You are on page 1of 26

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI

HỢP ĐỒNG
Giảng viên: Th.S Hoàng Thế Cường

Lớp: CLC41B

1
CHÓ PHÚC KEO KIỆT

2
BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM:
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG.


Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra.

Câu 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.

a) Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh do
hành vi vi phạm hợp đồng của một bên, do đó bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ trong
hợp đồng mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại mà mình đã gây ra cho phía
bên kia tương ứng với mức độ lỗi của mình1. Trong pháp luật Việt Nam, các căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
 Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ (Điều 351 BLDS 2005).
 Trách nhiệm dân sự do vi phạm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Điều 356,
BLDS 2015).
 Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (Điều 357 BLDS 2015)
 Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không thực
hiện một công việc (Điều 358 BLDS 2015).
 Trách nhiệm dân sự do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 359 BLDS
2015).
 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ (Điều 360 BLDS 2015).

1
Lê Nết, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức 2016, tr 402.

3
b) Những thay đổi của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
Tại Điều 307 BLDS 2005 đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, quy định vừa nêu không đưa ra căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ, mà chỉ đề cập đến hai loại trách
nhiệm. Đó là trách nhiệm bồi thường về vật chất và trách nhiệm bồi thường tổn thất về
tinh thần. Nói cách khác, BLDS 2005, chưa rõ về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại2. Từ đó, BLDS 2015 đã bổ sung thêm Điều 360 với tiêu đề “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ”. Hướng sửa đổi nêu trên là thuyết
phục và phù hợp với thực tiễn để giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại.

Câu 2: Tòa án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản thiệt hại
nào? Nêu rõ đoạn của bản án liên quan đến từng khoản thiệt hại được bồi thường.

Toà án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản thiệt hại:
 Bồi thường giá trị căn hộ theo giá Hội đồng định giá đã định.
Đoạn của bản án liên quan đến việc bồi thường này:
“Mặt khác, phía Công ty Bitexco, bà Bình và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
cũng thống nhất huỷ hợp đồng nên việc huỷ hợp đồng mua bán căn hộ AE305 là phù
hợp và như đã phân tích tại phần trên bà Bình không vi phạm nghĩa vụ thanh toán,
việc buộc Công ty Bitexco phải bồi thường giá trị căn hộ theo giá của Hội đồng định
giá là cũng đảm bảo quyền lợi của bà Bình nên có căn cứ được chấp nhận”.
 Bồi thường tiền thuê nhà.
Đoạn của bản án liên quan đến việc bồi thường này:
“Tuy nhiên, như phân tích ở trên, việc bà Bình đi thuê nhà ở là có thực và đây là
thiệt hại thực tế, bà Bình không có vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên yêu cầu của Bình

2
Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam
2016 (xuất bản lần thứ hai), phần số 273.

4
buộc Công ty Bitexco phải bồi thường khoản tiền mà bà Bình đã thanh toán tiền thuê
nhà 22.000 Đô la Mỹ tương đương 418.000.000 đồng (Tỷ giá đô la Mỹ ngày
27/04/2010 là 19.000đ/01USD), trả ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật là hoàn toàn
có căn cứ được chấp nhận”.

Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.

Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý.


Thứ nhất, Bixtexco yêu cầu huỷ hợp đồng mua bán căn hộ AE 305 là không có căn
cứ xác đáng vì theo như nhận định và căn cứ đưa ra trước Tòa, bà Bình không có hành
vi vi phạm nghĩa vụ thanh toán.
Thứ hai là “phía công ty Bitexco, bà Bình và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
cùng thống nhất hủy hợp đồng”.

Việc Tòa án buộc công ty Bitexco phải bồi thường giá trị căn hộ theo giá của Hội
đồng định giá đã giúp bà Bình đảm bảo quyền lợi của mình trong tranh chấp, việc hủy
hợp đồng mua bán là phù hợp nên khoản bồi thường là hợp lý căn cứ theo Khoản 2
Điều 307, BLDS 2005.
Đối với khoản thiệt hại về tiền thuê nhà, hướng giải quyết của Tòa án cũng là hợp lý.
Dù khoản thiệt hại này xuất hiện trước khi có hành vi hủy hợp đồng và theo người bảo
vệ cho nguyên đơn thì hợp đồng thuê không được chứng thực và giá thuê bà Bình
không thông báo cho Bitexco tuy nhiên trên bà Bình có cung cấp hợp đồng thuê nhà
và biên nhận tiền thuê nhà nên đây là những thiệt hại thực tế mà bà Bình chịu tổn thất,
là khoản thu nhập bị giảm sút của bà Bình do hợp đồng không tiếp tục được thực hiện
nên khoản tiền phải được đền bù.

