You are on page 1of 27

NHÓM 4

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Khoa: Luật Quốc Tế

Lớp: 92-QT43.1

Pháp luật về Hợp đồng và bồi


thường thiệt hại ngoài Hợp đồng
BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM

TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM


HỢP ĐỒNG
Thành viên MSSV
Lương Lê Kiều Anh 1853801015005
Lê Thị Bích Diệu 1853801015030
Phạm Thị Trà Giang 1853801015044
Phan Thị Tiền Giang 1853801015045
Lâm Thị Thu Hà 1853801015047
Võ Thị Mỹ Hân 1853801015057
Nguyễn Thị Như Hằng 1853801015058
Huỳnh Hiếu Hạnh 1853801015060
MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra..............1
1.Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.........................................1
2.Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn
không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã hội đủ
chưa? Vì sao?..............................................................................................................2
3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp đồng gây ra
đươc bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời......................................................2
4.BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi phạm
hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.......................................................3
5.Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh
thần không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?....................................................3
VẤN ĐỀ 2: Phạt vi phạm hợp đồng............................................................................3
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng..............4
2.Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng........................................5
3.Khoản tiền trả trước 30% được Toà án xác định là tiền đặt cọc hay là nội dung của
phạt vi phạm hợp đồng?..............................................................................................6
4.Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả
trước 30%.................................................................................................................... 6
5.Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn như thế
nào?............................................................................................................................. 7
6. So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết phục không?
Vì sao?......................................................................................................................... 7
7.Trong pháp luật dân sự và pháp luật Thương mại, phạt vi phạm hợp đồng có được
kết hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề
này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...............................................................................8
8.Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi thường thiệt hại
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?......................................................8
9.Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực
hiện đúng hợp đồng.....................................................................................................9
10.Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại có bị
giới hạn không? Vì sao?............................................................................................10
11.Trong Quyết định của Trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi
thường thiệt hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp trong Quyết
định về vấn đề này?...................................................................................................10
12.Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt vi phạm hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam.................................................................................11

VẤN ĐỀ 3: Sự kiện bất khả kháng............................................................................11

1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các bên có
thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu rõ cơ sở
khi trả lời................................................................................................................... 11

2.Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự
kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật Thương mại sửa đổi...................................12

3.Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các điều kiện
hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên...............................................12

4.Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường cho anh
Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.........................13
5.Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn bồi thường cho anh Bình
giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền
này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản và thực tiễn xét xử....................13
VẤN ĐỀ 4: Tìm kiếm bản án liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán...16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................23
1

VẤN ĐỀ 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra

1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005
về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.

Theo pháp luật Việt Nam, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng được quy định tại BLDS 2005, Luật Thương mại 2005 và BLDS 2015. Cụ thể
như sau:

Theo BLDS 2005: Trách nhiệm phát sinh khi có đầy đủ 4 kiện

1.Có hành vi vi phạm hợp đồng (không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
trong hợp đồng)

2.Có thiệt hại xảy ra

3.Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng (không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng hợp đồng) với thiệt hại xảy ra

4.Có lỗi của bên vi phạm

Theo Luật Thương mại 2005: Trách nhiệm phát sinh khi có đầy đủ 3 điều kiện, trừ các
trường hợp miễn trách nhiệm được quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:

1.Có hành vi vi phạm hợp đồng

2.Có thiệt hại thực tế

3.Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại

Theo BLDS 2015: Trách nhiệm phát sinh khi có đầy đủ 3 điều kiện

1.Có hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng

2.Có thiệt hại xảy ra

3.Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng với thiệt
hại xảy ra
2

Những quy định về căn cứ pháp sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
của BLDS 2015 so với BLDS 2005 có sự thay đổi như sau: BLDS 2015 đã bỏ đi điều
kiện “ có lỗi của bên vi phạm” được quy định ở BLDS 2005. Sự thay đổi này là hợp
lý, cần thiết, thể hiện tư duy tiến bộ của các nhà lập pháp Việt Nam. Vì trong thực
tiễn, yếu tố lỗi có thể xuất phát từ cả hai bên chứ không hoàn toàn là lỗi của bên vi
phạm hợp đồng, do đó không thể bắt bên vi phạm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bên
bị vi phạm được. Thay vào đó, BLDS 2015 đã dành một điều luật riêng để quy định
về trường hợp bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị vi phạm có lỗi (Điều 362).

2. Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn đã hội đủ chưa? Vì sao?

Đối với bất cứ hoạt động nào liên quan đến mô, tế bào hoặc bộ phận trên cơ thể người
đều phải có ý kiến xác nhận đồng ý cho phép của người đó hoặc trường hợp thử
nghiệm đối với cơ thể người thì người đại diện, người giám hộ hợp pháp của người đó
đồng ý, xác nhận nếu người đó thuộc đối tượng người chưa thành niên, người mất
hoặc không đầy đủ về mặt năng lực hành vi dân sự hoặc đang hôn mê, bất tỉnh và việc
này phải được thực hiện bởi tổ chức có thẩm quyền 1. Trong thỏa thuận, bà Nguyễn có
yêu cầu không được đụng đến núm vú nhưng thực tế núm vú phải bị mất. Đây thuộc
trường hợp ông Lại mổ 1 bộ phận trên cơ thể bà Nguyễn mà chưa có sự đồng ý của
bà. Như vậy, yếu tố nhân thân của bà Nguyễn đã bị xâm hại trong tình huống trên.

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường cho bà Nguyễn đã hội tụ đủ. Thứ nhất, đã có
thiệt hại xảy ra, đó là tổn thất về lợi ích nhân thân, bà Nguyễn đã mất đi núm vú bên
phải. Thứ hai, ông Lại có hành vi vi phạm nghĩa vụ. Trong thỏa thuận, bà Nguyễn có
yêu cầu ông Lại không được đụng đến núm vú nhưng thực tế thì sau nhiều lần phẩu
thuật, núm vú phải bị mất. Do vậy, ông Lại đã vi phạm nghĩa vụ không được đụng đến
núm vú như đã thỏa thuận trước đó. Thứ ba, việc ông Lại vi phạm nghĩa vụ “không
được đụng đến núm vú” đã dẫn đến hệ quả quyền nhân thân của bà Nguyễn bị xâm
phạm.

3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp
đồng gây ra đươc bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

1
Khoản 3 Điều 33 BLDS 2015
3

Theo Điều 385 BLDS 2015: “Hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Và theo khoản 2 Điều 361 BLDS
2015: “Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn
thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất hoặc giảm sút”. Như vậy, tài sản có thể là tài sản hiện hữu hoặc tài sản
hình thành trong tương lai. Tài sản hình thành trong tương lai phải được xác định là
chắc chắn sẽ có.

4. BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo khoản 3 Điều 361BLDS 2015: “Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do
bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân
thân khác của một chủ thể”. Và theo khoản 1 Điều 584 của Bộ luật này: “Người nào
có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

5. Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường thiệt hại về tổn
thất tinh thần không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?

Theo khoản 3 Điều 361 BLDS năm 2015 quy định: “Thiệt hại về tinh thần là tổn thất
về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,uy tín và
các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”. Bà Nguyễn sau khi phẩu thuật thẩm mỹ
do ông Lại làm phẩu thuật cho bà và đã xảy ra nhiều bất cập làm cho bà Nguyễn mất
đi núm vú phải. Nhưng trước đó đã nhiều lần bà Nguyễn đã may rồi mổ lại vì bị đau
nhức, vết mổ hở… Các điển hình đó cho thấy đã gây hại tính mạng, sức khỏe của bà
Nguyễn và các lợi ích khác của bà nên bà Nguyễn phải được bồi thường tổn thất về
tinh thần.

**********

VẤN ĐỀ 2: Phạt vi phạm hợp đồng

Tóm tắt Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Toà án nhân dân
TP.HCM.
4

Công ty Tân Việt (nguyên đơn) và công ty Tường Long (bị đơn) có ký kết Hợp đồng
kinh tế số 01-10/TL-TV ngày 1/10/2010 và phụ lục hợp đồng ngày 7/10/2010 với nội
dung cụ thể về đơn giá, số lượng, thời hạn giao hàng và phương thức thanh toán. Tuy
nhiên, sau khi thanh toán đợt 1, bị đơn có công văn yêu cầu thay đổi đơn giá nhưng
nguyên đơn không đồng ý. Ngày 3/12/2010, bị đơn có thông báo về việc hủy bỏ Hợp
đồng và phụ lục hợp đồng. Vì cho rằng công ty Tường Long đã tự ý hủy bỏ hợp đồng
và phụ lục hợp đồng nên công ty Tân Việt đã khởi kiện yêu cầu công ty Tường Long
phải thanh toán 509.769.640 đồng bao gồm tiền phạt cọc và tiền phạt hợp đồng. Tại
bản án sơ thẩm, Tòa chấp nhận 1 phần yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn
thanh toán số tiền phạt do hủy bỏ hợp đồng và bác yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền
phạt cọc. Tại bản án phúc thẩm, Tòa không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của công ty
Tân Việt và giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm.

Tóm tắt Phán quyết của Trọng tài quốc tế Việt Nam.

Công ty TNHH Thương mại Hà Việt (Nguyên đơn) và Công ty TNHH Thương mại
Shanghai CJS International (Bị đơn) đã ký Hợp đồng mua bán hàng hóa số FK-JSC
02/2006 vào ngày 13/09/2006. Theo Hợp dồng, bị đơn có nghĩa vụ xếp hàng trước
ngày 20/10/2006, nhưng đến ngày 20/10/2006, bị đơn vẫn chưa thực hiện việc xếp
hàng. Trong ngày 20/10/2006 ông Jung có gửi email yêu cầu tăng giá nhưng nguyên
đơn không chấp nhận. Ngày 27/10/2006 nguyên đơn nhận được email hủy Hợp đồng
từ ông Michael Jung-Giám đốc điều hành công ty Fako International (Người bán gián
tiếp). Nguyên đơn cho rằng, bị đơn đã không thực hiện đúng các cam kết trong Hợp
đồng dẫn đến phá vỡ Hợp đồng, gây thiệt hại và tổn thất cho phía nguyên đơn. Do vậy
nguyên đơn đã khởi kiện ra Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.

1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
BLDS 2005 được thay đổi để phù hợp với Luật Thương mại 2005.
Khoản 2 Điều 422  BLDS 2005 quy định: “Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”,
trong khi đó Điều 301 Luật thương mại quy định: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp
đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường
hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”2. Chính vì thế, khoản 2 Điều 418 BLDS

Bích Ngọc, bài viết Những điểm bất cập của BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, TAND tỉnh
2

Khánh Hoà
5

2015 bổ sung thêm cụm từ “trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”. Theo
quy định của BLDS 2005, mức phạt vi phạm do các bên tự thỏa thuận xuất phát từ
nguyên tắc tự do thỏa thuận theo quy định luật dân sự. Tuy nhiên mức phạt được quy
định được pháp luật thương mai điều chỉnh thì bị hạn chế ở mức 8%. Bởi thế, cần phải
phân biệt được các quan hệ do pháp luật dấn sự hay pháp luật thương mại điều chỉnh.
Theo pháp luật thương mại dù thiệt hại thực tế có thể lớn hơn mức phạt thì bên vi
phạm phải chịu tối đa mức phạt trong thỏa thuận nhưng phải phù hợp theo pháp luật.
Như vậy, sự bổ sung của BLDS 2015 đã giúp cho các bêntrong chừng mực nào đó có
thể tự do định đoạt mức phạt vi phạm hợp đồng
Mặt khác, mối quan hệ về chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại cũng không có
sự thống nhất. Theo quy định của  khoản 1 Điều 307 Luật thương mại: “Trường hợp
các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”, trong khi khoản 3
Điều 422 BLDS 2005 lại quy định: “Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận
về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt”3. BLDS 2015
bổ sung để thống nhất với Luật Thương mại bằng các thay một phần nội dung của
khoản 3 Điều 418 “Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không
thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Trong hợp đông giữa phạt vi phạm
và bồi thường thiệt hại có mối quan hệ cụ thể. Pháp luật dân sự tôn trọng sự thể hiện ý
chí của các bên, hai chế tài này sẽ được áp dụng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận.
Quy định mới tránh trường hợp trên hợp đồng không thỏa thuận nhưng lại yêu cầu bồi
thường thiệt hại.

Đối với vụ việc thứ nhất:

2. Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng.

Về đối tượng: là một khoản tiền mà buộc phải nộp cho một bên trong hợp đồng.

Về hình thức: đều được lập thành văn bản.

Bích Ngọc, bài viết Những điểm bất cập của BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, TAND tỉnh
3

Khánh Hoà
6

Về hậu quả pháp lí: bên vi phạm (bên đặt cọc) bị mất một khoản tiền và không căn cứ
vào thiệt hại thực tế.

