You are on page 1of 23

0

MỤC LỤC
NỘI DUNG............................................................................................................................... 3
VẤN ĐỀ 1: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO CON CHƯA THÀNH NIÊN GÂY RA..... 3
1.1 Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời. ..................................................................................................................3
Tình huống:.............................................................................................................................4
1.2 Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời................................................................4
1.3 Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình giá trị chiếc đồng hồ và
xe đạp không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn
xét xử đối với hoàn cảnh tương tự..........................................................................................4
1.4 Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu đồng
mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời và
cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự....................... 5
1.5 Tòa án có thể buộc Hùng và cha mẹ của Hùng cùng bồi thường cho anh Bình không?
Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với
hoàn cảnh tương tự................................................................................................................. 6
Tóm tắt Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cư m’Gar
tỉnh Đắk Lắk........................................................................................................................... 7
1.6 Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn có ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu trách
nhiệm bồi thường không? Cuối cùng, Tòa án đã buộc ai phải bồi thường thiệt hại...............7
1.7 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (từ góc độ văn bản cũng như
so sánh pháp luật)................................................................................................................... 8
VẤN ĐỀ 2: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI LÀM CÔNG GÂY RA.................9
2.1 Vì sao đã có quy định của Điều 584 mà BLDS 2015 còn có thêm quy định của Điều
600?........................................................................................................................................ 9
2.2 Khả năng quy trách nhiệm liên đới bồi thường giữa người làm công và người sử dụng
người làm công trong một hệ thống pháp luật nước ngoài?................................................... 9
Tóm tắt Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
.............................................................................................................................................. 10
2.3 Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại
do người làm công gây ra?................................................................................................... 10
2.4 Trên cơ sở Điều 600, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do người làm công gây ra?..................................................................................... 10
2.5 Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600
BLDS 2015) để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường (đánh giá từng điều kiện nêu ở câu
hỏi trên đối với vụ việc được bình luận).............................................................................. 11

1
2.6 Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông Hùng thì
Ông Hùng có phải bồi thường không? Vì sao?.................................................................... 11
2.7 Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Toà án ông Hùng không phải thực hiện nghĩa vụ
bồi thường cho người bị thiệt hại......................................................................................... 12
2.8 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên Toà án liên quan đến trách nhiệm của
ông Hùng đối với người bị thiệt hại..................................................................................... 12
2.9 Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu trực tiếp ông
Hùng bồi thường...................................................................................................................13
Tóm tắt Bản án số 05/2019/DS-PT ngày 16/1/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng..14
2.10 Lỗi của người làm công trong Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015)
cần được hiểu như thế nào? Vì sao?..................................................................................... 14
2.11 Theo Tòa án, ông B có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015)
không? Vì sao?..................................................................................................................... 15
2.12 Theo Tòa án, ông A có được yêu cầu ông B hoàn trả tiền đã bồi thường cho người bị
hại không? Đoạn nào của bán án cho câu trả lời?................................................................ 15
2.13 Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm
hoàn trả của ông B (về căn cứ hoàn trả cũng như mức hoàn trả)......................................... 15
VẤN ĐỀ 3: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT GÂY RA...................................16
3.1 Quy định nào của BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật"?................................................. 16
3.2 BLDS có định nghĩa "súc vật" là gì không?...................................................................17
3.3 Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu như thế nào?................................17
3.4 Đoạn nào của bản án cho thấy thiệt hại là do chó gây ra?..............................................18
3.5 Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi thường thiệt hại
do súc vật gây ra................................................................................................................... 18
3.6 Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do súc
vật gây ra?.............................................................................................................................19
3.7 Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về lỗi của người bị thiệt hại...... 19
3.8 Suy nghĩ của anh chị về việc Tòa án xác định bà Nga có lỗi trong việc lợn nhà bà Nga
bị xâm hại?............................................................................................................................21
3.9 Việc Tòa án không buộc ông Nhã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà Nga có thuyết
phục không?..........................................................................................................................21

2
NỘI DUNG
VẤN ĐỀ 1: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO CON CHƯA
THÀNH NIÊN GÂY RA
1.1 Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 586 BLDS 2015:
“2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con
chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần
còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải
bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.”
Như vậy, cha mẹ phải bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên gây ra khi người
dưới 15 tuổi gây thiệt hại. Còn đối với người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì cha
mẹ phải bồi thường khi người đó gây thiệt hại nhưng không đủ tài sản để bồi thường
cho người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường của cha mẹ phụ thuộc vào tuổi và tài sản của con. Về độ tuổi,
vấn đề vướng mắc thường gặp trong thực tiễn xét xử liên quan đến trường hợp khi gây
thiệt hại còn chưa đủ 18 tuổi, nhưng khi xét xử vụ án thì người đó đã thành niên.
Khi con gây thiệt hại là người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì viêc sử dụng tài
sản của cha mẹ còn phụ thuộc vào tài sản của con. Do vậy, cần phải xác định người
gây thiệt hại có đủ tài sản để bồi thường hay không. Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường
của cha mẹ còn được quy định tại khoản 3 Điều 599 BLDS 2015: “Trường học, bệnh
viện, pháp nhân khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không phải bồi
thường nếu chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý; trong trường hợp này,
cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi
dân sự phải bồi thường.”