Câu 4: Đoạn nào cho thấy bà Bình có yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần?

5
Đoạn của bản án cho thấy bà Bình có yêu cầu bồi thường tổn thát về tinh thần:
“Theo đơn yêu cầu phản tố của bà Bình ngày 18/11/2008 thì ngoài những yêu cầu đã
xem xét ở trên bà Bình còn yêu cầu bồi thường về vật chất trong căn hộ AE305: do
nước trào ngược dơ bẩn làm hư hỏng một số tài sản với trị giá là 5.000.000 đồng và
bồi thường thiệt hại tinh thần do chất lượng căn hộ không bảo đảm gây ảnh hưởng về
tâm lý là 16.000.000 đồng”.

Câu 5: Tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng không? Vì sao?

Thực ra, tổn thất về tinh thần hoàn toàn có thể tồn tại xuất phát từ việc không thực
hiện đúng hợp đồng. Bộ LDS 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao
gồm toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
(Điều 360), có thể suu ra là bao gồm cả thiệt hại về tinh thần. Quy định này áp dụng
cho nghĩa vụ dân sự nói chung nên cũng được áp dụng cho nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng.
Tại Khoản 2, Điều 303, Luật Thương mại 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại: “2. Có thiệt hại thực tế”. Theo đó phải có “thiệt hại thực tế”, tức là
có thể không chỉ có thiệt hại vật chất mà còn có cả thiệt hại tinh thần.
Như vậy, nhìn từ góc độ văn bản, tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp
đồng cũng được bồi thường và thực tiễn cùng theo hướng này. 

Câu 6: BLDS 2005 và BLDS 2015 có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh
thần phát sinh do không thực hiện đúng hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lí khi
trả lời.

6
- Căn cứ vào Khoản 1 và Khoản 3, Điều 307, BLDS 2005 về Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại:
“1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về
vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần.
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi
phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn
thất về tinh thần cho người bị thiệt hại”.
Với quy định trên của BLDS 2005, tổn thất về tinh thần được bồi thường và quy
định này áp dụng cho nghĩa vụ dân sự nói chung nên cũng được áp dụng cho nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng.
- Căn cứ vào Khoản 1 và Khoản 3, Điều 361, BLDS 2015 về Thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ:
“1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh
thần.
3. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”.
BLDS 2015 đã quy định cụ thể tại Điều 361, thiệt hại về tinh thần do vi phạm nghĩa
vụ thì được bồi thường.

Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng.

7
Câu 1: Điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 về phạt vi phạm hợp
đồng.

- Về mức phạt vi phạm, tại Khoản 2, Điều 422, BLDS 2005 quy định:
“2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”.
Và tại Khoản 2, Điều 418, BLDS 2015 quy định:
“2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy
định khác”.
BLDS 2015 có bổ sung quy định về mức phạt vi phạm trong trường hợp “luật liên
quan có quy định” ngoài trường hợp các bên thoả thuận so với BLDS 2005. BLDS
2015 bổ sung quy định trên bởi lẽ hiện nay vẫn có luật quy định khác về mức phạt như
Luật xây dựng, Luật thương mại có quy định về mức phạt tối đa (các bên không được
hoàn toàn tự do thoả thuận).

- Tại Khoản 3, Điều 422, BLDS 2005:


“3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi
phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa
phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại
thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”.
Và Khoản 3, Điều 418, BLDS 2015:
“3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi
phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa
phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc
vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ
chỉ phải chịu phạt vi phạm”.

8
BLDS 2015 đã bỏ đi quy định “nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường
thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại” của BLDS 2005, quy định này được bỏ
đi vì đây là vấn đề bồi thường thiệt hại và đã có quy định khác điều chỉnh (Điều 13 và
Điều 360, BLDS 2015).
Về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, BLDS 2015 vẫn theo
hướng nếu không có thoả thuận cụ thể về việc kết hợp hai chế tài này thì thoả thuận
phạt vi phạm loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hai (có thoả thuận về phạt vi phạm
mà không có thoả thuận về sự kết hợp thì chỉ áp dụng phạt vi phạm)3.

