Professional Documents
Culture Documents
TGLV-TGNN được quy định trong NQLĐ của một công ty như sau:
+ Ngày làm việc hàng tuần: từ thứ Hai đến thứ Bảy (44 giờ/tuần). Riêng
thứ Bảy làm việc buổi sáng. Nếu nhu cầu công việc cần huy động người
lao động làm việc buổi chiều ngày thứ Bảy, thì trong trường hợp này được
xác định là thời giờ làm việc bình thường.
- Đối với đơn vị sản xuất:
Căn cứ điều kiện khí hậu vùng miền, thủ trưởng đơn vị sản xuất có thể xây
dựng thời giờ làm việc hàng ngày và hàng tuần cho phù hợp. Trước khi áp
dụng phải được sự chấp thuận của Giám đốc.
Điều (x+1). Nghỉ trong giờ làm việc
Trong thời gian làm việc bình thường, người lao động được nghỉ 30 phút
để đi vệ sinh, ăn uống và nghỉ ngơi theo nhu cầu.
Điều y. Làm thêm giờ
Làm thêm giờ được hiểu là thời giờ làm việc của người lao động vượt quá
48 giờ/tuần. và chỉ áp dụng đối với người lao động làm việc theo ca.
1. Phụ trách các phòng, ban, đơn vị sản xuất, người lao động chủ
động tổ chức làm thêm giờ trong các trường hợp cần thiết, sau khi cấp
quản lý yêu cầu/phê duyệt.
2. Tổng số giờ làm thêm không quá 04 giờ/ngày; 300 giờ/năm;
a. Tính theo năm dương lịch (từ 01/01 đến hết 31/12 dương lịch
b. Chỉ áp dụng nghỉ phép năm đối với người lao động có hợp đồng lao động từ
12 tháng trở lên.
c. Người lao động làm việc đủ sau 12 tháng thì được nghỉ hàng năm hưởng
nguyên lương cơ bản: 14 ngày. Cứ mỗi 05 năm làm việc liên tục tại công ty,
người lao động được cộng thêm 02 ngày nghỉ phép.
Thứ nhất, công ty chưa để cụ thể thời giờ làm việc bình thường là bao
nhiêu tiếng 1 ngày vì công ty quy định thời gian làm việc HÀNG
NGÀY, chưa quy định rõ thời gian làm việc cụ thể buổi sáng và buổi
chiều và cũng chưa quy định 1 ca bao nhiêu tiếng, 1 ngày bao nhiêu
ca, bắt đầu từ mấy giờ, làm từ thứ mấy đến thứ mấy. Các quy định
này phải phù hợp với pháp luật lao động tại Điều 105 là không quá 8
tiếng/ngày và không quá 48 tiếng/tuần.
Thứ hai, công ty nên rút ngắn thời giờ làm việc bình thường trong
một ngày hoặc kéo dài thêm giờ nghỉ giữa giờ cho nhân viên vì đây
là công việc phụ thuộc vào khí hậu thời tiết hoặc bố trí thêm cho nhân
viên các đợt nghỉ giải lao. Một trong những cách này có thể giúp
khắc phục tình trạng khi mà nhân viên phải làm việc vào buổi chiều
thứ 7 (khi có nhu cầu cần thiết) thì thời giờ làm việc bình thường sẽ
bị vượt quá 48 giờ trong một tuần, điều này là trái với quy định của
pháp luật.
Thứ ba: Nội quy LD là do NSDLD ban hành và người đại diện theo
pháp luật ký, ở đây công ty quy định là thủ trưởng đơn vị sản xuất
nên không cần phải có được sự chấp thuận của giám đốc.
Tình huống 2: tranh chấp giữa bà Quách Thị H (nguyên đơn) và Công ty C.
