You are on page 1of 19

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA

TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN HUỲNH BẢO VY


LỚP: 93-HS43B.2
MSSV: 1853801013219
*Khái niệm tài sản:

Tóm tắt Bản án số 06/2017/QĐ-PT:


Thẩm phán chủ tọa phiên họp: Bà Trần Thị Kim Hải.
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Thanh Tuyết.
Ông Trần Hữu Viên .
Nguyên Đơn: Ông Phan Hai, sinh năm: 1939.
Bị Đơn: Ông Phan Quốc Thái, sinh năm: 1977.
Lý do: Ông Phan Hai kháng cáo vì Tòa án cho rằng Ông Hai không cung cấp
được Giấy ủy quyền của ông Phan Trọng Nguyên; và Tòa cho rằng ông không
cung cấp giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu tài sản đối với Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số phát hành 0926009, số vào sổ 01868QSDĐ/DS-DK cấp
ngày 23/7/1999 của ủy ban Huyện Diên Khánh là không thỏa đáng.
- Xét thấy:
+ Theo yêu cầu của ông Phan Hai: yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành 0926009, số vào sổ
01868QSDĐ/DS-DK cấp ngày 23/7/1999 của ủy ban Huyện Diên Khánh mang
tên Lương Thị Xàm.
+ Xét thẩm quyền giải quyết vụ án Theo Điều 105,115 BLDS 2015, khoản 16
Điều 3 Luật đất đai 2013 thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản
chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không
phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá vì vậy vụ kiện của ông Hai
không thuộc thẩm quyền của Tòa án. Thế nhưng tòa án đã chấp nhận thụ lý.
Trong trường hợp này thay vì căn cứ vào khoản 1 Điều 217 để ra quyết định
đình chỉ vụ án, xóa tên trong sổ thụ lý, thế nhưng Tòa cấp sơ thẩm căn cứ vào
khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 217 để đình chỉ vụ án điều này là không
chính xác.
- Quyết định:

1
+ Không chấp nhận kháng nghị 01/QĐKN/VKS-DS ngày 12/5/2017 của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; không chấp nhận kháng
cáo của nguyên đơn ông Phan Hai.
+ Sửa quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 17/2017/QĐST-DS ngày
4/5/2017 Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

Tóm tắt bản án 39/2018/DSST “Đòi lại giấy chứng


nhận quyền sử dụng”
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Trí Trường.
Nguyên đơn: 1) Ông Võ Văn B sinh 1954.
2) Bà Bùi Thị H sinh 1954.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thủy T sinh năm 1979.
Nội dung vụ án:
- Theo lời khai của nguyên đơn:
Bên nguyên đơn không có quan hệ bà con với bà T, không biết bà T là ai,
không vay tiền của bà T. Năm 2012 đã làm mất giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất do dọn nhà để sửa chửa và đã được ủy ban nhân dân huyện Long Hồ cấp
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng do có tranh chấp nên tôi không
được nhận. Nên tôi yêu cầu bà T trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AM 090902 cho chúng tôi.
- Theo lời khai của bị đơn:
Hiên nay bà T có giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 090902
của hộ ông Võ Văn B, nhưng bà không đồng ý trả lại trừ khi ông B và bà H trả đủ
số tiền 120.000.000 đồng.
- Luật sư của nguyên đơn phát biểu: Yêu cầu bà T trả lại giấy chúng nhận
quyền sử dụng đất cho ông B và bà H theo Điều 4 luật tố tụng dân sự.
- Ý kiến kiểm sát viên: tất cả đều đúng trình tự thủ tục.
- Nhận định của tòa án
+ Về tố tụng:

2
+ Về nguyên tắc Tòa án không được từ chối thủ lý vụ án dân sự vì lý do
chưa có điều luật áp dụng. Căn cứ khoản 2 Điều 4, khoản 14 Điều 26 Bộ luật tố
tụng dân sự đã xác nhận Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án.
+ Về nội dung:
 Theo trình bày của bà T thì con ông B đã thế chấp cho bà T để
vay tiền việc này ông B và bà H có biết, nhưng bà không có bằng
chứng xác thực. Phía ông B bà H phủ nhận toàn bộ lời trình bày
của bà T.
 Việc ông B mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có thật.
Ủy ban nhân dân huyện Long Hồ cũng dã đồng ý hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã mất và cấp cho ông B giấy chứng nhân
mới. Sau đó bà T chứng minh được giấy chứng nhân AM 090902
không mất nên ông B không được cấp lại giấy chứng nhận mới.
 Việc bà T yêu cầu ông B trả đủ 120.000.000 đồng mới trả lại
giấy chứng nhận sử dụng đất là trái pháp luật và buộc bà T phải
trả lại cho ông B và bà H theo đúng quy định pháp luật.
- Quyết định: Tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Buộc bà Nguyễn Thị Thủy
T giao trả lại cho ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H chứng nhận quyền sử dụng đất
số AM090902, số vào sổ H55802, số thửa 1595 diện tích 489,1 m 2 .

