You are on page 1of 12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI THẢO LUẬN THỨ HAI


VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG


Lớp: 90-TM43.1
Nhóm:

Năm học: 2019 - 2020


STT Họ và Tên Mã số sinh viên
1 Huỳnh Ngọc Châu 1853801011022
2 Châu Tước Diêm 1853801011031
3 Nguyễn Thị Ngọc Dung 1853801011036
4 Nguyễn Thị Ngân Hà 1853801011047
5 Hoàng Vũ Hạ 1853801011050
6 Huỳnh Gia Hân 1853801011052
7 Lê Quang Hân 1853801011053
8 Hoàng Phương Hằng 1853801011056
9 Trần Thị Mỹ Hạnh 1853801011059
10 Lê Trung Hậu 1853801011060

1
Buổi thảo luận thứ hai: Vấn đề chung của hợp đồng
Vấn đề 1: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với ba vấn đề trên.

Trả lời:

1. Vấn đề thứ nhất

Tòa án đã xét rằng: Bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng. Theo chúng tôi, hướng giải quyết này của Tòa án là hợp lý, bởi vì D (bên được
đề nghị) không chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho
C (bên đề nghị). Và C (bên đề nghị) không thừa nhận đã nhận được chấp nhận đề
nghị giao kết của D (bên được đề nghị). Tuy nhiên, Tòa án căn cứ vào Điều 400
BLDS 2015 để đưa ra hướng giải quyết trên là không hợp lý. Theo khoản 1 Điều
400 thì hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao
kết, các quy định còn lại của Điều 400 (từ khoản 2 đến khoản 4) quy định về thời
điểm giao kết hợp đồng xác định theo hình thức của hợp đồng. Như vậy Điều 400
không cho chúng ta thấy trường hợp như thế nào thì được xem là bên đề nghị chưa
nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Hay nói cách khác, dựa vào Điều
400 thì chúng ta không có căn cứ để xác định bên đề nghị có nhận được chấp nhận
đề nghị hay chưa. Vì vậy, Tòa án xét rằng bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định của Điều 400 BLDS 2015 là chưa thật sự
chính xác.

2. Vấn đề thứ hai

Tòa án đã giải quyết như sau: chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý,
theo quy định của Điều 394 BLDS 2015. Theo chúng tôi hướng giải quyết này của
Tòa án là hợp lý. Tháng 01/2017, A, B và C gửi cho D một đề nghị giao kết hợp
đồng, nhưng mãi đến tháng 1 và tháng 2 năm 2019, D mới gửi chấp nhận đề nghị
cho A và B. Từ đó ta thấy thời hạn trả lời là hơn 2 năm đó là một thời hạn khá dài
và chưa hợp lý. Bởi vì trong 2 năm quyền lợi của bên đề nghị có thể bị thiệt hại nếu
không nhận được chấp nhận trả lời.

Ví dụ: A đề nghị bán nhà cho B. Thời hạn trả lời là một tháng. Nhưng sau 6 tháng B
mới chấp nhận đề nghị. Như vậy trong khoảng thời gian 6 tháng này giá nhà có thể

2
tăng lên, A có thể bán nhà cho người khác với giá cao hơn so với giá bán cho B tại
thời điểm 6 tháng trước. Việc trả lời chậm của B đã làm thiệt hại đến A. Ở vấn đề
thứ 2 này bên đề nghị không xác định thời hạn nên căn cứ khoản 1 Điều 394 BLDS
thì “khi bên đề nghị không nêu rõ số thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực nếu được thực hiện trong 1 thời hạn hợp lý”. Vì vậy hướng giải quyết của
Tòa án trong vấn đề 2 là hợp lý.