3. Khoản tiền trả trước 30% được Toà án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của phạt vi phạm hợp đồng?

Trong bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011, Toà án xác định khoản tiền
trả trước 30% là tiền đặt cọc. Vì theo quyết định của Toà án thì Toà án không chấp
nhận yêu cầu của Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Tân Việt về việc yêu
cầu Công ty TNHH Tường Long thanh toán tiền phạt cọc là 406.920.000 đồng. Vì căn
cứ theo khoản 2 Điều 358 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp hợp đồng dân sự
được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ
để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp
đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc
giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản
tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Từ đây
cho thấy, điều kiện để phạt cọc là khi bên nhận đặt cọc từ chối giao kết, thực hiện hợp
đồng. Nhưng trong trường hợp này, rõ ràng phía bị đơn không từ chối giao kết, thực
hiện hợp đồng trái lại đã đi vào thực hiện hợp đồng thông qua việc giao hàng cho
nguyên đơn sau khi nhận tiền cọc. Do đó, yêu cầu phạt cọc của nguyên đơn không
được Toà án chấp nhận.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền trả trước 30%.

Cách giải quyết của Tòa án chưa hợp lý và thiếu thống nhất trong cách giải quyết.

Về khoản tiền trả trước 30%, Tòa án đã xác định đây là tiền đặt cọc dùng để đảm bảo
cho việc thực hiện hợp đồng dựa trên các điều luật ở phần Xét thấy. Tuy nhiên, sau đó
Tòa án lại nhận định rằng phía bị đơn đã không từ chối thực hiện hợp đồng mà hai bên
đã thực hiện hợp đồng cho khoản tiền 30% được xác định là khoản tiền dùng để thanh
toán đợt giao hàng thứ nhất. Theo hai bên thỏa thuận thì sau khi ký hợp đồng, Công ty
Tân Việt phải thanh toán trước cho Công ty Tường Long 30% giá trị đơn hàng gọi là
tiền đặt cọc, do đó theo quy định tại khoản 2 Điều 328 BLDS 2015: “Trường hợp hợp
đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc
được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực
hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ
7

chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và
một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác” thì số tiền 30% trên thuộc về bên bán khi bên mua từ chối thực hiện hợp đồng.
Nhưng thực tế, hai bên đã đi vào thực hiện hợp đồng nên khoản tiền 30% phảiđược trả
lại cho bên mua chứ không được dùng vào việc thanh toán cho giá trị đơn hàng thứ
nhất.

Đối với vụ việc thứ hai:

5. Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới
hạn như thế nào?

Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt hợp đồng được giới hạn không quá 8% giá
trị hợp đồng. Điều này được thể hiện qua đoạn: “Thỏa thuận phạt 30% giá trị hợp
đồng của các bên theo quy định tại Điều 5 của Hợp đồng là không phù hợp với quy
định của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, do vậy điều khoản này vô hiệu phần
mức phạt cao hơn 8% giá trị hợp đồng;”. Và theo: “Bị đơn phải thanh toán cho
Nguyên đơn khoản tiền phạt Hợp đồng là 2.7800 USD tương đương với 8% giá trị
hợp đồng”.

6. So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết
phục không? Vì sao?

HĐTT quyết định giới hạn mức phạt vi phạm là 8% giá trị của hợp đồng là hợp lý.

Theo khoản 2 Điều 422 BLDS 2005 thì mức phạt vi phạm được áp dụng cho các quan
hệ dân sự là mức phạt do các bên thỏa thuận. Nhưng tại Điều 301 Luật Thương mại
2005 lại quy định như sau: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng
mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không
quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều
266 của Luật này”. Như vậy, có sự mâu thuẫn giữa hai văn bản khi cùng điều chỉnh về
vấn đề này. Do đó, cần phải chỉ rõ hợp đồng này thuộc sự điều chỉnh của văn bản nào.

Tuy Trọng tài Quốc tế không nêu rõ nhưng có thể thấy rằng hoạt động mua bán hàng
hóa theo hợp đồng số FK-JSC 02/2996 là hoạt động thương mại căn cứ theo khoản 1
Điều 3 Luật Thương mại 2005 nên thuộc sự điều chỉnh theo Điều 301 Luật Thương
mại 2005. Chính vì vậy, các bên thỏa thuận về mức phạt hợp đồng là 30% giá trị hợp
8

đồng là không đúng theo quy định. Do đó, HĐTT giới hạn mức phạt còn ở mức 8%
(mức tối đa theo quy định) là hoàn toàn phù hợp.

7. Trong pháp luật dân sự và pháp luật Thương mại, phạt vi phạm hợp đồng
có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thỏa thuận
về vấn đề này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong pháp luật dân sự, phạt vi phạm hợp đồng không được kết hợp với bồi thường
thiệt hại nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề này.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 418 BLDS 2015 quy định: “Các bên có thể thỏa thuận về
việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt
hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc
vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ
chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Như vậy, theo BLDS thì phạt vi phạm hợp đồng chỉ
được kết hợp với bồi thường thiệt hại khi các bên có thỏa thuận về vấn đề này.

Theo pháp luật thương mại thì căn cứ theo khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại2005
sửa đổi, bổ sung:“2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi
phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ
trường hợp Luật này có quy định khác.” Như vậy, theo Luật Thương mại thì có thể
kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định
khác.

8. Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi thường
thiệt hại không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm được kết hợp với bồi thường thiệt hại.
Đoạn của Quyết định trọng tài: “Tuy nhiên, Điều 301 Luật Thương mại cũng quy định
ngoài mức phạt như trên, bên bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do
các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị Hợp
đồng,nên việc cho phép bồi thường mức cao hơn sẽ tạo bất ngờ cho Bị đơn. HĐTP
cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi
thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng”.
9

9. Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do
không thực hiện đúng hợp đồng.

Điểm giống:

- Là biện pháp chế tài mà luật dân sự quy định để áp dụng cho các trường hợp vi phạm
hợp đồng.

- Cơ sở để áp dụng hai biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên thực tế
và phải có lỗi của bên vi phạm.

- Mục đích chung của việc quy định cũng như áp dụng biện pháp này là nhằm ngăn
ngừa sự vi phạm hợp đồng.

