You are on page 1of 12

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

Khoa Các chương trình đào tạo Chất lượng cao


Lớp Chất lượng cao Quản trị - Luật 47B

Buổi thảo luận thứ năm: Trách nhiệm dân sự, vi phạm hợp đồng

Bộ môn: Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN


Nhóm 3:

STT HỌ VÀ TÊN MSSV


1 Tô Gia Hưng 2253401020084
2 Đỗ Ngọc Khánh Phương 2253401020202
3 Lưu Thị Thanh Ngân 2253401020144
4 Đinh Ngọc Song Thy 2253401020250
5 Nguyễn Phương Anh 2253401020306

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 3 năm 2024


THẢO LUẬN LUẬT DÂN SỰ BUỔI 5
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ CỦA BIỆN PHÁP
BẢO ĐẢM
a) Nghiên cứu:
- Điều 360 và tiếp theo, Điều 419 BLDS 2015 (Điều 302 và tiếp theo BLDS 2005) và các
quy định liên quan khác (nếu có);

- Tình huống: Ông Lại (bác sỹ chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ) và bà Nguyễn thỏa
thuận phẫu thuật ngực với 4 yêu cầu: Lấy túi ngực ra, Thâu nhỏ ngực lại, Bỏ túi nhỏ vào,
Không được đụng đến núm vú. Ba ngày sau phẫu thuật, bà Nguyễn phát hiện thấy núm
vú bên phải sưng lên, đau nhức và đen như than. Qua 10 ngày, vết mổ hở hết phần vừa
cắt chỉ, nhìn thấy cả túi nước đặt bên trong và ông Lại tiến hành mổ may lại. Được vài
ngày thì vết mổ bên tay phải chữ T lại hở một lỗ bằng ngón tay, nước dịch tuôn ướt đẫm
cả người. Sau đó ông Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực tế bà Nguyễn mất
núm vú phải.

b)Đọc:
- Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 4; - Đỗ Văn Đại, Luật
hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức 2023 (xuất bản lần thứ
chín), Bản án số 180 và tiếp theo;
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb.
Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 408 đến 416;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Xem:https://www.youtube.com/watch?
v=pdakduyCBgQ&list=PLy3fk_j5LJA440A9xpeFN5Ft8rzqFw1gD

Và cho biết:
Câu 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là hình thức chịu trách nhiệm dân sự, được
đặt ra khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và đã gây ra thiệt hại (Điều 351, 360
BLDS 2015). Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là:
- Có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng (không thực hiện, thực hiện không đúng, không
đủ nghĩa vụ);
- Có phát sinh thiệt hại trong thực tế; hành vi vi phạm xuất phát từ lỗi của chủ thể vi
phạm;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả (hành vi vi phạm là nguyên nhân dẫn
đến phát sinh thiệt hại).
Những thay đổi về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng so với BLDS 2005: BLDS 2005 quy định việc bồi thường thiệt hại do hành vi vi
phạm nghĩa vụ gây ra mang tính bắt buộc, không có yếu tố thỏa thuận giữa các bên trừ
khi vi phạm hợp đồng do trường hợp bất khả kháng.
Câu 2: Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn
không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã hội đủ
chưa? Vì sao?
Trong tình huống trên, đã có sự xâm phạm đến yếu tố nhân thân của bà Nguyễn,
cụ thể là xâm phạm đến quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
theo quy định tại Điều 32 BLDS 2015 vì bà Nguyễn sau khi thực hiện phẫu thuật đã bị
tổn hại nghiêm trọng về sức khỏe (mất núm vú phải).
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường cho bà Nguyễn đã hội tụ đủ căn cứ theo
quy định tại Điều 358 BLDS 2015 vì ông Lại ông thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp
đồng, cụ thể: Ông Lại thực hiện không đúng nghĩa vụ làm phát sinh thiệt hại sau quá
trình phẫu thuật, khiến cho bà Nguyễn phải chịu nhiều thiệt hại liên quan đến phẫu thuật
như sưng, đau nhức vết thương, các yêu cầu của cuộc phẫu thuật không được đảm bảo và
đặc biệt là làm bà Nguyễn bị mất núm vú phải.