3. Vấn đề thứ ba

Tòa án giải quyết như sau: chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới. Theo chúng
tôi, hướng giải quyết này của Tòa án là hợp lý. Tòa án đã rất khéo léo, linh hoạt khi
xử lí vấn đề thứ 3. Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015 chỉ quy định hướng giải quyết
trường hợp trả lời chấp nhận khi đã hết thời hiệu khi bên đề nghị có ấn định. Còn
đối với trường hợp bên đề nghị không có ấn định thì không có quy định. Xét thấy
quy định trên nhằm làm cho người được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị trong thời
hạn nhất định, tránh trường hợp họ kéo dài thời gian để có lợi cho mình, thậm chí có
thể gây thiệt hại cho bên đề nghị. Luật quy định việc trả lời chấp nhận đề nghị chỉ
có hiệu lực trong thời hạn mà bên đề nghị ấn định nhằm tạo sự tự do trong giao kết
hợp đồng, không làm cho quy định về việc trả lời chấp nhận đề nghị bị cứng nhắc.
Như vậy chúng ta có thể áp dụng trường hợp bên đề nghị nhận được trả lời khi đã
hết thời hạn thì chấp nhận được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời khi bên đề
nghị không ấn định thời hạn tương tự như khi bên đề nghị có ấn định. Chính vì vậy,
hướng giải quyết trên của Tòa án về vấn đề thứ 3 là rất phù hợp và thỏa đáng.

Vấn đề 2: Sự ưng thuận trong quá trình giao kết hợp đồng

Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong
giao kết hợp đồng?

Trả lời:

Theo khoản 2, Điều 404 của BLDS 2015: “2. Hợp đồng dân sự cũng được xem như
giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa
thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.”.

3
Như vậy, BLDS 2005 xem im lặng trong giao kết là một sự trả lời chấp nhận giao
kết.

Theo khoản 2, Điều 393 của BLDS 2015: “2. Sự im lặng của bên được đề nghị không
được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo
thói quen đã được xác lập giữa các bên.”.

Như vậy, ở BLDS 2015, im lặng không được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng.
Im lặng được suy đoán là chấp nhận giao kết hợp đồng chỉ là một ngoại lệ của nguyên
tắc trên, được áp dụng với điều kiện là hoàn cảnh này phải được các bên tiên liệu
bằng thỏa thuận, hoặc do thói quen đã được các bên xác lập trước đó. BLDS 2015
quy định cụ thể về vấn đề này nhằm hạn chế những trường hợp phát sinh tranh chấp
từ việc im lặng. Hơn nữa, việc điều chỉnh này giúp mở rộng phạm vi, đối tượng điều
chỉnh, phù hợp với thói quen, tập quán giao kết hợp đồng, mua bán hàng hóa.

Câu 2: Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?

Trả lời:

Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển nhượng
trong tình huống của bà Chu và ông Bùi với ông Văn là thuyết phục.

Mặc dù Án lệ số 04/2016/AL liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, còn tình
huống trên liên quan đến việc định đoạt tài sản là tài sản sở hữu chung của các thành
viên gia đình, nhưng Tòa án vẫn áp dụng vì:

Thứ nhất, tài sản của cả hai vụ việc đều thuộc sở hữu chung hợp nhất được quy định
tại Điều 210 BLDS 2015.

Thứ hai, cả hai vụ việc đều có tình tiết là: các chủ sở hữu chung còn lại đều biết việc
chuyển nhượng nhà đất nhưng không ai có ý kiến gì. Nhưng sau này vì một lí do nào
đó, các sở hữu chung này lại yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu.

Ở đây Tòa án theo hướng giải quyết: Trường hợp nhà đất là tài sản chung mà có
người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, những
người còn lại không ký tên trong hợp đồng nhưng có đủ căn cứ xác định bên chuyển
nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết
và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã
4
nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng
biết mà không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc
chuyển nhượng nhà đất.

Vấn đề 3: Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được.

Câu 1: Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS
2015 và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu.

Trả lời:

Thứ nhất:

Khoản 1, Điều 408 BLDS 2015 đã bỏ cụm từ “vì lí do khách quan”. Khoản 1, Điều
411 BLDS 2005 quy định trường hợp, hợp đồng vô hiệu do không thể thực hiện
được nhưng chỉ khoanh vùng ở trường hợp “vì lí do khách quan”. Trong khi đó, thực
tiễn vận dụng điều luật này cả cho trường hợp không thể thực hiện vì lí do “chủ
quan” như trường hợp các bên không thỏa thuận về các mặt tiếp giáp của mảnh đất
được chuyển nhượng (đối với hợp đồng chuyển nhượng đất) hay đời máy cụ thể (đối
với hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị) nên hợp đồng không thể thực hiện được.
Thực ra, việc khoanh vùng như hiện nay không thuyết phục vì nếu áp dụng đúng
luật thì không thể thực hiện được vì lí do chủ quan không làm cho hợp đồng vô hiệu,
nhưng nếu hợp đồng không vô hiệu thì hợp đồng cũng không thể thực hiện được và
trong trường hợp này vẫn không có câu trả lời thuyết phục. Do đó, BLDS 2015 bỏ
đi cụm từ “vì lí do khách quan” là hoàn toàn thuyết phục.
Như vậy, lí do khách quan hay chủ quan không ảnh hưởng tới khả năng vô hiệu của
hợp đồng mà chỉ ảnh hưởng tới lỗi lầm phát sinh trách nhiệm bồi thường.

