You are on page 1of 33

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

***

BUỔI THẢO LUẬN THỨ TƯ:


BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
NHÓM 3 – LỚP TMQT43.2

Môn: Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Họ & tên MSSV Lớp


Cổ Tấn Thảo Nguyên 1853801090051 TMQT43.2
Nguyễn Thị Thùy Trang 1853801090083 TMQT43.2

Giảng viên: Th.S Nguyễn Tấn Hoàng Hải


Mai Thị Yến Nhi 1853801090054 TMQT43.2
Đoàn Thị Tố Uyên 1853801090087 TMQT43.2
Nguyễn Đăng Khánh Phương 1853801090063 TMQT43.2
Võ Thanh Tùng 1853801090086 TMQT43.2

TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2019


BUỔI THẢO LUẬN THỨ TƯ:
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ

Họ & tên MSSV Lớp


Cổ Tấn Thảo Nguyên 1853801090051 TMQT43.2
Nguyễn Thị Thùy Trang 1853801090083 TMQT43.2
Mai Thị Yến Nhi 1853801090054 TMQT43.2
Đoàn Thị Tố Uyên 1853801090087 TMQT43.2
Nguyễn Đăng Khánh Phương 1853801090063 TMQT43.2
Võ Thanh Tùng 1853801090086 TMQT43.2

NHÓM 3 – LỚP TMQT43


VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN
SỰ. ................................................................................................................................... 1
1.1. Những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 liên quan đến
tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. .................................... 2
1.2. Đoạn nào của Bản án 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?....................................................................... 3
1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao? .......................................... 3
1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án
chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? ........................................ 4
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lí của Tòa án đối với
việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ. ............................................ 4
- Theo nhóm tôi, hướng giải quyết của Tòa án là hợp tình và đúng lý. .................. 4
1.6. Trên cơ sở so sánh pháp luật, suy nghĩ của anh/chị về khả năng cho phép
dùng giấy tờ liên quan đến tài sản để bảo đảm nghĩa vụ dân sự. ............................ 5
1.7. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất
để cầm cố? ............................................................................................................... 6
1.8. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Nêu cơ sở văn bản khi trả lời? ................................................................................. 6
1.9. Trong Quyết định trên, Toà án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? .......................... 7
1.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án trong Quyết định
số 02. ........................................................................................................................ 7
1.11. Đoạn nào của Bản án số 04 cho thấy người nhận thế chấp quyền sử dụng đất
là cá nhân? ............................................................................................................... 8
1.12. Có quy định nào cho phép cá nhân nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ không? Nếu có, nêu cơ sở văn bản. .................................................. 8
1.13. Đoạn nào của Bản án số 04 cho thấy Toà án không chấp nhận cho cá nhân
nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ? ....................................... 9
1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án............................ 9
VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIA DỊCH BẢO ĐẢM. ...................................................... 10
2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về dăng ký giao dịch bảo đảm.10
2.2. Hợp đồng thế chấp số 03.00148/HĐTC ngày 27/5/2003 trong Quyết định trên
có thuộc trường hợp phải đăng ký không? ............................................................ 10
2.3. Hợp đồng thế chấp đã được đăng ký chưa? Đoạn nào của Quyết dịnh cho câu
trả lời? .................................................................................................................... 10
2.4. Hướng giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm đối với hợp đồng nêu trên. Vì
sao Tòa phúc thẩm lại giải quyết như vậy? ........................................................... 11
2.5. Theo Hội đồng thẩm phán, trong trường hợp biện pháp bảo đảm phải đăng ký
nhưng không được đăng ký thì biện pháp bảo đảm này có giá trị pháp lý đối với
các bên trong giao dịch bảo đảm không? Vì sao? ................................................. 11
2.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao. .................................................................................................... 11
VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC. ............................................................................................... 12
3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp. ..................... 12
3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc. .................................. 14
3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc? .......... 14
3.4. Theo Quyết định được bình luận, khi nào bên nhận cọc (bà Hạnh) bị phạt
cọc? ........................................................................................................................ 15
3.5. Theo Quyết định được bình luận, khi nào bên nhận cọc không bị phạt cọc? 15
3.6. Hệ quả của việc bên nhận cọc không bị phạt cọc? ......................................... 16
3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Toà giám đốc thẩm về xử lý tài
sản đặt cọc. ............................................................................................................ 16
VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH. ............................................................................................ 17
4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh. ....................................................................... 17
4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh. ..................... 18
4.3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ
tín dụng là quan hệ bảo lãnh? ................................................................................ 20
4.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán............ 20
4.5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để đảm
bảo cho nghĩa vụ nào? Vì sao? .............................................................................. 21
4.6. Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và
người được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền? ............... 21
4.7. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận hay không? ..... 22
4.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa giảm đốc thẩm liên quan
đến vấn đề liên đới nêu trên................................................................................... 22
4.9. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh. ........................................................................................................... 23
4.10. Theo Bộ Luật Dân sự, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh?....................................................................................................................... 23
4.11. Theo quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?23
4.12. Có bản án quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh chị biết. ................... 24
4.13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của tòa giám đốc thẩm. ...... 24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 25
BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật Dân sự 2015 BLDS 2015


Bộ luật Dân sự 2005 BLDS 2005
Hội đồng thẩm phán HĐTP
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN
SỰ.

- Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân
TP.HCM.

- Ông Phạm Bá Minh là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh.Vào ngày 14/09/2007,
bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo thế chấp cho ông Minh một giấy sử dụng
sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ, thời hạn vay là 6 tháng, lãi suất
3%/1 tháng. Khi hết thời hạn hợp đồng, ông Thảo bà Khen không thanh toán được nên
đã kéo dài số nợ trên. Cho đến nay thì mới thanh toán được tiền lãi của 22 tháng là
29.600.000đ, còn nợ 10.000.000đ tiền lãi nên ông Minh yêu cầu trả vốn lẫn lãi là
70.000.000đ trong vòng 1 tháng. Về phần mình, ông Thảo và bà Khen đề nghị trả số
tiền trên trong thời hạn 12 tháng.

- Tóm tắt Quyết định 02/2014/QĐ-UBTP.

- Năm 1995, ông Ôn và bà Xuân có cầm cố cho ông Rành 3.000m2 đất với giá 30
chỉ vàng 24K và thoả thuận sẽ chuộc lại trong 3 năm. Trong thời hạn 3 năm này, ông
bà có về chuộc lại đất nhưng ông Rành không đồng ý. Nay ông bà yêu cầu ông Rành
phải trả lại đất và ông bà sẽ trả lại 30 chỉ vàng như trên, tuy nhiên ông Rành không
đồng ý và yêu cầu phải chuộc với giá thị trường. Toà án sơ thẩm đã cho rằng hợp đồng
cầm cố quyền sử dụng đất này là vô hiệu vì pháp luật không cho phép cầm cố quyền
sử dụng đất. Tại quyết định kháng nghị, Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân tỉnh
Tiền Giang đã bác bỏ nhận định này vì giao dịch trên không trái pháp luật, trái đạo đức,
tuân thủ đủ các quy định về nội dung và hình thức nên không thể tuyên vô hiệu. Hội
đồng xét xử giám đốc thẩm cũng đã đồng ý với kháng nghị trên.

- Tóm tắt Bản án số 04/2010/DSPT.