Tóm tắt bản án 22/2017/HC-ST “quyết định truy


thu thuế”.
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Quan Sơn.
Người khởi kiện: ông Nguyễn Việc Cường, sinh năm 1984
Người bị kiện:
1. Chi cục trưởng chi cục thuế thành phố Bến Tre.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn Bé( chi cục trưởng chi
cục thuế thành phố Bến Tre).
Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Minh Thiện ( phó chi cục trưởng
chi cục thuế thành phố Bến Tre).

3
2 Cục trưởng chi cục thuế tỉnh Bến Tre.
* Nhận định của Tòa án:
- Về tố tụng: ông Cường yêu cầu Tòa án hủy quyết định của Chi cục trưởng chi
cục thuế thành phố Bến Tre vàCục trưởng chi cục thuế tỉnh Bến Tre.
- Về thời hiệu khởi kiện, thẩm quyền giải quyết: vẫn còn thời hiệu, thẩm quyền
thuộc về Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.
* Xét theo quy định 714 QĐ-CCT ngày 12/10/2015.
- Về trình tự thủ tục ban hành quyết đinh: đúng trình tự, thủ tục theo quy định
của pháp luật.
- Về thẩm quyền ban hành: đúng thẩm quyền.
- Về nội dung quyết định:
+ Chưa có căn cứ xác nhận ông cường phải nộp thuế khi mua bán tiền kĩ
thuật số
+ Pháp luật Việt Nam không có căn cứ quy định về nghề kinh doanh nạp
tiền ảo, nên chưa có pháp lệnh điều chỉnh mua bán loại tiền này trên Internet.
Vì vậy quyết định của chi cục trưởng chi cục thuế thành phố Bến Tre đã vuợt
quá thẩm quyền ban hành theo quy định của pháp thuật, ảnh hưởng đến hệ
quả điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước.
+ Căn cứ theo điều khoản pháp luật thì quyết định khiếu nại của ông
Cường được chấp thuận.
- Ý kiến của Kiểm sát viên: kiểm sát viên cho rằng việc chi cục thuế truy thu
thuế đối với ông Cường là có căn cứ. Vì vậy theo những điều lệ áp dụng ở các
phần trên thì ý kiến của Kiểm sát viên không được chấp nhận.
* Quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt Cường, tuyên xử: Hủy
quyết định số 714/QĐ-CCT ngày 12/5/2016 của chi cục Trưởng chi cục thuế
thành phố Bến Tre về việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả và quyết
định số 1002/QĐ-CT ngày 18/5/2017 của Cục trưởng Cục thuế thành phố Bến
Tre về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Việt Cường.

4
Câu 1: Thế nào là giấy tờ có giá? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví
dụ minh hoạ về một vài giấy tờ có giá?
- BLDS 2015 không định nghĩa cụ thể giấy tờ có giá là gì mà chỉ nêu giấy
tờ có giá là một loại tài sản (Điều 105 BLDS 2015). Tuy nhiên, giấy tờ có giá có
thể hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu
dân sự.
- Giấy tờ có giá hiện này tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như: Séc, cổ
phiếu, tín phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kì phiếu, công trái,…

Câu 2: Trong bài viết Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam, tác giả
Nguyễn Minh Oanh có coi “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” là tài sản không?
- Trong bài viết, tác giả Nguyễn Minh Oanh coi “giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là tài sản.
- Tác giả nhận định: “Cần lưu ý các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu,
quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đăng
ký ô tô, sổ tiết kiệm,… không phải là giấy tờ có giá. Nếu cần phải xem xét thì đó
chỉ đơn thuần được coi là một vật và thuộc sở hữu của người đứng tên trên
giấy tờ đó.”
- Theo đó, tác giả nhận định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà không phải là giấy tờ có giá mà là một vật thuộc sở
hữu của người đứng tên trên giấy đó, đáp ứng được các điều kiện để trở thành
vật trong dân sự.
+ Là bộ phận của thế giới vật chất.
+ Con người chiếm hữu được.
+ Mang lại lợi ích cho chủ thể
+ Có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai.
=> Vì vậy, tác giả coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà là tài sản.
( Theo điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản).

