You are on page 1of 12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN
Môn: Tư pháp quốc tế

ĐỀ TÀI
QUAN HỆ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Họ và tên : Nguyễn Thị Thanh Hằng
MSSV : 3118430038
Lớp : DLU1184
Phòng thi: 2001
Đề số : 17

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2021


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Ý Nghĩa


1 BLDS Bộ luật dân sự

2 BTTHNHĐ Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

3 ĐƯQT Điều ước quốc tế


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………..….…1

PHẦN LÝ LUẬN

1. Khát quát chung về Quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
……………………………………………………………………………………..............…2

1.1 Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ………………………………...............2
1.2 Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài ………….…..….2
1.3 Các đặc điểm của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
……………………………………………………………………………………………..... 3
2. Vấn đề xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
……………………………………………………………………………………………..…4

2.1 Nguyên nhân xung đột trong Quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài ………………………………………………………………………………………...4

2.2 Giải quyết xung đột trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài ……………………………………………………………………………..………….4

PHẦN THỰC TIỄN


Thực trạng áp dụng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
………………………………………………………………………………….……………6

Tài liệu tham khảo ………………………………………………………………………….9


Mở đầu
1. Mục đích nghiên cứu

Trong công cuộc phát triển đất nước, Việt Nam luôn đề ra chủ trương quá trình toàn
cầu hóa, hội nhập sâu rộng với thế giới. Một trong những chiếc chìa khóa để mở rộng cánh
cửa hội nhập chính là pháp luật. Đến nay, hệ thống Pháp luật của Việt Nam luôn không ngừng
hoàn thiện và ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn.

Đề cập tới vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đây là chế định quan trọng trong bộ
luật dân sự nhằm vảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể bị thiệt hại. Với xu thế
toàn cầu hóa, vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là một trong
những vấn đề mang tính chất pháp lý quan trọng cần được điều chỉnh. Với đề tài này, em sẽ
phân tích về chế định quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, từ
đó xem xét và bàn luận các vấn đề tồn tại trong thực tiễn.

2. Phương pháp nghiên cứu


 Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thông tin, nghiên cứu và đưa ra những nhận xét
đánh giá
 Vận dụng quan điểm toàn diện về hệ thống cùng với phương pháp phân tích – tổng
hợp, so sánh.

1
Phần lý luận
1. Khát quát chung về quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài.

1.1 Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Trách nhiệm BTTHNHĐ được quy định tại chương XX BLDS 2015, tuy nhiên đến
hiện nay chúng ta vẫn chưa có quy định nào chính thức được ghi nhận trong các điều luật về
khái niệm này. Dựa trên Điều 584 BLDS 2015, khái niệm trách nhiệm BTTHNHĐ có thể
được định nghĩa là hành vi trái pháp luật của một bên gây ra phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, việc bồi thường xuất phát từ nguyên tắc của pháp luật mà không phải nghĩa vụ. Đây
là chế định được ban hành với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị
xâm hại và phòng ngừa, răn đe những hành vi gây thiệt hại khi giữa các bên không xác lập
hợp đồng. Trách nhiệm BTTHNHĐ phát sinh khi có đủ các căn cứ: có hành vi trái pháp luật,
hành vi đó gâu ra thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt xảy
ra.

1.2 Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Khác với khái niệm được nêu ra ở phần 1.1, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng trong
Tư pháp quốc tế có vấn đặc biệt hơn vì có “ yếu tố nước ngoài”. Xét về Tư pháp quốc tế, đây
là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc gia bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình, lao động có
yếu tố nước ngoài, quan hệ tố tụng dân sự quốc tế và các vấn đề khác có liên quan. Xuất phát
từ đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế bao gồm quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu
tố nước ngoài và quan hệ tố tụng dân sự quốc tế thì chế định BTTHNHĐ trong Tư pháp quốc
tế cũng phải mang yếu tố nước ngoài.

Bộ luật dân sự 2015 tại khoản 2 điều 663 quy định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau:

a. Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
b. Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập,
thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài;
c. Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng
của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.

2
1.3 Các đặc điểm của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài

Như vậy, Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định qua 3 yếu tố: chủ thể,
khách thể, sự kiện pháp lý. Tương tự, căn cứ xét quan hệ BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài
dựa trên 3 tiêu chí trên và cụ thể như sau:

Chủ thể
Quan hệ BTTHNHĐ được xem là yếu tố nước ngoài nếu ít nhất có một bên tham gia
quan hệ BTTHNHĐ  bên bị thiệt hai, bên gây thiệt hailà cá nhân, pháp nhân nước ngoài. Để
xác định một cá nhân có phải là người nước ngoài hay không thì cần căn cứ vào dấu hiệu
quốc tịch.