- Vào ngày 8/7/2003 và ngày 8/6/2005, bà Hồng có vay của bà Long tổng cộng
360 triệu đồng với lãi 3%/tháng. Khi vay có thế chấp 3 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất gồm: 1 giấy do ông Bính đứng tên và 2 giấy do ông Chấp đứng tên. Bà Hồng
chỉ đóng lãi đến tháng 12/2006 rồi ngưng. Nay bà Long khởi kiện yêu cầu bà Hồng,
ông Chấp và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Bính liên đới trả cho bà
360 triệu đồng và yêu cầu xử lý tài sản thế chấp. Tuy nhiên Toà án phúc thẩm đã cho
rằng pháp luật không cho phép việc thế chấp quyền sử dụng đất giữa các cá nhân với
nhau. Vì vậy quyết định hợp đồng vay tài sản trên là vô hiệu và yêu cầu các bên phải
hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận.

1
1.1. Những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 liên quan đến
tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
- BLDS 2015 đã có sự thay đổi về chế định liên quan đến tài sản có thể dùng để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự so với BLDS 2005. BLDS 2015 chỉ có 1 điều luật
(Điều 295) còn BLDS 2005 có tới 3 điều luật quy định về tài sản bảo đảm (Điều 320,
321, 322). Việc quy định của BLDS 2005 theo hướng liệt kê, sẽ dẫn đến tình trạng quy
định không đầy đủ. Do vậy, BLDS 2015 đã khắc phục được những nhược điểm này.

- Thứ nhất,

+ Khoản 1 Điều 320 BLDS 2005 về Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: “1.
Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và
được phép giao dịch”.

+ Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 về Tài sản bảo đảm: “1. Tài sản bảo đảm phải
thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền
sở hữu”.

=> Quy định tại BLDS 2015 đã bỏ đi quy định “được phép giao dịch” và chỉ quy
định “trừ trường hợp cầm giữ, bảo lưu quyền tài sản”. Bởi lẽ, việc bỏ quy định này
không phải là cho phép sử dụng tài sản không được phép giao dịch để bảo đảm mà là ở
các quy định chung đã có hướng giải quyết. Trong Báo cáo tổng hợp của Bộ Tư pháp
về ý kiến nhân dân với Dự thảo đã nêu “về nguyên tắc, tài sản được đem vào giao dịch
phải phù hợp với quy định của pháp luật. Nguyên tắc này áp dụng chung cho các loại
giao dịch, trong đó có giao dịch bảo đảm”.

- Thứ hai,

+ Khoản 2 Điều 320 BLDS 2005 về Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: “2.
Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành
trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu
của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được
giao kết”.

+ Khoản 3 Điều 295 BLDS 2015 về Tài sản bảo đảm: “3. Tài sản bảo đảm có
thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai”.

=> Theo đó, BLDS 2015 không làm rõ thế nào là tài sản hình thành trong tương lai
như tại Khoản 2 Điều 320 BLDS 2005. Việc thay đổi như vậy là tránh được sự khó
hiểu và rườm rà vì đã có quy định trong phần Tài sản thuộc những vấn đề chung của
BLDS tại Điều 108 BLDS 2015.

2
- Thứ ba, BLDS 2015 cũng bổ sung thêm quy định về giá trị của tài sản bảo đảm
tại Khoản 4 Điều 295: “Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn
giá trị nghĩa vụ được bảo đảm”.

=> Quy định này tránh được thực tế là đôi khi có người yêu cầu giá trị tài sản bảo
đảm phải lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm, khắc phục được thiếu sót của BLDS
2005.

1.2. Đoạn nào của Bản án 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
- Đoạn của bản án 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay:

“Ông Phạm Bá Minh trình bày: Ông là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh. Vào
ngày 14-09-2007 bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ông một
giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng, thời hạn cho vay là
6 tháng, lãi suất thỏa thuận là 3%/tháng”.

“Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo xác nhận: Có thế chấp một tờ
giấy sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ cho ông Phạm Bá Minh là chủ
dịch vụ cầm đồ Bá Minh. Lãi suất 3%/tháng”.

1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?


- Trong thực tiễn việc xác định các loại giấy tờ liên quan tài sản như giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy đăng ký mô tô xe máy, giấy chứng nhận sạp… có là tài
sản hay không đang có rất nhiều quan điểm khác nhau.
+ Thứ nhất: xuất phát từ luận điểm về những đặc điểm của tài sản (theo Điều
105 BLDS 2015), có quan điểm cho rằng giấy chứng nhận sạp không hội đủ những
đặc điểm của tài sản nên không được xem là một loại tài sản. Bởi vì, giấy chứng nhận
sạp chỉ ghi nhận quyền được sử dụng sạp để chủ thể sử dụng, chứ không có đặc quyền
nào khác đối với cái sạp, không nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá quy định
tại Khoản 9 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP: “9. Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu,
trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy
định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”, và cũng không
phải là vật, tiền và quyền tài sản, do vậy giấy chứng nhận sạp không phải là quyền tài
sản. Quan điểm này cũng phù hợp với cách giải quyết trên đây của tòa và hướng dẫn
của Tòa án nhân dân tối cao.

3
+ Thứ hai: xuất phát từ những chế định về kiện đòi tài sản và thực tiễn cho thấy,
các loại giấy tờ này có một ý nghĩa rất quan trọng. Nếu không xem đây là tài sản thì sẽ
không có chủ sở hữu tài sản và nếu một chủ thể nào đó để chủ thể khác chiếm hữu các
loại giấy tờ này sẽ không thể yêu cầu lấy lại theo chế định kiện đòi tài sản. việc này sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của các chủ thể. Đây cũng chính là điểm hạn chế cần
được xem xét và khắc phục.

- Như vậy, theo quan điểm của nhóm tôi, giấy chứng nhận sạp không phải là tài
sản như quan điểm thứ nhất đã nêu trên. Và trong bản án số 208/2010/DS-PT, Tòa án
cũng không công nhận giấy chứng nhận sạp là tài sản. Giấy chứng nhận sạp chỉ ghi
nhận quyền được sử dụng sạp để bà Khen buôn bán tại chợ Tân Hương, không thuộc
quyền sở hữu của bà Khen, bà chỉ được sử dụng chứ không có đặc quyền nào khác đối
với cái sạp, cái sạp đó không phải tài sản của bà, nên giấy chứng nhận sử dụng sạp
không nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá tại Khoản 9 Điều 3 Nghị định 163
và cũng không là vật, tiền và quyền tài sản, do vậy giấy chứng nhận sạp không là tài
sản.

1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án
chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự không
được tòa án chấp nhận.

- Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm
cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí sử dụng sạp,
không phải quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà
Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh”.

1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lí của Tòa án đối với
việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
- Theo nhóm tôi, hướng giải quyết của Tòa án là hợp tình và đúng lý.

- Bởi vì, tòa án xét thấy: sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy
chứng nhận rạp D2-9 tại chợ Tân Hương chỉ là giấy đăng kí sử dụng sạp, không phải
quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lí mà để bà Khen thi
hành án trả tiền cho ông Minh.Theo đó, tài sản cầm cố đó nếu không thuộc quyền sở
hữu của bà Khen thì bà Khen chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền định đoạt
trong giao dịch cầm cố sạp để trả nợ.

4
- Căn cứ pháp lý: Khoản 1 Điều 320 BLDS 2005: “1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch”.