5
Câu 3: Trong bài viết Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất, tác giả Đỗ Thành Công
có coi “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là
tài sản không?
- Trong bài viết, tác giả coi “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” là tài sản.
- Tác giả nhận định: “(…) Thực tiễn xét xử hiện nay không coi giấy chứng
nhạn quyền sử dụng đất là một tài sản, tuy nhiên quan điểm này lại tỏ ra thiếu
cơ sở pháp ly và thực tiễn. Theo chúng tôi, , về đường lối xét xử, cần thừa nhận
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản và giải quyết các tranh chấp về
kiện đòi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang do người khác chiếm giữ
theo thủ tục tố tụng dân sự, không nên coi tranh chấp này như một tranh chấp
hành chính theo quan điểm hiện nay của Toà án nhân dân tối cao”.

Câu 4: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản
án số 39 có câu trả lời không?
- Trong thực tiễn xét xử hiện nay, không coi “giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, gấy chứng nhận sở hữu nhà” là giấy tờ có giá.
- Các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản
như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà,
giấy đăng kí ô tô, sổ. tiết kiệm,… không phải là giấy tờ có giá.
(Các loại tài sản trong luật dân sự Việt Nam)
- Toà án nhân dân tối cao ban hành công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày
21/9/2011 hướng dẫn thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản (“Công văn 141”). Theo công văn, các giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng kí xe mô tô, xe máy; Giấy đăng kí xe ô tô,
…) không phải là giấy tờ có giá quy định tại Điều 163 của BLDS 2005 (Điều 105
BLDS 2015).

6
(Vai trò của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề kiện đòi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất)

- Quyết định số 06 ghi nhận: “[2] Xét thẩm quyền giải quyết vụ án:
Theo Điều 105 BLDS 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất đọng sản và động sản,
Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai.”; Điều 105 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác.”. (…) Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản
chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”

- Bản án số 39 ghi nhận: “Hội đồng xét xử thấy rằng Bộ luật tố tụng dân
sự không quy định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp này. Tuy nhiên về
nguyên tắc Toá án không được từ chối giai quyết vụ án dân sựu vì lý do chưa có
điều luật để áp dụng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp
lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác
gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung
này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật dân sự…”

Câu 5: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39
có câu trả lời không? Vì sao?
- Trong thực tiễn xét xử, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy
chứng nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản.
- Căn cứ theo:
+ Khoản 1 điều 105 BLDS 2015: Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản.

7
+ Khoản 16 điều 3 Luật đất đai 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng
thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.”
- Do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà
chỉ chứa đựng thông tin về quyền, là văn bản chứng quyền, không phải là tài
sản.
- Quyết định số 06 ghi nhận:“[2] Xét thẩm quyền giải quyết vụ án:
Theo Điều 105 BLDS 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản,
Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong
tương lai.”; Điều 105 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác.”. (…) Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản
chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”

- Bản án số 39 ghi nhận: “Hội đồng xét xử thấy rằng Bộ luật tố tụng dân
sự không quy định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp này. Tuy nhiên về
nguyên tắc Toá án không được từ chối giai quyết vụ án dân sựu vì lý do chưa có
điều luật để áp dụng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp
lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác
gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung
này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luạt dân sự…”

Câu 6: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06
liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp
luật nước ngoài)?

8
Hướng giải quyết trong quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài
sản được quy định ở khoản 1 Điều 105 BLDS năm 2015 là chưa thỏa đáng. Do:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất
định, có hình dạng cụ thể (một tờ giấy), nằm trong khả năng chiếm hữu của
con người (có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất), có giá trị sử dụng (dùng để minh chứng quyền
sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất). Việc Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất không thể tham gia giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi bản
chất tài sản của nó. Thực tế, có những loại tài sản mà Nhà nước cấm lưu thông,
chẳng hạn vuc khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật.... Việc coi Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất không là tài sản dẫn tới nhiều hệ quả không giải thích
được về mặt lý luận và thực tế và còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
của người sử dụng đất. Cụ thể,theo quy định hiện hành của pháp luật Việt
Nam, quyền sở hữu và từng nội dung riêng lẻ của quyền sở hữu là quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt chỉ có thể thực hiện trên các đối tượng
là tài sản. Vì vậy, việc coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không là tài sản
đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất đối
với loại giấy tờ này.

