You are on page 1of 22

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT DÂN SỰ

BỘ MÔN: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG


BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU
(BTTHNHĐ phần chung)
GIẢNG VIÊN: LÊ THANH HÀ
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Lê Hoàng Thiên Ân 2153801014024
2 Trần Hiền Ân 2153801014025
3 Bạch Gia Bảo 2153801014026
4 Trương Quốc Bảo 2153801014028
5 Võ Viết Bảo 2153801014029
6 Nguyễn Thị Như Bình 2153801014032
7 Bùi Ngọc Cẩm 2153801014033
8 Nguyễn Hồ Phương Điệp 2153801014053
9 Nguyễn Thế Đức 2153801014057
10 Chế Nguyễn Hà Giang 2153801014058
NHÓM 3 – HC46A1
Table of Contents
VẤN ĐỀ 1: CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG.....................................................................................................1
1.1. Cho biết các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng (thiệt hại do người gây ra) trong BLDS 2015?................................................................1
1.2. Thay đổi về các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng giữa BLDS 2005 và BLDS 2015?.......................................................................................1
1.3. Trong Bản án số 20 (về bồi thường thiệt hại do dùng facebook nêu trên), theo
Tòa án, các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã
hội đủ chưa? Vì sao?...........................................................................................................................3
1.4. Theo anh/chị, trong vụ việc trên, đã hội đủ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chưa? Vì sao? (anh/chị đánh giá từng điều kiện
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được đáp ứng chưa)....4
1.5. Trong Bản án số 99 (về covid 19), các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã hội đủ chưa? Vì sao?.....................................................5
1.6. Việc Tòa án xác định Nguyễn Quang Trọng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong Bản án số 99 có thuyết phục không? Vì sao?..................................................................5
VẤN ĐỀ 2: XÁC ĐỊNH TỔN THẤT VỀ TINH THẦN ĐƯỢC BỒI THƯỜNG....6
2.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổn thất tinh thần được
bồi thường?.............................................................................................................................................6
2.2. Khả năng bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm trong một hệ
thống pháp luật nước ngoài...............................................................................................................7
2.3. Theo pháp luật hiện hành, tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm có được
bồi thường không? Vì sao?...............................................................................................................7
2.4. Đoạn nào của các bản án cho thấy Toà án đã áp dụng các quy định về tổn thất
tinh thần của BLDS 2015 trong các vụ việc trên?.....................................................................9
2.5. Cho biết suy nghĩ của anh chị về việc Toà án không áp dụng BLDS 2005 mà áp
dụng BLDS 2015 trong các vụ việc trên liên quan đến tổn thất tinh thần.....................10
2.6. Trong Bản án số 31, đoạn nào cho thấy người bị hại vừa bị xâm phạm về sức
khoẻ vừa bị xâm phạm về danh dự, nhân phẩm?....................................................................10
2.7. Theo Toà án trong Bản án số 31, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và thiệt hại
do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm có được kết hợp với nhau không?......................10
2.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Bản án số 31 về
khả năng kết hợp các loại thiệt hại khi nhiều yếu tố nhân thân của một chủ thể cùng
bị xâm phạm........................................................................................................................................11
VẤN ĐỀ 3: THAY ĐỔI MỨC BỒI THƯỜNG ĐÃ ĐƯỢC ẤN ĐỊNH...................12
3.1. Những khác biệt cơ bản giữa thay đổi mức bồi thường không còn phù hợp với
thực tế và giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế............12
3.2. Nêu rõ từng điều kiện được quy định trong BLDS để thay đổi mức bồi thường
không còn phù hợp với thực tế.....................................................................................................12
3.3. Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000đ của phía bị
thiệt hại có được chấp nhận không? Vì sao?............................................................................13
VẤN ĐỀ 4: XÁC ĐỊNH NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG (CÙNG
GÂY THIỆT HẠI).......................................................................................................13
4.1. Trong phần “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của BLDS, trách
nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong những trường hợp nào?. 13
4.2. Trong Bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong hoàn cảnh nào? Có xác định
chính xác được người gây thiệt hại cho bà Khánh không?.................................................14
4.3. Đoạn nào của Bản án số 19 cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị Hiền và
anh Hải liên đới bồi thường?.........................................................................................................14
4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án về trách nhiệm
liên đới...................................................................................................................................................15
4.5. Trong Quyết định số 226, ai là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ?..............16
4.6. Trong Quyết định số 226, ai là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà
Hộ?..........................................................................................................................................................17
4.7. Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã có tiền lệ chưa? Nếu có, nêu tóm
tắt tiền lệ đó.........................................................................................................................................17
4.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách
nhiệm liên đới.....................................................................................................................................17
4.9. Bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường bao nhiêu và yêu cầu ai bồi
thường?..................................................................................................................................................18
4.10. Bản án số 19, Tòa án đã quyết định anh Hải bồi thường bao nhiêu?....................18
4.11. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến anh Hải..18
VẤN ĐỀ 1: CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG.

1.1. Cho biết các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng (thiệt hại do người gây ra) trong BLDS 2015?
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS
2015 được quy định tại Điều 584.
Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (thiệt hại
do người gây ra) được quy định tại khoản 1 Điều 584 BLDS 2015:
“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Như vậy có thể nhận thấy căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng khi có các điều kiện sau:
+ Có thiệt hại xảy ra.
+ Có hành vi gây thiệt hại.
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và có thiệt hại xảy ra.