3
Tình huống:
Vào lúc 16 tuổi, Hùng đã đánh anh Bình bị thương (tổng thiệt hại là 10 triệu đồng),
lấy của anh Bình một đồng hồ (bán cho người đi đường được 2 triệu đồng) và một xe
đạp hiện đang gửi nhà một người bạn. Sau khi bị bắt, Hùng khai là có ăn trộm một số
đồ vật của những người trong chợ và bán được 7 triệu đồng. Hiện nay, Hùng không có
bất kỳ tài sản nào.
1.2 Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do
sức khỏe bị xâm phạm không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ theo quy định của BLDS 2015 tại Khoản 1 Điều 584 về căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại có quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác.” Và căn cứ theo khoản 2 Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015 quy
định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, cụ thể là “Người
từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng
tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường
phần còn thiếu bằng tài sản của mình.” Trong trường hợp trên, Hùng đã đánh anh
Bình bị thương (tổng thiệt hại là 10 triệu đồng), nên Hùng đã xâm phạm đến sức khỏe
của anh Bình từ đó phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Tại thời điểm này, Hùng 16 tuổi, là người đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi, lúc này Hùng không có bất kì tài sản nào nên cha mẹ Hùng phải bồi thường tất cả
thiệt hại bằng tài sản của mình.
1.3 Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình giá trị chiếc
đồng hồ và xe đạp không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải
quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự.
Theo khoản 1 Điều 589 BLDS 2015 quy định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm:
” Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.”
Ở đây, tài sản của anh Bình bị mất là đồng hồ và xe đạp.
Đối với chiếc đồng hồ: đã bị bán cho người đi đường với giá 2 triệu đồng. Chúng ta
không biết được người đi đường là ai, tên, tuổi, địa chỉ,... nên khả năng để tìm lại

4
được chiếc đồng hồ để khắc phục hậu quả gần như là không có khả năng. Vì thể, tòa
có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình giá trị chiếc đồng hồ.
Đối với chiếc xe đạp điện, chiếc xe được Hùng gửi ở nhà một người bạn, trong thời
gian lấy lời khai, Hùng có thể đưa địa chỉ để tới lấy xe về, như vậy xem như tài sản
không bị mất, trường hợp này thì cha mẹ Hùng không cần bồi thường. Tuy nhiên nếu
chiếc xe đã hỏng hóc trong quá trình Hùng trộm cắp thì cha mẹ Hùng phải bồi thường
chi phí sửa chữa. Ở đây còn cần phải xác định được liệu trong thời gian không có xe,
lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản có bị giảm sút hay không? Theo
khoản 2 Điều 589 BLDS 2015: “Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị
mất, bị giảm sút.”
Hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử với một hoàn cảnh tương tự đó là Quyết định
số 04/HĐTP-HS ngày 23/2/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Ngày 21-8-1994 Hùng trốn trại cải tạo và gây ra 10 vụ trộm cắp. Giá trị tài sản của
công dân bị chiếm đoạt là trên 28 triệu đồng, tài sản xã hội chủ nghĩa bị chiếm đoạt là
2.700.000 đồng, số tài sản này đã thu hồi được một phần trả lại cho những người bị
hại. Những tài sản có giá trị bao gồm: 2 xe máy, 1 đầu video, 4 điện thoại bàn...Hùng
bán cho Phương ở 72 Bà Triệu, thành phố Huế và một số nơi khác được 7.570.000
đồng. Tòa án các cấp buộc bố mẹ của Hùng bồi thường cho những người bị hại số tiền
là 4.332.000 đồng
1.4 Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7
triệu đồng mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ không? Nêu rõ cơ sở
pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với
hoàn cảnh tương tự.
Tòa án không thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu đồng
mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ.
Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra
thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất
về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Còn sung quỹ nhà nước hay nói một cách khác là nộp
tiền cho ngân sách nhà nước là việc một chủ thể giao một khoản tiền cho chủ thể khác
là nhà nước. Hiện nay, BLDS 2015 chỉ đề cập đến trách nhiệm bồi thường của cha mẹ

5
khi con chưa thành niên gây ra thiệt hại chứ chưa quy định việc cha mẹ phải có trách
nhiệm nộp ngân sách nhà nước.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 589 và khoản 2 Điều 586 của BLDS 2015, bồi thường
thiệt hại cho những người bị thiệt hại ở chợ nếu có yêu cầu bởi họ.Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đầu tiên thuộc về Hùng, nhưng vì không có tài sản riêng nên cha mẹ
Hùng phải thay Hùng bồi thường thiệt hại.
Hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự:
Trên thực tế, tại Quyết định số 04/HĐTP-HS ngày 23/2/2004 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao cho rằng tòa án các cấp buộc bố mẹ Hùng phải nộp số
tiền 7.570.000 đồng do bị cáo chiếm hưởng từ việc bán tài sản trộm cắp được là không
đúng quy định của pháp luật dân sự. Tại bản án phúc thẩm số 265/HSPT ngày 6-6-
1995, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng đã nêu: “Hùng khi phạm tội và khi
xét xử chưa đủ 18 tuổi và không có tài sản riêng nên buộc bố mẹ bị cáo bồi thường
cho những người bị hại là đúng. Tuy nhiên, Toà án các cấp buộc bố mẹ bị cáo phải
nộp số tiền 7.570.000 đồng do bị cáo chiếm hưởng từ việc bán tài sản trộm cắp được
là không đúng quy định của pháp luật dân sự”. Vì vậy cha, mẹ Hùng không phải đóng
khoản tiền tương đương với tài sản bị thiệt hại vào ngân sách nhà nước.
1.5 Tòa án có thể buộc Hùng và cha mẹ của Hùng cùng bồi thường cho anh Bình
không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực
tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự.
Toà án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình. Căn cứ vào
Khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của cá nhân: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại
thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha,
mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”. Theo đó, Toà án có thể
buộc Hùng và cha mẹ Hùng cùng bồi thường cho anh Bình nếu tài sản của Hùng
không đủ để bồi thường cho anh Bình thì cha mẹ của Hùng cũng phải bồi thường phần
còn thiếu bằng tài sản của mình.
Hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử, theo Bản án số 19/2012/DSST ngày
12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cư m’Gar tỉnh Đắk lắk, cháu Hậu (chưa đủ 16
tuổi tại thời điểm gây ra tai nạn) điều khiển xe máy biển số 47FB-0098 đi trên đường