Câu 7: Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
- Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không
được coi là tài sản.
- Căn cứ tại:
+ Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản
+ Điều 115 BLDS 2015: Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.

9
- Do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứng đựng
thông tin về quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền không được xem là
giấy tờ có giá. Vì vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem là
tài sản.

Câu 8: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong bản án số 39 liên
quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”?
Hướng giải quyết của bản án số 39 là hợp lý. Vì việc bà T chiếm giữ giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B và bà H là trái pháp luật hơn nữa bà
không đưa ra được giấy tờ chứng minh con trai ông B đã thế chấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất trên cho bà để vay số tiền 120.000.000 đồng. Nên việc
tòa án yêu cầu bà trả lại giấy chứng nhận trên cho ông B và bà H là đúng.

Câu 9: Bitcoin là gì?


- Bitcoin (ký hiệu: BTC, XBT, ) là một loại tiền mã hóa, được phát minh
bởi Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009.
Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà không
cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào.

- Bitcoin có cách hoạt động khác hẳn so với các loại tiền tệ điển hình:
Không có một ngân hàng trung ương nào quản lý nó và hệ thống hoạt động
dựa trên một giao thức mạng ngang hàng trên Internet. Sự cung ứng Bitcoin là
tự động, hạn chế, được phân chia theo lịch trình định sẵn dựa trên các thuật
toán. Bitcoin được cấp tới các máy tính “đào” Bitcoin để trả công cho việc xác
minh giao dịch Bitcoin và ghi chúng vào cuốn sổ cái được phân tán trong mạng
ngang hàng – được gọi là blockchain. Cuốn sổ cái này sử dụng Bitcoin là đơn vị
kế toán. Mỗi bitcoin có thể được chia nhỏ tới 100 triệu đơn vị nhỏ hơn gọi là
satoshi.

(Wikipedia)

Câu 10: Theo Toà án, bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam
không?

10
- Theo Toà án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam.

- Ghi nhận: “Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có bất cứ một văn bản
quy phạm pháp luật nào quy định tiền kỹ thuật số (tiền ảo) là hàng hoá, dịch vụ
sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam. Cụ thể theo điều
163 BLDS 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản. (…) Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo
là tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp pháp, đồng thời Nghị định số
96/2014/NĐ-CP ngày 17/1/2014 của Chính Phủ quy định chế tài xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương tiện
thanh toán không hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự.”

Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Toà án đối với Bitcoin
trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam?

Quan niệm của Tòa án về Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản
ở Việt Nam là hợp lý, bởi lẽ dựa trên những phân tích và chứng minh ở phần
trên thì ta thấy rằng khung pháp lý về tiền kỹ thuật số (tiền ảo) cũng như hành
vi mua bán tiền ảo qua mạng Internet đang được hoàn thiện, tức là hiện chưa
có văn bản quy phạm pháp luật nào xác định tiền kỹ thuật số (tiền ảo) là tiền tệ
hay kinh doanh hàng hóa được pháp luật cho phép và buộc phải đóng thuế.

* Căn cứ xác lập quyền sở hữu:

Tóm tắt bản án: Quyết định giám đốc thẩm số


111/2013/DS-GDT “Đòi nhà”.
- Nguyên đơn: Cụ Dư Thị Hảo.
- Bị đơn:Chị Nhữ Thị Vân.

Tóm tắt:

11
- Nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, tp. Hà Nội là tài sản riêng của cụ Hảo.
- Năm 1954, cụ Hảo vào Sài Gòn, giao nhà cho con trai là ông Chính quản lý.
- Ông Chính đi công tác ở Thái Nguyên nên cho ông Khải thuê nhà, có lập giấy
tờ thuê nhà.
- Sau khi ông Khải mất thì cháu gái ông là chị Vân vẫn sử dụng đến nay nhưng
giấy tờ thuê nhà đã bị mất.
- Năm 1975 cụ Hảo nhiều lần đòi nhà nhưng chị Vân không trả.
- Năm 2001 chị Vân bán nhà cho vợ chồng chị Lan và anh Sơn.
- Năm 2004 cụ Hảo khởi kiện đòi lại nhà.