* Đối với vụ việc thứ nhất:


Câu 2: Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng?

- Về đối tượng thực hiện: là khoản tiền buộc phải nộp cho một bên.
- Về hình thức: đều được lập thành văn bản.
- Về hậu quả pháp lý: bên vi phạm bị mất một khoản tiền (mức phạt vi phạm hoặc
phạt cọc), và không căn cứ vào thiệt hại thực tế.

Câu 3: Khoản tiền trả trước 30% được Toà án xác định là tiền đặt tiền cọc hay là
nội dung của phạt vi phạm hợp đồng?

- Khoản tiền trả trước 30% được Toà án xác định là tiền đặt tiền cọc.
- Đoạn trong bản án cho thấy:
“Xét thấy, theo khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh tế số 01-10/TL-TV ngày 01/10/2010
các bên đã thoả thuận: Ngay sau khi kí hợp đồng, bên mua (Công ty Tân Việt) phải
thanh toán trước cho bên bán (Công ty Tường Long) 30% giá trị đơn hàng gọi là tiền
đặt cọc, 40% giá trị đơn hàng thanh toán ngay sau khi bên Công ty Tường Long giao
hàng hoàn tất, 30% còn lại sẽ thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ ngày thanh toán

3
Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam
2016 (xuất bản lần thứ hai), tr.372.

9
cuối cùng. Do vậy số tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng (406.920.000 đồng)
được xác định là tiền đặt cọc”.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền trả trước 30%?

Cách giải quyết của Tòa án là chưa hợp lí và thiếu thống nhất trong cách giải quyết.
Về khoản tiền trả trước 30%, Tòa án đã xác định đây là tiền đặt cọc dựa trên khoản 7
Điều 292 Luật Thương mại và Điều 358 BLDS 2005. Khoản tiền này dùng để đảm
bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, sau đó Tòa án lại nhận định rằng phía bị
đơn đã không từ chối thực hiện hợp đồng mà hai bên đã đi vào thực hiện hợp đồng cho
nên khoản tiền 30% được xác định là khoản tiền dùng để thanh toán đợt giao hàng lần
thứ nhất. Theo hai bên thoả thuận thì sau khi kí hợp đồng, Công ty Tân Việt (bên mua)
phải thanh toán trước cho Công ty Tường Long (bên bán) 30% giá trị đơn hàng gọi là
tiền đặt cọc, do đó theo quy định tại Khoản 2, Điều 358, BLDS 2005 số tiền 30% trên
thuộc về bên bán khi bên mua từ chối thực hiện hợp đồng nhưng trên thực tế thì hai
bên đã đi vào thực hiện hợp đồng nên khoản tiền trên phải được trả lại cho bên mua
(Công ty Tân Việt) chứ không được dùng vào việc thanh toán cho giá trị đơn hàng thứ
nhất.
Do đó, cách giải quyết nhiều mâu thuẫn như trên của Tòa án đã khiến quyền và lợi
ích họp pháp của nguyên đơn không được đảm bảo.

* Đối với vụ việc thứ hai:


Câu 5: Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn
như thế nào?

10
Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn ở mức
8% giá trị hợp đồng theo Điều 301, Luật Thương mại 2005, do vậy mức phạt thoả
thuận của hai bên 30% giá trị hợp đồng là không phù hợp và điều kiện này vô hiệu
phần mức phạt Hợp đồng cao hơn 8% giá trị hợp đồng.
Tuy nhiên, Hội đồng trọng tài còn nhận định thêm nếu các bên đã có thoả thuận về
mức bồi thường thiệt hại thực tế tối đa là 30% tổng giá trị hợp đồng thì có thể xem xét
bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, tổng mức bồi thường và phạt vi phạm
không cao quá 30% giá trị hợp đồng (theo Điều 301, Luật Thương mại 2005).

Câu 6: So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết phục
không? Vì sao?

