You are on page 1of 37

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT DÂN SỰ


STT HỌ TÊN MSSV
1 Huỳnh Lê Phương Nghi 195.380101.2166
2 Trần Quang Nghị 195.380101.2169
3 Hoàng Tạ Nam Nguyên 195.380101.2178
4 Nguyễn Lê Hoàng Nguyên 195.380101.2178
5 Phạm Thị Hồng Nhật 195.380101.2186
6 Huỳnh Tuyết Nhi 195.380101.2190
7 Lê Ý Nhi 195.380101.2191
8 Nguyễn Dương Yến Nhi 195.380101.2192
9 Nguyễn Thái Linh Nhi 195.380101.2194
10 Nguyễn Đăng Phú 195.380101.2208
11 Nguyễn Ngọc Phúc 195.380101.2209
12 Nguyễn Ý Quyết 195.380101.2223
13 Phan Thị Thanh Tâm 195.380101.2236

BÀI THẢO LUẬN ĐỢT 4


MÔN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ
BTTH NGOÀI HỢP ĐỒNG
CHỦ ĐỀ: TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG
NHÓM 7 - LỚP DS44A3
Giảng viên: Đặng Thái Bình
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
2
3

MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG GÂY RA..........................................................................................................6
Câu 1.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng...............................6
Câu 1.2. Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã
hội đủ chưa? Vì sao?.....................................................................................................7
Câu 1.3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp
đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.....................................8
Câu 1.4. BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần pháp sinh do
vi phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời...........................................8
Câu 1.5. Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh
thần không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................9
VẤN ĐỀ 2: VI PHẠM HỢP ĐỒNG.........................................................................10
Câu 2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp
đồng............................................................................................................................. 11
*Đối với vụ việc thứ nhất.......................................................................................12
Câu 2.2. Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng........................12
Câu 2.3. Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của phạt vi phạm hợp đồng?................................................................................12
Câu 2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền đặt cọc hay là nội dung của phạt vi phạm hợp đồng?............................................12
*Đối với vụ việc thứ hai.........................................................................................13
Câu 2.5. Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới
hạn như thế nào?..........................................................................................................13
Câu 2.6. So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết
phục không? Vì sao?....................................................................................................13
4

Câu 2.7. Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng
có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thỏa thuận về
vấn đề này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................................14
Câu 2.8. Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi thường
thiệt hại không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?..........................................16
Câu 2.9. Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt
hại do không thực hiện đúng hợp đồng?......................................................................16
Câu 2.10. Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
có bị giới hạn không? Vì sao?......................................................................................17
Câu 2.11. Trong Quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại không có bị giới hạn không? Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trong
Quyết định về vấn đề này.............................................................................................18
Câu 2.12. Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt vi
phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam...................................................................18
VẤN ĐỀ 3: SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG..............................................................20
Câu 3.1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết
các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không?
Nêu cơ sở khi trả lời.....................................................................................................20
Câu 3.2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi....................20
Câu 3.3. Số hàng trên có vị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các
điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên..................................21
Câu 3.4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.. 22
Câu 3.5. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trình hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công ty
bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản...22
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN CHẬM THỰC HIỆN
NGHĨA VỤ THANH TOÁN.....................................................................................24
Mỗi nhóm tự tìm ít nhất 01 bản án (quyết định) của Tòa án liên quan đến chậm thực
hiện nghĩa vụ thanh toán mà Tòa án đã áp dụng BLDS 2015......................................24
5

Cho biết suy nghĩ của nhóm về hướng giải quyết của Tòa án trong bản án (quyết
định) liên quan đến chậm thanh toán mà nhóm đã tìm thấy.........................................24
Chú thích:
BLDS: Bộ luật dân sự
BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự
TAND: Tòa án nhân dân
6