Tiêu chí Phạt vi phạm hợp đồng Bồi thường thiệt hại do không thực
hiện đúng hợp đồng

Cơ sở áp Phải có sự thỏa thuận của Không cần có sự thỏa thuận.


dụng các chủ thể về việc áp dụng
Biện pháp này sẽ được áp dụng khi có
biện pháp phạt hợp đồng.
hành vi vi phạm gây ra thiệt hại cho
Không cần có thiệt hại do chủ thể bị vi phạm trên thực tế
hành vi vi phạm cũng có
thể áp dụng

Mục đích Ngăn ngừa vi phạm Khắc phục hậu quả thiệt hại do vi
chủ yếu phạm

Mức độ thiệt Do thỏa thuận của các bên. Tùy theo mức độ thiệt hại. Thiệt hại
hại về vật Tối đa không quá 5% - 8% được tính bao gồm cả thiệt hại thực tế
chất của giá trị phần hợp đồng bị vi và trực tiếp do hành vi vi phạm hợp
người bị áp phạm đồng gây ra, những khoản lợi mà
dụng người bị vi phạm đáng lẽ được hưởng
nếu không có hành vi vi phạm

10. Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại
có bị giới hạn không? Vì sao?
10

Theo văn bản4, khoản tiền kết hợp phạt vi phạm hợp đồng với bồi thường thiệt hại là
không giới hạn do việc phạt kết hợp này là do cả hai bên thỏa thuận. Các chủ thể tự do
thỏa thuận các điều khoản về phạt kết hợp sao cho phù hợp với lợi ích các bên chứ
Nhà nước không can thiệp vào việc này. Nếu không có thỏa thuận thì chỉ có thể phạt
vi phạm. Vì trong trường hợp này, giải pháp này sẽ bộc lộ nhược điểm đối với các
thiệt hại lớn hơn mức phạt mà các bên thảo thuận thì bên bị vi phạm sẽ phải chịu lỗ.

11. Trong Quyết định của Trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với
bồi thường thiệt hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp
trong Quyết định về vấn đề này?

Theo Quyết định của Trọng tài khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường
thiệt hại thì bị giới hạn vì trong Quyết định có đoạn: “Tuy nhiên, Điều 301 Luật
Thương mại 2005 cũng quy định ngoài mức phạt như trên bên thiệt hại có quyền đòi
bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại
tối đa 30% tổng giá trị hợp đồng nên việc cho phép bồi thường mức cao hơn sẽ tạo bất
ngờ cho bị đơn. HĐTT cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế”

Theo hướng giải quyết của HĐTT thì khá hợp lý vì theo Điều 301 Luật Thương mại
20055 quy định phạt vi phạm tối đa 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm còn
HĐTT cho rằng mức phạt vi phạm tối đa 8% tổng giá trị hợp đồng. Còn theo Điều 418
về thỏa thuận phạt vi phạm trong BLDS 2015 thì mức phạt vi phạm do các bên thỏa
thuận trong hợp đồng. Như vậy HĐTT tôn trọng quyết định thỏa thuận của các bên là
tổng mức phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại là không quá 30% do các bên thỏa
thuận. Vì theo BLDS năm 2015 không quy định cụ thể mức bồi thường thiệt hại mà
chỉ để cho các bên tự do thoải mái thỏa thuận với nhau và HĐTT đã làm đúng theo
quy định của BLDS.

4
Điều 307 Văn bản hợp nhất số 03-VBHN-VPQH về sứa đổi, bổ sung Luật thương mại 2005:” 1. Trường hợp
các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ
trường hợp Luật này có quy định khác.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm
và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.”.

5
Điều 301. Mức phạt vi phạm
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận
trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại
Điều 266 của Luật này.
11

12. Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt vi
phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
Tòa án có thể căn cứ theo quy định của Điều 301 Luật Thương mại năm 2005 “Mức
phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do
các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp
đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này” để giảm mức
phạt xuống còn 8% đối với bên vi phạm. Vì quy định về mức phạt ở khoản 2 Điều 418
BLDS 2015 đã bổ sung thêm “trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác” cho
nên bên vi phạm và bên bị vi phạm ngoài thỏa thuận mức phạt trên hợp đồng vẫn có
thể căn cứ theo các điều khoản mà bộ luật liên quan đang có quy định hiện hành
khác.Ngoài ra, Tòa án còn có thể xem các thỏa thuận mức phạt trên 8% là thỏa thuận
vô hiệu, vì vậy khi giải quyết tranh chấp về yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng, không
chấp nhận yêu cầu này bởi vì xem như hai bên không có thỏa thuận.

**********

VẤN ĐỀ 3: Sự kiện bất khả kháng

1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết
các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng
không? Nêu rõ cơ sở khi trả lời.

Một sự kiện được coi là bất khả kháng khi có đủ ba điều kiện sau: Là sự kiện khách
quan, xảy ra ngoài ý chí của bên vi phạm; bên vi phạm không thể lường trước được;
bên vi phạm không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và
khả năng cho phép6.

Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 có quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa
vụ như sau: “Trường hợp các bên có nghĩa vụ dân sự không thực hiện đúng nghĩa vụ
dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Khoản 2 Điều 584 BLDS 2005 có quy định như sau: “người gây thiệt hại không phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp phát sinh thiệt hại là do sự

6
Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, tr.365
12

kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thận khác hoặc luật có quy định khác”.

Căn cứ vào hai điều khoản nêu trên có thể kết luận rằng các bên có thể thỏa thuận với
nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng.

2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật Thương mại sửa đổi.

Hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thực hiện được do sự kiện bất khả
kháng trong BLDS:

Khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra thì bên có nghĩa vụ được miễn trách nhiệm nếu
nghĩa vụ không được thực hiện đầy đủ hoặc không thực hiện đúng do sự kiện bất khả
kháng gây ra.

Được kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng bị chậm trễ do
sự kiện bất khả kháng

Ngoài ra, nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng dẫn
đến việc thực hiện hợp đồng sẽ không có lợi cho các bên thì các bên có thể chấm dứt
việc thực hiện hợp đồng

Trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất
khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.

Hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thực hiên được do sự kiện bất khả
kháng trong Luật Thương mại thì theo Điều 294 Luật Thương mại sửa đổi thì khi có
sự kiện bất khả kháng xảy ra thì người vi phạm được miễn trách nhiệm.

3. Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các
điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.

Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng.


13

Một sự kiện bất khả kháng phải thỏa mãn ba điều kiện: xảy ra một cách khách quan,
không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.7

Phân tích:

1. Tàu bị gió nhấn chìm dẫn đến hỏng toàn bộ tài sản. Đây là một sự kiện xảy ra một
cách khách quan.

2. Đây là sự kiện “không thể lường trước được” do thế giới khách quan tác động diễn
ra ngoài ý chí chủ quan của con người.