Cá nhân nước ngoài là người không mang quốc tịch Việt Nam, họ có thể mang một hay nhiều
quốc tịch nước ngoài hoặc là người không quốc tịch.

Đối với pháp nhân, Pháp nhân nước ngoài là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập
theo quy định của pháp luật nước ngoài. Lưu ý trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài mà được thành lập ở Việt Nam thì vẫn được coi là doanh nghiệp Việt Nam, ngoài ra
muốn biết một tổ chức có tư cách pháp nhân hay không thì phải xem xét dựa trên pháp luật
của nước đó.

Khách thể

Các bên tham gia quan hệ trách nhiệm BTTHNHĐ đều là công dân Việt Nam, pháp
nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở
nước ngoài. Ví dụ A và B là công dân Việt Nam sang Pháp du lịch, tuy nhiên trên đường xảy
ra mâu thuẫn dẫn đến A đánh B bị thương nặng, B yêu cầu A phải bồi thường thiệt hại.

Đối tượng

Các bên trong quan hệ trách nhiệm BTTHNHĐ đều là công dân Việt Nam, pháp nhân
Việt Nam, sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi. chấm dứt quan hệ cũng ở Việt Nam
nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài. Ví dụ A và B là công dân Việt Nam,
A bán cho B căn hộ chung cư của mình ở Pháp.

Vai trò của chế định BTTHNHĐcó yếu tố nước ngoài.

Các chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
góp phần duy trì mối quan hệ giữa các quốc gia và căn cứ để giải quyết, đảm bảo sự công
bằng và lợi ích của bên bị thiệt hại, góp phần làm lành mạnh quan hệ xã hội, thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngoài ra các chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
3
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài có tác dụng răn đe, phòng ngừa các hành vi có thể xảy
ra trong tương lai có thể dẫn tới xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.

2. Vấn đề xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nước ngoài.

2.1 Nguyên nhân xung đột trong quan hệ BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài

Xung đột pháp luật trong trường hợp này là hiện tượng mà hai hay nhiều hệ thống pháp luật
khác nhau cũng có thể được áp dụng để điều chỉnh cho quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng của tư pháp quốc tế.

Xung đột pháp luật xảy ra khi cùng một mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nhưng có
nhiều hệ thống pháp luật quốc gia có thể được áp dụng, tuy nhiên các quy định của các quốc
gia không có sự đồng nhất và có sự khác nha về nội dung, vấn đề được đặt ra chính là phải
lựa chọn được luật áp dụng để điều chỉnh. Xét cho cùng, mỗi một quốc gia đều có những bản
sắc rất riêng và điều này cũng được khắc họa trong luật pháp của quốc gia đó, tuy nhiên sự
khác biệt này lại gây ra khó khăn khi giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

2.2 Giải quyết xung đột trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố
nước ngoài

 Theo pháp luật Việt Nam

Tại điều 687 BLDS 2015 quy định về BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài như sau:
“1. Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp không có thỏa thuận
thì pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại được áp dụng.

2. Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú, đối với cá nhân hoặc nơi
thành lập, đối với pháp nhân tại cùng một nước thì pháp luật của nước đó được áp dụng.”

Theo đó, nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng như sau:

Khoản 1 điều 687 BLDS 2015 đã sử dụng hệ thuộc luật do các bên thỏa thuận, theo đó
các bên được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
trừ trường hợp ngoại lệ được quy định tại khoản 2. Sự thỏa thuận này dựa trên nguyên tắc ý
chí tự nguyện của các bên tham gia được quyền chọn luật áp dụng. Tuy nhiên nếu muốn thỏa
thuân được chấp nhận thì các bên phải đáp ứng được điều kiện chọn luật đưa ra đó là

 Thỏa thuận này phải được ghi rõ trong hợp đồng

4
 Việc chọn luật phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định là không được trái
với quy định của pháp luật quốc gia và không được trái với các quyb định ĐƯQT mà
quốc gia là thành viên
 Không nhằm lẩn tránh nghĩa vụ
 Luật được chọn phải là luật thực chất, không dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài

Ngoài ra, BLDS 2015 đã đưa ra một quy định dự trù trong trườmg hợp các bên không có thỏa
thuận thì pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại được áp dụng.