So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định thuyết phục.
Trước hết, Tòa đã dựa vào Điều 301 Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định về
“mức phạt vi phạm”. Vì mức thỏa thuận cao hơn nên Tòa lấy mức phạt 8% giá trị của
hợp đồng là phù hợp, đảm bảo quyền lợi cho bên vi phạm. Mặc dù Khoản 2, Điều 422,
BLDS 2005 có quy định: “Mức phạt vi phạm do các bên quy định” nhưng mức phạt
như trong thoả thuận là quá cao. Quy định về mức phạt trong BLDS để cho thấy các
bên được tự do về mức phạt còn việc viện dẫn Luật thương mại cho thấy các bên bị
giới hạn trong việc định đoạt mức phạt. Do vậy, Luật Thương mại sẽ được ưu tiên
hơn.
Vậy, theo Luật Thương mại thì mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định là đúng
pháp luật, thuyết phục. Tuy nhiên, căn cứ theo Khoản 2, Điều 422, BLDS 2005 quy
định Thực hiện hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm như sau: “Mức phạt vi phạm do
các bên thỏa thuận”; thì Quyết định này lại trái với quy định trong pháp luật dân sự.

11
Câu 7: Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng có
được kết hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thỏa thuận về
vấn đề này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Căn cứ vào Khoản 3, Điều 422, BLDS 2005 về Thực hiện hợp đồng có thoả thuận
phạt vi phạm:
“3. …
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”.
BLDS 2005 theo hướng phạt vi phạm hợp đồng không được kết hợp với bồi thường
thiệt hại nếu các bên không có thoả thuận.
- Căn cứ vào Khoản 2, Điều 307, Luật thương mại 2005 về Quan hệ giữa chế tài phạt
vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại:
“1. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
Luật thương mại 2005 cũng theo hướng nếu các bên không có thoả thuận thì phạt vi
phạm không được kết hợp với bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có quy định khác.

Câu 8: Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi thường
thiệt hại không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
- Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm được kết hợp với bồi thường thiệt hại.
- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời:
“Tuy nhiên, Điều 301 Luật Thương mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên, bên
bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về
mức bồi thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị Hợp đồng, nên việc cho phép bồi
thường mức cao hơn sẽ tạo bất ngờ cho Bị đơn. HĐTT cho rằng có thể xét bồi thường
thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi
phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng”.

12
Câu 9: Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do
không thực hiện đúng hợp đồng.

- Điểm giống nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực hiện
đúng hợp đồng:
+ Là biện pháp chế tài mà luật dân sự quy định để áp dụng cho các trường hợp vi
phạm hợp đồng.
+ Cơ sở để áp dụng 2 biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên thực tế
và phải có lỗi của bên vi phạm.
+ Mục đích chung của việc quy định cũng như áp dụng biện pháp này là nhằm ngăn
ngừa sự vi phạm hợp đồng.

13
- Điểm khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng
hợp đồng:
Bồi thường thiệt hại do không thực
Phạt vi phạm hợp đồng
hiện đúng hợp đồng

 Phải có sự thỏa thuận của các  Không cần có sự thỏa thuận.


chủ thể về việc áp dụng biện  Biện pháp này sẽ được áp dụng
Cơ sở để
pháp phạt hợp đồng. khi có hành vi vi phạm gây ra
áp dụng
 Không cần có thiệt hại do hành thiệt hại cho chủ thể bị vi phạm
vi vi phạm cũng có thể áp dụng trên thực tế.

Mục đích Khắc phục hậu quả thiệt hại do vi


Ngăn ngừa vi phạm.
chủ yếu phạm.
Tùy theo mức độ thiệt hại. Thiệt hại
Mức độ
được tính bao gồm cả thiệt hại thực
thiệt hại
Do thỏa thuận của các bên. Tối đa tế và trực tiếp do hành vi vi phạm
về vật
không quá 5% - 8% giá trị phần hợp đồng gây ra, những khoản lợi mà
chất của
hợp đồng bị vi phạm. người bị vi phạm đáng lẽ được
người bị
hưởng nếu không có hành vi vi
áp dụng
phạm.

Câu 10: Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm hợp đồng với bồi
thường thiệt hại có bị giới hạn không? Vì sao?

- Theo Khoản 3, Điều 422, BLDS 2005 về Thực hiện hợp đồng có thoả thuận phạt vi
phạm:
“3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi
phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa
phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại
thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.”.

14
Như vậy, BLDS 2005 không giới hạn về khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm hợp
đồng với bồi thường thiệt hại, mà do các bên thoả thuận phù hợp với quy định của
pháp luật.
- Theo Khoản 2, Điều 307, Luật Thương mại 2005 về Quan hệ giữa chế tài phạt vi
phạm và chế tài bồi thường thiệt hại:
“2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp
dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có
quy định khác”.
Ta thấy Luật Thương mại có quy định mức vi phạm do các bên thỏa thuận, nghĩa là
pháp luật đã giới hạn mức phạt không được vượt quá mức mà các bên thỏa thuận.