Việt Nam (bị đơn):
Sau khi nghỉ hưu, bà Quách Thị H tiếp tục làm việc tại Công ty Công nghệ
C Việt Nam (gọi tắt là Công ty C) theo hợp đồng lao động số: 10092714/HĐ,
ngày 27/12/2010 xác định thời hạn 02 năm (từ ngày 27/12/2010 đến ngày
26/12/2012) và hợp đồng lao động không xác định thời hạn số: 10092714/HĐ
không thời hạn/HD, ngày 27/12/2012. Công việc của bà H là chăm sóc sức khỏe,
thời gian làm việc là 08 giờ/ngày. Ngày 03/12/2018, Công ty C ra Quyết định thôi
việc số: 28-18/QĐTV chấm dứt hợp đồng lao động với bà H. Tiền lương và phụ
cấp của bà H trước khi nghỉ việc là 12.396.000 đồng/tháng.
Ngày 03/10/2012, bà H tròn 55 tuổi nhưng vẫn làm việc 08 giờ/ngày đến
khi nghỉ việc. Theo khoản 2 Điều 166 Bộ luật lao động 2012 quy định: “2. Người
lao động cao tuổi được rút ngắn thời giờ làm việc hằng ngày hoặc được áp dụng
chế độ làm việc không trọn thời gian”. Như vậy, từ ngày Bộ luật lao động 2012
có hiệu lực (01/5/2013), Công ty C không rút ngắn thời giờ làm việc hoặc áp
dụng chế độ làm việc không trọn thời gian đối với bà H là vi phạm pháp luật lao
động. Sau khi nghỉ việc, Công ty C trả tiền lương rút ngắn thời giờ làm việc cho
bà H là 01 phút/ngày làm việc với số tiền 2.555.000 đồng là không đảm bảo
quyền lợi của bà H vì mỗi ngày bà H phải được rút ngắn thời giờ làm việc ít nhất
01 giờ theo quy định khoản 10 Điều 3 Nghị định số: 45/2013/NĐ-CP, ngày
10/5/2013 của Chính phủ.
Vì vậy, bà Quách Thị H khởi kiện đề nghị Tòa án buộc Công ty C trả tiền
lương rút ngắn thời giờ làm việc là 01 giờ/ngày x 150% từ ngày Bộ luật lao động
2012 có hiệu lực (01/5/2013) đến ngày làm việc cuối cùng trước khi thôi việc với
tổng số tiền là 132.356.129 đồng.
* Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, người đại diện theo ủy quyền của
bị đơn Công ty C Việt Nam trình bày:
Công ty C thống nhất với lời trình bày của bà H về việc ký kết các hợp đồng
lao động, quá trình thực hiện hợp đồng, thời giờ làm việc và việc chấm dứt hợp
đồng lao động. Tuy nhiên, khi ký hợp đồng lao động, bà H đã được giải thích cụ
thể về thời giờ làm việc là 08 giờ/ngày, bà H đồng ý nên hai bên mới ký hợp đồng
lao động. Do đó, bà H khởi kiện yêu cầu Công ty C trả tiền lương được rút ngắn
thời giờ làm việc trong thời hạn 5 năm và yêu cầu tính tiền làm thêm giờ là không
có căn cứ vì Công ty C đã trả đầy đủ tiền lương cho bà H. Mặt khác, Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội tỉnh Đồng Nai cũng không chấp nhận yêu cầu trả tiền
lương được rút ngắn thời giờ làm việc khi bà H khiếu nại. Vì vậy, đề nghị Tòa án
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H.
Câu hỏi:
1. Trường hợp của bà H công ty ký hợp đồng lao động với thời gian làm việc 8
giờ/ngày có đúng quy định của pháp luật lao động không? Vì sao?
Công ty C ký kết với bà H 2 hợp đồng lao động:
HĐLĐ xác định thời hạn 2 năm (từ ngày 27/12/2010 đến ngày 26/12/2012)
HĐLĐ không xác định thời hạn (từ ngày 27/12/2012)
Căn cứ khoản 1 Điều 187 BLLĐ 2012 quy định: “ Người lao động bảo đảm điều
kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã
hội được hưởng lương hưu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi”. Tức là khi bà H đủ
55 tuổi, bà H sẽ đủ tuổi được nghỉ hưu.