1.6. Trên cơ sở so sánh pháp luật, suy nghĩ của anh/chị về khả năng cho phép
dùng giấy tờ liên quan đến tài sản để bảo đảm nghĩa vụ dân sự.
- “Ở nước ngoài, như ở Pháp, án lệ cũng như văn bản pháp luật chấp nhận cầm giữ
giấy tờ liên quan đến tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Xin dẫn một đoạn
trong cuốn chuyên khảo do các chuyên gia hàng đầu của Pháp về biện pháp bảo đảm
để hiểu rõ hơn về chủ đề này: “Văn bản cũng như án lệ đã áp dụng một nguyên tắc
chung theo đó một thứ không được giao dịch hay bản thân nó không có giá trị vẫn có
thể được cầm giữ. Cơ quan lập pháp đã cho phép công chứng viên, thừa phát lại cầm
giữ tài liệu trong một hồ sơ. Án lệ đã ghi nhận tính hợp pháp của việc cầm giữ giấy tờ
của kiểm toán viên, người quản lí chung cư, người được ủy quyền, án lệ cũng đã chấp
nhận cầm giữ giấy tờ hành chính như giấy tờ đã đóng phí hải quan, giấy tờ liên quan
đến xe, giấy đăng kí xe, giấy tờ thiết lập công cụ làm việc ...”1”2. Có thể nói, pháp luật
nước Pháp khá hợp lí trong những tình huống thực tiễn, bởi trên thực tế, nhiều trường
hợp bên có nghĩa vụ vẫn áp dụng việc dùng giấy tờ liên quan đến tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự và vẫn được Tòa án chấp nhận.

- Ngoài ra, theo như quy định của BLDS 2015 thì trong các phương pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự thì chỉ có phương pháp thế chấp mới có khả năng dùng giấy
tờ liên quan đến tài sản vì các biện pháp khác đều yêu cầu bên bảo đảm giao tài sản
bảo đảm cho bên nhận bảo đảm và đối tượng bảo đảm của các biện pháp còn lại đều là
tài sản hữu hình (tiền, giấy tờ có giá, vật).

- Tuy nhiên, theo nhóm tôi nghĩ rằng việc cho phép sử dụng giấy tờ liên quan đến
tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cần được áp dụng thêm đối với biện pháp
cầm giữ tài sản. Bởi vì:

+ Thứ nhất, thực ra cầm giữ giấy tờ liên quan đến tài sản mà giấy tờ đó có tính
chất quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền sở hữu và sử dụng của chủ tài sản.
Việc cầm giữ giấy tờ này đã làm hạn chế các quyền của bên vi phạm và từ đó gây áp
lực, buộc bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên cầm giữ, như vậy
mục đích cuối cùng của cầm giữ cũng đã thực hiện được. Ngoài ra, việc sử dụng giấy
tờ liên quan đến tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cũng giống như sử dụng tài sản

1
M.Cabrillac, Chr.Mouly, S.Cabrillac và Ph.Pétel: Droit des suretés, Nxb. Litec, 2010, phần số 626.
2
Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận bản án,
Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 853.

5
để bảo đảm nghĩa vụ dân sự chỉ được áp dụng khi tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của bên có nghĩa vụ, có như vậy thì lợi ích của bên có quyền mới được bảo đảm.

+ Thứ hai, “khi người có quyền chấp nhận cầm giữ giấy tờ liên quan đến tài sản
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì tại sao chúng ta lại không cho phép họ làm?”3. Cho
nên, tại sao chúng ta không thỏa mãn ý chí giữa các bên mà vẫn bảo đảm việc thực
hiện nghĩa vụ bằng cách quy định thêm rằng Tòa án có thể quyết định cho phép người
có quyền vẫn cầm giữ giấy tờ trong quá trình thi hành án. Như vậy, Tòa án hoàn toàn
có thể buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Đây có thể là một
hướng giải quyết hoàn toàn thuyết phục khi có tranh chấp.

+ Thứ ba, trong pháp luật Việt Nam , đã có quy định cho phép bên có quyền
cầm giữ giấy tờ không có giá nhưng liên quan đến tài sản để buộc bên có nghĩa vu
thực hiện nghĩa vụ.

1.7. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất
để cầm cố?
- Đoạn của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm
cố: “Ngày 30-08-1995 vợ chồng ông Võ Văn Ổn và Lê Thị Xanh cùng ông Nguyễn
Văn Rành thoả thuận việc thực đất. Hai bên có lập “Giấy thực đất làm ruộng” với nội
dung giống như việc cầm cố tài sản.

Theo lời khai của nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận là cầm cố đất (BL số 08, 09,
10, 19, 20)”.

1.8. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
- Hiện nay, không có văn bản hiện hành quy định cụ thể về việc cầm cố quyền sử
dụng đất. Các điều luật liên quan đến vấn đề cầm cố quyền sử dụng đất chỉ có những
điều khoản như sau:

+ Khoản 1 điều 167 Luật Đất đai có quy định về các quyền của người sử dụng
đất nhưng không nhắc đến quyền cầm cố: “1. Người sử dụng đất được thực hiện các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp,
góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.”

3
Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận bản án,
Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 852.

6
+ Tuy nhiên nếu xét giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất như một giao dịch cầm
cố tài sản thông thường, ta có thể áp dụng các điều sau:

o Về cầm cố tài sản, điều 309 Bộ Luật Dân sự định nghĩa: “Cầm cố tài sản
là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở
hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ”.
o Mà theo khoản 1 điều 105 Bộ Luật Dân sự: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản”.

- Kết luận: có thể xác định hiện nay chưa có quy định cụ thể về cầm cố quyền sử
dụng đất, chỉ có thể áp dụng các điều luật liên quan đến cầm cố tài sản.

1.9. Trong Quyết định trên, Toà án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Toà Án đã chấp nhận việc dùng quyền sử dụng đất để cầm cố, thể hiện qua đoạn:
“Về nội dung thì giao dịch thục đất nêu trên phù hợp với qui định về cầm cố tài sản
của Bộ Luật Dân sự để giải quyết…”

1.10. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án trong Quyết định
số 02.
- Theo nhóm, việc Toà án công nhận giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất nêu trên
là có căn cứ pháp luật và hoàn toàn hợp lý vì:

+ Xét theo góc độ kinh tế:

o Cho phép cầm cố quyền sử dụng đất sẽ tạo cơ hội cho loại tài sản này lưu
thông trong nền kinh tế, tránh lãng phí. Khi người có quyền sử dụng đất
không có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả, cần vốn để đầu
tư thêm vào việc khác thì có thể cầm cố để người nhận cầm cố sử dụng
đất đai một cách hiệu quả hơn, phần vốn cũng được sử dụng hiệu quả
hơn.
+ Xét theo góc độ xã hội:
o Việc cầm cố đất và cầm cố quyền sử dụng đất đã được ghi nhận từ rất lâu
ở Việt Nam, đồng thời xét theo góc độ xã hội hiện tại, việc cầm cố này
không ảnh hưởng đến lợi ích của người khác, cũng như lợi ích xã hội, vì
vậy không có lý do để cấm việc cầm cố đất.
+ Xét theo góc độ pháp lý:
7
o Trong Bộ Luật Dân sự 2015 có cho phép việc cầm cố bất động sản, vì vậy
nếu Toà án không cho phép cầm cố quyền sử dụng đất thì các quy định
này sẽ trở nên vô nghĩa, vì điều này đồng nghĩa với việc không cho phép
việc cầm cố nhà ở (là một loại bất động sản có giá trị lớn). Trên thực tế,
các quy định về nhà ở cũng không nêu rõ việc chủ sở hữu có quyền cầm
cố nhà ở.
o Ngoài ra với tinh thần “được phép làm những gì pháp luật không cấm” và
như Toà án đã nêu thì nếu giao dịch được thực hiện không trái pháp luật,
trái đạo đức, tuân thủ đúng các quy định về hình thức và nội dung thì ta
có thể công nhận giao dịch này là hợp pháp.
+ Xét theo góc độ về việc bảo vệ quyền và lợi ích của những người liên quan,
nếu xét xử như toà án sơ thẩm thì quyền và lợi ích của ông Rành sẽ không được đảm
bảo, cụ thể:
o Khi đó, ông Ôn và bà Xanh chỉ cần trả đúng 30 chỉ vàng 24K và sẽ được
nhận lại phần đất đã cầm cố mà không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ gì
khi chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền.
o Đồng thời từ thời điểm phát sinh giao dịch cầm cố tức 1995 đến lúc diễn
ra phiên xét xử sơ thẩm là 24/12/2012 đã qua rất nhiều năm, giá nhà đất
cũng như giá vàng đã có sự biến động, vì vậy cần thiết phải tính lại theo
giá thị trường.
o Nếu giao dịch cầm cố vô hiệu thì ông Rành không có quyền được khai
thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố,
nên ông Rành phải hoàn trả 1 phần hoa lợi lợi tức trên cho vợ chồng ông
Ôn và bà Xanh.

