You are on page 1of 8

*Án lệ 31/2020/AL

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H


Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim L
Cụ Nguyễn Thanh T (là người có công với cách mạng) được Quân khu 7 cấp cho căn nhà
số 63 (tầng 2) đường B từ năm 1981 để tạo điều kiện về chỗ ăn ở cho gia đình cán bộ,
theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Những người sống cùng căn nhà được cấp với cụ
Nguyễn Thanh T là cụ Lê Thị T4 (người vợ sau của cụ T), bà Nguyễn Thị Kim L và ông
Nguyễn Thanh H1 (là các con riêng của cụ T4). Năm 1995, cụ T chết nhưng trước đó
chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Trước khi cụ T chết, cụ T đã
lập giấy uỷ quyền để giao cho bà L trọn quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến căn
nhà khi cụ còn sống và cả khi cụ qua đời. Sau khi cụ T chết, bà L tiếp tục quản lý, sử
dụng ổn định ngôi nhà này. Năm 1998, bà L có đơn xin mua hóa giá căn nhà nêu trên
nhưng các con của cụ T là bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn T1 khiếu nại, không đồng
ý cho bà L mua nhà trên theo chế độ của cụ T
*Tóm tắt Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa:
Nguyên đơn: Ông Phan Hai
Bị đơn: Ông Phan Quốc Thái 
Ngày 16/02/2017 ông Phan Hai khởi kiện yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Ngày 4/5/2017, TAND huyện Diên Khánh đưa ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của ông Hai. Sau đó, ngày 12/05/2017 Viện kiểm sát
nhân dân huyện đã kháng nghị và ngày 15/05/2017 ông Hai cũng kháng cáo quyết định
trên. Quyết định của TAND tỉnh Khánh Hòa là không chấp nhận kháng nghị của Viện
kiểm sát nhân và kháng cáo của nguyên đơn (ông Hai), đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại
đơn khởi kiện vì xét thấy “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” không phải là tài sản,
không thể xem đó là giấy tờ có giá nên không thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án.

*Tóm tắt bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến
Tre
Nguyên đơn: ông Nguyễn Việc Cường
Bị đơn:
1. Chi cục trưởng chi cục thuế thành phố Bến Tre.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn Bé (Chi cục trưởng chi cục thuế
thành phố Bến Tre).
Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Minh Thiện ( phó chi cục trưởng chi cục thuế
thành phố Bến Tre).
2 Cục trưởng chi cục thuế tỉnh Bến Tre.
Ông Cường kiện Chi cục trưởng chi cục thuế Bến Tre vì đã truy thu tiền thuế về việc ông
Cường mua bán tiền ảo. Tòa án cho rằng: Khung pháp lý về tiền kỹ thuật số đang hoàn
thiện và chưa có văn bản nào quy định về điều này.
Quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt Cường, tuyên xử: Hủy
quyết định số 714/QĐ-CCT ngày 12/5/2016 của chi cục Trưởng chi cục thuế thành phố
Bến Tre về việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả và quyết định số 1002/QĐ-CT
ngày 18/5/2017 của Cục trưởng Cục thuế thành phố Bến Tre về việc giải quyết khiếu nại
của ông Nguyễn Việt Cường.
Câu 1: Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa
về giấy tờ có giá.
BLDS 2015 không định nghĩa cụ thể giấy tờ có giá là gì mà chỉ nêu giấy tờ có giá
là một loại tài sản (Điều 105 BLDS 2015). Tuy nhiên, giấy tờ có giá có thể hiểu là giấy tờ
trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự.
Về các loại giấy tờ được xác định là giấy tờ có giá thì căn cứ theo quy định của
pháp luật hiện hành, cụ thể điểm c khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
giải đáp về nghiệp vụ được quy định tại Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21 tháng
09 năm 2011 có quy định các loại giấy tờ có giá bao gồm:
– Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu theo quy định của Pháp
lệnh về ngoại hối.
– Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, Séc, Công cụ chuyển nhượng khác theo quy định
của Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005 (trừ công cụ nợ dài hạn được tổ chức phát
hành nhằm huy động vốn trên thị trường).
– Tín phiếu, trái phiếu, hối phiếu, công trái và công cụ khác theo quy định của pháp luật
quản lý về nợ công.
– Các loại chứng khoán theo quy định tại Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 sửa đổi
năm 2010, gồm các giấy tờ như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần,
chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, nhóm chứng khoán, chỉ số chứng khoán,
Hợp đồng góp vốn đầu tư và các loại chứng khoán khác.
Câu 2: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có
cho câu trả lời không?
Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” không được coi là giấy tờ có giá. Theo Công văn số 141/TANDTC-KHXX ban hành
ngày 21/9/2011, các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản như “Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở”, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, “Giấy đăng ký xe ô tô”,... không
phải là giấy tờ có giá quy định tại Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2005. 
Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 có câu trả lời. Căn cứ Điều 105 BLDS
2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và Động sản có thể là tài sản
hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”; Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí
tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai
năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Như vậy, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về quyền sử dụng đất, là văn bản
chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá. 
Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 không có câu trả lời.