Bản án sơ thẩm và phúc thẩm:


- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi nhà cho thuê.
- Buộc chị Vân và vợ chồng chị Lan, anh Sơn phải trả lại toàn bộ diện tích nhà
đất tại tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Quyết định của Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội:
Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm về vụ án “Đòi nhà”, giao hồ
sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại.

Câu 1:Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia định
chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của tòa án?

- Đoạn của quyết định cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại
nhà số 02 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình
chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo),
nhưng cụ Hảo đi vào nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính cũng không xuất
trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà”.

- Khẳng định này của Tòa án là không xác đáng, dù nhà chị Vân ở từ năm
1954, tính đến thời điểm bán cũng trên 30 năm nhưng nhà này là của cụ Hảo
có trên giấy tờ lưu giữ thì nếu không có văn bản nào của cơ quan nhà nước thì
không thể gọi là nhà có đất tranh chấp.
12
Câu 2: Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
định chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của tòa án?

- Đoạn của quyết định cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Vân đã
ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo
quy định tại khoản 1 điều 247 BLDS 2005 về xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu: “ Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản,
30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời
điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này””.

- Tòa án xác định như thế là chưa xác đáng, bởi vì căn nhà số 2 Hàng Bút
là gia đình cụ Hảo cho thuê, cụ Hảo vẫn còn là chủ sở hữu căn nhà, cũng là
người đứng tên căn nhà, cụ ủy quyền cho ông chính quản lý căn nhà chứ không
từ bỏ căn nhà(không từ bỏ quyền sở hữu căn nhà), gia đình chị Vân chiếm hữu
căn nhà lúc nó còn là sở hữu của cụ Hảo mà không được sự đồng ý thì không
thể gọi là chiếm hữu ngay tình được.

Câu 3: Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
định chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của tòa án?

- Đoạn của quyết định cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Vân đã ở
tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo
quy định tại khoản 1 điều 247 BLDS 2005 về xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản,
30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời
điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này””.
13
- Và ở trong một đoạn khác: “ Trong khi gia đình chị Vân ở tại nhà số 2
Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân, sau này là bố chị Vân và chị
Vân vẫn tiếp tục sinh sống.”

- Theo em, tòa án xử khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục
nhà đất trên 30 năm là hợp lý vì theo khoản 1 điều 182 BLDS 2015: “ Việc
chiếm hữu tài sản được thực hiện trong một khoản thời gian mà không có
tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được trao cho
người khác chiếm hữu.”

- Theo toà án, thời gian trễ nhất gia đình chị Vân có thể bắt đầu ở là vào
năm 1968, từ mốc thời gian đó đến thời gian khởi kiện năm 2004 đã là 36 năm
liên tục, thì trong thời gian 36 năm bên phía nguyên đơn khai đã có đòi nhà, cụ
thể là sau năm 1975, nhưng không có tài liệu pháp lý phù hợp để chứng thực
điều này, từ đó thiếu cơ sở để xác mình căn nhà đó có tranh chấp giữa hai bên.

- Các tình tiết của vụ án đã cho thấy gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngôi
nhà trong một khoảng thời gian dài mà không có tranh chấp.

Câu 4: Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia
định chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của tòa án?

- Đoạn của quyết định cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Trong khi đó chị Vân
khai gia đình chị ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1945, lúc đầu là ông nội chị
Vân ở, sau này là bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở.”
- “Sau khi ông nội chết năm 1995 thì gia đình chị không còn đóng tiền
thuê nhà cho ông Chính nữa. Sau đó bố chị(ông Nhữ Duy Sơn và chị tiếp tục
quản lý). Năm 1997, bố chị chết thì chị tiếp tục ở lại nhà số 2 Hàng Bút( tầng1),
chị không trả tiền thuê nhà cho ai, quá trình ở thì bố chị có nâng cao nền nhà,
thay cửa, còn chị không sửa chữa gì thêm”.
- Và trong đoạn: “Gia đình chị đã ở lại căn nhà này trên 30 năm là
chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 điều 247
14
BLDS 2005 về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công
khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì
trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 điều này.””
- Theo em, tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai
nhà đất là hoàn toàn có căn cứ vì theo khoản 1 điều 183 BLDS 2015: “Việc
chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách
minh bạch, không giấu diếm, tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính
năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của
mình.”. Gia đình chị Vân đã sử dụng ngôi nhà với mục đích sinh sống và sinh
hoạt. Đồng thời đã có sửa chữa và nâng cấp ngôi nhà trong thời gian sinh sống
ở đó. Ngôi nhà đã được sử dụng theo đúng tính năng và công dụng và được
người chiếm hữu giữ gìn, bảo quản như tài sản của mình.