6
liên xã thì đâm phải xe máy biển số 47H1-1931 do bà Nam điều khiển làm bà bị
thương, gãy xương đùi phải, tỷ lệ thương tích là 30% sức khỏe. Mặc dù Hậu gây thiệt
hại nhưng Tòa án chỉ quyết định “buộc ông Thụ và bà Thêm có nghĩa vụ liên đới bồi
thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Nam”. Do Hậu không có tài sản riêng.Tòa án đã
theo hướng giải quyết khi cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường khi con gây thiệt
hại nhưng không đủ tài sản để bồi thường cho nên có thể buộc con và cha mẹ cùng bồi
thường thiệt hại do con gây ra.
Tóm tắt Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cư
m’Gar tỉnh Đắk Lắk
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nam
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thêm
Cháu Hậu là con của bà Thêm và ông Thụ lái xe đi không đúng phần đường quy định
đâm vào bà Nam làm bà Nam bị đa thương, gãy xương đùi, tỷ lệ thương tích là 30%.
Nay bà Nam khởi kiện yêu cầu bà Thêm bồi thường thiệt hại về sức khỏe và tài sản
cho mình. Cháu Hậu, vào thời điểm gây tai nạn chưa đủ 16 tuổi là người chưa thành
niên và không có tài sản riêng. Mặt khác bà Thêm và ông Thụ đã ly hôn, cháu Hậu
hiện đang được ông Thụ trực tiếp nuôi dưỡng nhưng tại thời điểm cháu Hậu gây tai
nạn cháu đang ở với mẹ là bà Thêm. Tòa án tuyên bố cha, mẹ cháu Hậu là người đại
diện theo pháp luật nên có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của cháu Hậu
gây ra cho bà Nam.
Theo “Quyết định của Tòa án”, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn
Thị Nam, buộc ông Thụ và bà Thêm có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về sức
khỏe cho bà Nam là 42.877.000 đồng, chia theo phần thì ông Thụ và bà Thêm mỗi
người phải bồi thường 21.438.500 đồng, bà Thêm đã bồi thường 3.000.000d nên bà
phải bồi thường số tiền còn lại là 18.438.500 đồng.
1.6 Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn có ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu
trách nhiệm bồi thường không? Cuối cùng, Tòa án đã buộc ai phải bồi thường
thiệt hại.
Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn không ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu trách
nhiệm vì ly hôn chỉ làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa ông Thụ và bà Thêm chứ
không làm chấm dứt nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung.

7
Tòa án đã buộc cả ông Thụ và bà Thêm có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại và
chia theo phần ông Thụ bà Thêm mỗi người bồi thường 21.438.500 đồng.
1.7 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (từ góc độ văn bản
cũng như so sánh pháp luật).
Em đồng tình về hướng giải quyết trên của Tòa án vì:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 thì “Người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu
không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài
sản của mình”. Ngày Hậu gây ra thiệt hại cho bà Nam là ngày 26/12/2010 và Hậu
sinh năm 1995 tức là tại thời điểm này Hậu đã 15 tuổi vậy nên Hậu là người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Theo quy định của BLDS 2015 thì khi gây
ra thiệt hại cho bà Nam, Hậu phải bồi thường bằng tài sản của mình nếu không đủ thì
cha mẹ Hậu là ông Thụ và bà Thêm phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của
hai ông bà. Tuy nhiên, trong bản án cũng đã ghi rõ Hậu không có tài sản riêng nên
việc Tòa án buộc ông Thụ và bà Thêm phải liên đới bồi thường toàn bộ thiệt hại là
hợp lý.
Bà Thêm cho rằng bà và ông Thụ đã ly hôn và bản án đã giao cho ông Thụ trực tiếp
nuôi dưỡng Hậu nên bà không có trách nhiệm về hành vi của cháu Hậu. Tòa án không
chấp nhận lập luận của bà và em hoàn toàn đồng tình với Tòa án. Mặc dù ông Thụ và
bà Thêm đã ly hôn nhưng sự kiện ly hôn này chỉ làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa
hai ông bà chứ không phải là căn cứ để chấm dứt nghĩa vụ của ông Thụ và bà Thêm
đối với con chung của hai người. Chính vì thế Luật Hôn nhân và Gia đình đã đặt ra
vấn đề quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn được quy định tại
Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Thậm chí Điều 74 Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2014 còn quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại do con gây ra:
“Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự”. Bản án số 19 cũng
rơi vào trường hợp tại Điều 74 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định vì Hậu
là con chưa thành niên của ông Thụ và bà Thêm. Do đó, hướng giải quyết của Tòa án
là hoàn toàn hợp lý.

8
VẤN ĐỀ 2: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI LÀM
CÔNG GÂY RA
2.1 Vì sao đã có quy định của Điều 584 mà BLDS 2015 còn có thêm quy định của
Điều 600?
Điều kiện kinh tế của người làm công, người học nghề không cao. Nếu chỉ quy định
Điều 584 mà không quy định Điều 600 thì người gây thiệt hại phải trực tiếp bồi
thường thiệt hại mà với người làm công hay người học nghề gây thiệt hại thực hiện
bồi thường thiệt hại thì không đảm bảo được lợi ích cho người bị thiệt hại. Ngoài ra,
có những trường hợp người làm công, học nghề gây ra thiệt hại trong thời gian đang
thực hiện công việc được giao, có thể một phần do cả lỗi của người quản lý, người chủ,
không thể để người làm công chịu hoàn toàn trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Do vậy
phải quy định cá nhân, pháp nhân bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao để đảm bảo tính kịp thời của việc
bồi thường, giải quyết hài hòa quyền lợi của các bên, một phần nâng cao trách nhiệm
quản lý người làm công, người học nghề của cá nhân, pháp nhân.
2.2 Khả năng quy trách nhiệm liên đới bồi thường giữa người làm công và người
sử dụng người làm công trong một hệ thống pháp luật nước ngoài?
Trong điều 1242, BLDS Cộng hòa Pháp quy định: “Mọi người phải chịu trách nhiệm
về thiệt hại không chỉ do hành vi của chính mình gây ra, mà còn do hành vi của những
người mà mình phải chịu trách nhiệm, hoặc do các vật mà mình trông giữ gây ra".
Cụ thể hơn, tại Điều 1797, BLDS Cộng hòa Pháp có quy định: “Nhà thầu phải chịu
trách nhiệm về công việc của những người làm công cho mình”. Theo điều luật này và
điều luật khác có liên quan, người làm công được hiểu là người làm công việc do nhà
thầu giao. Khi xảy ra thiệt hại cho bên chủ công trình, nhà thầu phải đứng ra chịu
trách nhiệm toàn bộ và bồi thường thiệt hại cho bên chủ công trình.
Tuy không quy định rõ người làm công, người sử dụng người làm công có trách
nhiệm liên đới bồi thường, nhưng những quy định này có thể được hiểu là trong khoản
thời gian thực hiện công việc làm công, người sử dụng làm công phải chịu trách
nhiệm đối với người làm công tức là trong khoảng thời gian này khi người làm công
gây thiệt hại thì người sử dụng làm công cũng phải bồi thường thiệt hại. Và sau khi

