằng đã tự bằng vào số tiền để chuyển nhượng nhà đất nên Tòa án sẽ tính nhà
đất này là tài sản riêng của bà.

Trường hợp 2: nhà trên đất được xây dựng để kinh doanh từ nguồn tiền của vợ chồng
ông Tân, bà Hằng là 1.500.000 đồng và ông Tuấn Anh, ông Hùng là 1.500.000. Tại
thờii điểm giải quyết tranh chấp nhà định giá 4.000.000 đồng: Thì do khi góp vốn vợ
chồng ông Tân và bà Hằng cùng với ông Tuấn Anh và ông Hùng như nhau đều là
1.500.000 đồng. Nên khi giải quyết tranh chấp thì vợ chồng ông Tân và bà Hằng sẽ
được 2.000.000 đồng. Vì đây là tài sản chung của Vợ chồng thì ông Tân và bà Hằng
đều được nhận 1.000.000 đồng và ông Tuấn Anh và ông Hùng phải có trách nhiệm
trích tiền ra để đưa cho vợ chồng ông Tân và bà Hằng số tiền 2.000.000 đồng.

Luật Hôn nhân và Gia đình


23

You might also like