Khoản 2 Điều 687 là trường hợp ngoại lệ mà sự lựa chọn luật áp dụng của các bên
bị giới hạn. Theo đó, trong trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có cùng nơi cư
trú đối với cá nhân và có cùng một nơi thành lập đối với pháp nhân tại cùng một nước thì
pháp luật của nước đó được áp dụng. Trong trường hợp sẽ này áp dụng luật của nước mà
các bên có nơi cư trú chung.

Vấn đề BTTHNHĐ trong một sỗ lĩnh vực đặc thù khác được quy định trong luật
chuyên ngành

 Tại điều 4 Luật hàng không đan dụng 2006, sửa đổi 2014 quy định về nguyên tắc áp
dụng pháp luật khi có xung đột pháp luật là pháp luật của quốc gia nơi xảy ra tai nạn
do tàu bay va chạm hoặc gây cản trở nhau, do tàu bay đang bay gây thiệt hại cho người
thứ ba ở mặt đất được áp dụng đối với việc bồi thường thiệt hại.
 ại khoản 2 và khoản 3 Bộ luật hàng hải 2015 quy định về nguyên tắc áp dụng pháp luật
khi có xung đột pháp luật. Trường hợp quan hệ pháp luật liên quan đến tổn thất chung
thì áp dụng pháp luật nơi tàu biển kết thúc hành trình ngay sau khi xảy ra tổn thất chung
đó. Trường hợp quan hệ pháp luật liên quan đến tai nạn đâm va, tiền công cứu hộ, trục
vớt tài sản chìm đắm xảy ra tại nội thủy hoặc lãnh hải của quốc gia nào thì áp dụng
pháp luật của quốc gia đó.
 Theo Các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước và Điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên

Hệ thống công ước Lahaye: Quy định Rome về luật áp dụng đối với quan hệ nghĩa vụ
ngoài hợp đồng có hiệu lực năm 2009 thì luật áp dụng là luật nơi thường trú, nơi có trụ sở của
pháp nhân, chi nhánh, luật nơi xảy ra hành vi

Tại khoản 1 điều 8 Quy tắc Rome II quy định: Luật áp dụng đối với trách nhiệm ngoài hợp
đồng phát sinh từ hành vi vi phạm quyền sở hữu tri tuệ là luật của nước nơi có yêu cầu bảo
hộ. Điểm hạn chế được nhận thấy tại điều luật trên là việc không cho phép các bên có quyền
thỏa thuận

5
Giải quyết xung đột pháp luật về BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài theo hiệp định
tương trợ tư pháp: Pháp luật được áp dụng là pháp luật của quốc gia nơi có hành vi vi phạm
pháp luật hoặc pháp luật của nước nơi cư trú của các bên trong trường hợp các bên có cùng
quốc tịch của một bên ký kết nhưng lại cùng cư trú trên lãnh thổ của bên ký kết kia hoặc pháp
luật của bên ký kết mà các bên mang cùng quốc tịch

Ví dụ tại khoản 1 điều 37 của Hiệp định tương trọ tu pháp giữa Việt Nam và Liên bang Nga
quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hai ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm pháp luật
được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi xảy ra hoàn cảnh làm căn cứ để yêu cầu
BTTH. Nếu nguyên đơn và bị đơn đều là công dân của một Bên ký kết hoặc đều được thành
lập hoặc có trụ sở ở một bên Ký kết, thì áp dụng pháp luật của bên ký kết đó.

Đối với các ĐƯQT mà Việt Nam chưa là thành viên thì thì không được áp dụng đương
nhiên  như ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên mà có thể được áp dụng điều chỉnh quan hệ
BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài khi các bên lựa chọn và phải đáp ứng được điều kiện chọn
luật.

Phần thực tiễn


Thực trạng áp dụng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

1 Sự thỏa thuận của các chủ thể tham gia quan hệ BTTHNHĐ có YTNN.

Một trong những yếu tố quan trọng được đề cao trong Dân sự đó sự thỏa thuận. Đối
với chế định BTTHNHĐ, điều 687 của BLDS 2015 được coi là một điểm sáng nổi bật khi
cho phép các bên tham gia thỏa thuận chọn luật áp dụng đối với quan hệ BTTHNHĐ có yếu
tố nước ngoài Xét về các quy định về trách nhiệm BTTHNHĐ có yếu tố nước ngoài theo
BLDS 2005, quả thật có thể nhận thấy rõ sự hạn chế. Điều 773 BLDS 2005 quy định về Bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau:

“1. Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy
ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại.
2. Việc bồi thường thiệt hại do tàu bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế hoặc biển cả
được xác định theo pháp luật của nước mà tàu bay, tàu biển mang quốc tịch, trừ trường hợp
pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có quy định khác.