1.11. Đoạn nào của Bản án số 04 cho thấy người nhận thế chấp quyền sử dụng đất
là cá nhân?
- Tại phần Xét thấy của bán án:“Pháp luật chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng
đất giữa các cá nhân với nhau. Do vậy, việc bà Phạm Thị Ngọc Hồng giao các Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Vương Kim Long để vay tiền là không đúng
quy định của pháp luật…”.

1.12. Có quy định nào cho phép cá nhân nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ không? Nếu có, nêu cơ sở văn bản.
- Hiện nay đã có quy định cho phép cá nhân nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ, cụ thể tại điểm g) khoản 1 điều 179 Luật Đất đai 2013:

“1. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao trong hạn
mức; đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất
8
một lần cho cả thời gian thuê, được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất; đất nhận
chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế thì có các quyền và
nghĩa vụ sau đây:

g) Thế chấp quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt
Nam, tại tổ chức kinh tế khác hoặc cá nhân theo quy định của pháp luật;”.

1.13. Đoạn nào của Bản án số 04 cho thấy Toà án không chấp nhận cho cá nhân
nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ?
- Toà án không chấp nhận việc cá nhân nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ thể hiện ở đoạn sau: “Pháp luật chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng
đất giữa các cá nhân với nhau. Do vậy, việc bà Phạm Thị Ngọc Hồng giao các Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Vương Kim Long để vay tiền là không đúng
quy định của pháp luật, nên bị coi là vô hiệu theo quy định tại Điều 128 của Bộ luật
dân sự”.

1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án.
- Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Toà án còn nhiều bất cập:

+ Việc Toà án cho rằng pháp luật tại thời điểm xét xử không cho phép thế chấp
quyền sử dụng đất giữa các cá nhân là sai, vì căn cứ khoản 7 điều 113 Luật Đất đai
2003:

“Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê có các quyền và nghĩa
vụ sau đây:

7. Thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt
động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất, kinh doanh;”

- Vậy trên thực tế có quy định pháp luật cho phép thế chấp đất giữa các cá nhân
với nhau.

+ Toà án còn viện dẫn điều 106 Luật Đất đai 2003 để xác định việc thế chấp đất
giữa cá nhân không phù hợp với quy định pháp luật. Tuy nhiên điều 106 chỉ mang tính
chất thông báo các quyền của người sử dụng đất và các quy định liên quan đến các
quyền nêu trên, không đề cập đến việc cấm cá nhân nhận thế chấp quyền sử dụng đất.

9
+ Ngoài ra việc Toà án áp dụng điều 1104 Luật Đất đai 2003 ở đây là không
hợp lý vì điều này chỉ được áp dụng với chủ thể là “tổ chức được Nhà nước giao đất
không thu tiền sử dụng đất”.

VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIA DỊCH BẢO ĐẢM.

2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về dăng ký giao dịch bảo đảm.
- Thứ nhất, BLDS 2005 đề về vấn đề “đăng ký giao dịch bảo đảm”, còn BLDS
2015 thì quy định về “đăng ký biện pháp bảo đảm”. Giao dịch bảo đảm là giao dịch
dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo
đảm. Theo định nghĩa trên thì sử dụng cụm từ “đăng ký giao dịch bảo đảm” sẽ hợp lý
hơn.

- Thứ hai, việc quy định đăng ký biện pháp bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường
hợp luật có quy định. Quy định tại điều 2985 này cũng trên tinh thần thừa kế quy định
từ khoản 2 điều 3236 của BLDS 2005. Việc thay thế cụm từ “pháp luật” bằng từ “luật
cũng cho thấy có sự thay đổi tư duy lập pháp, phù hợp với Hiến pháp và các quy định
liên quan khác.

2.2. Hợp đồng thế chấp số 03.00148/HĐTC ngày 27/5/2003 trong Quyết định trên
có thuộc trường hợp phải đăng ký không?
- Hợp đồng trên thuộc trường hợp đăng ký vì đây là hợp đồng thế chấp tài sản (căn
cứ theo quy định tạị khoản 1, điều 2, Nghị định 08/2000/NĐ-CP về đăng ký giao dịch
bảo đảm37).

2.3. Hợp đồng thế chấp đã được đăng ký chưa? Đoạn nào của Quyết dịnh cho câu
trả lời?
- Hợp đồng trên chưa được đăng ký.

4
Điều 110. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
5
Điều 298. Đăng ký biện pháp bảo đảm: 1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy
định của luật. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định.
2. Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời
điểm đăng ký.3. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký biện
pháp bảo đảm.
6
Điều 323. Đăng ký giao dịch bảo đảm: 2. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo quy định của
pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong
trường hợp pháp luật có quy định.
7
Điều 2. Đối tượng đăng ký: 1. Những trường hợp sau đây phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo
đảm: a) Việc cầm cố, thế chấp tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu;b) Việc cầm
cố, thế chấp tài sản không thuộc quy định tại điểm a, khoản 1 Điều này nhưng các bên thoả thuận bên cầm cố,
bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản;c) Việc cầm cố, thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều
nghĩa vụ;d) Văn bản thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm.
10
- Đoạn ở phần xét thấy của Quyết định cho câu trả lời “Tòa án cấp phúc thẩm nhận
định: “Hợp đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC ngày 27-5-2003 đã vi phạm về
hình thức, không được đăng kí giao dịch bảo đảm nên không phát sinh hiệu lực. Ngân
hàng phải tiến hành lại thủ tục đăng kí giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp
luật”.”

2.4. Hướng giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm đối với hợp đồng nêu trên. Vì
sao Tòa phúc thẩm lại giải quyết như vậy?
- Tòa án cấp phúc thẩm đã nhận định hợp đồng này không phát sinh hiệu lực và
Tòa giải quyết theo hướng trên vì hợp đồng này đã vi phạm hình thức, không được
đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật.

2.5. Theo Hội đồng thẩm phán, trong trường hợp biện pháp bảo đảm phải đăng
ký nhưng không được đăng ký thì biện pháp bảo đảm này có giá trị pháp lý đối
với các bên trong giao dịch bảo đảm không? Vì sao?
- Trường hợp này thì biện pháp bảo đảm không có giá trị pháp lý với các bên trong
giao dịch bảo đảm vì Hội đồng thẩm phán cho rằng “hợp đồng thế chấp này là hợp
pháp, có giá trị pháp lý” nhưng lại giải thích theo hướng vì tài sản thế chấp theo hợp
đồng thế chấp tài sản số 03.00148/HĐTC đồng thời cũng là tài sản bảo đảm theo Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02.00034/HĐTC, mà Hợp đồng thế chấp số
02.00034/HĐTC có hiệu lực nên mới suy ra rằng Hợp đồng số 03.00148/HĐTC có
hiệu lực. Nghĩa là Hội đồng thẩm phán đã cho rằng, một khi biện pháp bảo đảm không
được đăng ký thì hợp đồng đó sẽ không có hiệu lực, đồng nghĩa với việc biện pháp bảo
đảm này sẽ không có giá trị pháp lý đối với các bên trong giao dịch bảo đảm.