Câu 6. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà.”
Hướng giải quyết trong Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân
huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” là hợp lý và thuyết phục. 
Tuy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá nhưng xét về mặt là
vật thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn được coi là tài sản. Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là loại giấy tờ quan trọng thể hiện sự công nhận của nhà nước đối với
người sử dụng đất hợp pháp. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng là một trong
những căn cứ cho phép xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có liên quan trong
việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất. Do đó, hướng giải quyết của Tòa án
là thỏa đáng, đảm bảo được quyền và nghĩa vụ của các bên đồng thời áp dụng đúng quy
tắc của Toà án dù Bộ luật dân sự không quy định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp
nhưng về nguyên tắc Tòa không được từ chối giải quyết vụ án dân sự vì lý do chưa có
điều luật áp dụng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác
gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm
chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật
dân sự.
Câu 8: Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
- Căn cứ Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định về tài sản như sau:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Vì những đặc thù của Bitcoin chắc chắn nó không phải là vật.
- Căn cứ điểm a, điểm đ khoản 2 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010:
“a) Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác
được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ);
đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển
vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.”
- Căn cứ Điều 16 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 về đơn vị tiền:
“Đơn vị tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là "Đồng", ký hiệu quốc gia
là "đ", ký hiệu quốc tế là "VND", một đồng bằng mười hào, một hào bằng mười xu.”
Theo đó chúng ta có thể thấy: Bitcoin không được xem là ngoại tệ, đồng thời không phải
là ngoại hối vì bitcoin không được pháp luật Việt Nam công nhận. Vì thế, Bitcoin không
được xem là tiền.
- Căn cứ khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010:
“Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ
có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và
các điều kiện khác.”
Vì thế, ở thời điểm hiện tại pháp luật Việt Nam không coi Bitcoin là một loại tài sản.
Câu 9: Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết.
Tùy từng quốc gia và khu vực khác nhau mà Bitcoin có thể được coi là tài sản
hợp pháp hay không. Ví dụ như tại Việt Nam, Algeria, Nepal,… thì Bitcoin bị coi là
bất hợp pháp. Tuy nhiên, tại một số nước khác như Đức, El Salvador, … thì Bitcoin
được coi là hợp pháp.
Tại Đức, ngày 19 tháng 8 năm 2013, Bộ Tài chính Đức đã thông báo rằng
Bitcoin về cơ bản là một đơn vị tiền tệ và có thể được sử dụng cho mục đích thuế và
giao dịch trong nước. Vào tháng 11 năm 2019, Quốc hội Đức thông qua một luật cho
phép các ngân hàng bán và lưu trữ tiền điện tử kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2020.
Tại El Salvador, Quốc hội El Salvador ngày 9 tháng 6 năm 2021 thông qua luật
công nhận tính hợp pháp của Bitcoin, xem Bitcoin là một loại tiền tệ hợp pháp.
Tại Mỹ, Cơ quan thực thi phòng chống tội phạm tài chính của Bộ Tài chính Hoa
Kỳ (FinCEN) đã ban hành hướng dẫn về Bitcoin từ năm 2013. Họ xác định Bitcoin
không phải là tiền tệ, mà là một doanh nghiệp dịch vụ tiền (MSB).
Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
Về khái niệm tài sản, căn cứ Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản
và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai." Như vậy, tài
sản có một số đặc điểm như: thuộc sở hữu của một chủ thể nhất định; đáp ứng một lợi ích
nhất định của con người (lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần); mang tính giá trị (giá trị
và giá trị sử dụng). Đồng tiền Bitcoin mang những ưu điểm vượt trội và là một khởi đầu
cho một xu thế mới trên phạm vi toàn cầu. Song Bitcoin vẫn tiềm tàng rất nhiều nhược
điểm (Bitcoin có thể bị mất nếu xảy ra vấn đề về ổ cứng, dữ liệu bị nhiễm virus hay các
tập tin bị hỏng. Bitcoin luôn biến động khó lường mà sự biến động của đồng bitcoin vượt
xa mức độ biến động của các đồng tiền truyền thống. Bitcoin chứa đựng rủi ro lỗ hổng kỹ
thuật do nó là một hệ thống công nghệ máy tính) để các hệ thống pháp lý xem xét và nhận
định đây có thực sự là “tài sản” hay không.
Xét đến quan điểm của Tòa án, khung pháp lý về tiền kỹ thuật số, hay còn gọi là
tiền ảo, đang được hoàn thiện, hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào xác định tiền
kỹ thuật số, tiền ảo là hàng hóa. Theo đó, Tòa án nhận định Bitcoin không phải là tài sản
theo luật pháp Việt Nam. Bởi dưới sức ép của các thách thức liệt kê trên, vẫn chưa thể
khẳng định luật pháp Việt Nam sẽ thực sự xem Bitcoin là tài sản hợp pháp. Vì những lý
do trên, quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở
Việt Nam là hợp lý.