3. Tàu chìm làm hàng hư hỏng toàn bộ có thật sự “không thể khắc phục được” hay
không thì bản án không nói rõ. Nếu có thể khắc phục được thì đây không là sự kiện
bất khả kháng; ngược lại, số hàng không thể khắc phục được thì đây là sự kiện bất khả
kháng. Nếu biết rõ thiệt hại xảy ra có thể tránh được nhưng bên vận chuyển vẫn thực
hiện để thiệt hại xảy ra là không hợp lý.

4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.

Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng thì anh Văn không phải bồi thường cho
anh Bình về việc hàng bị hư hỏng. Căn cứ vào khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy
định: “ Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất
khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác”.

5. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn bồi thường cho
anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được Công ty bảo hiểm thanh
toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản và thực tiễn
xét xử.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 580 BLDS 2005, anh Văn sau khi bồi thường sẽ được công
ty Bảo hiểm thanh toán lại khoản tiền này nếu anh Văn đã làm đúng theo thủ tục, yêu
cầu mà công ty bảo hiểm đưa ra, chấp hành đúng hợp đồng với công tybảo hiểm và
thiệt hại mà anh Văn bồi thường do sự kiện bất khảkháng.

7
Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015
14

“2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã bồi thường thiệt hại cho người thứ ba thì
có quyền yêu cầu bên bảo hiểm phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã trả cho người
thứ ba, nhưng không vượt quá mức trả bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp
luật đã quy định.”
Theo “Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30-5-2003 của Tòa dân sự Tòaán tối cao về
việc công ty bảo hiểm Bảo Việt hoàn trả lại số tiền màông Khóm đã bồi thường cho
ông Điền và ông Trình. Trong sự việc nàyTòa dân sự Tòa án tối cao đã đưa ra hướng
giải quyết như sau: “Về việc trả tiền bảo hiểm quy định tại điều 580 BLDSđối với
trường hợpcủa ông Khóm thì ông Khóm không cố ý để xảy ra thiệt hại. Mặt kháctheo
thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm về những loại trừtrong bảo hiểm
trách nhiệm dân sự chủ tàu thì không có thỏa thuận nàovề việc Bảo Việt An Giang
được từ chối trách nhiệm do tai nạn tàu chìm vì gió bão. Do đó, thỏa thuận của ông
Khóm và ông Trinh, ôngĐiền là không trái pháp luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo
Việt AnGiang.”
QUYẾT ĐỊNH SỐ105/GĐT-DS NGÀY 30/5/20038
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM
NHẬN ĐỊNH
Việc ông Khóm vận chuyển 2600 con vịt cho ông Điền và ông Trình vào ngày
16/8/1999 là có thật. Tuy hợp đồng miệng nhưng các bên không tranh chấp về hợp
đồng này. Thỏa thuận này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 539 BLDS (Hợp
đồng vận chuyển tài sản có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản).
Trong quá trình vận chuyển đã có thiệt hại xảy ra. Đêm ngày 16/8/1999 do mưa gió
to, nước chảy mạnh, tàu va vào chân cầu bị chìm. Tổn thất mất và chết 2260 con vịt,
chỉ còn lại 340 con. Tổng số thiệt hại các bên xác định là 79.100.000 đồng.
Sự cố chìm tàu và tổn thất đã được chủ tàu là ông Khóm làm bản tường trình báo cáo
Công an huyện Tịnh Biên, Công an huyện Tịnh Biên có biên bản giải quyết tai nạn
giao thông ngày 19/8/1999 và bản tường trình thông báo tai nạn gửi Bảo Việt An

8
Tạp chí KHPL số 5(42)/2007 Bình luận Bản án: Sự kiện bất khả kháng, Đỗ Văn Đại
15

Giang ngày 17/8/1999. Sự kiện tai nạn thiệt hại do tai nạn gây ra đã được cơ quan
Công an huyện Tịnh Biên xác nhận.
Theo hợp đồng bảo hiểm số 007427 ngày 23-4-1999 (BL 74) ông Khóm tham gia bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu với mức trách nhiệm là 100 triệu đồng tại Bảo
Việt An Giang. Về nguyên tắc quan hệ trách nhiệm giữa Bảo Việt An Giang với ông
Khóm được xác định căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm trong đó có nêu rõ điều kiện bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì
Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên chở
trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Do đó, trong trường hợp của ông Khóm, Bảo Việt An
Giang phải có trách nhiệm bồi thường mất mát 2260 con vịt là tổn thất do sự kiện bảo
hiểm gây ra tối 16-8-1999.
Những lý do mà Bảo Việt An Giang nêu ra để từ chối việc giải quyết bồi thường cho
ông Khóm theo Thông báo số 87/1999/TB.BH ngày 04/9/1999 như: “căn cứ Điều 30
Thể lệ vận chuyển và xếp dỡ hàng hóa thủy, nội địa quy định, bên vận chuyển được
miễn bồi thường trong trường hợp do thiên tai, địch họa hoặc bất khả kháng” là không
đúng và không có căn cứ, bởi lẽ việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm phải
căn cứ vào quy định tại các điều từ Điều 571 đến 584 BLDS về hợp đồng bảo hiểm.
Việc trả tiền bảo hiểm quy định tại Điều 580 Bộ luật dân sự. Bên bảo hiểm không phải
trả tiền bảo hiểm trong trường hợp bên được bảo hiểm cố ý để xảy ra thiệt hại; nếu do
lỗi vô ý của người được bảo hiểm, thì bên bảo hiểm không phải trả một phần tiền bảo
hiểm tương ứng với mức độ lỗi của bên được bảo hiểm.
Đối với trường hợp của ông Khóm thì ông Khóm không cố ý để xảy ra thiệt hại. Mặt
khác theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm về những loại trừ trong
bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu (Mục B) thì không có thỏa thuận nào về việc
Bảo Việt An Giang được từ chối trách nhiệm do tai nạn tàu bị chìm vì gió bão. Vì vậy,
Bảo Việt An Giang từ chối trách nhiệm là không đúng. Mặt khác, Điều 549 Bộ luật
dân sự vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng. Do đó, thỏa
thuận giữa ông Khóm và ông Trinh, ông Điền là không trái pháp luật, có hiệu lực và
ràng buộc cả Bảo Việt An Giang.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không căn cứ vào các quy định của Bộ
luật dân sự về hợp đồng bảo hiểm cũng như thỏa thuận của các bên trong hợp đồng
bảo hiểm, mà đã chấp nhận lý do từ chối trách nhiệm của Bảo Việt An Giang để bác
16

yêu cầu của ông Khóm là không đúng. Bởi vậy, cần hủy cả hai bản án sơ thẩm và
phúc thẩm giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử lại theo thủ tục
sơ thẩm theo hướng buộc Bảo Việt An Giang phải thực hiện trách nhiệm bồi thường
thiệt hại theo cam kết trong hợp đồng bảo hiểm.
Căn cứ vào những nhận định;
Căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự;
QUYẾT ĐỊNH
- Hủy bản án sơ thẩm số 03 ngày 24-12-1999 của Tòa án nhân dân thành phố Long
Xuyên và bản án phúc thẩm số 74 ngày 29-2-2000 của Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang.
- Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.”
**********