2.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.
- Hướng giải quyết trên của HĐTP là hợp lý nhưng về cách giải thích thì chưa
hoàn toàn thuyết phục. Vì nếu tài sản để bảo đảm trong Hợp đồng số 03.00148/HĐTC
không đồng thời là tài sản bảo đảm theo Hợp đồng số 02.00034/HĐTC thì hiệu lực của
hợp đồng số 03.00148/HĐTC có được công nhận hay không.

- Do đó việc công nhận hiệu lực của hợp đồng 03.00148/HĐTC có hiệu lực là rất
cần thiết vì để đảm bảo quyền lợi đối với phía có quyền và vì việc xác định ưu tiên
thanh toán đối với tài sản không được đặt ra tỏng trường hợp này.

- Ngoài ra, theo khoản 3 điều 325 BLDS 2005 thì người có quyền có biện pháp bảo
đảm không được đăng ký vẫn được thanh toán theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm.
Điều này cho thấy giá trị pháp lí của biện pháp bảo đảm không được đăng kí đã được
công nhận ngầm.
11
- BLDS 2005 không quy định việc cho 2 bên có thỏa thuận khác là một thiếu sót.
Tuy nhiên, bản án này được xem là án lệ để giải quyết các vụ án tương tự khi các bên
không đăng ký các biện pháp bảo đảm mà tự thỏa thuận theo sự tự nguyện của 2 bên
nếu các điều lệ đó không trái với quy định của pháp luật.

- Trong bản án này, HĐTP của TANDTC đã chấp nhận hợp đồng thế chấp có hiệu
lưc vì chúng được ký trên sự tự nguyện cùa 2 bên. Vì thế khi công ty Ngọc Quang
không thanh toán nợ, thì Vietinbank có quyền xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế
chấp và quy định của pháp luật.

- Tuy nhiên hướng giải quyết này lại không thỏa đáng lắm trong trường hợp công
ty Ngọc Quang có thêm một hay nhiều khoản nợ khác với cá nhân hay pháp nhân khác.
Biện pháp bảo đảm phải đăng ký để giúp giải quyết thứ tự ưu tiên thanh toán khi xảy
ra tranh chấp. Hiệu lực bảo đăng ký còn có hiệu lực đối với người thứ ba nhằm không
xảy ra hợp đồng vô hiệu.

VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC.

- Tóm tắt Quyết định số 79/2012/DS-GĐT ngày 23/2/2012 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.
- Ngày 12/5/2009 ông Lộc đặt cọc 2 tỷ đồng cho bà Hạnh để mua căn nhà số
1222C đường 43 phường Thảo Điền quận 2 do bà Hạnh đứng tên. Căn nhà này bà mua
đấu giá của Cơ quan thì hành án dân sự TP.HCM. Tại điều 5 của hợp đồng đặt cọc, các
bên thoả thuận kể từ ngày ký hợp đồng, bà Hạnh phải hoàn tất các thủ tục để được cấp
GCN quyền sở hữu đối với căn nhà trên, nếu vi phạm bà Hạnh phải chịu số tiền tương
ứng là 2 tỷ đồng. Đến ngày 12/6/2009 bà Hạnh không thực hiện theo thỏa thuận. Ngày
01/07/2009, bà Hạnh gửi thư yêu cầu ông Lộc gia hạn 60 ngày. Ngày 07/07/2009 ông
Lộc gửi thư không đồng ý gia hạn, yêu cầu bà trả lại tiền cọc cùng số tiền phạt cọc
theo thỏa thuận. Sau 5 tháng vi phạm, bà Hạnh vẫn không thực hiện theo cam kết, ông
Lộc khởi kiện yêu cầu bà Ngọc hoàn trả tổng cộng 4 tỷ đồng.

3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp.
- Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố:

+ Tài sản dùng để bảo đảm trong đặt cọc là “tiền hoặc kim quý, đá quý hoặc vật
có giá trị khác”8, do vậy tài sản dùng cho đặt cọc là một hiện vật, không thể là quyền

8
Khoản 1, Điều 328, Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt
cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá
trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”

12
tài sản. Trong khi đó, về việc cầm cố, pháp luật không giới hạn về loại tài sản được sử
dụng để bảo đảm.

+ Cầm cố chỉ được sử dụng để “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, trong khi
đó đặt cọc thường được sử dụng để “bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân
sự”.9

+ Việc xử lý tài sản đặt cọc không cần phải qua bán đấu giá, trong khi đó việc
xử lý tài sản cầm cố phải có tiến hành theo thủ tục bán đấu giá nếu không có thoả
thuận khác.

+ Đặt cọc là biện pháp bảo đảm mang tính hai chiều (bất cứ bên nào vi phạm
đều bị phạt cọc), trong khi đó cầm cố chỉ mang tính bảo đảm một chiều (bên cầm cố
bảo đảm trước bên nhận cầm cố).10

- Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và thế chấp:

TIÊU CHÍ ĐẶT CỌC THẾ CHẤP

- Là việc một bên giao cho bên kia - Là việc một bên (bên thế chấp)
một khoản tiền hoặc kim khí quí, dùng tài sản thuộc sở hữu của mình
KHÁI đá quý hoặc vật có giá trị khác để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
NIỆM trong một thời hạn để bảo đảm giao sự với bên kia (bên nhận thế chấp)
kết hoặc thực hiện hợp đồng dân và không chuyển giao tài sản đó
sự. cho bên nhận thế chấp.

- Bên đặt cọc là bên dùng tiền hoặc - Bên thế chấp, bên nhận thế chấp
vật có tài sản khác của mình giao và có thể có thêm bên thứ ba giữ tài
cho bên kia giữ một thời gian nhất sản thế chấp.
CHỦ THỂ
định để bảo đảm giao kết và thực
hiện hợp đồng và bên nhận đặt cọc
là bên nhận tiền hoặc tài sản khác.

- Tiền, vật có giá trị hoặc các vật - Động sản, bất động sản.
TÀI SẢN
thông thường khác mà bên đặt cọc
- Tài sản được hình thành trong

9
Đỗ Văn Đại (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb.
Hồng Đức, tr. 349.
10
Đỗ Văn Đại (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb.
Hồng Đức, tr. 349.

13
giao cho bên nhận đặt cọc. tương lai.

- Tài sản đang cho thuê cũng như


hoa lợi, lợi tức thu được từ việc cho
thuê tài sản (nếu pháp luật có quy
định và các bên thỏa thuận).

- Tài sản thế chấp được bảo hiểm


thì khoản tiền bảo hiểm cũng có thể
được thế chấp.

3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc.
- Tại Khoản 1 Điều 358 BLDS 2005 quy định về Đặt cọc: “1. Đặt cọc là việc một
bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác
(sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện
hợp đồng dân sự. Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản”.

- Và Khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 quy định về Đặt cọc: “1. Đặt cọc là việc một
bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một
khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài
sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”.

- Theo đó, BLDS 2005 yêu cầu việc đặt cọc phải được lập bằng văn bản. Ở đây,
BLDS 2005 không rõ yêu cầu văn bản là yêu cầu về việc chứng cứ của đặt cọc hay là
yêu cầu để đặt cọc có hiệu lực. Từ những bất cập của thực tiễn trước yêu cầu văn bản
của BLDS 2005 cùng với xu hướng không đặt nặng vấn đề hình thức của giao dịch thì
BLDS 2015 đã bỏ đi phần quy định này.