Câu 11: Theo Quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi
thường thiệt hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trong
Quyết định về vấn đề này.

- Trong Quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại có bị giới hạn.
- Trong Phán Quyết Trọng tài có đoạn như sau:
“Tuy nhiên, Điều 301 luật thương mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên, bên
thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về
mức bồi thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị hợp đồng, nên việc cho phép bồi
thường mức cao hơn sẽ tạo ra bất ngờ cho bị đơn. HĐTT cho rằng có thể xét bồi
thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản
phạt vi phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng”.
- Suy nghĩ về giải pháp trong Quyết định về vấn đề này:
Hướng giải quyết của Tòa khá thuyết phục, đảm bảo quyền lợi của bên bị vi phạm,
phù hợp với các quy định tại Khoản 2, Điều 307, Luật Thương mại 2005 và cả quy
định Khoản 3, Điều 422, BLDS 2005. Bởi lẽ, các bên đã có thỏa thuận về mức bồi
thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị hợp đồng là do sự tự nguyện của các bên và

15
việc cho phép bồi thường mức cao hơn sẽ tạo ra bất ngờ cho bên chịu phạt. Do vậy,
tòa vừa tôn trọng quyền tự do quyết định trong giao kết hợp đồng, quyền thỏa thuận vi
phạm hợp đồng và cả mức giới hạn việc phạt vi phạm để đảm bảo quyền lợi của cả
bên bị phạt vi phạm và bên còn lại. Việc Tòa đã xem xét để đúng với quy định của
pháp luật và đúng với thực tiễn.

Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt vi
phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.

Việc Toà án giảm mức phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam thường
được thông qua việc giới hạn mức phạt vi phạm khi các bên kí hợp đồng. Đây là một
“hạn chế tự do ý chí của các bên trong việc thoả thuận kí kết hợp đồng”4. Ngày nay,
việc giới hạn mức phạt vi phạm này được thể hiện thông qua quy định tại Điều 301,
Luật Thương mại 2005:
“Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy định trên thì lại gây xung đột với pháp luật dân sự. Cụ
thể tại Khoản 2, Điều 422, BLDS 2005 có quy định:
“2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”.
Việc viện dẫn một lúc hai văn bản về mức vi phạm này rất khó hiểu nhưng chúng ta
có giải thích như sau: Việc viện dẫn Bộ luật dân sự để cho thấy các bên được tự do về
mức phạt còn việc viện dẫn Luật Thương mại để cho thấy các bên bị giới hạn trong
định đoạt mức phạt5.
Biện pháp phạt vi phạm được thiết lập vì lợi ích của bên bị vi phạm do đó bên bị vi
phạm lựa chọn hay kết hợp với bồi thường thiệt hại để đảm bảo quyền lợi của mình.
Tuy nhiên, mức phạt đó phải không quá mức thỏa thuận. Việc Tòa án áp dụng hai chế
4
Dương Anh Sơn và Lê Thị Bích Thọ, Một số ý kiến về phạt vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam,
Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 1 (26)/2005, tr.26 – 31.
5
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án, Nxb. CTQG 2011, tr. 265.

16
tài này là phù hợp, quyền lợi bên bị vi phạm được bảo vệ. Song, vấn đề đặt ra là nên
áp dụng văn bản nào để thuyết phục, đảm bảo quyền lợi cho các đương sự, Tòa đã áp
dung văn bản là Luật thương mại. Do vậy, hướng giải quyết của Tòa là phù hợp vì
không những đảm bảo quyền lời của bên bị vi phạm mà đảm bảo quyền của bên vi
pham.

Vấn đề 3: Sự kiện bất khả kháng.