1.2. Thay đổi về các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng giữa BLDS 2005 và BLDS 2015?
BLDS 2005: BLDS 2015:
Điều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại bồi thường thiệt hại
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý 1. Người nào có hành vi xâm phạm tính
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm khác của người khác mà gây thiệt hại thì
phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật
nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại này, luật khác có liên quan quy định
thì phải bồi thường. khác.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định 2. Người gây thiệt hại không phải chịu
người gây thiệt hại phải bồi thường cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trong trường hợp không có lỗi thì áp trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự
dụng quy định đó. kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do
lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì
chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh
theo quy định tại khoản 2 Điều này.

BLDS 2015 có những điểm mới sau:


Thứ nhất: Loại bỏ yếu tố “Lỗi”:
Nếu như trong BLDS 2005, yếu tố lỗi (kể cả lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý) được sử
dụng như là căn cứ đầu tiên để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng thì trong BLDS 2015, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đầu tiên
lại là hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại. BLDS năm 2015 đã quy định căn cứ
làm phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng theo hướng có lợi cho người bị
thiệt hại. Theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi có các điều kiện: Có thiệt hại
xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Thứ hai: Bổ sung căn cứ “tài sản gây thiệt hại”
BLDS 2015 đã bổ sung thêm căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường là “tài sản
gây thiệt hại”. Cụ thể chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Các trường hợp tài sản gây ra thiệt hại
được điều chỉnh đó là súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng và nguồn nguy
hiểm cao độ. Đây là một sự bổ sung hoàn toàn hợp lý bởi trên thực tế, trách nhiệm bồi
thường ngoài hợp đồng cũng có thể phát sinh khi có sự kiện tài sản gây ra thiệt hại.
Thứ ba: Bao quát định nghĩa về chủ thể được bồi thường
BLDS 2015 đã quy định theo hướng khái quát hơn, không còn chia ra trường
hợp cá nhân và pháp nhân hoặc chủ thể khác như BLDS 2005. Khoản 1 Điều 584
BLDS 2015 chỉ quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường”. “Người khác” ở đây có thể được hiểu là cả cá nhân, pháp
nhân hoặc chủ thể khác và như vậy đã bao hàm được tất cả các loại chủ thể được trách
nhiệm bồi thường như quy định tại BLDS 2005 trước đây.

Tóm tắt Bản án số 20/2018/DS-ST:


Nguyên đơn: Bà Phan Thị Bích Ngọc.
Bị đơn: Ông Trần Quang Huy.
Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Kiều, ông Nguyễn Hữu Nhưỡng, bà Nguyễn Thị Lẽ,
ông Nguyễn Hoàng Phụng.
Nội dung: ông Trần Quang Huy có đăng một bài viết trên facebook của mình với nội
dung được cho là vu khống xúc phạm đến uy tín danh dự của bà Phan Thị Bích Ngọc.
Quyết định của tòa án: buộc ông Trần Quang Huy bồi thường thiệt hại cho bà Ngọc với
số tiền là 19.160.000 đồng và công khai xin lỗi bà Phan Thị Bích Ngọc trước Trường
THPT Thủ Thiêm, ngay sau khi bản án có hiệu lực. Không chấp nhận yêu cầu của bà
Ngọc về việc yêu cầu ông Huy bồi thường 11.000.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu
của bà Ngọc về việc yêu cầu ông Huy xin lỗi công khai bà Ngọc trên trang facebook và
trước hội đồng sư phạm Trường THPT Thủ Thiêm.

1.3. Trong Bản án số 20 (về bồi thường thiệt hại do dùng facebook nêu trên), theo
Tòa án, các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
đã hội đủ chưa? Vì sao?
Trong Bản án số 20, theo Tòa án các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã hội đủ.
Vì, ông Huy không chỉ đăng tải thông tin về việc đề thi đã bị lộ mà còn khẳng
định bà Lẽ và bà Ngọc đã cho học sinh chép đề và lời giai phần Đọc - Hiểu trong đề thi
vào hai ngày trước khi thi mà không có căn cứ và sự thật rằng không có cơ sở để xác
định việc lộ đề kiểm tra giữa học kì môn Ngữ văn, làm ảnh hưởng đến danh dự của bà
Ngọc. Không chỉ vậy, những người truy cập thông tin đã đưa ra một vài ý kiến nhận
xét có tính chất phê phán.
Hành vi của ông Huy là hành vi trái pháp luật khi đã đăng tải tin tức không có
cơ sở để xác minh, làm ảnh hưởng tới danh dự của bà Ngọc khi phải nhận những lời lẽ
không hay về mình, được quy định tại Điều 584 và Điều 592 BLDS 2015; vì vậy ông
Huy phải chịu trách nhiệm bồi thường.
1.4. Theo anh/chị, trong vụ việc trên, đã hội đủ các căn cứ làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chưa? Vì sao? (anh/chị đánh giá từng
điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được đáp
ứng chưa).
Trong vụ việc trên đã hội đủ căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Cơ sở pháp lý: Điều 584 BLDS 2015.
Các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
 Có thiệt hại xảy ra: thiệt hại ở đây là danh dự, nhân phẩm của bà Ngọc bị xâm
phạm. Đồng thời kéo công việc của bà bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
 Hành vi gây ra thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Ông Huy đã đăng những thông
tin chưa được kiểm chứng, không có căn cứ cụ thể, xúc phạm đến danh dự nhân
phẩm của bà Ngọc trên mạng xã hội. Đây là hành vi trái với pháp luật được quy
định tại Điều 34 BLDS 2015.
 Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra:
hành vi đăng tải những thông tin không được xác thực, những lời bình luận bịa
đặt, vu khống đã làm cho danh dự và nhân phẩm của bà Ngọc bị xúc phạm,
thông tin trên lan truyền nhanh chóng, làm ảnh hưởng đến danh dự của bà Ngọc,
ảnh hưởng đến quá trình giảng dạy của bà Ngọc. Đây là mối quan hệ giữa thiệt
hại và hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của người khác (hành vi trái pháp
luật).