3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
- Căn cứ vào Khoản 2 Điều 358 BLDS 200511 quy định về Đặt cọc:

+ Bên đặt cọc bị mất cọc nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp
đồng và tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

11
Khoản 2 Điều 358 BLDS 2005 quy định: “2. Trong trường hợp hợp đồng dân sự được giao kết, thực
hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc
từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt
cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản
tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.

14
+ Bên đặt cọc bị phạt cọc nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp
đồng và bên đặt cọc phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương
đương giá trị giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

- Căn cứ vào Khoản 2 Điề u 328 BLDS 201512 quy định về Đă ̣t co ̣c:

+ Tinh thầ n của BLDS 2015 cũng không có nhiề u khác biê ̣t so với BLDS 2005,
chỉ thay cu ̣m từ “hơ ̣p đồng dân sự” bằ ng cu ̣m “hơ ̣p đồ ng”, cho thấy sự bao quát hơn so
với BLDS 2005.

3.4. Theo Quyết định được bình luận, khi nào bên nhận cọc (bà Hạnh) bị phạt
cọc?
- Trích đoạn số 05, trang số 04,phần Xét thấy của Quyết định: “Tòa án cần xác
minh thu thập bản chính công văn 4362/THA ngày 05-06-2009 của Cục thi hành án
Dân sự thành phố Hồ Chí Minh và quy trình chuyển quyền sở hữu cho người mua
trúng đấu giá của cơ quan thi hành án dân sự. Nếu có căn cứ xác định cơ quan thi hành
án dân sự chậm trễ trong việc chuyển tên quyền sở hữu cho bà Hạnh thì lỗi dẫn tới
việc bà Hạnh không thể thực hiện đúng cam kết với ông Lộc thuộc về lỗi khách quan,
và bà Hạnh không phải chịu phạt tiền cọc. Nếu có căn cứ xác định do bà Hạnh chậm
trễ hoàn tất các thủ tục để được sang tên quyền sở hữu thì lỗi hoàn toàn thuộc về bà
Hạnh, và bà Hạnh mới phải chịu phạt tiền cọc”.

3.5. Theo Quyết định được bình luận, khi nào bên nhận cọc không bị phạt cọc?
- Theo Quyết định được bình luận, bên nhận cọc không bị phạt cọc khi xuất phát từ
lỗi của cơ quan thi hành án dân sự dẫn đến sự chậm trễ trong việc chuyển tên quyền sở
hữu cho bà Hạnh khiến bà Hạnh không thể thực hiện đúng cam kết với ông Lộc.

- Trích Đoạn số 05, trang số 04, mục Xét thấy của Bản án: “Nếu có căn cứ xác
định cơ quan thi hành án dân sự chậm trễ trong việc chuyển tên quyền sở hữu cho bà
Hạnh thì lỗi dẫn tới việc bà Hạnh không thể thực hiện đúng cam kết với ông Lộc thuộc
về khách quan”.

12
Khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 quy định: “2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài
sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc
giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao
kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản
đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

15
3.6. Hệ quả của việc bên nhận cọc không bị phạt cọc?
- Xét thấy, việc bên nhận cọc không bị phạt cọc xuất phát từ việc cả hai bên (bên
nhận cọc và bên đặt cọc) cùng có lỗi và mức độ lỗi ngang nhau, hoặc do sự kiện bất
khả kháng hay sự kiện khách quan dẫn đến không thực hiện, giao kết hợp đồng. Như
vậy, khi bên nhận cọc không bị phạt cọc, hai bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Toà giám đốc thẩm về xử lý tài
sản đặt cọc.
- Theo nhóm tôi, hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm về xử lý tài sản đặt cọc
là hợp lý.

- Trước đó, các Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh, làm
rõ việc bà Hạnh chậm trễ hoàn tất các thủ tục để được sang tên quyền sở hữu là do lỗi
chủ quan hoàn toàn thuộc về bà Hạnh hay là lỗi khách quan thuộc về cơ quan thi hành
án dân sự chậm trễ trong việc chuyển tên quyền sở hữu cho bà Hạnh. Tòa án giám đốc
thẩm yêu cầu xác định rõ lí do là bảo đảm về quyền lợi cho các bên.

- Trong trường hợp trên, nếu việc chậm trễ hoàn tất các thủ tục để được sang tên
quyền sở hữu là do lỗi chủ quan thuộc về bà Hạnh thì bên nhận cọc (tức bên bà Hạnh)
sẽ phải trả lại tiền cọc cho bên cọc (tức bên ông Lộc) và bị phạt cọc một số tiền tương
đương căn cứ theo Điều 304 BLDS 200513 (hay Điều 358 BLDS 2015 theo pháp luật
hiện hành14). Mặt khác, nếu sự chậm trễ xuất phát từ lỗi khách quan thuộc về cơ quan
thi hành án dân sự thì bên nhận cọc (tức bên bà Hạnh) chỉ phải trả lại tiền cọc cùng với
lãi suất theo mức lãi suất của ngân hàng cho bên đặt cọc (tức bên ông Lộc).

13
Điều 304 BLDS 2005 quy định: “1. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công
việc mà mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình
thực hiện hoặc giao cho người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý
và bồi thường thiệt hại. 2. Khi bên có nghĩa vụ không được thực hiện một công việc mà lại thực hiện công việc
đó thì bên có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc thực hiện, khôi phục tình trạng ban
đầu và bồi thường thiệt hại.”
14
Điều 358 BLDS 2015 quy định: “1. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà
mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình thực hiện
hoặc giao người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý, bồi thường
thiệt hại. 2. Khi bên có nghĩa vụ không được thực hiện một công việc mà lại thực hiện công việc đó thì bên có
quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi
thường thiệt hại.”

16
VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH.

- Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 02/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao:

- Ngày 26/9/2006, nguyên đơn là Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương ký Hợp đồng
tín dụng cho bị đơn là bà Tỉnh, chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân vay
900.000.000 đồng; với tài sản bảo đảm cho khoản vay là quyền sử dụng đất do vợ
chồng ông Miễn và bà Cà đem thế chấp cho Quỹ tín dụng. Sau khi vay tiền, bà Tỉnh
chỉ mới trả được 270.000.000 đồng tiền gốc. Ngày 27/11/2007, Quỹ tín dụng khởi kiện
yêu cầu Tòa án buộc bà Tỉnh phải trả tiền gốc lẫn lãi, nếu không trả được thì buộc
người bảo lãnh có trách nhiệm với số nợ. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
đã yêu cầu xác minh hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên, nếu
hợp đồng đó có hiệu lực thì quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là quan hệ
bảo lãnh, nghĩa là ông bà có nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Tỉnh nếu bà Tỉnh không trả
nợ hoặc trả không đủ cho Quỹ tín dụng.

- Tóm tắt quyết định 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa án dân sự
nhân dân tối cao.

- Bà Mát vay bà Nhung số tiền là 500.000.000 đồng. Trong giấy biên nhận có xác
nhận sự bảo lãnh của bà Thắng . Sau khi trả được 8 tháng tiền lãi thì bà Mát không tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Nhung. Nay bà Nhung khởi kiện yêu cầu người
bảo lãnh của bà Mát là bà Thắng phải hoàn thành phần nghĩa vụ chưa được thực hiện.
Tòa giám đốc thẩm nhận định rằng bà Thắng sẽ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi
bà Mát không thể thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ thực hiện được một phần nghĩa
vụ trên.

4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh.