VẤN ĐỀ 1: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG GÂY RA.
TÌNH HUỐNG
Ông Lại (bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thẫm mỹ và bà Nguyễn thỏa thuận phẫu
thuật ngực với 4 yêu cầu: lấy túi ngực ra, thâu nhỏ ngực lại, bỏ túi nhỏ vào, không
được đụng đến núm vú. Ba ngày sau phẫu thuật, bà Nguyễn phát hiện thấy núm vú bên
phải sưng lên, đau nhức và đen như than. Qua 10 ngày, vết mổ hở hết phần vừa cắt chỉ,
nhìn thấy cả túi nước đặt bên trong và ông Lại tiến hành mổ may lại. Được vài ngày thì
vết mổ bên tay phải chữ T lại hở một lỗ bằng ngón tay, nước dịch tuôn ướt đẫm cả
người. Sau đó ông Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực tế bà Nguyễn mất
núm vú phải.
TRẢ LỜI CÂU HỎi
Câu 1.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháo luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005
về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
- Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng Việt Nam
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh do
hành vi vi phạm hợp đồng của một bên, do đó bên có hành vi vi phạm nghĩ vụ trong
hợp đồng mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại mà mình đã gây ra cho phía bên
kia tương ứng với mức độ lỗi của mình. Trong pháp luật Việt Nam, các căn cứ nhiệm
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
+ Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ (Điều 351 BLDS 2005).
+ Trách nhiệm dân sự do vi phạm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Điều
356 BLDS 2015).
+ Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (Điều 357 BLDS
2015)
+ Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không
thực hiện một công việc (Điều 358 BLDS 2015).
+ Trách nhiệm dân sự do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 357
BLDS 2015).
7

+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ (Điều 360 BLDS
2015).
- Những thay đổi của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
Tại Điều 307 BLDS 2005 đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, quy định vừa nêu không đưa ra căn cứ phát sinh trá ch
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ, mà chỉ đề cập đến hai loại trách
nhiệm. Đó là trách nhiệm bồi thường về vật chất và trách nhiệm bồi thường tổn thất về
tinh thần. Nói cách khác, BLDS 2005 chưa nêu rõ về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại. Từ đó, BLDS 2015 đã bổ sung thêm Điều 360 với tiêu đề “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ”. Hướng sửa đổi nêu trên là thuyết
phục và phù hợp với thực tiễn để giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại.
Câu 1.2. Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn
đã hội đủ chưa? Vì sao?
- Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn, cụ
thể là xâm phạm đến sức khỏe của bà Nguyễn.
- Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Trong tình huống này, đã phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do việc
không thực hiện đúng hợp đồng gây ra (nói cách khác đây là bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng).
BLDS 2015 đã quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
trong phần trách nhiệm dân sự mà không quy định cụ thể trong chế định hợp đồng vì
hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa các bên tham gia, vì thế việc không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ từ hợp đồng làm phát sinh trách nhiệm dân
sự.
Vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng được quy định tại Điều
419 BLDS 2015 trong phần chế định về hợp đồng quy định việc áp dụng các chế định
từ trách nhiệm dân sự từ Điều 360 BLDS 2015.
- BLDS 2015 không quy định minh thị và cụ thể căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng, nhưng có thể áp dụng các căn cứ làm phát sinh trách
8

nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng từ các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Điều 584 BLDS 2015, hay áp dụng căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ Luật Thương mại năm 2005 quy định như sau:
“Điều 303. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Trừ có trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.”
- Từ các căn cứ trên xét thấy, các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho bà Nguyễn đã hội đủ:
1) Có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng từ hợp đồng của bác sỹ Lại trong việc
phẫu thuật thẩm mỹ cho bà Nguyễn. Theo hợp đồng, bác sỹ Lại phải phẫu thuật cho bà
Nguyễn theo 04 yêu cầu: Lấy túi ngực ra, Thâu nhỏ ngực lại, Bỏ túi nhỏ vào, Không
được đụng đến núm vú. Nhưng sau quá trình phẫu thuật thì lại làm cho chỗ phẫu thuật
phát sinh vấn đề xấu. Từ đó cho thấy, bác sỹ Lại không thực hiện đúng nghĩa vụ thông
qua hành vi phẫu thuật không đúng yêu cầu từ hợp đồng và vi phạm nghĩa vụ trong đó
có việc vi phạm do bà Nguyễn bị bất núm vú phải là trái với thỏa thuận trong hợp
đồng.
2) Có thiệt hại thực tế xảy ra đối với bà Nguyễn: “núm vú phải sưng lên, đau
nhứt và đen như than”, “vết mổ hở hết phần vừa cắt chỉ, nhìn thấy cả túi nước đặt bên
trong”, “vết mổ bên tay phải chữ T lại hở một lỗ bằng ngón tay, nước dịch tuôn ướt
đẫm cả người”, “mất núm vú phải”.
3) Hành vi vi phạm hợp đồng của bác sỹ Lại là nguyên nhân trực tiếp gây ra
thiệt hại đối với bà Nguyễn. Chính từ việc không thực hiện đúng nghĩa vụ từ hợp đồng
mà bác sỹ Lại đã gây ra thiệt hại thực tế trên cơ thể bà Nguyễn thông qua hành vi phẫu
thuật không đúng hợp đồng và hậu quả từ việc phẫu thuật.
Câu 1.3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp
đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời?
Theo khoản 2 Điều 361 BLDS 2015, những thiệt hại vật chất do vi phạm hợp đồng
gây ra được bồi thường: “Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định
9