1.3 Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp đồng gây
ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 385 BLDS 2015: “Hợp Đồng là thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Và theo khoản 2 Điều 361 BLDS 2015:
“Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài
sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất
hoặc giảm sút”. Như vậy, tài sản có thể là tài sản hiện hữu hoặc tài sản hình thành trong
tương lai. Tài sản hình thành trong tương lai phải được xác định là chắc chắn sẽ có.

1.4 BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 361 BLDS 2015: “Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về
tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự , nhân phẩm, uy tín và các
lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”. Và theo khoản 1 Điều 584 của Bộ luật này:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền,lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Như vậy BLDS 2015 cho
phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần do do vi phạm hợp đồng.

1.5 Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh thần
không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo khoản 3 Điều 361 BLDS năm 2015 quy định: “Thiệt hại về tinh thần là tổn
thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và
các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”. Và theo khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015
quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Bà Nguyễn sau khi phẫu thuật thẩm mỹ do ông Lại làm phẫu thuật cho bà và đã
xảy ra nhiều bất cập làm cho bà Nguyễn mất đi núm vú phải. Nhưng trước đó đã nhiều
lần bà Nguyễn đã may rồi mổ lại vì bị đau nhức, vết mổ hở… Chính vì vậy điều đó đã
gây hại tính mạng, sức khỏe của bà Nguyễn và các lợi ích khác của bà nên bà Nguyễn
phải được bồi thường tổn thất về tinh thần.

Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng

Nghiên cứu:
- Điều 418 BLDS 2015 (Điều 402, 422 BLDS 2005); Điều 292, 301 và 307 Luật thương
mại năm 2005 và các quy định khác liên quan (nếu có);
- Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh;
- Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 của Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao.

Đọc:
- Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 4; - Lê Thị Diễm
Phương, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 23;
- Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2023 (xuất bản lần thứ chín), Bản án số 198 và tiếp theo;
- Dương Anh Sơn và Lê Thị Bích Thọ, Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp
đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1(26)/2005;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Xem:https://www.youtube.com/watch?
v=pdakduyCBgQ&list=PLy3fk_j5LJA440A9xpeFN5Ft8rzqFw1gD

Và cho biết:
Tóm tắt Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh
 Nguyên đơn: Công ty TNHH Sản xuất thương mại Dịch vụ Tân Việt
 Bị đơn: Công ty TNHH Tường Long
 Vụ việc: Tranh chấp hợp đồng mua bán vải thành phẩm
 Ngày 1/10/2010, 2 công ty ký kết hợp đồng có giá trị 1.356.400.000 đồng. Ngày
19/10/2010 Cty Tân Việt đã thanh toán trước 30% giá trị hợp đồng được coi là đặt
cọc cho Cty Tường Long (406.920.000 đồng).
Trong hợp đồng có thỏa thuận từ ngày 31/10 đến ngày 1/11 Cty Tường Long phải
giao 2000m vải mẫu, tuy nhiên đến ngày 12/11 phía Cty này mới giao và chỉ giao
1.693,3m vải mẫu (có giá trị 70.779.940 đồng).
Cty Tường Long có gửi công văn yêu cầu tăng giá sản phẩm do giá nguyên liệu
tăng nhưng Cty Tân Việt đã phản hồi không đồng ý.
Ngày 3/12 cty Tường Long thông báo Hủy bỏ hợp đồng. Sau đó trừ số tiền hàng đã
giao và hoàn trả cho Tân Việt số tiền còn lại 336.140.060 đồng.
Cty Tân Việt khởi kiện yêu cầu cty Tường Long thanh toán tiền phạt cọc
406.920.000 đồng và tiền phạt hợp đồng đối với phần hàng chưa giao là
102.849.604 đồng.
 CSPL: Điều 358 và Điều 409 BLDS 2002
Điều 24; khoản 7 Điều 292; Điều 300; Điều 301; Điều 306; Điều 314 và
Điều 319 Luật Thương mại 2005
 Phán quyết: Buộc cty Tường Long có trách nhiệm thanh toán cho cty Tân Việt do
Hủy bỏ hợp đồng số tiền 102.849.604 đồng ngay khi bản án có hiệu lực.
Tóm tắt Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.
 Ai: Công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn (bên B) - nguyên đơn, Công ty Cổ phần Yến
Việt (bên A)- bị đơn.
 Tháng 10/2010, nguyên đơn và bị đơn kí Hợp đồng nguyên tắc về việc “Phân phối
độc quyền ra phía Bắc”. Theo hợp đồng, bị đơn đồng ý cho nguyên đơn làm nhà
phân phối độc quyền trong thời hạn 10 năm đối với sản phẩm từ yến mang nhãn
hiệu Yến Việt tại khu vực phía Bắc từ Nghệ An trở ra.Nguyên đơn đã nhập 03 lô
hàng để phân phối và thực hiện cam kết giữa các bên về đặt hàng, phân phối hàng
hóa, thanh toán. Tuy nhiên, bị đơn đã thành lập chi nhánh tại Hà Nội và thiết lập
các cửa hàng để phân phối sản phẩm trên thị trường phía Bắc mà không trao đổi
với nguyên đơn gây thiệt hại nghiêm trọng đối với nguyên đơn.
Theo bị đơn trình bày: Hai bên chỉ mới Ký hợp đồng nguyên tắc, chưa thống nhất
về số lượng tiêu thụ cụ thể, vì cần thời gian thăm dò thị trường tiêu thụ. Trước khi
ký hợp đồng nguyên đơn đã biết bị đơn có chi nhánh được cấp phép ngày
16/9/2010 và các cửa hàng khác tại khu vực phía Bắc
 Nhận định của Tòa án: (Tại mục 4) Theo các điều 300, 301, 302, 303, 304 Luật
Thương mại năm 2005, Tòa án cấp sơ thẩm và Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nhận định nguyên đơn và bị đơn có thỏa
thuận bồi thường về thiệt hại là không đúng
Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.