- Điều kiện làm phát sinh nghĩa vụ của bên bảo lãnh: Khi đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;
hay bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ nếu có thỏa thuận.15

- Phạm vi bảo lãnh: Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ
nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.16

15
Điều 335 BLDS 2015.
16
Khoản 1 Điều 336 BLDS 2015.

17
- Hình thức: Việc bảo lãnh có thể được lập thành văn bản hoặc thiết lập bằng lời
nói, hành vi cụ thể. Nếu pháp luật có quy định, việc bảo lãnh phải được thể hiện bằng
văn bản có công chứng, chứng thực.

- Mối quan hệ với nghĩa vụ chính: Bảo lãnh là biện pháp bổ trợ cho một nghĩa vụ
chính, do đó, khi chưa chứng minh được nghĩa vụ chính không được thực hiện đầy đủ
thì bên bảo lãnh chưa phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

- Mối quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh: Bên nhận bảo lãnh chỉ
được yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi nghĩa vụ đã đến hạn
mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hoặc (khi có thỏa
thuận) không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Bên bảo lãnh không phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo
lãnh.17

- Mối quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh: Bên bảo lãnh được hưởng
thù lao (nếu có thỏa thuận) và có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ
với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện.18

4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh.
- Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 335 về khái niệm bảo lãnh, BLDS 2015 thêm cụm từ
“thực hiện nghĩa vụ” vào sau từ “thời hạn” để làm rõ nghĩa hơn so với Điều 361 BLDS
2005. Tuy nhiên, sự thay đổi này chỉ mang tính kỹ thuật và không dẫn đến thay đổi về
mặt nội dung.19

- Thứ hai, BLDS 2015 có sự thay đổi trong quy định về hình thức bảo lãnh. Theo
Điều 362 BLDS 2005, việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn
bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Tuy nhiên, BLDS 2015 đã loại bỏ quy định
này, giúp cho các bên có sự linh hoạt và chủ động hơn trong việc thiết lập quan hệ bảo
lãnh. Các bên có thể tự do lựa chọn hình thức cam kết bảo lãnh bằng văn bản, bằng lời
nói hoặc hành vi cụ thể, trừ trường hợp pháp luật bắt buộc việc bảo lãnh phải được thể
hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực.

- Điểm mới thứ ba của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về bảo lãnh là ở quy định
về phạm vi bảo lãnh. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ

17
Điều 339 BLDS 2015.
18
Điều 337, Điều 340 BLDS 2015.
19
Đỗ Văn Đại, “Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015”, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam (xuất bản lần thứ hai), tr. 337.

18
nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 336 BLDS 2015 mở rộng
phạm vi bảo lãnh gồm cả “lãi trên số tiền chậm trả” so với quy định tại Điều 363
BLDS 2005. Mặt khác, khoản 3 Điều 336 BLDS 2015 cũng quy định thêm việc các
bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh. Với những quy định như trên, BLDS 2015 đã làm tốt hơn việc bảo
vệ quyền, lợi ích của bên nhận bảo lãnh. Ngoài ra, khoản 4 Điều 336 BLDS 2015 cũng
quy định thêm về trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương
lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết
hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.

- Điểm mới thứ tư của BLDS 2015 về bảo lãnh là ở quy định về quyền yêu cầu của
bên bảo lãnh. Điều 340 BLDS 2015 quy định, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên
bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong
phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện (nghĩa là thực hiện tới đâu có quyền yêu cầu
hoàn trả tới đó). Trong khi đó, theo Điều 367 BLDS 2005 thì bên bảo lãnh chỉ được
yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh khi
đã hoàn thành xong nghĩa vụ bảo lãnh, nếu không có thỏa thuận khác.

- Thứ năm, BLDS 2015 bổ sung thêm quy định về mối quan hệ giữa bên bảo lãnh
với bên nhận bảo lãnh tại khoản 1 Điều 339 (so với Điều 366 BLDS 2015). Quy định
này khẳng định rõ nghĩa vụ thực hiện việc bảo lãnh của bên bảo lãnh đối với bên nhận
bảo lãnh và thực chất chỉ là phần tiếp theo của quy định về khái niệm bảo lãnh tại Điều
335 BLDS 2015.20

- Cuối cùng, Điều 342 BLDS 2015 đã sử dụng tiêu đề “Trách nhiệm dân sự của
bên bảo lãnh” thay cho tiêu đề “Xử lý tài sản của bên bảo lãnh” của Điều 369 BLDS
2005, đồng thời quy định bên bảo lãnh phải “thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi
thường thiệt hại” thay cho quy định phải “đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh
toán cho bên nhận bảo lãnh”. Sự thay đổi này nhằm tăng cường trách nhiệm của bên
bảo lãnh cũng như bảo vệ tốt hơn quyền của bên nhận bảo lãnh.

ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH SỐ 02

20
Đỗ Văn Đại – chủ biên (2016), “Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015”, Nxb. Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam (xuất bản lần thứ hai), tr. 341.

19
4.3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ
tín dụng là quan hệ bảo lãnh?
- Đoạn số 01, trang số 05, mục Xét thấy của Quyết định số 02 cho thấy Tòa án xác
định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là quan hệ bảo lãnh, cụ thể như
sau:

“Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: “Số tiền trên được ưu tiên
bảo đảm thanh toán bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Trần Văn Miễn
đứng tên diện tích là 20.408 m2, theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người
thứ ba ...” là không đúng. Trong trường hợp xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất của người thứ ba số 01534 ngày 22/9/2006 giữa các bên có hiệu lực thì phải
tuyên theo đúng quy định tại Khoản 1, Điều 5 và Khoản 1, Điều 7 của Hợp đồng thế
chấp; Điều 361 Bộ luật Dân sự là khi Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân không
trả nợ hoặc trả không đủ thì ông Miễn, bà Cà phải trả thay; nếu ông Miễn, bà Cà không
trả nợ hoặc trả không đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ”.

- Theo đoạn trích trên, Tòa đã xác định ông Miễn và bà Cà (bên bảo lãnh) cam kết
với Quỹ tín dụng (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho Chủ Doanh
nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà Chủ Doanh
nghiệp không trả nợ hoặc trả không đủ. Ngoài ra, Tòa cũng đã viện dẫn Điều 361
BLDS 2005 về bảo lãnh.

4.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán.
- Xác định trên của Hội đồng thẩm phán là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với quy
định của pháp luật. Theo Điều 369 BLDS 2005 về xử lý tài sản của bên bảo lãnh, nếu
đến hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình
để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 46 Luật Đất đai 2003
cho phép người sử dụng đất được quyền thế chấp và bảo lãnh quyền sử dụng đất. Như
vậy, trong vụ việc trên, ông Miễn và bà Cà đã cam kết với Quỹ tín dụng sẽ thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thay cho Chủ Doanh nghiệp Đại Lộc Tân nếu khi đến thời hạn mà Chủ
Doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Nếu ông
Miễn và bà Cà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bão lãnh thì ông
bà sẽ phải đưa quyền sử dụng đất của mình để thanh toán cho Quỹ tín dụng theo hợp
đồng thế chấp.

- Tinh thần này của BLDS 2005 và Luật Đất đai 2003 cũng được lặp lại ở BLDS
2015 và Luật Đất đai 2013. Tương tự như BLDS 2005, khoản 3 Điều 336 BLDS 2015
20
về phạm vi bảo lãnh cũng quy định “các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo
đảm bằng tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”. Có nghĩa là, các bên có
thể sử dụng biện pháp thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh. Quy định này phù hợp với quy định tại Điều 167 Luật Đất đai 2013 cho phép
người sử dụng đất được thực hiện quyền thế chấp quyền sử dụng đất.