Tóm tắt Bản án số 99/2021/HS-ST:


Nguyên đơn: UBND thành phố Đà Nẵng, UBND tỉnh Quảng Trị, UBND tỉnh Thừa
Thiên Huế, UBND tỉnh Quảng Nam, UBND tỉnh Đắk Lắk.
Bị đơn: Nguyễn Quang Trọng
Nội dung: Vào tối ngày 2/5/2021 tại tầng 5 của công ty TNHH quốc tế Amida
với gần 40 người tham dự, có đeo khẩu trang để phòng chống dịch Covid-19. Tuy
nhiên, đến phần chủ trì cuộc họp Nguyễn Quang Trọng đã yêu cầu nhân viên tham dự
cuộc họp bỏ khẩu trang ra để hô to mục tiêu nhiều lần. Sau cuộc họp, liên quan đến 5
tỉnh, thành phố với tổng cộng 65 ca nhiễm Covid-19, làm phát sinh chi phí phòng,
chống dịch với tổng tiền 11.823.302.738 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn
Quang Trọng đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người” và bị
cáo đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của UBND các tỉnh, thành phố.
1.5. Trong Bản án số 99 (về covid 19), các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã hội đủ chưa? Vì sao?
Trong Bản án số 99 (về covid 19), các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng đã hội đủ.
- Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra: Các tỉnh phải chịu các chi phí về ngăn ngừa và
truy vết kịp thời dịch bệnh.
- Thứ hai, có hành vi trái pháp luật: Việc ông Trọng yêu cầu các nhân viên bỏ
khẩu trang và hô to mục tiêu kinh doanh đã vi phạm quy tắc 5K của Bộ y tế.
- Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra:
Hành vi của ông Trọng chính là nguyên nhân dịch bệnh lây lan ở nhiều tỉnh
thành.
- Thứ tư, lỗi của người gây ra thiệt hại: Ông Trọng yêu cầu nhân viên bỏ khẩu
trang làm bùng dịch là lỗi vô ý, tuy không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng
vẫn làm dù đã lường trước hậu quả.

1.6. Việc Tòa án xác định Nguyễn Quang Trọng có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong Bản án số 99 có thuyết phục không? Vì sao?
Tòa án xác định Nguyễn Quang Trọng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là
thuyết phục.
Vì Nguyễn Quang Trọng đã vi phạm vào tội “Vi phạm quy định về an toàn nơi
đông người” điểm c khoản 3 Điều 295 BLHS, đang có dịch nhưng Trọng lại tổ chức
họp với quá số người quy định và còn tháo khẩu trang khi hô khẩu hiệu, Trọng thừa
biết hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả ảnh hưởng tới mọi người nhưng vẫn cố ý thực
hiện. Hậu quả là gây ra thêm nhiều ca bệnh xuất hiện tại công ty TNHH quốc tế
Amida, tuy đã tuân thủ 5K nhưng việc bỏ khẩu trang và tụ tập nơi đông người của
Trọng vẫn gây ra hậu quả cho xã hội. Vì vậy Trọng vẫn phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra.

VẤN ĐỀ 2: XÁC ĐỊNH TỔN THẤT VỀ TINH THẦN ĐƯỢC BỒI THƯỜNG

2.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổn thất tinh thần được
bồi thường?
Điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005:
a. Về chủ thể:
Ở BLDS năm 2005 người bồi thường là “người xâm phạm” ở khoản 2 điều 609
BLDS 2005 đã được thay bằng “người chịu trách nhiệm bồi thường” tại khoản 2 Điều
590 BLDS năm 2015. Sự thay đổi đã mở rộng chủ thể phải bồi thường không chỉ là
người xâm hại mà còn ba gồm cả đối tượng phải chịu trách nhiệm bồi thường trên thực
tế.
b. Mức bồi thường:
Tối đa tổn thất về tinh thần cho người bị hại ở BLDS năm 2015 về mức phạt ở
các trường hợp đều theo chiều hướng tăng lên so với BLDS năm 2005:
- Mức mức bồi thường tổn thất về tinh thần do thiệt hại đến sức khỏe bị xâm
phạm: tăng lên so với BLDS năm 2005, theo đó khoản 2 Điều 590 BLDS năm
2015 quy định bên gây ra tổn thất phải bù đắp về tinh thần cho bên thiệt hại,
mức bù đắp do các bên tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức bù
đắp “không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”. Như
vậy, BLDS 2005 quy định nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá
30 lần mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Còn BLDS năm 2015 quy
định trường hợp không thỏa thuận được mức tối đa bồi thường không quá 50 lần
mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
- Mức bồi thường tổn thất về tinh thần do thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín:
được nâng lên từ mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước
quy định theo khoản 2 Điều 611 BLDS năm 2005 đến mức tối đa cho cá nhân
có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ
sở do Nhà nước quy định theo khoản 2 Điều 592 BLDS năm 2015.
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh
thần cao hơn so với quy định tại BLDS năm 2005. Theo đó, BLDS năm 2015 đã
tăng số tiền bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần nếu các bên không thỏa
thuận được lên “một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.
c. Thời gian khởi kiện: BLDS năm 2005 có quy định là 2 năm còn ở BLDS
năm 2015 thì tăng lên 3 năm.