NỘI BLDS 2005 BLDS 2015 ĐIỂM MỚI


DUNG
Mức phạt Khoản 2 Điều Khoản 2 Điều 418: BLDS 2015 đã quy
vi phạm 422: “Mức phạt vi phạm do các định thêm rằng
hợp đồng “Mức phạt vi bên thỏa thuận, trừ trường có thể áp dụng Bộ luật
do các bên phạm do các hợp luật liên quan có quy khác. Nếu hợp
thỏa thuận bên thoả định khác” đồng mà có thỏa thuận
thuận” về việc phạt vi phạm
thì chỉ cần xác định
giao dịch kia thuộc Bộ
luật nào điều chỉnh.
Nếu giao dịch mang
tính chất thương mại
thì sẽ
dựa vào BLTM 2005
để xác lập. Từ đó
không gây khó khăn
trong việc dùng Bộ
luật nào nữa. Điểm
mới trên đã tháo dỡ
điểm hạn chế của
BLDS cũ
Phạt vi Khoản 3 Điều Khoản 3 Điều 418 quy định: Quy định mới này thì
phạm 422 có quy “Trường hợp các bên có phài có sự thỏa
định: thỏa thuận về phạt vi phạm thuận về việc phạt quy
“Trong nhưng không thỏa thuận về phạm trước. Nếu
trường hợp việc vừa phải chịu phạt vi không có thỏa thuận về
các bên không phạm và vừa phải bồi việc bên vi phạm phải
có thoả thuận thường thiệt hại thì bên vi phải chịu cả phạt vi
về bồi thường phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạm và bồi thường thì
thiệt hại thì phạt vi phạm” chỉ chịu phạt vi phạm.
bên vi phạm Như
nghĩa vụ chỉ vậy quy định mới trên
phải nộp tiền đã quy định rõ
phạt vi phạm” ràng hơn tránh gây
hiểu lầm so với quy
định cũ

* Đối với vụ việc thứ nhất

Câu 2: Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng.
Giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng có điểm giống nhau về hậu quả pháp lý
khi vi phạm: bên vi phạm sẽ mất một khoản tiền.
+ Đối với đặt cọc:
Theo khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 thì: “Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết,
thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ
chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một
khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Tức
sau khi đã giao tài sản cọc mà bên đặt cọc không còn muốn giao kết thực hiện hợp đồng
nữa thì tài sản ấy sẽ thuộc về bên nhận đặt cọc. Trong trường hợp bên nhận đặt cọc từ
chối việc giao kết thực hiện hợp đồng thì sẽ phải trả lại tài sản cọc cho bên đặt cọc, đồng
thời mất một khoản tiền tương đương với giá trị tài sản cọc, còn gọi là tiền phạt cọc.
+ Đối với phạt vi phạm hợp đồng:
Theo Điều 418 BLDS 2015: “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong
hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm”.
Theo đó, khi một bên vi phạm hợp đồng thì phải trả cho bên còn lại một khoản tiền nhất
định theo thỏa thuận đã được giao kết trong hợp đồng nhằm có thể đảm bảo đầy đủ quyền
lợi cho các bên.