được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục
thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.”
Câu 1.4. BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do
vi phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lí khi trả lời.
BLDS cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi phạm hợp
đồng. Cơ sở pháp lí theo Khoản 3 Điều 419 BLDS 2015: "Theo yêu cầu của người có
quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho
người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc".
Câu 1.5. Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh
thần không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lí khi trả lời.
Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn được bồi thường tổn thất về tinh thần. Vì ông
Lại đã làm mất núm vú phải của bà Nguyễn và điều này khiến cho bà Nguyễn bị tổn
thất về tinh thần ảnh hưởng ít nhiều đến hạnh phúc gia đình của bà. Do đó, bà Nguyễn
có quyền yêu cầu ông Lại phải bồi thường tổn thất mà bà đã chịu. Tuy nhiên, mức bồi
thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc. Cơ sở pháp lí theo Khoản 3
Điều 419 BLDS 2015: "Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người
có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do
Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc".
10

VẤN ĐỀ 2: VI PHẠM HỢP ĐỒNG


TÓM TẮT BẢN ÁN 121/2011/KDTM-PT
Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Tân Việt (công ty Tân Việt) và công
ty TNHH Tường Long (công ty Tường Long) có kí hợp đồng để mua bán vải thành
phẩm. Việc giao hàng được chia thành bốn đợt. Ngay sau khi kí hợp đồng, công ty Tân
Việt thanh toán trước 30% đơn hàng gọi là tiền đặt cọc. Sau khi công ty Tường Long
giao hàng đợt 1 thì có gửi công văn đến công ty Tân Việt yêu cầu tăng giá hàng lên với
lý do giá nguyên liệu tăng. Nhưng công ty Tân Việt gửi công văn không đồng ý. Công
ty Tường Long trừ số tiền hàng đã giao và hoàn trả lại số tiền còn lại cho công ty Tân
Việt rồi tự ý hủy bỏ hợp đồng với công ty Tân Việt. Vì công ty Tường Long đã tự ý
hủy bỏ hợp đồng nên nay công ty Tân Việt khởi kiện yêu cầu thanh toán tiền phạt cọc
và tiền phạt hợp đồng đối với phần hàng chưa giao. Sau khi nghiên cứu các tài liệu Tòa
án chập thuận đối với yêu cầu thanh toán tiền phạt hợp đồng của công ty Tân Việt. Còn
yêu cầu thanh toán tiền phạt cọc thì Tòa án không chấp thuận.
TÓM TẮT PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM
Đối với vụ việc ngày 13/9/2006 giữa nguyên đơn là công ty TNHH Thương mại Hà
Việt và bị đơn công ty TNHH Thương mại Shanghai CJS International thì hội đồng
trọng tài có 2 nhận xét, thứ nhất là hội đồng trọng tài đưa ra những cơ sở pháp lí về
việc tuyên bố Hủy hợp đồng của ông Michael Jung – giám đốc điều hành công ty Fako
International là có giá trị vì ông Michael Jung là đại diện hợp pháp của bên bị đơn. Do
đó nguyên đơn có thể căn cứ vào quyết định của ông Michael Jung để khởi kiện bị đơn
đơn phương hủy hợp đồng. Nhận xét thứ hai của hội đồng trọng tài là về mức phạt hợp
đồng của 2 bên nguyên đơn và bị đơn đã thỏa thuận. Mức phạt hợp đồng 30% giá trị
hợp đồng là cao hơn nhiều so với qui định của pháp luật Việt Nam, cụ thể là luật
Thương mại qui định mức phạt hợp đồng không quá 8% giá trị của hợp đồng, do đó bị
đơn sẽ chỉ phải thanh toán cho nguyên đơn khoản tiền phạt hợp đồng là 8% giá trị hợp
đồng theo qui định tại điều 301 luật Thương mại. Dựa vào những nhận xét trên, hội
đồng trọng tài quyết định công nhận việc bị đơn đã vi phạm hợp đồng, cụ thể là bị đơn
đã đơn phương hủy hợp đồng, do đó bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn khoản tiền
phạt hợp đồng tương ứng với 8% giá trị hợp đồng là 2.780 USD.
11