VẤN ĐỀ 4: Tìm kiếm bản án liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán

Mỗi nhóm tìm ít nhất 01 bản án (quyết định) của Tòa án liên quan đến việc chậm
thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà Tòa án đã áp dụng BLDS 2015.
Cho biết suy nghĩ của nhóm về hướng giải quyết của Tòa án trong bản án (quyết
định) liên quan đến việc chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà nhóm đã tìm
thấy.
Bản án liên quan đến việc chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán: Bản án
74/2018/DS_PT ngày 11/08/2018 về tranh chấp hợp đồng vay và yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ trả tiền.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau là hợp lý. Vì theo Tòa sơ thầm đã
xác định sai lãi suất khi tính tiền lãi gây tổn thất về lợi ích cho bị đơn và Tòa phúc
thẩm đã xác định đúng mức lãi suất nên có vào thời điểm đó, tức là 9,0%/năm tương
đương 0,75%/tháng. Theo đó số tiền bị đơn phải trả cả vốn lẫn lãi là 517.642.000
đồng.

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU


BẢN ÁN 74/2018/DS-PT NGÀY 11/04/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
VAY VÀ YÊU CẦU THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TRẢ TIỀN
17

Ngày 11 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm
công khai vụ án dân sự thụ lý số: 16/2018/TLPT- DS ngày 07 tháng 02 năm 2018 về
việc tranh chấp hợp đồng vay và thực hiện nghĩa vụ trả tiền.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2018/DS-ST ngày 02 tháng 01 năm 2018 của Tòa án
nhân dân thành phố C bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 39/2018/QĐXXPT-DS ngày 26
tháng 02 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phạm Văn B, sinh năm 1957.
Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963.
Cùng cư trú tại: Số nhà X, L, khóm Y, phường Z, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo ủy quyền của ông B và bà H: Ông Trương Minh K , sinh năm
1965 (Có mặt). Địa chỉ cư trú tại: Số nhà A, đường G, khóm X, phường Z, thành phố
C , tỉnh Cà Mau. (Có mặt)
- Bị đơn: Ông Lý Hữu Qu (X), sinh năm 1965 (có mặt)
Bà Trần Lệ T, sinh năm 1971 (vắng mặt).
Cùng cư trú tại: Số X, đường N, Khóm X, Phường Y, thành phố C , tỉnh Cà Mau.
- Người kháng cáo:
1. Ông Trương Minh K là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm
Văn B và bà Nguyễn Thị H.
2. Bị đơn là ông Lý Hữu Qu, bà Trần Lệ T.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ông Trương Minh K là người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Văn B và bà
Nguyễn Thị H trình bày: Ông B và bà NguyễnThị H có chuyển nhượng diện tích đất
4.309m2 cho ông Lý Hữu Qu và bà Trần Lệ T với giá 330.000.000 đồng vào ngày
21/6/2012, ông Qu thanh toán 130.000.000 đồng và còn nợ lại 200.000.000
đồng. Đến ngày 23/9/2015 ông Qu làm biên nhận nợ Ông B 200.000.000 đồng và cam
kết hàng tháng đóng lãi cho Ông B theo lãi suất Ngân hàng Nhà nước. Ngày
29/01/2016 ông Qu tiếp tục vay của Ông B số tiền 200.000.000 đồng với lãi suất thỏa
thuận 2%/tháng, hẹn không quá 01 năm trả nhưng sau đó ông Qu không thanh toán
tiền vốn và lãi. Nay ông B, bà H yêu cầu ông Lý Hữu Qu và bà Trần Lệ T trả tiền mua
đất còn nợ 200.000.000 đồng và tiền lãi 2%/tháng từ 23/9/2015 đến nay là
104.000.000 đồng và khoản tiền vay 200.000.000 đồng, cùng với tiền lãi 2%/tháng từ
ngày 29/01/2016 đến nay là 84.000.000 đồng. Tổng cộng hai khoản là 588.000.000
18

đồng (trong đó tiền vốn 400.000.000 đồng và lãi 188.000.000 đồng). Ông Ký thừa
nhận đã qua ông B và bà H có nhận của ông Qu tổng số tiền lãi là 122.000.000 đồng.
Ông Lý Hữu Qu trình bày: Trước đây ông có mua của ông Phạm Văn B và bà Nguyễn
Thị H một phần đất và còn nợ lại ông B và bà H   200.000.000 đồng, ông có làm biên
nhận nợ ngày 23/9/2015 cho Ông B và thỏa thuận trả lãi theo lãi suất Ngân hàng. Sau
đó, ông có vay thêm của ông B, bà H 200.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 2%/tháng,
ông có làm biên nhận ngày 29/01/2016 cho ông B. Đã qua vợ chồng ông đã thanh toán
cho ông B, bà H 50.000.000 đồng vốn của số tiền vay ngày 29/01/2016, nên hiện nay
ông thừa nhận còn nợ ông B, bà H số tiền mua đất là 200.000.000 đồng và tiền vay là
150.000.000 đồng, tổng cộng vốn còn nợ là 350.000.000 đồng. Đối với tiền lãi ông đã
nộp lãi đủ từ khi làm biên nhận đến tháng 8/2017, số nợ tiền nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, ông đã thanh toán tiền lãi cho ông B, bà H mỗi tháng 1.500.000
đồng và số tiền vay ông thanh toán tiền lãi mỗi tháng 4.000.000 đồng. Nay ông chỉ
chấp nhận trả lãi từ tháng 8/2017 đến khi xét xử sơ thẩm.
Bà Trần Lệ T  trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của chồng bà là ông Lý Hữu
Qu, ngoài ra bà xác định hàng tháng vợ chồng bà có thanh toán tiền lãi đầy đủ cho ông
B, bà H, hiện chỉ còn nợ lãi từ tháng 8/2017 đến nay. Ngoài ra vợ chồng bà đã thanh
toán tiền vốn cho khoản vay được 50.000.000 đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2018/DS-ST ngày 02 tháng 01 năm 2018 của Tòa
án nhân dân thành phố C quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị H.
Buộc ông Lý Hữu Qu và bà Trần Lệ T hoàn trả cho ông Phạm Văn B và bà Nguyễn
Thị H số tiền 398.847.998 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị H yêu cầu ông
Lý Hữu Qu và bà Trần Lệ T trả số tiền lãi là 188.000.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm trả, án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 15/01/2018 ông Trương Minh K  là người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm, đến
ngày 22/02/2018 ông Ký có yêu cầu kháng cáo bổ sung, yêu cầu tính lãi của số tiền
ông Qu và bà T nợ tiền mua đất 200.000.000 đồng, tính lãi từ khi hai bên ký hợp đồng
chuyển nhượng đất là ngày 21/6/2012 với lãi suất 2%/tháng và số tiền vay
200.000.000 đồng ngày 29/01/2016 với lãi suất 2%/tháng. Tổng cộng vốn và lãi là
702.000.000 đồng, đối trừ với số tiền ông Qu trả lãi tổng cộng 122.000.000 đồng, còn
lại yêu cầu trả 580.080.000 đồng.
19