Câu 3: Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của phạt vi phạm hợp đồng?
Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc. Phù hợp với khoản
7 điều 292 Luật thương mại và điều 358 BLDS. Việc đặt cọc này là đảm bảo cho việc
thực hiện Hợp đồng.
Trong bản án 121/2010/KDTM-PT ngày 26/12/2011 có đoạn: “Xét thấy, theo
khoản 3 điều 4 Hợp đồng kinh tế số 01-10/TL-TV ngày 01/10/2010 các bên đã thỏa
thuận: Ngay sau khi ký kết hợp đồng, bên mua (Công ty Tân Việt) phải thanh toán trước
cho bên bán (Công ty Tường Long) 30% giá trị đơn hàng là tiền đặt cọc”.
“... Do vậy số tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng (406.920.000 đồng) được xác
định là tiền đặt cọc”.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền trả trước 30%.
Theo em, cách giải quyết của Tòa án là chưa hợp lý và thiếu thống nhất trong cách
giải quyết. Về khoản tiền trả trước 30%, Tòa án xác định đây là tiền đặt cọc dựa trên
khoản 7 điều 292 Luật thương mại và điều 358 BLDS. Khoản tiền này dùng để đảm bảo
cho việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, sau đó Tòa án lại nhận định rằng 2 bên đã đi vào
thực hiện hợp đồng cho nên khoản tiền 30% được xác định dùng để thực hiện đợt giao
hàng lần thức nhất dẫn đến việc Tòa án bác bỏ kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu Tòa án
buộc bị đơn bồi thường khoản tiền này với căn cứ khoản 2 điều 358 BLDS.

*Đối với vụ việc thứ hai:

Câu 1: Cho biết điểm giống và khác nhau giữa thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng
và thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
* Giống nhau:
- Áp dụng đối với các hợp đồng có hiệu lực;
- Là trách nhiệm pháp lý của các bên tham gia hợp đồng;
- Phát sinh do có hành vi vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng;
- Mục đích nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm.
* Khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại:
- Định nghĩa:
Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm
nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi
phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
- Mục đích:
Phạt vi phạm nhằm mục đích: Ngăn ngừa các hành vi vi phạm có thể xảy ra khi
giao kết hợp đồng nhằm bảo vệ lợi ích của các bên trong hợp đồng; Nâng cao ý thức
trách nhiệm của mỗi bên khi thực hiện hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại có mục đích là bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm; Khắc phục hậu quả
do hành vi vi phạm gây nên, bù đắp thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm.
- Căn cứ áp dụng:
Phạt vi phạm chỉ được áp dụng nếu các bên có thỏa thuận.
Còn bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ 3 yếu tố: Có hành vi vi phạm hợp
đồng; Có thiệt hại thực tế; Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra
thiệt hại (Nói cách khác giữa hành vi vi phạm và thiệt hại có mối quan hệ nhân quả)
- Mức áp dụng:
Theo Bộ luật dân sự 2015 "Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường
hợp luật liên quan có quy định khác". Trong luật thương mại 2005 có quy định "Mức
phạt hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng,
nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm" hay trong Luật xây
dựng 2014 "Đối với công trình xây dựng sử dụng vốn nhà nước, mức phạt hợp đồng
không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm"
Giá trị bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm
phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu không có hành vi vi phạm

Câu 2: Theo Toà án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định
của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng hay thỏa
thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?
Theo Tòa án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của
Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng, bởi vì: Tại Điều 11
Hợp đồng nguyên tắc số 02, hai bên đã thỏa thuận: “...nếu trong quá trình thực hiện Hợp
đồng, bên nào vi phạm các điều kiện đã cam kết trong Hợp đồng thì bên vi phạm phải
chịu trách nhiệm bồi thường cho bên kia số tiền là 10.000.000.000 đồng.” Tòa án căn cứ
vào điều 300, 301, 302, 303, 304 Luật Thương Mại 2005 thì phạt vi phạm hợp đồng là
việc các bên thỏa thuận phải trả một khoản tiền phạt được xác định trước, nhưng không
quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Tuy nhiên với số tiền 10.000.000.000
đồng đã quá mức phạt tối đa so với Điều 301 Luật Thương Mại 2005 (mức phạt không
quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm). Nếu xác định các bên có thỏa thuận
về bồi thường thiệt hại gồm đủ các yếu tố: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực
tế, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại thực tế, hành vi vi
phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm.