Thứ hai:
Khoản 1, Điều 408 BLDS 2015 thay từ “ký kết” trong khoản 1, Điều 411 BLDS
2005 bằng “giao kết”.
Việc BLDS 2005 dùng từ “ký kết” hợp đồng và thuật ngữ này là không có tính bao
quát vì ký kết chỉ dùng cho hợp đồng văn bản có chữ ký trong khi đó hợp đồng có
thể được hình thành mà không có chữ ký. Để có tính bao quát hơn, BLDS 2015 đã
dùng từ “giao kết”, và việc thay đổi này là hoàn toàn chính xác, khắc phục được
khuyết điểm của BLDS 2005.

5
Thứ ba:
Khoản 3, Điều 408 BLDS 2015 đã thay cụm từ “giá trị pháp lý” trong khoản 3, Điều
411 BLDS 2005 bằng “hiệu lực”.
Ta thấy rằng, hợp đồng vô hiệu thì chắc chắn là hợp đồng không có hiệu lực pháp
lý. Nhưng ngược lại, hợp đồng không có hiệu lực pháp lý chưa chắc đã là hợp đồng
vô hiệu, mà có thể là hợp đồng chưa được ký kết, đã ký kết nhưng bị đình chỉ hiệu
lực, hoặc đã hết hiệu lực. Như vậy, dùng cụm từ “hiệu lực” sẽ tạo sự khái quát, bao
quát hơn so với việc dùm cụm từ “giá trị pháp lý” vì “giá trị pháp lý” chỉ mang ý
nghĩa luật định, còn “hiệu lực” còn có ý nghĩa trong việc thực thi.
Câu 2: Một bên có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng trên vô hiệu trên cơ sở Điều
408 BLDS 2015 không? Vì sao?

Trả lời:

Một bên có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng trên vô hiệu trên cơ sở Điều 408 BLDS
2015 vì căn cứ vào khoản 1, Điều 408 BLDS 2015 về Hợp đồng vô hiệu do có đối
tượng không thể thực hiện: “1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối
tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này vô hiệu.”

Ví dụ như tình huống trên thì đối tượng của hợp đồng này là tài sản phải giao (máy
đào hiệu Hitachi), nhưng trong quá trình giao kết hợp đồng các bên đã không có thỏa
thuận rõ ràng chi tiết các đặc điểm của đối tượng như: không nêu rõ số hiệu, không
nêu rõ tình trạng của máy dẫn đến không thể xác định đúng vật cần phải giao nhận
nên hợp đồng này có đối tượng không thực hiện được. Vì thế nên ông Bình hoặc ông
An cũng có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng giữa 2 người là vô hiệu.

Câu 3: Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng trên được xác định
như thế nào? Vì sao?

Trả lời:

Khoản 1 Điều 407 BLDS 2015 có nêu: “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ
Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô
hiệu.”. Vì thế thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng trên được xác
định theo Điều 132 BLDS 2015. Cụ thể, chúng ta sẽ áp dụng điểm b khoản 1 Điều
132 BLDS 2015.

6
“1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các điều
125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:
...
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị
nhầm lẫn, do bị lừa dối;”
Trước tiên, ta có thể hiểu “nhầm lẫn trong hợp đồng” là trường hợp giao kết hợp
đồng có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của
việc xác lập giao kết. Trong tình huống trên đã có sự nhầm lẫn trong hợp đồng khi
ông An đã không thông báo cho ông Bình về tình trạng của máy và ông Bình cũng
đã không yêu cầu ông An thông báo. Vì thế có thể xác định hợp đồng trên có sự
nhầm lẫn, áp dụng thời hiệu đối với trường hợp này là 2 năm kể từ ngày người bị
nhầm lẫn (ở đây là ông Bình) biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn.