Câu 1: Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các
bên có thể thoả thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không?
Nêu rõ cơ sở khi trả lời.
- Khoản 1, Điều 156, BLDS 2015 có quy định về sự kiện bất khả kháng:
“1. …
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường
trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết
và khả năng cho phép”.
Vậy có thể thấy những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng như sau:
+ Thứ nhất, đây phải là “sự kiện xảy ra một cách khách quan”. Bộ luật dân sự không
cho biết cần hiểu yếu tố khách quan như thế nào nhưng thông thường yếu tố khách
quan này được đánh giá trong mối quan hệ với bên thực hiện hợp đồng. Để được coi là
sự kiện xảy ra một cách khách quan thì sự kiện này phải vượt qua sự kiểm soát của
bên phải thực hiện hợp đồng và như vậy đây có thể là sự kiện tự nhiên như thiên tai
nhưng cũng có thể do con người gây ra như hành động của người thứ ba.
+ Thứ hai, đây phải là sự kiện “không thể lường trước được”. Về thời điểm không
lường trước được, Bộ luật dân sự chúng ta không rõ nhưng một số hệ thống pháp luật
như Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng theo hướng sự lường trước được hay không
lường trước được xác định ở “thời điểm giao kết hợp đồng”

17
+ Thứ ba, sự kiện xảy ra “không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép”.

- Các bên có thể thoả thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 351, BLDS 2015 về Trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ dân sự:
“2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do
sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Câu 2: Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do
sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
- Hệ lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng
trong BLDS:
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 302, BLDS 2005 về Trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ dân sự:
“2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do
sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Theo quy định trên thì trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả
kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Căn cứ vào Khoản 3, Điều 546, BLDS 2005 về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
“3. Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư
hỏng hoặc bị huỷ hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật
có quy định khác”.
Trong quy định về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng vận chuyển nếu trường hợp
hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách

18
nhiệm dân sự, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác.
- Hệ lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng
trong Luật Thương mại:
Căn cứ theo Điểm b, Khoản 1, Điều 294, Luật Thương mại 2005 về Các trường hợp
miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm:
“1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;”
Theo Luật thương mại thì trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện
bất khả kháng thì bên vi phạm được miễn trách nhiệm bồi thường.

Câu 3: Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các
điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
- Số hàng trên có bị hư hỏng có thể do sự kiện bất khả kháng.
- Phân tích các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên:
+ Điều kiện thứ nhất: Tàu bị gió nhấn chìm dẫn đến hỏng toàn bộ tài sản ta thấy “gió
thổi” ở đây là một sự kiện xảy ra một cách khách quan.
+ Điều kiện thứ hai: Đây là sự kiện “không thể lường trước được” do thế giới khách
quan tác đông diễn ra ngoài ý chí chủ quan của con người.
+ Điều kiện thứ ba: Tàu chìm làm hàng hư hỏng toàn bộ có thật sự “Không thể
khắc phục được” tuy bản án cũng không nói rõ. Nếu số hàng hư hỏng trên có thể khắc
phục được thì đây không là sự kiện bất khả kháng; ngược lại, nếu số hàng hư hỏng
trên không khắc phục được thì đây là sự kiện bất khả kháng.

Câu 4: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào Khoản 3, Điều 546, BLDS 2005 về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
“3. Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư
hỏng hoặc bị huỷ hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu

19
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật
có quy định khác”.
Theo quy định trên, nếu giữa anh Văn và anh Bình không có thoả thuận về việc bồi
thường do sự kiện bất khả kháng thì anh Văn không phải chịu trách nhiệm bồi thường
cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng.
Nếu giữa anh Văn và anh Bình có thoả thuận về việc bồi thường do sự kiện bất khả
kháng thì anh Văn có phải bồi thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng hay
không phụ thuộc vào thoả thuận của hai bên.

Câu 5: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công ty
bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản
và thực tiễn xét xử.
- Căn cứ vào Điều 580, BLDS 2005 về Bảo hiểm trách nhiệm dân sự:
“1. Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba theo thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
bên mua bảo hiểm hoặc cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối với
thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức bảo hiểm đã
thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật”.
Theo quy định này, nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa
thuận bồi thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn được yêu cầu Công
ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này.
- Tuy vậy, thực tiễn xét xử vấn đề này có hai quan điểm trái ngược nhau. Cụ thể được
nêu tại hai bản án:
+ Tại bản án 110/2006/DSPT ngày 5/5/2006 của Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh:
Anh Lê Văn Khen nhận chở thuê hàng bằng đường thủy. Anh Khen có mua bảo
hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho người thứ ba của Công ty Bảo Việt
cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên đường vận chuyển, tàu bị gió lốc nhấn
chìm và gây thiệt hại đến tài sản hàng hóa. Trong hợp đồng nhận chuyển hàng, anh