Ngày 15/01/2018 bị đơn ông Lý Hữu Qu và bà Trần Lệ T có đơn kháng cáo yêu cầu
điều chỉnh số tiền 200.000.000 đồng nợ tiền mua đất tính với lãi suất 0,75%/tháng và
số tiền vay 200.000.000 đồng tính lãi suất 2%/tháng, thời gian tính lãi tính từ ngày
làm biên nhận đến tháng 8/2017. Đối trừ với số tiền đã trả 50.000.000 đồng vốn và số
tiền lãi đã trả.
Ngày 25/01/2018 Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C có Quyết định kháng nghị số
02/QĐKNPT-VKS-DS ngày 25/01/2018 kháng nghị bản án sơ thẩm theo hướng sửa
một phần bản án sơ thẩm. Buộc ông Lý Hữu Qu và bà Trần Lệ T trả cho ông Phạm
Văn B, bà Nguyễn Thị H số tiền là 352.801.999 đồng và điều chỉnh lại phần án phí
đương sự phải chịu theo luật định.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông K, ông Qu, bà T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau vẫn giữ nguyên Quyết định kháng nghị
số 02/QĐKNPT-VKS-DS ngày 25/01/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu: Về tố
tụng, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự và các đương sự thực hiện đúng với quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quy
định. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân
thành phố C.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả tiền bị đơn nợ tiền
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 200.000.000 đồng vào ngày 26/01/2012 và
tính lãi suất 2%/tháng tính từ ngày 26/01/2012 đến ngày 26/01/2018.
Hội đồng xét xử xét thấy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên
đơn và bị đơn được lập ngày 26/01/2012 với giá chuyển nhượng 330.000.000 đồng.
Tại hồ sơ và tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn thừa nhận bị đơn đã trả cho nguyên
đơn được 130.000.000 đồng, bị đơn còn nợ lại nguyên đơn 200.000.000 đồng. Đến
ngày 23/9/2015 ông Qu đã làm biên nhận nợ cho ông B.
Tại hồ sơ thể hiện một biên nhận nợ vào ngày 23/9/2015 (BL 03) do
nguyên đơn cung cấp. Ông Qu thừa nhận đã viết và ký tên vào biên nhận nợ
ngày 23/9/2015, biên nhận thể hiện hàng tháng ông Qu đóng lãi cho ông  B theo lãi
suất Nhà nước. Tại hồ sơ và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn cũng thừa nhận số tiền nợ 200.000.000 đồng được ông Qu làm biên nhận
ngày 23/9/2015 mỗi tháng ông Qu nộp lãi cho nguyên đơn là 1.500.000 đồng.
Như vậy mức lãi suất mà nguyên đơn thống nhất cho ông Qu trả hàng tháng là 0,75%/
tháng tương đương với 9%/năm. Mức lãi suất này phù hợp với mức lãi suất do Ngân
20

hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại Quyết định số 2868/QĐ-
NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Do đó, hiện nay
nguyên đơn yêu cầu tính lãi theo mức lãi 2%/tháng là không có cơ sở.
Xét thấy, bản án sơ thẩm tính lãi suất theo mức lãi suất 20%/năm theo quy định
của Bộ luật dân sự năm 2015 là không phù hợp, vì thời điểm các bên thỏa thuận việc
vay và trả theo lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm các bên làm
biên nhận nhưng tại thời điểm các bên thỏa thuận về lãi suất là trước ngày Bộ luật dân
sự năm 2015 có hiệu lực. Do đó, mức lãi suất được tính tại thời điểm ông Qu làm biên
nhận cho Ông B là 9%/năm là phù hợp.
Về thời gian tính lãi, nguyên đơn kháng cáo yêu cầu tính lãi từ ngày 26/01/2012 đến
ngày 26/01/2018. Hội đồng xét xử xét thấy: Tại đơn khởi kiện và tại phiên tòa sơ
thẩm, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lãi từ ngày ông Qu làm biên nhận là ngày
23/9/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm. Do đó cấp sơ thẩm đã tính lãi cho ông Qu từ ngày
23/9/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 02/01/2018 là phù hợp. Tuy nhiên thời
gian từ ngày 23/9/2015 đến ngày 02/01/2018 là 27 tháng 9 ngày, nhưng cấp sơ thẩm
tính là 25 tháng 9 ngày là không chính xác. Vì vậy, cần điều chỉnh lại thời gian tính lãi
cho phù hợp. Cụ thể 200.000.000 đồng x 0,75%/tháng 27 tháng 9 ngày = 40.950.000
đồng.
Số tiền lãi từ ngày 26/01/2012 đến ngày 23/9/2015 do nguyên đơn không yêu cầu, cấp
sơ thẩm không giải quyết nên cấp phúc thẩm không xem xét yêu cầu kháng cáo này
của nguyên đơn.
Đối với yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về số tiền lãi của số tiền vay 200.000.000
đồng vào ngày 29/01/2016, nguyên đơn cho rằng nếu tính lãi đến ngày 29/01/2018 là
24 tháng và yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất 2%/ tháng.
Hội đồng xét xử xét thấy, ông Qu làm biên nhận vay tiền của nguyên đơn 200.000.000
đồng vào ngày 29/01/2016, nếu tính lãi đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 02/01/2018 là
23 tháng 3 ngày nhưng cấp sơ thẩm tính 11 tháng 3 ngày là không chính xác, do đó
cần điều chỉnh lại thời gian tính lãi là 23 tháng 3 ngày.
Về số tiền lãi, mặc dù các bên có thỏa thuận theo biên nhận nợ là 2%/tháng nhưng
mức lãi suất này là cao hơn mức lãi suất theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự
năm 2015 nên cấp sơ thẩm đã điều chỉnh lại theo quy định của pháp luật
là 1,66%/tháng là đúng.
Cụ thể số tiền vay 200.000.000 đồng x 1,66% x 23 tháng 3 ngày = 76.692.000 đồng.
Tổng cộng hai khoản tiền vốn là 400.000.000 đồng.
21