Vấn đề 4: Xác lập hợp đồng giả tạo và nhằm tẩu tán tài sản

Đối với vụ việc thứ nhất

Câu 1: Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?

Trả lời:

Theo Điều 124 BLDS 2015:

“1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che
giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ
luật này hoặc luật khác có liên quan.

2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.”

7
Theo một số tác giả: “Giao dịch giả tạo là giao dịch mà trong đó việc thể hiện ý chí
ra bên ngoài khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia giao
dịch.”.1

Theo tôi, thì giả tạo trong giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí, tự nguyện giữa
các bên tham gia giao dịch, họ cùng nhau thiết lập một giao dịch bên ngoài mà mục
đích của giao dịch này không đúng với mục đích họ hướng tới, quan tâm thật sự bên
trong. Yếu tố giả tạo khác với lừa dối là việc các bên thông đồng với nhau để tạo
nên sự khác nhau giữa ý chí và tuyên bố ý chí của họ.

Giả tạo trong giao dịch dân sự có thể chia thành các nhóm như sau:

- Giả tạo liên quan đến chủ thể của giao dịch dân sự

VD: A và B thỏa thuận kí hợp đồng chuyển nhượng nhà đất. Tuy nhiên trên giấy tờ
chuyển nhượng đất thì lại giữa B và C bởi vì A đã chỉ định C thay mình vào vị trí đó

- Giả tạo về nội dung giao dịch dân sự

VD: A thỏa thuận với B chuyển nhượng ngôi nhà và đất với giá 1 tỷ đồng. Tuy nhiên
A và B đã thỏa thuận chỉ ghi mức giá trị 500 triệu để đỡ khoản đóng thuế sau này

- Giả tạo về bản chất của giao dịch dân sự

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?

Trả lời:

Trong phần Xét thấy của Bản án số 06/2017/DS-ST: “Nguyên đơn và bị đơn thống
nhất ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bị đơn có thiết lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Nội dung giấy thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số AP 154638, số vào sổ H53166 do UBND thị xã (nay là thành phố) Thủ Dầu
Một cấp ngày 30/07/2009, tọa lạc tại phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một,
tỉnh Bình Dương, giả chuyển nhượng 200.000.000 đồng. Hai bên đều thừa nhận đây

1
Hoàng Thế Liêm (Cb), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, Nxb. Chính trị quốc gia;
Hà Nội, năm 2013, tr.321
8
là giao dịch giả tạo để che giấu cho việc nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền
100.000.000 đồng.”

Câu 3: Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị
che giấu.

Trả lời:
Trích trong phần Xét thấy: “Đối chiếu với quy định trên trường hợp giữa nguyên
đơn với bà Trang thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày
23/11/2013 giữa nguyên đơn và bà Trang là vô hiệu do giả tạo và giao dịch vay tài
sản số tiền 100.000.000 đồng có hiệu lực” và cả hai bên đều có lỗi ngang nhau trong
việc làm cho hợp đồng vô hiệu. Do vậy, Theo Điều 131 BLDS 2015, các bên hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận và không phải bồi thường.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và
hợp đồng bị che giấu.

Trả lời:

Căn cứ theo Điều 124 và Điều 131 BLDS 2015 thì hướng giải quyết của Tòa là hợp
lý. Vì:

- Đối với hợp đồng giả tạo, Tòa án đã xác minh được hợp đồng chuyển nhượng
nguyên đơn và bà Trang là giả tạo để che giấu việc nguyên đơn cho Bà Trang vay
số tiền 100.000.000 đồng, chính hai bên cũng đều thừa nhận điều này. Mà Điều 124
BLDS 2015 quy định giao dịch dân sự giả tạo nhằm che giấu một giao dịch nào khác
thì giao dịch giả tạo sẽ vô hiệu. Như vậy, Tòa án đã tuyên bố giao dịch chuyển
nhượng đất này vô hiệu là hợp lý.

- Giao dịch cho vay tiền giữa nguyên đơn và bị đơn là hợp lệ và tại bản tự khai
và quá trình tố tụng tại Tòa án bà Trang xác nhận mình đã vay tiền của nguyên đơn,
tức bà Thủy, số tiền 100.000.000 đồng. Để đảm bảo quyền lợi cho các bên, Tòa
tuyên hợp đồng giả tạo vô hiệu và hợp đồng bị che giấu có hiệu lực. Và các bên hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận và không phải bồi thường.