Đối với HĐLĐ xác định thời hạn 2 năm giữ Công ty C và bà H:
CSPL: Căn cứ khoản 3 điều 166 BLLĐ 2012 quy định “Năm cuối cùng
trước khi nghỉ hưu, người lao động được rút ngắn thời giờ làm việc bình
thường hoặc được áp dụng chế độ làm việc không trọn thời gian”.
Ngày 3/10/2012, bà H tròn 55 tuổi, căn cứ theo quy định, trước khi nghỉ hưu
bà H được rút ngắn thời giờ làm việc bình thường hoặc được áp dụng chế độ
làm việc không trọn thời gian”. Tuy nhiên công ty C không rút ngắn thời
gian làm việc cho bà H mà vẫn áp dụng quy định là 8 giờ/ngày là trái pháp
luật và công ty sẽ bị xử phạt hành chính theo điểm b khoản 1 điều 14 Nghị
định số 95/2013/NĐ-CP
Đối với HĐLĐ không xác định thời hạn giữa bà H và công ty C
Thời điểm giao kết hợp đồng là ngày 27/12/2012, bà H đã là NLĐ cao tuổi
nên theo khoản 1, khoản 2 Điều 166 BLLĐ 2012, bà H được rút ngắn thời
giờ làm việc hằng ngày hoặc được áp dụng chế độ làm việc không trọn thời
gian. Đồng thời, theo khoản 2, khoản 3 Điều 5 Thông tư 47/2015/TT-
BLĐTBXH: “Khi tiếp tục lao động sau độ tuổi quy định tại Điều 187 của
BLLĐ, NLĐ cao tuổi và NSDLĐ thỏa thuận sửa đổi, bổ sung HĐLĐ cho
phù hợp với quy định của pháp luật về lao động đối với NLĐ cao tuổi” và
“HĐLĐ với NLĐ cao tuổi phải bảo đảm các nội dung quy định tại khoản 2,
khoản 3 Điều 166 và khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 167 của BLLĐ”.
Trong HĐLĐ công ty C ký kết với bà H, thời gian làm việc của bà H là 08
giờ/ngày. Mà sau khi bà H nghỉ việc, Công ty C trả tiền lương rút ngắn thời
giờ làm việc cho bà H là 01 phút/ngày. Do đó, HĐLĐ này đã không đảm
bảo đúng quy định tại khoản 2 Điều 166 BLLĐ 2012. Như vậy, hợp đồng
không xác định thời hạn với thời gian làm việc 8 giờ/ngày là không đúng
quy định của pháp luật lao động.
2. Anh/chị hãy cho biết chế độ về thời giờ làm việc của người lao động cao tuổi theo
quy định của pháp luật hiện hành có gì khác so với quy định của pháp luật lao động
trước đây? Ý nghĩa của quy định đó như thế nào?
- Sự khác biệt về chế độ thời giờ làm việc của NLĐ cao tuổi theo quy định của BLLĐ
2019 và BLLĐ 2012:
- BLLĐ 2012 quy định tại khoản 3 Điều 166 như sau:
“2. NLĐ cao tuổi được rút ngắn thời giờ làm việc hằng ngày hoặc được áp dụng chế độ
làm việc không trọn thời gian.
3. Năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu, NLĐ được rút ngắn thời giờ làm việc bình thường
hoặc được áp dụng chế độ làm việc không trọn thời gian.”
- Theo quy định tại Bộ luật mới đã quy định bổ sung tại Điều 148 BLLĐ 2019 cụ thể tại
từng khoản như sau:
“2. NLĐ cao tuổi có quyền thỏa thuận với NSDLĐ về việc rút ngắn thời giờ làm việc
hằng ngày hoặc áp dụng chế độ làm việc không trọn thời gian.
3. Nhà nước khuyến khích sử dụng NLĐ cao tuổi làm việc phù hợp với sức khỏe để bảo
đảm quyền lao động và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực.”