Tổng cộng hai khoản tiền lãi là 117.642.000 đồng (40.950.000 đồng + 76.692.000
đồng = 117.642.000 đồng).
Tổng cộng vốn và lãi là 517.642.000 đồng.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử xét thấy bị đơn cho rằng số tiền
200.000.000 đồng là tiền bị đơn nợ tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của
nguyên đơn và đã được chuyển thành tiền vay từ ngày 23/9/2015, bị đơn đã nộp lãi
mỗi tháng 1.500.000 đồng, nộp đến tháng 8/2017. Đối với số tiền vay 200.000.000
đồng vào ngày 29/01/2016 bị đơn đã nộp lãi mỗi tháng 4.000.000 đồng, nộp lãi đến
tháng 8/2017 và bị đơn đã trả cho nguyên đơn 50.000.000 đồng tiền vốn nhưng bị đơn
không có giấy tờ và cũng không có chứng cứ chứng minh, hiện nay nguyên đơn không
thừa nhận lời trình bày này của bị đơn mà nguyên đơn chỉ thừa nhận đã nhận của bị
đơn nhiều lần tiền lãi với tổng số tiền 122.000.000 đồng, do đó chấp nhận số tiền bị
đơn đã trả cho nguyên đơn là 122.000.000 đồng để đối trừ với tổng số tiền vốn và lãi
buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn là phù hợp. Cụ thể 517.642.000 đồng -
122.000.000 đồng = 395.642.000 đồng.
[3] Xét kháng nghị của của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C, Hội đồng xét xử xét
thấy: Mức lãi suất của số tiền bị đơn nợ của nguyên đơn theo biên nhận nợ ngày
23/9/2015 mà bản án sơ thẩm buộc nguyên đơn trả cho bị đơn theo mức lãi suất
1,66%/ tháng là không đúng, theo nhận định trên thì lãi suất được tính là 0,75%/
tháng. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C đề nghị Tòa án điều chỉnh lãi mức
lãi suất là phù hợp được Tòa án chấp nhận. Tuy nhiên về thời gian tính lãi được tính
từ ngày 23/9/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 02/01/2018 là 25 tháng 9 ngày với
số tiền lãi là 37.995.000 đồng là không chính xác vì thời gian tính lãi từ ngày
23/9/2015 đến ngày 02/01/2018 là 27 tháng 9 ngày, số tiền lãi được tính là 40.950.000
đồng.
Số tiền vay 200.000.000 đồng vào ngày 29/01/2016 tính đến ngày xét xử sơ thẩm là
02/01/2018 là 23 tháng 3 ngày nhưng bản án sơ thẩm tính 11 tháng 3 ngày là không
đúng, do đó Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C đề nghị chấp nhận số tiền lãi của
khoản tiền vay ngày 20/01/2016 là 36.851.000 đồng là không chính xác mà phải điều
chỉnh lại với số tiền lãi là 76.692.000 đồng. Vì vậy, chấp nhận một phần kháng nghị
của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C về mức lãi suất, không chấp nhận kháng
nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C về thời gian tính lãi suất.
[4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa là phù hợp nên
Hội đồng xét xử chấp nhận.
22

[5] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên
đơn, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn và chấp nhận một phần kháng
nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C .
[6] Án phí dân sự sơ thẩm bị đơn phải chịu án phí có giá ngạch trên tổng số tiền bị
đơn phải trả cho nguyên đơn.
Nguyên đơn phải chịu án phí có giá ngạch trên số tiền lãi nguyên đơn yêu cầu không
được chấp nhận.
[7] Án phí phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn được chấp
nhận một phần nên nguyên đơn, bị đơn không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308,  Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về án phí, lệ phí Toà án;
Chấp nhận một phần yêu kháng cáo của ông Trương Minh K là người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn là ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị H. Chấp nhận một phần
yêu cầu kháng cáo bị đơn là ông Lý Hữu Qu (X ) và bà Trần Lệ T. Chấp nhận một
phần kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 01/2018/DS-ST ngày 02/01/2018 của Tòa án nhân dân
thành phố C, tỉnh Cà Mau.
1. Buộc ông Lý Hữu Qu và bà Trần Lệ T trả cho ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị
H tổng số tiền 395.642.000 đồng (Ba trăm chín mươi lăm triệu, sáu trăm bốn mươi hai
nghìn đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị H yêu cầu ông
Lý Hữu Qu và bà Trần Lệ T trả số tiền lãi là 184.438.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí:
-Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch ông Lý Hữu Qu và bà Trần Lệ T phải nộp là
19.782.000 đồng (chưa nộp). Ông Phạm Văn B  và bà Nguyễn Thị H  phải nộp là
9.222.000 đồng, ngày 17/10/2017 ông B và bà H   đã dự nộp 13.760.000 đồng  theo
biên lai thu tiền số 0003831 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được
đối trừ, ông B và bà H được hoàn lại 4.538.000 đồng.
23

- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phạm Văn B  và bà Nguyễn Thị H  không phải chịu,
đã qua ông Trương Minh K  có dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0000242 ngày
15/01/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được nhận lại. Ông Lý
Hữu Qu và bà Trần Lệ T  không phải chịu, ngày 25/01/2018 ông Qu và bà T đã dự
nộp 300.000 đồng lai thu số 0000290 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà
Mau được nhận lại.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ luật dân sự 2005


2. Bộ luật dân sự 2015
3. Luật Thương mại 2005
4. Văn bản hợp nhất số 03-VBHN-VPQH về sửa đổi, bổ sung Luật Thương mạI
2005
5. Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, tr.365
6. Bích Ngọc, bài viết Những điểm bất cập của BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp, TAND tỉnh Khánh Hoà

You might also like