20
Khen thỏa thuận chịu trách nhiệm trường hợp này và đã bồi thường cho chủ hàng anh
chở thuê số tiền 40.950.000 đồng. Tại bán án này, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh
khẳng định việc gây thiệt hại cho các chủ hàng là do hiện tượng bất khả kháng. Trong
vụ tai nạn trên, sau khi sự việc xảy ra anh Khen có thông báo cho Bảo Việt biết và
cung cấp thông tin yêu cầu Công ty Bảo Việt hoàn lại cho anh số tiền anh đã bồi
thường. Nhưng theo Tòa, anh Khen mặc dù đã nhận được thông tin từ Công ty Bảo
Việt nhưng anh Khen tự nguyện bồi thường (trái với quy định của pháp luật và quy tắc
bảo hiểm) nên anh phải tự chịu trách nhiệm.
+ Tại Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/5/2003 của Toà dân sự TANDTC:
Ông Khóm nhận chuyển 2.600 con vịt cho ông Điền và ông Trình bằng tàu của
mình. Ông Khóm tham gia bảo hiểm dân sự của chủ tàu và trong hợp đồng có nêu rõ
điều kiện bảo hiểm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm
thì Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên
chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Trên đường vận chuyển, do mưa gió to, nước
chảy mạnh, tàu va vào chân cầu bị chìm làm tổn thất trị giá đến 79.100.000 đồng số
tiền vịt. Vì ông Khóm thỏa thuận trong hợp đồng với ông Trình ông Điền nên đã bồi
thường số tiền trên. Nay ông Khóm yêu cầu Bảo Việt hoàn trả ông số tiền nói trên. Về
vụ việc trên, theo Tòa vì các bên có nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm nói trên và theo
Điều 546 BLDS 2005 vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được
thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả
kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ông Khóm và ông Trình, ông Điền là không trái pháp
luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang; Công ty Bảo Việt phải có trách
nhiệm bảo hiểm cho ông Khóm.
Thiết nghĩ, để uy tín trong các quan hệ tương tự như trên, tốt hơn hết các bên nên nêu
rõ trong hợp đồng bảo hiểm là có hay không bảo hiểm trong trường hợp thiệt hại do sự
kiện bất khả kháng.

Vấn đề 4: Tìm kiếm bản án liên quan đế chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

21
Tìm ít nhất 01 bản án (quyết định) của Tòa án liên quan đến chậm thực hiện nghĩa
vụ thanh toán mà Toà đã áp dụng BLDS 2015.
Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong bản án (quyết
định) liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà anh/chị đã tìm thấy.

22
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN CHƯ SÊ ĐỘC LẬP-TỰ DO-HÀNH PHÚC
TỈNH GIA LAI
Bản án số: 14/2017/DS-ST
Ngày 28/8/2017.
“V/v tranh chấp hợp đồng dân sự
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ – TỈNH GIA LAI

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm


phán- Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Dậu Các Hội thẩm
nhân dân:
1. Bà Phạm Thị Hoa
2. Bà Đỗ Thị Giang
- Thư ký phiên tòa: Bà Cao Thị Hiền - Thư ký Toà án nhân dân huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai.
-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Ngân- Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 29/2017/TLST-DS ngày 26 tháng 4 năm 2017
về “tranh chấp hợp đồng dân sự yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 20/2017/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 7 năm 2017 giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị L, trú tại: Xóm L, thôn T 1, xã H, huyện N, tỉnh
Bình Định. Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Chế Thị Kim Ng, trú tại: Tổ dân phố x, thị trấn S, huyện S, tỉnh
Gia Lai. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/4/2017, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn
bà Phạm Thị L trình bày:
Bà và bà Chế Thị Kim Ng có quan hệ quen biết từ lâu do mua bán tôm cá với
nhau. Đến ngày 25/5/2015 hai bên chốt lại sổ nợ thì bà Ng còn nợ của Bà số tiền là
34.000.000đ, bà Ng ghi vào sổ nợ của Bà hẹn mỗi tháng sẽ trả cho Bà 5.000.000đ.
Ngày 11/10/2015 bà Ng trả cho bà 4.000.000đ, sau đó bà Ng trả tiếp cho Bà hai lần nữa