9
người sử dụng người làm công bồi thường thiệt hại cho bên thứ ba, người làm công
phải có trách nhiệm bồi hoàn lại số tiền bồi thường cho người sử dụng người làm công,
trừ thỏa thuận khác.
Tóm tắt Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Định
Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Chị Thuỷ
Bị đơn dân sự: công ty Hoàng Long
Anh Cao Chí Hùng là tài xế của công ty TNHH vận tải Hoàng Long. Ngày 30/4/2009,
anh điều khiển xe chở khách chiếm sang làn đường bên trái , tông vào xe đi ngược
chiều khiến anh Hải tử vong tại chỗ. Bản án hình sự ngày 7/9/2009 quyết định xử phạt
bị cáo Hùng 9 tháng tù, buộc công ty Hoàng Long bồi thường cho gia đình 20.500.000
đồng và cấp dưỡng tiền nuôi con của anh Hùng đến khi đủ 18 tuổi mỗi tháng là
350.000 đồng. Ngày 20/9/2009, Công ty Hoàng Long kháng cáo: không đồng ý bồi
thường thiệt hại. Ngày 17/9/2009, chị Thủy kháng cáo với nội dung: yêu cầu tăng hình
phạt đối với bị cáo và yêu cầu được nhận tiền nuôi con một lần. Ngày 11/9/2009, bị
cáo Cao Chí Hùng kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.
Hướng giải quyết của Tòa án: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hùng: giảm mức án
xuống 6 tháng; không chấp nhận kháng cáo của Thuỷ, không chấp nhận kháng cáo của
công ty Hoàng Long, giữ nguyên quyết định về việc bồi thường thiệt hại của bản án sơ
thẩm.
2.3 Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do người làm công gây ra?
Đoạn thứ 3 phần “Xét thấy” của Bản án đã cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định
về bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra, cụ thể: “Bị cáo là người lái xe thuê
cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long, nên theo quy định tại Điều 622 và Điều 623
của BLDS thì Công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do Cao Chí Hùng gây ra trong khi thực hiện công việc được giao …”
2.4 Trên cơ sở Điều 600, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra?
Các điều kiện để áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra
trên cơ sở Điều 600 BLDS 2015:

10
Có thiệt hại xảy ra trên thực tế: Tài sản, tính mạng, sức khoẻ,...
Có hành vi trái pháp luật: Là hành vi trái pháp luật xảy ra khi đang thực hiện
công việc được người sử dụng người làm công giao cho hoặc được người dạy
nghề yêu cầu thực hiện trong quá trình đào tạo nghề.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại xảy ra
Lỗi: Cố ý hoặc vô ý.
2.5 Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là
Điều 600 BLDS 2015) để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường (đánh giá từng
điều kiện nêu ở câu hỏi trên đối với vụ việc được bình luận).
Theo nhóm, việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015)
để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường cho bên bị hại là hoàn toàn phù hợp với quy
định của pháp luật. Bởi vì:
Thứ nhất: ông Hùng là người làm công (lái xe) cho Công ty TNHH vận tải
Hoàng Long. Điều này phù hợp với điều kiện người làm công theo điều 622 BLDS
2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015)
Thứ hai: ông Hùng gây ra thiệt hại trong khi đang thực hiện công việc được
giao là chở khách đi từ Hải Phòng đến TP.HCM. Cụ thể là, xâm phạm đến tính mạng
của anh Hải, làm anh tử vong; gia đình anh Hải thiệt hại về mặt vật chất và tinh thần.
Thứ ba: ông Hùng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại.
Tóm lại, những phân tích trên cho thấy đã có đầy đủ cơ sở để áp dụng Điều 622 BLDS
2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015) để giải quyết trách nhiệm bồi thường của Công ty
Hoàng Long trong vụ án.
2.6 Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông
Hùng thì Ông Hùng có phải bồi thường không? Vì sao?
Giả sử ông Hùng không làm việc cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long, và xe là
của ông Hùng thì ông Hùng phải có trách nhiệm bồi thường căn cứ vào khoản 1 Điều
584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định
khác.”