- Thứ nhất, theo quy định tại BLLĐ 2012 thì việc rút ngắn thời giờ làm việc hằng ngày
hoặc áp dụng chế độ làm việc không trọn thời gian là quyền của NLĐ. Song, BLLĐ 2019
đã bãi bỏ quy định này đó là việc NLĐ cao tuổi sẽ có quyền thỏa thuận với NSDLĐ về
việc rút ngắn thời giờ làm việc hằng ngày hoặc áp dụng chế độ làm việc không trọn thời
gian. Do đó, việc rút ngắn thời giờ làm việc hằng ngày hoặc áp dụng chế độ làm việc
không trọn thời gian hiện nay do NSDLĐ quyết định. Vậy, NLĐ cao tuổi sẽ không còn
"đặc quyền" rút ngắn thời giờ làm việc hằng ngày hoặc áp dụng chế độ làm việc không
trọn thời gian. Tuy nhiên một phần cũng hỗ trợ cho NLĐ cao tuổi có thể làm việc đủ 8
tiếng/ngày (thông qua thỏa thuận) đối với trường hợp NLĐ cao tuổi khó khăn về kinh tế
chứ không bắt buộc NLĐ cao tuổi phải rút ngắn thời gian làm việc như BLLĐ 2012.
- Thứ hai. BLLĐ 2019 đã bổ sung thêm rằng việc Nhà nước sẽ khuyến khích sử dụng
NLĐ cao tuổi làm việc phù hợp với sức khỏe để bảo đảm quyền lao động và sử dụng hiệu
quả nguồn nhân lực. Theo đó, Nhà nước chỉ khuyến khích và vẫn có trường hợp NLĐ
cao tuổi làm công việc không phù hợp với sức khỏe mà vẫn không trái với quy định của
pháp luật nếu NLĐ cao tuổi đồng ý. Và việc BLLĐ 2019 đã bỏ đi quy định về quyền lợi
của NLĐ cao tuổi: năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu, NLĐ được rút ngắn thời giờ làm
việc bình thường hoặc được áp dụng chế độ làm việc không trọn thời gian, nhưng BLLĐ
2019 lại trao quyền quyết định rút ngắn thời giờ làm việc hằng ngày hoặc áp dụng chế độ
làm việc không trọn thời gian hiện nay cho NSDLĐ.
Thứ ba, được ký hợp đồng xác định thời hạn nhiều lần với người cao tuổi. Thông thường,
người cao tuổi thường là những người có nhiều năm làm việc với nhiều kinh nghiệm, đặc
biệt là những công việc yêu cầu trình độ cao. Do đó, để phát huy giá trị của người cao
tuổi, Điều 149 BLLĐ 2019 cho phép NSDLĐ thỏa thuận giao kết nhiều lần HĐLĐ xác
định thời hạn với người cao tuổi thay vì kéo dài thời hạn HĐLĐ hoặc giao kết HĐLĐ
mới như trước đây.
- Tóm lại, BLLĐ đã có những quy định nhằm đảo bảo quyền lợi cho NLĐ cao tuổi. Việc
sử dụng NLĐ cao tuổi làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm chỉ được thực hiện
khi có đủ các điều kiện sau đây:
+ NLĐ cao tuổi có kinh nghiệm, tay nghề cao với thâm niên nghề nghiệp từ đủ 15
năm trở lên; được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ nghề hoặc được công nhận là nghệ
nhân theo quy định của pháp luật;
+ NLĐ cao tuổi có đủ sức khỏe theo tiêu chuẩn do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành đối với
nghề, công việc;
+ Sử dụng có tính thời điểm; không quá 05 năm đối với từng NLĐ;
+ Phải khám sức khỏe định kỳ ít nhất 02 lần trong một năm;
+ Có ít nhất 01 NLĐ không phải là NLĐ cao tuổi cùng làm việc.
- Ngoài ra, NSDLĐ có trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khỏe của NLĐ cao tuổi tại
nơi làm việc.