2.2. Khả năng bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm trong một
hệ thống pháp luật nước ngoài.
Đối với thiệt hại về tài sản: Tổn thất về tinh thần không hoàn toàn bị loại trừ khi
tài sản bị xâm phạm.
Bởi trên thực tế có những tài sản có giá trị rất lớn về tinh thần đối với một chủ
thể như kỷ vật của gia đình. Việc làm hư hỏng, mất mát tài sản có thể gây tổn thất về
tinh thần cho chủ sở hữu như mất ăn, mất ngủ, đau buồn….
Thiết nghĩ nếu tổn thất về tinh thần tồn tại thực tế thì nên được bồi thường. Ở
nước ngoài, chẳng hạn như Pháp, bên cạnh việc chấp nhận thiệt hại về vật chất, Tòa án
không ít lần buộc người xâm phạm tài sản phải bồi thường tổn thất về tinh thần khi ai
đó làm chết động vật gần gũi với người như chó, ngựa đua…
Ở Châu Âu, Tòa án Châu Âu về quyền con người đã cho rằng tổn thất về tinh
thần có thể tồn tại khi tài sản bị xâm phạm. Do vậy, tùy từng trường hợp cụ thể mà
chúng ta chấp nhận sự tồn tại tổn thất về tinh thần và cho người bị thiệt hại được quyền
bồi thường.1

2.3. Theo pháp luật hiện hành, tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm có
được bồi thường không? Vì sao?
Theo pháp luật hiện hành tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm không
được bồi thường. Theo “Điều 589.Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm:
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
4. Thiệt hại khác do luật quy định.”
Trong các thiệt hại trên không đề cập đến thiệt hại về tinh thần nên khi tài sản bị
xâm phạm thì không cần bồi thường tổn thất về tinh thần.

Tóm tắt Bản án số 08/2017/DS-ST:


Nguyên đơn: bà Vũ Thị Nhị.
Bị đơn: anh Vũ Minh Hiếu.
Bà Vũ Thị Nhị kiện anh Hiếu đánh bà gây thương tích dẫn đến thiệt hại. Bà yêu
cầu anh Hiếu phải bồi thường thiệt hại số tiền là 80.440.000 đồng. Trong trường hợp

1
Minh Trang, “Bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm và khi mồ mả
bị xâm phạm”, https://danluat.thuvienphapluat.vn/boi-thuong-ton-that-ve-tinh-than-
khi-tai-san-bi-xam-pham-va-khi-mo-ma-bi-xam-pham-143916.aspx, truy cập ngày
24/10/2022.
anh Vũ Minh Hiếu không đủ tài sản để bồi thường cho bà thì ông Vũ Kim Dư và bà
Nguyễn Thị Huyền phải bồi thường phần còn thiếu. Bên bị đơn không đồng ý bồi
thường vì cho là anh Hiếu không đánh bà Nhị.
Toà án xét thấy: áp dụng theo CSPL Khoản 1 Điều 604, bên nguyên đơn yêu
cầu phải bồi thường bị xâm phạm sức khỏe là có căn cứ. Và căn cứ khoản 2 Điều 606
BLDS 2005, Hiếu chưa đủ 18 tuổi thì cha mẹ phải có bồi thường phần còn thiếu.
Quyết định của Toà án: Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn.

Tóm tắt Bản án số 26/2017/HSST:


Người bị hại: Anh Chu Văn D.
Bị cáo: Nguyễn Văn A (A Cong).
Nội dung: bị hại và bị cáo ở chung buồng giam, phát hiện bị hại lấy quần cộc
của G mà chối, không thừa nhận từ đầu, bị cáo đã đá vào vùng ngực của bị hại dẫn đến
bị hại tử vong.
Trong phần xét thấy của tòa án đã xác định hành vi của Nguyễn Văn A phạm
vào tội “Cố ý gây thương tích” căn cứ tại khoản 3 Điều 104 BLHS 1999, khi quyết
định hình phạt, Hội đồng đã xét xử cũng cân nhắc, xem giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
do bị cáo khai nhận hành vi và tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại.
Quyết định của tòa án: tuyên bố bị cáo phạm tội “cố ý gây thương tích” 8 năm tù giam
cộng với 9 năm tù đang thực hiện và cấp dưỡng cho con của bị hại đến khi đủ 18 tuổi,
bồi thường tổn thất cho gia đình bị hại, phí mai táng.

Tóm tắt Bản án số 31/2019/HS-PT:


Ngày 10/06/2019, tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên mở phiên tòa kín để xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 27/2019/TLPT-HS.
Bị cáo có kháng cáo: Ksor Y Ký.
Bị hại: Kpá Hờ Miên.
Khoảng 20h ngày 25/02/2018, Ksor Y Ký đã dùng vũ lực khống chế, đe dọa và
thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của Kpá Hờ Miên (14 tuổi 2 tháng 25 ngày).
Ngày 11/04/2018 Ksor Y Ký bị bắt. Tại bản án sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo 7 năm 6
tháng tù, bồi thường 71.000.000 đồng. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin giảm mức
bồi thường thiệt hại nhưng không được Tòa án chấp nhận.
Tòa án quyết định phạt bị cáo 7 năm 6 tháng tù tính từ ngày thi hành án, nhưng
được trừ đi thời gian đã tạm giữ từ ngày 11/04/2018 đến ngày 21/04/2018, và phải bồi
thường 71.000.000 đồng cho người bị hại.