11
Hình vi của ông Hùng là lấn qua phần đường bên trái và va chạm với xe mô tô đi
ngược chiều, ông đã vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ,
hậu quả là 1 người tử vong. Ngoài ra ông Hùng là người đủ từ đủ 18 tuổi trở lên, trong
nội dung bản án không đề cập đến việc ông Hùng có bị tâm thần, có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi…Vì vậy Ông Hùng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự,
thiệt hại là do ông Hùng gây ra và tài sản cũng thuộc về ông Hùng nên ông phải là
người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà bản thân đã gây ra cả về vật chất lẫn tinh
thần khi xâm phạm đến tính mạng của người bị hại theo Điều 591 BLDS 2015 (Điều
610 BLDS 2005). Theo khoản 1 Điều 591 BLDS 2015, ông Hùng có trách nhiệm bồi
thường các khoản tiền: bồi thường cho chị Thủy (đại diện hợp pháp của bị hại), chi
phí mai táng, tiền cấp dưỡng cho con trai của anh Hải. Hơn nữa, ông Hùng còn phải
bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất tinh thần cho những người thân
thích thuộc thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại (theo khoản 2 Điều 591 BLDS
2015), mà ở đây là vợ, con của anh Hải.
2.7 Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Toà án ông Hùng không phải thực hiện
nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại
Tại phần “Xét thấy” của Bản án, đoạn “Bị cáo là người làm thuê cho
Công ty TNHH vận tải Hoàng Long, nên theo quy định tại điều 622 và điều 623
BLDS thì Công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do Cao Chí Hùng gây ra trong lúc thực hiện công việc được giao và có quyền yêu
cầu Cao Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản
tiền theo quy định của pháp luật”
2.8 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên Toà án liên quan đến trách
nhiệm của ông Hùng đối với người bị thiệt hại
Theo nhóm em, hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến trách nhiệm của ông Hùng
đối với người bị thiệt hại là đúng với quy định pháp luật, tuy nhiên vẫn có điểm nhóm
cho là chưa hoàn toàn hợp lý.
Theo Toà, ông Hùng là người làm công cho công ty Hoàng Long, ông gây tai nạn khi
lái xe của công ty và trong thời gian làm việc, căn cứ vào Điều 600 BLDS 2015: “Cá
nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra
trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người

12
học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định
của pháp luật”. Công ty sẽ phải bồi thường thiệt hại mà ông Hùng gây ra, bên cạnh đó
Toà cũng dựa vào quy định này yêu cầu ông Hùng trả 5.000.000 đồng cùng công ty để
khắc phục hậu quả xảy ra. Việc anh Hùng phải bồi thường là thỏa đáng và việc chấp
nhận kháng cáo xin giảm án của ông Hùng, sau khi xem xét khả năng chi trả của gia
đình ông cũng được chấp nhận căn cứ theo khoản 2,3 Điều 585 BLDS 2015:
“2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường
nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của
mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây
thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay
đổi mức bồi thường.”
Toà yêu cầu công ty có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con của anh Hải sau khi anh qua
đời mỗi tháng 350.000 đồng đến khi cháu đủ 18 tuổi. Theo đó, người được hưởng
khoản tiền này được quy định là “người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng”,
Nghị quyết 03/2006/NQ- HĐTP đưa ra danh sách những người có thể được bồi
thường khoản tiền cấp dưỡng theo quy định tại điểm b mục 2.3 gồm: “ông bà nội,
ngoại; cha hoặc mẹ; vợ hay chồng còn sống; anh, chị em hay con, cháu của người có
tính mạng bị xâm phạm”. Trong danh sách này chúng ta có thể hiểu được những
người được bồi thường là những người có quan hệ gia đình với người bị thiệt hại,
đồng thời những người đó phải là “nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị
thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng”.
Một điểm mà nhóm thấy Toà xử lý chưa hoàn toàn thỏa đáng là việc không chấp nhận
yêu cầu cấp dưỡng cho bà Bá, người đã chăm sóc cho anh Hải từ nhỏ. Bà Bá tuy
không phải là người có quan hệ gia đình với anh, không thuộc nhóm đối tượng trên,
nhưng bà là người đã chăm sóc, nuôi dưỡng anh Hải nên anh mới có thể trưởng thành
như hôm nay, vì vậy bà cũng là người cần cấp dưỡng.
2.9 Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu
trực tiếp ông Hùng bồi thường
Theo nhóm, dựa vào quy định tại khoản 1 Điều 584 BLDS 2015: “Người nào có hành
vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích

13
hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp
Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Chị Thuỷ (vợ của người bị hại) có quyền yêu cầu ông Hùng trực tiếp bồi thường vì
ông là người gây thiệt hại cho gia đình chị Thuỷ. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế gia đình
ông Hùng không đủ nên việc bồi thường cho gia đình người bị thiệt hại có thể gặp khó
khăn.
Dựa vào quy định tại Điều 600 BLDS 2015: “Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường
thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc
được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây
thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. So với việc yêu
cầu ông Hùng bồi thường, chị Thuỷ có thể yêu cầu công ty mà ông Hùng đang làm
việc khắc phục hậu quả. Điều kiện kinh tế của công ty cao hơn vì vậy khả năng nhận
được bồi thường của chị Thuỷ sẽ nhanh hơn mà vẫn đúng với quy định của pháp luật.
Tóm tắt Bản án số 05/2019/DS-PT ngày 16/1/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng
Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn A
Bị đơn: ông Nguyễn Văn B
Ông Nguyễn Văn A đã khởi kiện ông Nguyễn Văn B về số tiền 165.647.500 đồng mà
ông Nguyễn Văn A đã bồi thường cho ông Bùi Xuân C. Theo đó, Ông B là người làm
công đã gây thiệt hại cho ông C. Tòa đã xử buộc ông B có trách nhiệm hoàn trả lại
toàn bộ số tiền mà ông A đã bồi thường cho ông C.
2.10 Lỗi của người làm công trong Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) cần được hiểu như thế nào? Vì sao?
Trước hết, ta cần hiểu như thế nào là “người làm công”. BLDS 2015 không có quy
định, định nghĩa như thế nào là “người làm công”. Tuy nhiên, ta có thể hiểu, quan hệ
“người làm công” tồn tại khi một người thực hiện công việc theo “mệnh lệnh”, “chỉ
dẫn” của người khác. Đối với Điều 622 BLDS 2005 (Điều 600 BLDS 2015) thì yếu tố
lỗi ở đây được xác định cho người sử dụng người làm công. Theo đó, nếu như “người
làm công” gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc được giao theo mệnh lệnh của
người sử dụng người làm công thì người sử dụng người làm công có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.