6
3. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam mà người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân hoặc pháp nhân
Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Quy tắc chung mà BLDS 2005 áp dụng để giải quyết xunh đột về BTTHNHD có yếu tố nước
ngoài là pháp luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc pháp luật của nước nơi phát sinh hậu
quả thực tế của hành vi gây thiện hại. Quy định này không cho phép sự thỏa thuận của các
bên, ngoài ra việc áp dụng quy định tại khoản 1 điều này cũng cũng gặp khó khăn trên thực
tế khi không quy định về trình tự cụ thể về việc áp dụng pháp luật của nước nào nếu như hành
vi gây thiệt hại xảy ra ở một nước và hậu quả của hành vi đó ở một nước khác.

2.Vấn đề gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật

Về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, BLDS 2015 tại khoản 1
Điều 584 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Có thể nhân thấy Điều 584 xác định căn cứ căn cứ BTTHNHĐ là khi có hành vi trái
pháp luật, hành vi đó gây ra thiệt hại và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt xảy ra, tuy nhiên cho tới nay chưa có định nghĩa về “hành vi trái pháp luật” mà chỉ liệt
kê các hành vi cụ thể như xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của chủ thể khác mà gây thiệt hại. Việc căn cứ như vậy
khiến các cơ quan có thẩm quyền khi xác định mức trách nhiệm BTTHNHĐ dựa về phần hậu
quả của hành vi trái pháp luật nhiều hơn là căn cứ trên hành vi trái phái luật. Việc này dẫn
đến hậu quả không thống nhất trong xét xử khi đánh giá các chứng cứ liên quan đến hành vi
trái pháp luật. Trong hình sự, người thực hiện hành vi cố ý giết người đã thỏa mãn đủ các dấu
hiệu về tội phạm giết người theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự, mà hậu quả là người
bị giết không chết thì người đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về tội phạm
chưa đạt của mình. Có thể thấy, chỉ cần thỏa mãn đủ các dấu hiệu về tội phạm thì mặc dù
chưa dẫn đến hậu quả mong muốn là chết người thì người phạm tội vẫn phải chịu sự trừng
phạt của pháp luật. Tuy nhiên, trong quan hệ BTTHNHĐ khi mà hành vi trái pháp luật vẫn
chưa được định nghĩa và việc chưa thể dựa trên mức độ hành vi của bên gây ra thiệt hai để
yêu cầu bồi thường có thể gây nên sự bất lợi cho bên bị thiệt hại. Ví dụ A và B là công dân
Việt Nam đi du lịch ở ẤN Độ, xung đột xảy ra, A đánh B bị thương, tuy nhiên địa hình xung
quanh là làng quê nhỏ và không có bệnh viện nên B chỉ được chữa trị qua loa, không thể xác
định được thương tật. Khi về Việt Nam, B muốn A bồi thường thiệt hại cho vì hành vi đã xâm
mạng sực khỏe và tính mạng của mình. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là việc xác định mức
độ thiệt hại như thể nào khi các vết thương của B dù gần khỏi nhưng vẫn để lại 1 số di chứng
7
cho cơ thể. Đây là một điểm yếu cần bổ sung trong trường hợp pháp luật quốc gia được áp
dụng để giải quyết quan hệ BTTH có yếu tố nước ngoài

3.Vấn đề áp dụng nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi pháp luật quốc
gia được áp dụng.

Khi pháp luật quốc gia được chọn áp dụng, để giải quyết về nguyên tắc bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, Điều 585 BLDS 2015 có quy định “Thiệt hại thực tế phải được bồi
thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi
thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một
lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Tuy nhiên, Bộ luật dân sự
2015 không có hướng dẫn cụ thể thế nào là thiệt hại thực tế và cơ sở để xác định thiệt hại thực
tế dựa trên nguồn nào, việc này dẫn đến tình trạng tùy từng vụ án thì Tòa án thường có những
đánh giá chứng cứ khác nhau.

8
Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Dân sự 2015


2. Luật Nhà hàng không dân dụng 2006, sđ,bs 2014
3. Bộ luật Hàng hải 2015
4. TS. Phạm Thị Hồng Mỵ , Slide bài giảng học phần Tư pháp quốc tế.
5. Văn phòng Luật sư Nguyễn Đình Thơ/ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có yếu tố nước ngoài/ Thư viện pháp luật http://luatsutho.com.vn/vi-vn/chi-tiet-
tin-tuc/id/275/ , truy cập ngày 01/09/2021
6. Phan Phi Long/Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài - Thực trạng và hướng hoàn thiện/ Tạp chí công thương
https://www.tapchicongthuong.vn / , truy cập ngày 2/09/2021.

--- Hết ---

You might also like