2.4. Đoạn nào của các bản án cho thấy Toà án đã áp dụng các quy định về tổn thất
tinh thần của BLDS 2015 trong các vụ việc trên?
Tại Bản án số 08/2017:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 590 BLDS 2015 quy định: “...Mức bồi thường
bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được
thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi
lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”. Căn cứ theo quy định tại khoản 3
Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ áp
dụng quy định tại khoản 2 Điều 590 BLDS 2015 để xác định mức bù đắp về tổn
thất tinh thần.
Tại Bản án số 26/2017:
Bị cáo Nguyễn Văn A đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại
khoản 3 Điều 104 BLHS 1999… Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn A là
rất nghiệm trọng đã xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác…Áp
dụng Điều 584, 585, 586, 589 và 591 BLDS 2015: Buộc bị cáo Nguyễn Văn A
phải bồi thường chi phí mai táng đối với người bị hại, bồi thường tổn thất về
tinh thần do tính mạng bị xâm hại cho gia đình người bị hại Chu Văn D.
Tại bản án số 31/2019:
Bị cáo đã thực hiện hành vi hiếp dâm làm rách màng trinh của người bị hại (14
tuổi) là đã xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị hại.
Trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 590 BLDS 2015 thì người gây
thiệt hại phải bồi dưỡng cho người bị thiệt hại các khoản gồm: Chi phí hợp lý,
cho việc chữa trị, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe; Chi phí hợp lý và phần thu
nhập thực tế bị mất của của người chăm sóc của người bị hại trong thời gian
điều trị; và một điều khoản khác để bù đắp về tổn thất tinh thần mà người bị hại
phải gánh chịu… Ngoài ra bị cáo còn phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại
do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm một khoản tiền tại Điều 592 BLDS
2015.
2.5. Cho biết suy nghĩ của anh chị về việc Toà án không áp dụng BLDS 2005 mà
áp dụng BLDS 2015 trong các vụ việc trên liên quan đến tổn thất tinh thần.
Theo em, việc Tòa án không áp dụng BLDS 2005 mà áp dụng BLDS 2015 cho
các vụ việc trên liên quan đến tổn thất tinh thần là hợp lý. BLDS 2015 xác định mức
bồi thường tối đa trên cơ sở “mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định” còn BLDS
2005 xác định mức bồi thường tối đa là “tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.
Việc thay đổi cơ sở xác định mức bồi thường ở BLDS 2015 nghĩa là tăng mức bồi
thường thiệt hại để đảm bảo quyền lợi cho người bị xâm phạm vì mức lương tối thiểu
quá thấp để làm cơ sở cho việc xác định bồi thường thiệt hại. Đồng thời việc này tăng
tính răn đe tăng cường ý thức tuân thủ pháp luật.

2.6. Trong Bản án số 31, đoạn nào cho thấy người bị hại vừa bị xâm phạm về sức
khoẻ vừa bị xâm phạm về danh dự, nhân phẩm?
Đoạn cho thấy người bị hại vừa bị xâm phạm về sức khoẻ vừa bị xâm phạm về
danh dự, nhân phẩm: “…trên đường về Ksor Y Ký từ phía sau đi tới nắm tay Miên kéo
ra sau làm Miên ngã xuống đường… Ký nảy sinh ý định giao cấu với Miên nên nắm
tay Miên kéo vào trong khu vực trường tiểu học, đến hành lang tầng 2, Ký kéo Miên
ngồi xuống dùng 2 tay sờ vào ngực Miên, Miên kháng cự đẩy Ký ra. Ký ôm, đè Miên
nằm ngửa xuống nền gạch rồi nằm đè lên người của Miên…”

2.7. Theo Toà án trong Bản án số 31, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và thiệt
hại do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm có được kết hợp với nhau không?
Theo Tòa án trong Bản án số 31, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và thiệt hại
do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm có được kết hợp với nhau. Căn cứ vào đoạn 2.2
của bản án: “Mặt khác, ngoài quy định mức bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm
phạm tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 như trên, thì bị cáo còn phải bồi thường thiệt
hại do danh sự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm cho người bị hại một khoản tiền tại
Điều 592 Bộ luật dân sự 2015 quy định, những không quá 10 lần mức lương cơ sở.”

2.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Bản án số 31
về khả năng kết hợp các loại thiệt hại khi nhiều yếu tố nhân thân của một chủ thể
cùng bị xâm phạm.
Hướng giải quyết của Tòa án trong bản án trên là thuyết phục.
Trong vụ việc trên, Tòa án theo hướng bị cáo phải bồi thường cho người bị hại
thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm. Ở đây, Tòa án đã kết hợp các loại thiệt hại khi nhiều yếu tố nhân thân
của một chủ thể cùng bị xâm phạm để ấn định mức bồi thường.
Nhóm cũng đồng ý với quan điểm của Tòa vừa nêu. Yếu tố sức khỏe và danh
dự, nhân phẩm, uy tín con người được pháp luật đảm bảo bảo vệ một cách tuyệt đối
theo khoản 1 Điều 33 BLDS 2015: “Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm
về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước
đoạt tính mạng trái luật” và khoản 1 Điều 34 BLDS 2015: “Danh dự, nhân phẩm, uy
tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”. Nên việc Tòa án kết
hợp để ấn định mức bồi thường là hợp lý, bảo vệ quyền lợi cho người bị hại một cách
tốt nhất. Có thể thấy, hành vi trái pháp luật của bị đơn đã cùng lúc xâm phạm đến hai
yếu tố nhân thân này. Cho nên việc cùng kết hợp các loại thiệt hại để ấn định mức bồi
thường là cần thiết.
Vì bản chất “quyền nhân thân mang tính chất phi tài sản. Quyền nhân thân
không biểu hiện bằng vật chất, không quy đổi được thành tiền và mang giá trị tinh
thần. Giá trị tinh thần và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không
thể trao đổi ngang giá. Một người không thể kê biên quyền nhân thân của con nợ”2.
Chính vì đặc điểm này, nên việc khi một yếu tố nhân thân bất kỳ bị xâm phạm, việc ấn
định mức thiệt hại để bồi thường khó khăn và chỉ mang tính chất tương đối. Như trong
vụ việc trên, người bị thiệt hại bị xâm phạm tình dục ảnh hưởng đến yếu tố sức khỏe và
danh dự, nhân phẩm, uy tín. Bị cáo phải bồi thường về tổn thất về sức khỏe cho người
bị hại khoản tiền 71.000.000 đồng.
Theo nhóm em, con số này chỉ mang tính chất tương đối, chưa thể cho rằng
khoản tiền này là đủ để bồi thường cho những thiệt hại về sức khỏe mà nạn nhân phải
gánh chịu. Chính vì, vậy cần kết hợp các yếu tố nhân thân khi bị xâm phạm trong thực
tế để ấn định mức bồi thường. Trong trường hợp này nếu bỏ qua một trong hai loại
thiệt hại trên có thể dẫn đến cách hiểu là chỉ những giá trị nhân thân được ghi nhận bồi
thường thì mới bị xâm phạm, điều này làm thu hẹp phạm vi quyền nhân thân mà con
người đáng phải được nhận.