14
2.11 Theo Tòa án, ông B có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) không? Vì sao?
Theo Tòa án, ông B có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005. Cụ thể, “Nguyễn Văn B có lỗi
hoàn toàn trong việc gây thiệt hại cho Bùi Xuân C và đã bị xử lý hình sự về tội vô ý
gây thương tích, nên bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông A,
buộc ông B hoàn trả lại cho ông A tổng số tiền 165.647.678 đồng mà ông A phải bồi
thường cho ông Bùi Xuân C là có căn cứ và đúng quy định Điều 622 BLDS năm
2005”. Ở đây, Tòa đã xác định ông B là người làm công, ông A là người sử dụng
người làm công. Và theo Điều 622 BLDS 2005 thì ông B đã gây thiệt hại trong khi
thực hiện công việc nên Tòa đã áp dụng Điều 622 để giải quyết.
2.12 Theo Tòa án, ông A có được yêu cầu ông B hoàn trả tiền đã bồi thường cho
người bị hại không? Đoạn nào của bán án cho câu trả lời?
Theo Tòa án, ông A được quyền yêu cầu ông B hoàn trả tiền đã bồi thường cho người
bị thiệt hại. Theo bản án, “Buộc ông B hoàn trả lại cho ông A tổng số tiền
165.647.678 đồng mà ông A phải bồi thường cho ông Bùi Xuân C”. Tòa cho rằng việc
gây thiệt hại là hoàn toàn do lỗi của ông B nên căn cứ Điều 605, 622 BLDS 2005 thì
ông B có trách nhiệm hoàn trả số tiền mà ông A đã bồi thường cho ông C
2.13 Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
trách nhiệm hoàn trả của ông B (về căn cứ hoàn trả cũng như mức hoàn trả).
Hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm hoàn trả của ông B là
thuyết phục.
Theo Điều 622 BLDS 2005 quy định “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải
bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện
công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong
việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. Ở điều
khoản này có nên đến việc hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, ta lại không có quy định về khoản tiền cụ thể mà pháp luật yêu cầu người làm
công phải hoàn trả. Trong bản án trên, Tòa cũng đã dựa vào Điều 622 để buộc ông B
có trách nhiệm hoàn trả sô tiền mà ông A đã bồi thường cho ông C. Về mức hoàn trả,
pháp luật quy định không rõ nên Tòa đã dựa vào yếu tố “lỗi” để quy định về mức

15
hoàn trả. Trong bản án trên, vì việc gây thiệt hại là hoàn toàn do “lỗi” của ông B nên
ông B có trách nhiệm hoàn trả lại toàn bộ số tiền mà ông A đã bồi thường cho ông C.
VẤN ĐỀ 3: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT GÂY RA
*Tóm tắt Bản án số 23/2017/DS-ST ngày 08/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đầm
Dơi tỉnh Cà Màu
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nga.
Bị đơn: Ông Lê Phong Nhã.
Ngày 05/1/2014 âm lịch, 5 con heo bà Nga đi ăn dưới gầm cầu thì bị chó nhà ông Nhã
cắn chết 01 con (khoảng 12 kg). Bà yêu cầu ông Nhã bồi thường 1.000.000đ. Tại đơn
khởi kiện, bà yêu cầu bồi thường 1.000.000 nhưng thay đổi còn ½ giá trị con heo.
Trong phần “Tòa án xét thấy”, sự thay đổi trong đơn khởi kiện trong phạm vi khởi
kiện nên được chấp nhận. Thời hiệu khởi kiện còn hiệu lực. Bà Nga và ông Nhã cùng
thống nhất giá trị con heo tại thời điểm tết năm 2014 là 1.000.000đ và heo nhà bà Nga
bị chó nhà ông Nhã cắn chết, nên Bà Nga chịu thiệt hại là có căn cứ.
Tại địa phương có tập quán thả rông, cả hai bên đều có lỗi ngang nhau vì không quản
lý vật nuôi của mình, nên mỗi bên chịu 50% mức lỗi là đúng quy định.
Theo “Quyết định của Tòa án”, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nga. Buộc ông
Nhã bồi thường cho bà Nga trị giá ½ con heo là 500.000đ. Án phí là 200.000đ buộc
ông Nhã phải chịu 200.000đ.
3.1 Quy định nào của BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật"?
Tại Điều 603 BLDS 2015 đã sử dụng thuật ngữ “súc vật”. Cụ thể, Điều luật này được
quy định như sau:
"1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác.
Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu,
sử dụng súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người
khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng
có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
3. Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường; khi chủ sở hữu, người chiếm hữu,