Câu 14. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (Trong mối quan hệ với khái niệm
tài sản)?
- Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền
thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản) là hợp lý.
 - BLDS 2015 quy định: 
+ Điều 105: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.”
+ Điều 115: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”
+  Điều 609 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: “ Cá nhân có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di
sản theo di chúc.”
 Theo như Toà án nhân dân tối cao thì trong trường hợp này quyền thuê, quyền
mua như là tài sản, hay chính xác hơn là có quyền thuê, mua hoá giá nhà cụ T  là
quyền tài sản (trị giá được tính bằng tiền) và được chuyển giao để thừa kế.
Cụ T được Quân đội cấp căn nhà tại số 63 đường V, phường X, quận I thành phố Hồ
Chí Minh. Đây được coi là tài sản riêng của cụ T. Cụ có quyền thuê, quyền mua hoá
giá căn nhà trên hợp pháp theo Nghị định của Chính phủ số 61-CP ngày 05 tháng 7
năm 1994 về mua bán và kinh doanh nhà ở. Vì vậy, quyền thuê, quyền mua của cụ
T được coi là quyền tài sản vì nó trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
giao dịch dân sự.
*Tóm tắt quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: cụ Dư Thị Hảo 
Bị đơn: Nhữ Thị Vân.
Nhà số 2 phố Hàng Bút, phường H, quận H, thành phố H có bằng khoán điền thổ số 25,
tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ tại thành phố H ngày 04/11/1946, nhà gạch 2 tầng là tài
sản riêng của cụ Dư Thị Hảo (chồng là cụ Nguyễn Đắc Đính, mất năm 1942). Năm 1954,
cụ Hảo vào Sài Gòn buôn bán, giao nhà trên cho con là vợ chồng ông Nguyễn Đắc Chính
và bà Nguyễn Thị Châu quản lý. Năm 1968, vợ chồng ông Chính, bà Châu đi công tác tại
Thái Nguyên nên đã cho ông Nhữ Duy Hải thuê tầng 01 nhà trên. Sau khi ông Hải chết đã
để lại nhà thuê cho cháu là Nhữ Thị Vân ở.
Từ năm 1975, gia đình cụ Hảo đã nhiều lần có đơn đòi nhà cho thuê gửi UBND phường
H yêu cầu giải quyết. Năm 1988, gia đình cụ Hảo đòi nhà thì chị Vân yêu cầu tìm nhà
khác cho chị nhưng khi tìm được nhà thì chị Vân đổi ý nên việc đòi nhà không thành. Đầu
năm 2001, chị Vân tự ý bán nhà đang ở thuê cho vợ chồng chị Dương Thị Ngọc Lan và
anh Nguyễn Hồng Sơn. Diện tích nhà trên đang do vợ chồng chị Lan, anh Sơn sử dụng
làm kho chứa hàng.
Ngày 19/9/2014, cụ Dư Thị Hảo khởi kiện đòi lại 02 phòng tầng 01 nhà số 02 Hàng Bút
cho ông Nhữ Duy Hải thuê.
Ngày 09/9/2013, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định giám đốc
thẩm số 111/2013/DS-GĐT hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao tại Hà Nội và hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân
thành phố H giải quyết vụ án "Đòi nhà" nêu trên, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành
phố H, yêu cầu xác minh làm rõ một số nội dung và xét xử sơ thẩm lại.

Câu 18: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không
còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án.
Đoạn của Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao cho thấy khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công
khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “... Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên
30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 điều 247 Bộ
luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu “Người chiếm hữu, người được lợi về
tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn
mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu
tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
này. Căn cứ vào Điều 191 BLDS 2005: “Việc chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu
công khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu
được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như
tài sản của chính mình." Và Khoản 1 Điều 183 BLDS 2015: “Chiếm hữu công khai là
việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm
hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữa gìn
như tài sản của chính mình.” Gia đình chị Vân đã sử dụng ngôi nhà tranh chấp với mục
đích chủ đạo là nơi sinh sống và sinh hoạt. Đồng thời đã có sửa chữa, nâng cấp ngôi nhà
trong quá trình sinh sống. Ngôi nhà số 2 Hàng Bút đã được sử dụng theo định tính năng,
công dụng và được người chiếm hữu là gia đình chị Vân bảo quản và giữ gìn như tài sản
của mình. Như vậy, khẳng định của Tòa án là hợp lý và có căn cứ.

Câu 22. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Theo Điều 223, BLDS 2015 quy định “Người được giao tài sản thông qua hợp
đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo
quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó". Trong tình huống trên thì đối
tượng là bà Dung có mua xe xoài đó và đã nhận trước thời điểm cháy chợ. Vậy nên tại
thời điểm cháy chợ thì bà Dung là chủ sở hữu số xoài.

You might also like