2
Đặng Thi Lưu, “Quyền nhân thân trong pháp luật dân sự”,
https://tapchitoaan.vn/quyen-nhan-than-cua-ca-nhan-trong-phap-luat-dan-su-2, truy cập
ngày 26/10/2022.
VẤN ĐỀ 3: THAY ĐỔI MỨC BỒI THƯỜNG ĐÃ ĐƯỢC ẤN ĐỊNH.

3.1. Những khác biệt cơ bản giữa thay đổi mức bồi thường không còn phù hợp với
thực tế và giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế.

Tiêu chí Thay đổi mức bồi thường Giảm mức bồi thường do
không còn phù hợp với thiệt hại quá lớn so với khả
thực tế năng kinh tế

Cơ sở pháp lý Khoản 3 Điều 585 BLDS Khoản 2 Điều 585 BLDS


2015. 2015.

Điều kiện để giảm mức bồi Không xem xét đến yếu tố Người này không có lỗi
thường lỗi. hoặc lỗi vô ý.
Mức bồi thường không còn Thiệt hại quá lớn so với khả
phù hợp với thực tế. năng kinh tế của họ.

Đối tượng Người bị thiệt hại và bên Người gây thiệt hại.
gây thiệt hại.

3.2. Nêu rõ từng điều kiện được quy định trong BLDS để thay đổi mức bồi thường
không còn phù hợp với thực tế.
Điều kiện để thay đổi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế:
- Sự thay đổi kinh tế xã hội, vật giá leo thang, mức bồi thường thực tế không còn
phù hợp thực tế, sự biến động kinh tế không còn phù hợp với điều kiện đó.
- Sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại.
- Sự thay đổi về khả năng kinh tế của người bị thiệt hại.

3.3. Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000đ của phía bị
thiệt hại có được chấp nhận không? Vì sao?
Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000đ của phía bị
thiệt hại được chấp nhận vì theo khoản 3 Điều 585 BLDS 2015: “Khi mức bồi thường
không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu
cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.”
Vì mức bồi thường 60.000.000đ ban đầu đã không còn phù hợp với thực tế vì
diễn biến của thiệt hại xấu đi, bà Muối phải đi thay khớp với chi phí 70.000.000đ. Vậy
yêu cầu bồi thường thêm của bên bị thiệt hại được chấp nhận.

VẤN ĐỀ 4: XÁC ĐỊNH NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG (CÙNG


GÂY THIỆT HẠI).

4.1. Trong phần “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của BLDS,
trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong những trường
hợp nào?
Trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trong các
trường hợp:
- Nhiều người cùng gây ra thiệt hại (theo Điều 587 BLDS 2015).
- Ngoài ra, còn có một số trường hợp cụ thể về trách nhiệm liên đới bồi thường
thiệt hại:
Theo khoản 4 Điều 601 BLDS 2015:
“4. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật
thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải
bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong
việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải
liên đới bồi thường thiệt hại.”.
Theo khoản 2, khoản 3 Điều 603 BLDS 2015:
“2. Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho
người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ
sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
3. Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì
người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường; khi chủ sở hữu, người
chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.”.
Trong thực tế, tòa án ghi nhận nhiều trường hợp liên đới bồi thường thiệt hại
như: trách nhiệm của cha mẹ đối với con chưa thành niên gây thiệt hại; khi tài sản gây
thiệt hại thì các đồng sở hữu phải liên đới bồi thường…. 3

Tóm tắt Bản án số 19/2007/DSST:


Nguyên đơn: Trương Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Kim Khánh.
Bị đơn: Ngô Văn Lễ, Nguyễn Thị Thanh Hà, Nguyễn Nam Hải.
Nội dung: Ngày 23/2/2001 do chị Trương Thị Tám bán hàng và có xả rác bừa
bãi trước nhà vợ chồng anh Lễ chị Hiền. Trước sự việc đó vợ chồng anh Lễ có yêu cầu
chị Tám dọn rác và không được bán hàng trước nhà anh. Nhưng chị Tám không nghe
mà còn có thái độ xúc phạm và đôi bên giằng co một lúc thì ai về nhà nấy. Đến 18 giờ
cùng ngày anh Nam đến nhà vợ chồng anh Lễ chơi và đi mua thuốc lá tại nhà chị Hiền.
Anh Nam đã gây chuyện với chị Tám và chị Hiền, hai bên đôi chối qua lại dẫn đến xô
xát, giăng co với nhau dẫn đến bể một số trứng và gãy hai ghế ghế gỗ của bà Khánh.
Sau vụ việc chị Hiền yêu cầu anh Lễ, chị Hà và anh Hải có trách nhiệm bồi thường số
tiền 13.200.000 đồng và bà Khánh cũng có yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản cho
bà là 800.000 đồng.