4.5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để đảm
bảo cho nghĩa vụ nào? Vì sao?
- Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để đảm bảo
cho nghĩa vụ bảo lãnh của ông bà đối với Quỹ tín dụng. Cụ thể là ở đoạn số 01, trang
05, mục Xét thấy của Quyết định số 02 có viết “khi Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại
Lộc Tân không trả nợ hoặc trả không đủ thì ông Miễn, bà Cà phải trả thay; nếu ông
Miễn, bà Cà không trả nợ hoặc trả không đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi
nợ”. Tòa án nhận định như vậy bởi vì, quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng
là quan hệ bảo lãnh, và theo Điều 369 BLDS 2005 về xử lý tài sản của bên bảo lãnh,
nếu đến hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của
mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. Có nghĩa là, khi Chủ Doanh nghiệp tư
nhân Đại Lộc Tân không trả nợ hoặc trả không đủ, quyền sử dụng đất của ông bà chỉ
được đem ra xử lý để thu hồi nợ nếu ông bà cũng không trả nợ hoặc trả không đủ cho
Quỹ tín dụng.

ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH SỐ 968

4.6. Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và
người được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền?
- Đoạn số 02, 03, trang số 03, 04, mục Xét thấy của Quyết định số 968 cho thấy
Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và người được bảo lãnh liên đới thực
hiện nghĩa vụ cho người có quyền: “Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 89/2008/DS-ST
ngày 30-7-2008, Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai quyết định:

Chấp nhận yêu cầu của bà Vũ Thị Hồng Nhung. Bà Nguyễn Thị Mát và bà Nguyễn
Thị Thắng cùng có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm trả cho bà Vũ Thị Hồng Nhung
700.100.000 đồng.”

21
4.7. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận hay không?
- Hướng liên đới trên không được tòa giám đốc thẩm chấp nhận. Điều này được thể
hiện tại đoạn sau đây: “… Tòa án cấp sơ thẩm (Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom)
đã buộc bà Thắng cùng liên đới thực hiện nghĩa vụ dân sự với bà Mát là chưa chính
xác”.

4.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa giảm đốc thẩm liên quan
đến vấn đề liên đới nêu trên.
- Tòa giám đốc thẩm đã đưa ra hai trường hợp trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh của bà Thắng.

+ Thứ nhất là trường hợp thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được bảo lãnh
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp này không có sự liên
đới chịu trách nhiệm giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh.
+ Thứ hai là trường hợp thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được bảo lãnh chỉ
có thể thực hiện được một phần nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp này, bên bảo lãnh
có trách nhiệm thực hiện tiếp phần nghĩa vụ chưa được hoàn thành. Ở đây đã có sự
liên đới chịu trách nhiệm giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh.

- Tòa giám đốc thẩm không thể hiện sự ưu tiên bất cứ trường hợp nào trên đây. Ý
kiến của em về vấn đề này như sau:

+ Trong thực tế, vai trò của bên bảo lãnh là làm tăng sự tin cậy giữa các bên
trong khi giao kết hợp đồng. Người có quyền và nghĩa vụ trong giao dịch dân sự trước
hết là các bên trực tiếp tham gia giao dịch chứ không phải là bên bảo lãnh. Hướng giải
quyết thứ nhất đã giúp bên bảo lãnh tránh được các nghĩa vụ không mong muốn phát
sinh trong việc bảo lãnh.
+ Mặt khác, việc Tòa giám đốc thẩm có đề cập đến trường hợp thứ hai đã bảo vệ
cho bên có quyền trong giao dịch dân sự, hạn chế sự ỷ lại vào bên bảo lãnh trong việc
thực hiện nghĩa vụ.

- Tuy nhiên, theo điều 335 Bộ Luật Dân sự 2015:

“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa
vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh”.
22
thì các nhà làm luật lại có xu hướng ưu tiên theo trường hợp thứ hai. Điều này có thể
làm giảm số giao dịch dân sự được tiến hành vì lợi ích của bên bảo lãnh sẽ dễ bị tổn
hại hơn nên họ sẽ phải suy nghĩ kĩ lưỡng trước khi tham gia vào quan hệ này.

4.9. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh.

Thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

- Khi bên bảo lãnh xác nhận cam kết


thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên nhận
bảo lãnh.
+ Trong trường hợp việc bảo lãnh là
điều kiện để xác định quan hệ pháp luật thì
nghĩa vụ bảo lãnh phải được xác định trước
- Vào thời điểm đến hạn thực hiện
khi xác lập quan hệ pháp luật đó.
nghĩa vụ nhưng bên được bảo lãnh không
+ Trong trường hợp bảo lãnh cũng
(hoặc không có khả năng) thực hiện nghĩa
được tiến hành trong khi xác lập quan hệ
vụ hoặc thực hiện sai nghĩa vụ.
pháp luật thì nghĩa vụ bảo lãnh được xác
định trong khi xác lập quan hệ pháp luật.
+ Nếu sau khi đã xác lập quan hệ
pháp luật mới có việc bảo lãnh thì nghĩa vụ
bảo lãnh được xác định sau khi xác lập
quan hệ pháp luật.

4.10. Theo Bộ Luật Dân sự, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh?
- Theo điều 335 Bộ Luật Dân sự 2015 và điều 361 Bộ Luật Dân sự 2005, người
bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh vào thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ
nhưng bên được bảo lãnh không (hoặc không có khả năng) thực hiện nghĩa vụ hoặc
thực hiện sai nghĩa vụ.

4.11. Theo quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
- Theo quyết định 968, người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi một
trong hai trường hợp sau đây xảy ra:

23
+ Khi bà Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự.

+ Khi bà Mát chỉ có thể thực hiện được một phần nghĩa vụ dân sự.

4.12. Có bản án quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh chị biết.
- Tóm tắt bản án 89/2010DS-ST ngày 03/12/2010 của Tòa án nhân dân huyện
Cần Giuộc, Long An

- Bà Kiều có nghĩa vụ hốt hụi, giao số tiền 262.000.000 đồng cho bà Cúc. Trong
lúc giao nhận tiền thì hai người có làm giấy giao nhận tiền, trong đó có bà Xiếu kí tên
bảo lãnh cho bà Kiều. Sau khi bà Xiếu đóng lại hụi chết cho bà Cúc số tiền 20.000.000
đồng thì bà Kiều vỡ nợ. Nay bà Cúc khởi kiện yêu cầu bà Xiếu trả số tiền nợ là
242.000.000 đồng cho bà. Tòa án nhận định rằng việc bà Xiếu trả số tiền 20.000.000
đồng là đã xác nhận nghĩa vụ thực hiện bảo lãnh, nên Tòa đã yêu cầu bà Xiếu phải
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình, tức trả cho bà Cúc số tiền 242.000.000 đồng.

4.13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của tòa giám đốc thẩm.
- Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý. Do bà Mát và bà Thắng
không có thỏa thuận về việc trong trường hợp nào thì bà Thắng phải thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh nên Tòa đã đề cập đến cả hai trường hợp để đảm bảo quyền và lợi ích của
bà Nhung được thực hiện. Mặt khác, Tòa đã đảm bảo bà Mát phải thực hiện nghĩa vụ
bằng tất cả những gì mình có, tránh việc bà Mát ỷ lại vào quan hệ bảo lãnh để trốn
tránh thực hiện nghĩa vụ dân sự.

24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Dân sự 2015.

2. Bộ luật Dân sự 2005.

3. Trường ĐH Luật TPHCM, Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.

4. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận án, Nxb. Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam.

5. Đỗ Văn Đại, Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam - Bản án và
Bình luận án, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.

6. Đỗ Văn Đại – chủ biên (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015,
Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam (xuất bản lần thứ hai).

25
26

You might also like