23
mỗi lần 5.000.000đ. Tổng cộng bà Ng đã trả cho Bà 14.000.000đ, còn lại 20.000.000đ
bà Ng không trả như đã cam kết mặc dù Bà đã đòi nhiều lần. Trong đơn khởi kiện Bà
yêu cầu 21.000.000đ là do bà tính nhầm. Nay Bà xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối
với 1.000.000đ và yêu cầu Tòa án buộc bà Ng phải trả cho Bà số tiền nợ còn lại là
20.000.000đ.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, giấy
triệu tập, các thông báo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng bị đơn bà Chế
Thị Kim Ng không đến Tòa án làm việc. Do đó, Tòa án không lấy được ý kiến của bà
Ng đối với yêu cầu khởi kiện của bà L.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai như sau :
-Về việc tuân theo pháp luật của cơ quan và người tiến hành tố tụng: Đảm bảo
đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
-Về việc chấp hành của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn bà Phạm Thị L chấp
hành theo giấy triệu tập của tòa án và cung cấp đầy đủ chứng cứ đảm bảo theo đúng quy
định. Bị đơn bà Chế Thị Kim Ng không thực hiện đúng theo giấy triệu tập của tòa án,
không cung cấp chứng cứ gì cho tòa án, điều này thể hiện bà Nga mặc nhiên từ bỏ
quyền và lợi ích của mình.
-Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 428 và Điều 438 của Bộ
luật Dân sự năm 2005.
Buộc bà Chế Thị Kim Ng phải trả cho bà Phạm Thị L số tiền là 20.000.000đ (Hai
mươi triệu đồng).
Buộc bị đơn phải chị án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1]. Về tố tụng: Bà Phạm Thị L có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân
huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai giải quyết « tranh chấp hợp đồng dân sự yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ trả tiền » giữa Bà với bà Chế Thị Kim Ng; theo quy định tại khoản 3 Điều 26,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Bị đơn
bà Chế Thị Kim Ng đã được triệu tập hợp lệ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không
có lý do. Nên, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2]. Về nội dung: Theo các giấy viết tay (BL số 10, 11) mà bà L cung cấp thể
hiện: Giữa bà L và bà Ng có quan hệ mua bán hải sản với nhau. Đến ngày 20/5/2015,
hai bên chốt công nợ thì bà Ng còn nợ bà L số tiền 34.000.000đ, và thỏa thuận mỗi
tháng trả 5.000.000đ. Bà Ng đã trả cho bà L 03 lần được tổng số tiền là 14.000.000đ.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thông báo và triệu tập hợp lệ nhưng bà Ng không đến
Tòa án làm việc nên căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự bà Nga đã mặc
nhiên thừa nhận trình bày của nguyên đơn. Việc bà Ng không tiếp tục trả nợ cho bà L là
đã vi phạm nghĩa vụ cam kết theo khoản 1 Điều 438 Bộ luật Dân sự năm 2005. Do đó,
bà L khởi kiện

24
yêu cầu Tòa án buộc bà Ng trả số tiền còn nợ 20.000.000đ là có căn cứ. Trong đơn khởi
kiện bà L yêu cầu bà Ng phải trả là 21.000.000đ, tại phiên tòa bà L cho rằng là do bà
tính nhầm nên xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 1.000.000đ, căn cứ
điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần
yêu cầu khởi kiện đối với số tiền trên.
[3]. Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên theo quy
định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Toà án, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ
Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 144, Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266 và
Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 428 và Điều 438, của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 357 và
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Xử:
1. Buộc bà Chế Thị Kim Ng phải trả cho bà Phạm Thị L số tiền là 20.000.000đ
(Hai mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án tương ứng thời gian chưa thi hành án theo
quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị L đối với số tiền
1.000.000đ (Một triệu đồng).
3. Về án phí: Buộc bị đơn bà Chế Thị Kim Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là
1.000.000đ (Một triệu đồng) {(20.000.000đ x 5%)} để sung vào công quỹ nhà nước.
Hoàn trả cho bà Phạm Thị L 525.000đ (Năm trăm hai mươi lăm ngàn đồng) tạm
ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0001xxx ngày 26/4/2017 tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày

25
kể từ ngày nhận được trích sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công
khai.
“Trường hợp Bản, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân
sự”.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Chư Sê;
- Thi hành án DS huyện Chư Sê;
- Các đương sự;
- Lưu VT, hồ sơ vụ án.

Bùi Thị Dậu

You might also like