4.2. Trong Bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong hoàn cảnh nào? Có xác định
chính xác được người gây thiệt hại cho bà Khánh không?
Trong Bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong quá trình anh Nguyễn Nam Hải
(em vợ anh Lễ) cùng với chị Tám và chị Hiền xô xát, giằng co qua lại với nhau. Trong
hoàn cảnh nêu trên, không thể xác định được chính xác người gây thiệt hại cho bà
Khánh cụ thể là ai. Vì trong quá trình xảy ra xô xát, các bên đều cùng gây ra thiệt hại
và các hành vi đều được thực hiện một cách đồng thời.

4.3. Đoạn nào của Bản án số 19 cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị Hiền
và anh Hải liên đới bồi thường?
Tại đoạn:
Xét thiệt hại về tài sản của bà Khánh do xô xát giữa chị Tám và chị Hiền với
anh Hải đã dẫn đến là 02 chiếc ghế gỗ bị gãy chân và các loại bánh, trứng tại
3
Đỗ Văn Đại, “Bài giảng Trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”,
www.youtube.com/watch?
v=fRYCDvY6ejI&list=RDCMUC2lzUewRwIsMC5799Pz06kQ&index=18, truy cập
ngày 25/10/2022.
quán bà Khánh bị đổ, bể… trong quá trình xô xát là có thật. Do vậy, cần buộc
những người này phải liên đới bồi thường cho bà Khánh, tuy nhiên bà Khánh
chỉ khởi kiện yêu cầu đối với anh Hải, do đó Tòa án chỉ xem xét phần trách
nhiệm của anh Hải, buộc anh Hải phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà
Khánh bằng ⅓ số tiền bà yêu cầu là 267.000đ (hai trăm sáu mươi bảy ngàn
đồng).
Dựa vào Điều 587 BLDS 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do nhiều người
cùng gây ra buộc chị Tám, chị Hiền, anh Hải bồi thường ⅓ mỗi người nhưng vì bà
Khánh chỉ khởi kiện yêu cầu đối với anh Hải nên Tòa án chỉ buộc anh Hải bồi thường
⅓ thiệt hại về tài sản cho bà Khánh.

4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án về trách nhiệm
liên đới.
Theo em, hướng giải quyết của Tòa án về vụ việc trên đã phù hợp với nguyên
tắc nhưng vẫn chưa thỏa đáng. Theo quy định tại Điều 587, BLDS năm 2015 về bồi
thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra:
Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi
thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây
thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác
định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
Trên thực tế, thiệt hại có thể cho một người hoặc nhiều người gây ra. Nếu thiệt
hại do nhiều người gây ra thì những người gây thiệt hại phải liên đới bồi thường cho
người bị thiệt hại. Theo đó, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu một trong những người
gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Tòa án phải xác định cụ thể mức bồi
thường của từng người gây thiệt hại trên cơ sở mức độ lỗi của họ. Tuy nhiên, điều này
không phải là căn cứ để xác định những người gây thiệt hại phải bồi thường liên đới
hay bồi thường riêng rẽ, mà nó là cơ sở để người đã bồi thường toàn bộ thiệt hại yêu
cầu những người khác phải hoàn trả cho mình phần đã bồi thường thay.4

4
Luật Quang Huy, “Xây dựng tình huống về bồi thường thiệt hại do nhiều người cũng
gây ra”, https://www.luatquanghuy.edu.vn/blog/bai-tap-luat/luat-dan-su/xay-dung-tinh-
huong-ve-boi-thuong-thiet-hai-do-nhieu-nguoi-cung-gay-ra/
#Trach_nhiem_boi_thuong_thiet_hai_lien_doi, truy cập ngày 25/10/2022.
Vì vậy, Tòa đã xử đúng nguyên tắc là vì sau cùng số tiền anh Hải phải trả là ⅓,
chia đều cho ba người đã gây ra thiệt hại, tương ứng với 267.000 đồng; và chưa thỏa
đáng là vì bà Khánh đã yêu cầu anh Hải phải bồi thường toàn bộ thiệt hại thì anh
Khánh phải chịu chi trả hết số tiền tương ứng như mức đã định sau đó thì yêu cầu chị
Tám và chị Hiền hoàn trả lại chứ không phải chỉ trả 267.000 đồng từ ban đầu.