Câu 5: Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo
không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Toà án?

- Đoạn của quyết định cho thấy Toà án khẳng định cụ Hảo không còn là
chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà
đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng
minh( chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy ban Nhân Dân phường Hàng Bồ năm
2001), đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn kiện ra tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà
là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu căn nhà nêu
trên.”
- Theo em, Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có
tranh chấp dựa vào lời khai của nguyên đơn và bị đơn là chưa chính xác.
- Nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có bằng khoán điền thổ số
25, tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày 04/11/1946. Nghĩa là cụ
Hảo đã xác lập quyền sở hữu đối với căn nhà từ năm 1946.Dù cụ Hảo có vào

15
nam sinh sống nhưng vẫn chưa từ bỏ quyền sở hữu đối với căn nhà đó, không
có chứng minh nào cho thấy cụ không còn là chủ sở hữu căn nhà.

Câu 6: Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối
với nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền
không? Vì sao?

Gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền của BLDS 2015 vì
những lí do sau đây:
- Gia đình chị Vân đã sống ở đây nhiều thế hệ, suy cho cùng dù xét thời
điểm là năm 1968 hay 1954 thì thời gian chiếm hữu cũng đã trên 30 năm, căn
cứ vào điều 182 BLDS 2015.
- Việc chiếm hữu nhà số 2 Hàng Bút của gia đình chị Vân không có căn cứ
pháp luật, chị Vân hoàn toàn có thể biết việc chiếm hữu này là không có căn cứ
pháp luât dựa vào việc không có hợp đồng cho thuê nhà nhưng có thể xem là
không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, phù hợp với quy đinh tại điều 189
BLDS 2005.
- Gia đình chị Vân đã sử dụng với đúng tính năng, công dụng và được gia
đình chị bảo quản, giữ gìn như tài sản của mình, đồng thời việc chiếm hữu này
diễn ra hoàn toàn công khai, minh bạch, căn cứ vào khoản 1 điều 183 BLDS
2015.
- Tuy nhiên, nếu theo điều 180 BLDS 2015 quy định: “Chiếm hữu không
ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc có thể biết rằng
mình không có quyền đối với tài sản”. Ở trường hợp này, việc chị Vân biết nhận
thức được rằng thực chất căn nhà là do ông nội chị thuê, có trả tiền nhà đầy đủ
trong một khoản thời gian dài nên chị hoàn toàn có thể biết và phải biết rằng
mình không có quyền đối với tài sản đó.

16
* Chuyển rủi ro đối với tài sản:

Câu 1: Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời?
Bà Dung là người phải chịu rủi ro đối với tài sản, vì theo Khoản 1 Điều
441 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước
khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ
thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác”, mà thời điểm xảy ra cháy chợ và ghe xoài bị hư là sau khi bà Dung
đã nhận ghe xoài nên theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì bà Dung là
người phải chịu rủi ro đối với ghe xoài.

Câu 2: Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời?
Tại thời điểm cháy chợ thì bà Dung là chủ sở hữu số xoài, vì theo Khoản 1
Điều 161 Bộ luật dân sự có quy định: “… thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao. Thời điểm tài sản
được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của
họ chiếm hữu tài sản”, mà tại thời điểm cháy chợ thì ghe xoài đã được bà Thủy
chuyển giao cho bà Dung nên theo quy định pháp luật thì bà Dung là chủ sở
hữu số xoài.

Câu 3: Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì
sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Bà Dung vẫn phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên. Vì bà Thủy đã hoàn
tất chuyển giao ghe xoài cho bà Dung và bà Dung đã trở thành chủ sở hữu của
ghe xoài trước khi bị cháy chợ và ghe xoài bị hư nên theo quy định tại Khoản 1
điều 441 Bộ luật dân sự thì bà Dung phải thanh toán tiền cho bên bán là bà
Thủy và chịu hoàn toàn rủi ro.
17
18

You might also like