Câu 3: Theo Toà giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thỏa thuận được nêu tại
mục 4 phần Nhận định của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi
phạm hợp đồng hay thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng?
Vì sao?
Theo Tòa giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thỏa thuận được nêu tại mục 4
phần Nhận định của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận về mức bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng, bởi vì Căn cứ theo Khoản 1 Điều 302 Luật Thương Mại 2005:
“Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm
hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Do đó việc Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân
cấp cao tại TP.HCM buộc công ty Yến Việt bồi thường 10.000.000.000 đồng là sự thỏa
thuận về mức bồi thường thiệt hại.

Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng
thẩm phán?
Hướng xác định nêu trên của Hội đồng thẩm phán là không thuyết phục, bởi vì:
Căn cứ vào Điều 300 Luật Thương Mại 2005: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có
thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này.”.
Tại Điều 11 Hợp đồng nguyên tắc số 02, hai bên đã thỏa thuận “...nếu trong quá trình
thực hiện Hợp đồng, bên nào vi phạm các điều kiện đã cam kết trong Hợp đồng thì bên vi
phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bên kia số tiền là 10.000.000.000 đồng”, do
đó đây được xác định là sự thỏa thuận về vi phạm hợp đồng. Nếu Hội đồng thẩm phán
xác định được đây là thỏa thuận bồi thường thiệt hại thì phải nêu rõ giá trị tổn thất là bao
nhiêu, khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm là bao nhiêu theo khoản 2 Điều 302 Luật
Thương Mại 2005: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp
mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi
phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Do đó hai bên chỉ thỏa thuận
vi phạm hợp đồng mà không có sự thỏa thuận nào khác, căn cứ theo khoản 3 Điều 418
BLDS 2015: “...Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa
thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.” Vì vậy, trường hợp cả 2 bên chỉ thỏa thuận về phạt
vi phạm nên đây được coi là phạt vi phạm chứ không có yếu tố thỏa thuận bồi thường
thiệt hại.

VẤN ĐỀ 3: SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG

Nghiên cứu:
- Điều 156 và Điều 351 BLDS 2015 (Điều 161, 302 và 546 BLDS 2005); Điều 292 Luật
thương mại năm 2005 và các quy định khác liên quan (nếu có);
- Tình huống sau: Anh Văn nhận chuyển hàng cho anh Bình bằng đường thủy. Anh Văn
có mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên đường
vận chuyển, tàu bị gió nhấn chìm và hàng bị hư hỏng toàn bộ.

Đọc:
- Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 4; - Lê Thị Diễm
Phương, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 24; - Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng
Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức 2023 (xuất bản lần thứ chín),
Bản án số 184-186;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).

Và cho biết:
Câu 1: Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các
bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu
rõ cơ sở khi trả lời.
Có 3 điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng căn cứ điều 156 BLDS
2015:
 Là sự kiện xảy ra khách quan
 Các bên không thể lường trước được các sự kiện này
 Các sự kiện này không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép.
Các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng, căn cứ
tại khoản 2 điều 351 BLDS 2015: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng
nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