Tóm tắt Quyết định số 226/2012/DS-GĐT:


Nguyên đơn: Bà Trần Thị Hộ.
Bị đơn: Bà Nguyễn Huệ Lan, ông Trần Thúc Bảo và các con của bà.
Nội dung: Bà Hộ yêu cầu các bị đơn phải bồi thường thiệt hại cho bà
147.216.260 đồng (gồm tiền thuốc, chi phí điều trị bệnh, tiền mất thu nhập của người
nuôi bệnh và bà và các khoản chi phí khiếu nại). Trong vụ án hình sự mặc dù chỉ truy
tố và xét xử Nguyễn Huệ Lan nhưng cũng cần phải xem xét trách nhiệm dân sự của
người khởi xướng trong vụ án cố ý gây thương tích là ông Trần Thúc Bảo (cha chồng
bà Lan) người đã kêu các con đánh bà Hộ. Hơn nữa việc bà Hộ chửi gia đình ông Bảo
không phải lỗi trực tiếp gây ra thương tích cho bà Hộ do đó việc bà Hộ phải chịu 20%
lỗi là thiếu căn cứ. Đồng thời chưa xem xét cụ thể từng hóa đơn, làm ảnh hưởng đến
quyền lợi các bên. Do đó đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí quan điểm
như đã nêu trong quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

4.5. Trong Quyết định số 226, ai là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ?
Trong lời khai của bà Lan bà thừa nhận thương tích của bà Hộ là do bà gây ra và
các đồng bị đơn khác không đánh bà Hộ. Cùng với đó tại bản án hình sự phúc thẩm số
95/HS-PT ngày 17/11/2005, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã tuyên phạt bà Lan 03
năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bà Hộ.

4.6. Trong Quyết định số 226, ai là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà
Hộ?
Trong Quyết định số 226, người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà Hộ là
ông Bảo. Vì theo Tòa án: “việc bà Hộ bị thương tích dẫn đến hỏng mắt có quan hệ
nhân quả của ông Bảo. Do đó cần buộc ông Bảo phải cùng chịu trách nhiệm dân sự”.
4.7. Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã có tiền lệ chưa? Nếu có, nêu tóm
tắt tiền lệ đó.
Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã có tiền lệ, cụ thể là Quyết định số
114/DS-GĐT ngày 26/5/2006 của Tòa án nhân dân tối cao.
Tóm tắt Quyết định 114/DS-GĐT:
Nguyên đơn: anh Nguyễn Hiền.
Bị đơn: ông Nguyễn Hữu Ân.
Ông Ân là người chủ mưu, rủ rê con cháu cùng gây thương tích cho anh Hiền.
Anh Hiền khởi kiện yêu cầu ông Ân phải bồi thường thiệt hại. Theo quy định của
BLDS thì ông Ân là người có lỗi cố ý cùng gây thiệt hại nên phải có nghĩa vụ liên đới
bồi thường cho anh Hiền. Anh Hiền có thể khởi kiện yêu cầu một trong những người
cùng gây thiệt hại phải bồi thường. Cùng tham gia gây thương tích cho anh Hiền còn
có anh Bằng (con trai ông An), sau khi gây thương tích cho anh Bằng, anh An đã bị
chết nên anh Hiền chỉ khởi kiện ông Ân bồi thường.
Quyết định của Toà án: hủy bản án dân sự số 09. Giao hồ sơ vụ án cho TAND
tỉnh Quảng Ngãi xét xử lại theo quy định của pháp luật.

4.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách
nhiệm liên đới.
Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý. Vì:
Theo khoản 1 Điều 288 BLDS 2015 quy định: “Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do
nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số
những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”. Việc liên đới sẽ đảm bảo
được việc bồi thường vẫn diễn ra nếu như xảy ra các trường hợp như bên gây thiệt hại
bỏ trốn, bên gây thiệt hại chết nhưng không để lại tài sản thì người bị thiệt hại vẫn có
thể yêu cầu người gây thiệt hại còn lại bồi thường toàn bộ.
Theo Điều 587 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt
hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.”.

4.9. Bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường bao nhiêu và yêu cầu ai bồi
thường?
Trong Bản án số 19, bà Khánh ban đầu yêu cầu 324.000 đồng, nhưng sau đó yêu
cầu 800.000 đồng và yêu cầu anh Hải phải bồi thường. Đoạn của Bản án cho thấy điều
đó: “Về phần thiệt hại tài sản, bà Khánh trước đây yêu cầu 324.000đ (ba trăm hai mươi
bốn ngàn đồng), nhưng sau đó yêu cầu 800.000₫ (tám trăm ngàn đồng) và yêu cầu anh
Hải phải bồi thường cho bà toàn bộ số tiền này”.

4.10. Bản án số 19, Tòa án đã quyết định anh Hải bồi thường bao nhiêu?
Bản án số 19, Tòa án đã yêu cầu anh Hải bồi thường 267.000 đồng. Đoạn của
bản án thể hiện điều này: “Do đó, cần buộc những người này phải liên đới bồi thường
cho bà Khánh, tuy nhiên bà Khánh chỉ khởi kiện yêu cầu đối với anh Hải, do đó tòa án
chỉ xem xét phần trách nhiệm của anh Hải phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà
Khánh bằng ⅓ số tiền bà yêu cầu là 267.000đ (hai trăm sáu mươi bảy ngày đồng)”.

4.11. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến anh Hải.
Tòa giải quyết như vậy là hợp lý.
Theo Điều 587 có quy định: “Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây
thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định
được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.”.
Do không xác định được mức độ lỗi của từng người là chị Tám, chị Hiền, anh
Hải, tòa án đã xác định những người này có phần lỗi ngang nhau. Vì thế Tòa án đã chỉ
chấp nhận một phần đơn khởi kiện của bà Khánh và chỉ yêu cầu anh Hải bồi thường
thiệt hại về tài sản cho bà Khánh bằng ⅓ số tiền bà đã yêu cầu. Trong quá trình xô xát
gây thiệt hại về tài sản là do cả ba người nên những người này cần phải liên đới bồi
thường cho bà Khánh với các phần bằng nhau chứ không chỉ riêng anh Hải phải bồi
thường như bà Khánh đã yêu cầu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Hồ Quân - Đình Thắng, “Những điểm mới về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng”.
2. Lan, “So sánh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa BLDS
2005 và BLDS 2015”.

You might also like