16
sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì
phải liên đới bồi thường thiệt hại.
4. Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật
đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.”
3.2 BLDS có định nghĩa "súc vật" là gì không?
Hiện nay, mặc dù trong BLDS 2015 có quy định về việc chủ sở hữu súc vật có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác (Điều 603 BLDS 2015)
thế nhưng định nghĩa súc vật lại chưa được định nghĩa cụ thể trong điều luật nào.
Thông thường súc vật được hiểu là vật nuôi trong nhà, thuộc loại động vật bốn chân,
loại này
đã được con người thuần dưỡng như trâu, bò, dê, ngựa,...
Có rất nhiều định nghĩa về "súc vật" (theo Giáo trình Luật Dân sự của Học viện Tư
pháp thì "súc vật được hiểu theo cách thông thường nhất bao gồm động vật có vú
được nuôi trong nhà như trâu, bò, chó, mèo...")
Tuy nhiên các định nghĩa đó hầu như chỉ mang tính chất tương đối, vì không thể bao
hàm được các tình huống thực tiễn xảy ra trong đời sống. Ví dụ: Bò nuôi nhưng thả ở
rừng gây thiệt hại thì có được xem là súc vật hay không? Gà là gia cầm nhưng nếu
nuôi trong nhà và gây thiệt hại thì có thuộc định nghĩa súc vật nêu trên hay không?
Tình trạng này khiến cho việc xét xử các vụ án liên quan tới súc vật gây thiệt hại trở
nên khó khăn.
3.3 Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu như thế nào?
Trên thực tế, số lượng các vụ tranh chấp về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
được giải quyết tại tòa án không nhiều. Mặt khác, các vụ việc có liên quan đến bồi
thường thiệt hại do súc vật gây ra thường không có nhiều tình tiết phức tạp, nên các
phán quyết mà Hội đồng xét xử đưa ra hầu như đều có cơ sở pháp lý rõ ràng.
Có thể thấy rằng trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu khá rộng và đôi
khi là bao hàm cả “việc xác định gia cầm là súc vật" như trong bản án dưới đây, bản
án xác định con ngỗng chính là súc vật gây thiệt hại:
Khoảng 15 giờ chiều ngày 14/8/2003, anh Khánh thuê xe ôm do anh Thái chở từ ấp
Lộ sỏi về đò Đôn Xuân để về nhà ở xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Đi
được khoảng 200m thì xe cán phải con ngỗng nhà anh Trung làm anh Khánh và con

17
gái 22 tháng tuổi bị ngã, lúc đó chiếu xe ba gác do anh Tùng điều khiển ở phía sau
chạy tới lao vào làm anh Khánh bị thương, con gái anh tử vong. Anh Khánh khởi kiện
yêu cầu anh Thái và anh Tùng có trách nhiệm bồi thường chi phí điều trị của anh, tiền
mai táng cho con gái anh là 8 triệu đồng và tiền bồi thường tổn thất tinh thần 15 triệu
đồng. Tổng cộng hai khoản là 23 triệu đồng.”
Tòa án cấp sơ thẩm đã xử chấp nhận một phần yêu cầu của anh Khánh. Buộc anh Thái
và anh Tùng phải có trách nhiệm bồi thường cho anh các khoản tổng cộng 9.709.931
đồng.
Tòa án cấp phúc thẩm đã ra Bản án số 100/DSPT ngày 07/6/2005 của Tòa án nhân
dân tỉnh Trà Vinh, theo đó, hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ để xét xử sơ thẩm lại.
Trong đó, Tòa án phúc thẩm đã có những nhận định con ngỗng là nguyên nhân trực
tiếp gây ra tai nạn và xác định “lỗi của súc vật”, lỗi của anh Trung.1
3.4 Đoạn nào của bản án cho thấy thiệt hại là do chó gây ra?
Trong Bản án số 23 có đoạn: "Hội đồng xét xử thấy rằng vào ngày 06/01/2014 âm lịch,
5 con heo con của bà Nga đi ăn trên đất của ông Nhã thì bị chó của ông Nhã cắn bị
thương 01 con là thực tế có xảy ra" và đoạn: "Sau khi bị chó cắn thì hai ngày sau heo
chết, bà Nga không sử dụng được con heo bị chó cắn chết".
Qua 2 đoạn trên, có thể thấy Tòa án nhận định chó của Ông Nhã đã gây ra thiệt hại
cho bà Nga là 1 con heo con.
3.5 Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do súc vật gây ra.
Đoạn của bản án cho thấy tòa án đã vận dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do
súc vật gây ra
“Theo Điều 625 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi
thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác; nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có
lỗi trong việc làm chủ súc vật gây thiệt hại cho mình thì chủ sở hữu không phải bồi
thường”, “4. Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì
chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội”. Căn cứ điều luật viện dẫn trên, thấy rằng ông Nhã là chủ sở hữu súc

1
Đỗ Văn Đại (2014), Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb.
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.223-224

18
vật (nuôi chó), vật nuôi trong nhà nhưng do lỗi quản lý của ông Nhã nên chó nuôi của
ông Nhã cắn chết heo nuôi của bà Nga. Đối với bà Nga cũng là người sở hữu vật nuôi
trong nhà là heo con nhưng cũng không quản lý đúng quy định, để heo con chạy qua
đất của ông Nhã, hậu quả làm chó của ông Nhã cắn chết heo của bà Nga, làm cho bà
Nga bị thiệt hại 01 con heo trị giá 1.000.000 đồng. Như vậy, trong trường hợp trên cả
bà Nga và ông Nhã đều có lỗi ngang nhau trong việc quản lý vật nuôi của mình, đã
gây thiệt hại cho bà Nga nên mỗi bên phải chịu 50% mức độ lỗi là đúng quy định của
pháp luật.”
3.6 Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa áp dụng các quy định về bồi thường thiệt
hại do súc vật gây ra?
Hướng giải quyết của Tòa về việc áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do
súc vật gây ra là hợp lý.
Chó là một loài động vật đã được thuần chủng, tuy chưa có sự thống nhất về quan
điểm trong khái niệm súc vật. Tuy nhiên nhiều quan điểm cho rằng chó được xem là
súc vật chứ không phải thú dữ.
Lỗi ở đây xuất phát từ sự quản lý của chủ sở hữu, việc gây thiệt hại hoàn toàn do súc
vật gây ra cái chết cho con heo của bà Nga. Do đó việc áp dụng quy định tại Điều 625
là phù hợp với quy định.
3.7 Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về lỗi của người bị thiệt
hại.
BLDS 2005 BLDS 2015
Điều 617 quy định: "Khi người bị thiệt Khoản 2 Điều 584 quy định: "Người gây
hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi
người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường thường thiệt hại trong trường hợp thiệt
phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng
của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt
do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
thiệt hại không phải bồi thường". hoặc luật có quy định khác".
Khoản 4 Điều 585 quy định: "Khi bên bị
thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì
không được bồi thường phần thiệt hại do