Câu 2: Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được
do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
Hệ quả thứ nhất, được miễn trách nhiệm dân sự do sự kiện bất khả kháng xảy ra.
Căn cứ khoản 2 Điều 351 Bộ Luật dân sự 2015: "Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực
hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác." Như vậy, nếu không
thực hiện được nghĩa vụ của hợp đồng nhưng do sự kiện bất khả kháng thì bên vi phạm
được miễn trách nhiệm dân sự.
Hệ quả thứ hai, kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng tương ứng với thời
gian tồn tại bất khả kháng. Căn cứ khoản 1 Điều 296 Luật Thương mại 2005: “Trong
trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng; nếu các bên không có thoả thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp
bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả,…”.
Hệ quả thứ ba, chấm dứt các quan hệ hợp đồng giữa hai bên.
Câu 3: Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các
điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
Số hàng trên bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, căn cứ về các điều kiện hình
thành sự kiện bất khả kháng được quy định tại điều 156 BLDS 2015:
 Sự kiện tàu vận chuyển bị gió nhấn chìm là một sự kiện khách quan, tồn tại ngoài
phạm vi kiểm soát của anh Văn là bên vi phạm hợp đồng
 Việc tàu vận chuyển bị gió nhấn chìm là sự kiện các bên không lường trước được,
các bên không nhìn thấy được sự việc này sẽ xảy ra tại thời điểm giao kết hợp đồng. Do
đó, khi rơi vào hoàn cảnh này, bên vi phạm hoàn toàn bị động.
 Hậu quả của hàng bị hư hỏng toàn bộ do tàu vận chuyển bị gió nhấn chìm là không
thể khắc phục được, mặc dù có thể lúc đó áp dụng các biện pháp cần thiết và khả năng
cho phép vẫn không thể khắc phục được.

Câu 4: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường
cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ khoản 2 điều 351 BLDS 2015: “"Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực
hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác." Như vậy hàng bị hư
hỏng do sự kiện bất khả kháng nên anh Văn được miễn trách theo quy định BLDS.

Câu 5: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công ty
bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản
và thực tiễn xét xử.
Từ góc độ văn bản:
Căn cứ khoản 2 điều 351 BLDS 2015: “"Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực
hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác." Ở đây việc anh Văn có
thỏa thuận bồi thường cho anh Bình giá trị hàng hư hỏng là trường hợp có thoả thuận
khác theo quy định của BLDS, vì vậy anh Văn và anh Bình có thỏa thuận về việc bồi
thường khi có sự kiện bất khả kháng là đúng quy định của pháp luật. Thêm vào đó, hợp
đồng bảo hiểm giữa anh Văn và công ty bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự, căn cứ Điều 57 Luật kinh doanh bảo hiểm 2022: "Đối tượng bảo hiểm của hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ
ba theo quy định của pháp luật". Áp dụng điều luật này vào tình huống trên, ta xác định
được rằng đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là khoản tiền
bồi thường của anh Văn cho anh Bình. Tại Khoản 1 điều 58 Luật kinh doanh bảo hiểm
2022 quy định rằng: "Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài chỉ phát sinh nếu người thứ ba yêu cầu người được bảo
hiểm bồi thường do có hành vi gây thiệt hại cho người thứ ba trong thời hạn bảo hiểm.”
Như vậy, trong trường hợp trên ông Văn có quyền yêu cầu công ty bảo hiểm phải thanh
toán khoản tiền này nhưng chỉ khi anh Bình yêu cầu anh Văn thực hiện nghĩa vụ bồi
thường thì anh Văn mới có quyền yêu cầu công ty bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm
này. Bên cạnh đó, anh Văn cũng chỉ có quyền yêu cầu công ty bảo hiểm thực hiện nghĩa
vụ của mình trong thời hạn bảo hiểm.
Từ góc độ thực tiễn:
Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2020/DS-ST ngày 14/09/2020 của Tòa án nhân dân thành
phố T, tỉnh Tây Ninh:
 Ông Bùi Văn D và tổng công ty cổ phần B
 Về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm
 Lí do: Ông D và bà T có mua bảo hiểm (bảo hiểm ô tô bắt buộc) là bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của công ty cổ phần B với hiệu lực bắt đầu từ 7h ngày 20/08/2019
đến 7h ngày 20/08/2020. Vào 15h30 ngày 20/08/2020 xe của ông D bị 1 cây xanh
đè bẹp (chiếc cây bị bật gốc do gió lốc to). Lúc này, ông D yêu cầu công ty B phải
bồi thường.Công ty B từ chối và khởi kiện D ra Tòa.
 CSPL: Điều 156, 351 BLDS 2015
 Phán quyết của Toà án: Buộc công ty cổ phần B bồi thường cho ông D.
→ Như vậy đây là một bản án ở thực tiễn xét xử về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của bên thứ 3 khi có sự kiện bất khả kháng.

You might also like