- Khi tòa án tuyên bố giao dịch giả tạo vô hiệu, Tòa án đã đưa ra phán quyết lỗi
của các bên ngang nhau, vì vậy họ sẽ trả cho nhau những gì đã nhận và không phải

9
bồi thường. Theo tôi, tòa án kết luận vậy là hợp lý phù hợp với quy định của Điều
131 BLDS 2015.

Đối với vụ việc thứ hai

Câu 5: Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng
ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?

Trả lời:

Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo
nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ đối với bà Thu là vì: “Quá trình giải quyết vụ án
thì vợ chồng bà Anh thừa nhận còn nợ của bà Thu 3,1 tỷ đồng, đồng thời vợ chồng
bà Anh cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh chấp) để trả nợ cho bà Thu,
nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam kết với bà Thu mà làm thủ tục chuyển
nhượng nhà đất trên cho anh là vợ chồng ông Vượng. Thỏa thuận chuyện nhượng
giữa vợ chồng ông Vượng không phù hợp với thực tế vì giá thực tế nhà đất là gần
5,6 tỷ đồng, nhưng hai bên thỏa thuận chuyển nhượng trị giá 680 triệu và thực tế các
bên cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng.”.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn
tránh nghĩa vụ).

Trả lời:
Hướng xác định trên của Tòa là hợp lý. Vì:

Có thể hiểu giao dịch giả tạo phải có 2 loại giao dịch, đó là giao dịch giả tạo và giao
dịch thật sự. Nhưng giả tạo còn có thể chỉ có một giao dịch đó là giao dịch giả tạo
nhằm che giấu mục đích nào đó của các chủ thể xác lập giao dịch2. Bộ luật dân sự
2015, cũng công nhận giả tạo do một giao dịch che giấu nhằm trốn tránh nghĩa vụ3.

Ở Quyết định số 259/2014/DS-GĐT là thuộc trường hợp giả tạo để trốn tránh nghĩa
vụ theo đúng khoản 2 điều 124 BLDS 2015. Vì theo như xác định của Tòa, vợ chồng
bà Anh đã cam kết chuyển nhượng mảnh đất tranh chấp để trả nợ cho bà Thu, tuy
nhiên để trốn tránh việc trả nợ này, vợ chồng bà Anh lại chuyển nhượng mảnh đất

2
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận án, Nxb: Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt Nam (tái bản lần thứ bảy), bản án số 86-88 và 89-92
3
khoản 2 Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015 trang 191
10
đó cho ông Vượng. Chứng tỏ, ở đây hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Anh và
ông Vượng là có giả tạo, không đúng với mục đính bán đất đơn thuần. Hơn nữa, giá
trị mảnh đất khá nhỏ so với thực tế, thì càng chứng minh đây là hợp đồng giả tạo.

Câu 7: Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch
nhằm trốn tránh nghĩa vụ.

Trả lời:

Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 124 và Điều 131 BLDS 2015

Khi Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ thì
theo khoản 2 Điều 124, hợp đồng giả tạo sẽ vô hiệu.

Căn cứ vào Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 về hệ quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu,
thì:

- Đầu tiên, các bên sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ từ hợp đồng kể từ thời
điểm xác lập hợp đồng. Như vậy, ở đây đáng lẽ theo nghĩa vụ của bản hợp đồng
chuyển nhượng quyền sự dụng đất, sở hữu nhà ở giữa bà Đặng Thị Kim Anh với
ông Đặng Quý Vượng thì việc sang tên giữa các bên phải được thực hiện. Nay hợp
đồng vô hiệu, thì việc sang tên đang thực hiện này sẽ dừng lại, bà Anh sẽ không có
nghĩa vụ phải sang tên cho ông Vượng.

- Theo khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 thì khi hợp đồng vô hiệu, các bên
sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Ở đây bà
Anh đã nhận của ông Vượng 4 ti, ông Vượng cũng đã nhận những tài sản theo thỏa
thuận của hợp đồng. Nay hợp đồng được tuyên bố vô hiệu thì các bên sẽ trả lại cho
nhau nhưng gì đã nhận, cụ thể ông Vượng trả cho bà Anh những tài sản đã nhận, còn
bà Anh sẽ trả cho ông Vượng tiền là 4 tỉ.

HẾT

11

You might also like