19
lỗi của mình gây ra".
Ta thấy, nội dung quy định tại Điều 617 BLDS 2005 được nhà làm luật sắp xếp lại
theo hướng phù hợp hơn với cơ cấu từng điều trong bộ luật dân sự mới, do đó có thể
thấy, nội dung khoản 2 Điều 584 và khoản 4 Điều 585 BLDS 2015 chính là nội dung
quy định của Điều 617 BLDS 2005. Thế nhưng, ta có thể thấy, tại Điều 617 BLDS
2005 với Điều 585 BLDS 2015 nhà làm luật đã thay đổi nguyên tắc bồi thường thiệt
hại khi người bị thiệt hại có lỗi từ "người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt
hại tương ứng với mức độ lỗi của mình " chuyển thành bên bị thiệt hại "không được
bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra". Theo nhóm thảo luận, nhà làm luật
đã thay đổi như vậy vì hai lý do như sau:
Thứ nhất, tại BLDS 2015, yếu tố lỗi không còn được coi là căn cứ để xác định
của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, vì vậy theo nguyên tắc chung của trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, dù bên gây thiệt hại gây thiệt hại với lỗi cố ý hay lỗi vô
ý thì vẫn phát sinh căn cứ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và không vì người gây
thiệt hại có lỗi vô ý hoặc lỗi cố ý trong khi gây thiệt hại mà mức bồi thường tăng hay
giảm tương ứng theo mức độ lỗi của mình. Thế nên, nếu bên bị thiệt hại có lỗi trong
việc gây ra thiệt hại cho chính họ thì chính bên bị thiệt hại cũng phải chịu một phần
trách nhiệm đối với phần thiệt hại đó với mức độ lỗi của mình, mà cụ thể là bên bị
thiệt hại sẽ không được bồi thường phần thiệt hại tương ứng với phần thiệt hại do lỗi
của họ gây ra. Vì vậy, nhà làm luật thay đổi luật theo hướng này nhằm chia sẻ trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho bên bị thiệt hại và bên gây thiệt hại.
Thứ hai, tại quy định BLDS 2005 thì việc xác định phần bồi thường thiệt hại
chỉ dựa vào mức độ lỗi của người gây thiệt hại và không xét đến những yếu tố khác
chẳng hạn trong khi người bị thiệt hại cũng có lỗi. Điều này sẽ gây ra sự bất hợp lý,
không hợp lý đối với việc xác định mức bồi thường thiệt hại của bên gây thiệt hại.
Đồng thời, hiểu theo quy định tại BLDS 2005, nếu bên gây thiệt hại thực hiện với mức
độ lỗi khác nhau thì sẽ phải bồi thường với mức độ lỗi khác nhau. Thế nhưng, khi áp
dụng trên thực tế xét xử, việc xác định mức bồi thường thiệt hại cùng với một hành vi
trái pháp luật dựa trên mức độ lỗi (lỗi cố ý hay lỗi vô ý) là rất khó khăn cho Tòa án
giải quyết trong nhiều trường hợp. Thế nên, việc sửa đổi theo hướng nếu người bị thiệt

20
hại có lỗi sẽ không được bồi thường phần thiệt hại tương ứng phần lỗi đó sẽ giúp Tòa
án dễ xử lý và xác định mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên thực tế xét xử.
3.8 Suy nghĩ của anh chị về việc Tòa án xác định bà Nga có lỗi trong việc lợn nhà
bà Nga bị xâm hại?
Việc Tòa án xác định bà Nga có lỗi trong việc lợn nhà bà Nga bị xâm hại là hợp lý và
thuyết phục. Heo là súc vật thuộc sở hữu của bà Nga, do đó bà có trách nhiệm quản lý
đúng quy định. Nhưng trong trường hợp này, bà lại để heo đi ăn trên đất của nhà ông
Nhã và bị chó của ông Nhã cắn mà đáng lẽ bà cũng phải có biện pháp ngăn cản thiệt
hại xảy ra hay trông coi đàn heo của mình bằng cách lùa chúng ăn đúng nơi... Như vậy,
bà Nga cũng có lỗi trong vụ việc này.
3.9 Việc Tòa án không buộc ông Nhã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà Nga có
thuyết phục không?
Trong phần “Nhận định của Tòa án” đã đưa ra các lập luận có căn cứ pháp lý và bằng
chứng hợp lý, khẳng định rằng ông Nhã không cần bồi thường toàn bộ thiệt hại do bà
Nga là vô cùng thuyết phục, vì:
Đối với căn cứ khoản 1, Điều 603 của BLDS 2015: “Chủ sở hữu súc vật phải
bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác. Người chiếm hữu, sử
dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng súc
vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Việc chó nuôi của ông Nhã cắn chết
heo con của bà Nhã trên đất của mình, Tòa án đã xác định là ông Nhã phải bồi
thường cho bà Nga là hợp lý.
Đối với căn cứ khoản 4, Điều 585 của BLDS 2015: “Khi bên bị thiệt hại có lỗi
trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của
mình gây ra”. Việc bà Nga không quản lý heo con để nó thả rông qua đất nhà
ông Nhã, được Tòa án xác định là có lỗi trong việc quản lý gia súc theo tập
quán. Căn cứ theo khoản 4, Điều 603 của BLDS 2015: “Trường hợp súc vật
thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi
thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Vì
heo con bị chó nuôi ông Nhã cắn chết, người gây thiệt hại là ông Nhã nên tòa
quyết định chỉ phạt ông Nhã phải chịu 50% mức độ lỗi do hai bên đều có lỗi
trong việc quan lý gia súc và thú nuôi của mình.

21
Vì vậy, căn cứ theo quy định của pháp luật, mức phạt mà Tòa án đưa ra là hợp lý dựa
trên điều kiện lỗi của đôi bên và người gây thiệt hại.

22

You might also like