TRẢ LỜI CÂU HỎI


Câu 2.1. Điểm mới của BLDS 2015 và BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng
BLDS 2005 BLDS 2015?
BLDS 2005 BLDS 2015

Khoản 2 Điều 422 quy định: Khoản 2 Điều 418 quy định:
“2. Mức phạt vi phạm do các “2. Mức phạt vi phạm do các bên
bên thỏa thuận.” thỏa thuận, trừ trường hợp luật
liên quan có quy định khác.”
 BLDS 2015 bổ sung quy định
về mức phạt vi phạm trong trường
hợp “luật liên quan có quy định
khác” ngoài trường hợp do các
bên thỏa thuận so với BLDS 2005.
Mức phạt BLDS 2015 quy định như trên bởi
lẽ hiện nay vẫn có luật khác quy
định về mức phạt như Luật xây
dựng (mức phạt vi phạm bị hạn
chế ở mức 12%), Luật Thương
mại (mức phạt vi phạm bị hạn chế
ở mức 8%). Vì vậy, mức phạt vi
phạm không hoàn toàn do các bên
thỏa thuận, lựa chọn tron mọi
trường hợp.

Mối quan hệ Khoản 3 Điều 422 quy định: Khoản 3 Điều 418 quy định:
giữa phạt vi “3. Các bên có thể thỏa thuận “3. Các bên có thể thỏa thuận về
phạm và bồi về việc bên vi phạm nghĩa vụ việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ
thường thiệt chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm phải chịu phạt vi phạm mà không
hại mà không phải bồi thường thiệt phải bồi thường thiệt hại hoặc
hại hoặc vừa phải nộp phạt vi vừa phải chịu phạt vi phạm và
phạm và vừa phải bồi thường vừa phải bồi thường thiệt hại.
12

thiệt hại; nếu không có thỏa Trường hợp các bên có thỏa
thuận trước về mức bồi thuận về phạt vi phạm nhưng
thường thiệt hại thì phải bồi không thỏa thuận về việc vừa phải
thường toàn bộ thiệt hại. chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi
Trong trường hợp các bên thường thiệt hại thì bên vi phạm
không có thỏa thuận về bồi nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi
thường thiệt hại thì bên vi phạm.”
phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp
tiền phạt vi phạm.”

BLDS 2015 đã bỏ đi quy định


“nếu không có thỏa thuận trước
về mức bồi thường thiệt hại thì
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”
của BLDS 2005. Quy định này tại
BLDS 2005 được bỏ đi vì đây là
vấn đề được quy định khác điều
chỉnh (cụ thể là tại Điều 360
BLDS 2015)

*Đối với vụ việc thứ nhất


Câu 2.2. Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng.
- Về đối tượng thực hiện: là khoản tiền buộc phải nộp cho một bên.
- Về hậu quả pháp lý: bên vi phạm bị mất một khoản tiền và không căn cứ vào thiệt
hại thực tế.
- Về hình thức: đều được lập thành văn bản.
Câu 2.3. Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của phạt vi phạm hợp đồng?
Theo Tòa án, khoản tiền trả trước 30% là tiền đặt cọc, thể hiện qua đoạn: “Xét thấy,
theo khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh tế 01-10/TL-TV ngày 01/10/2010 các bên đã thỏa
thuận: Ngay sau khi ký hợp đồng, bên mua (Công ty Tân Việt) phải thanh toán trước
13

cho bên bán (Công ty Tường Long) 30% giá trị đơn hàng gọi là tiền đặt cọc, 40% giá
trị đơn hàng thanh toán ngay sau khi bên Công ty Tường Long giao hàng hoàn tất,
30% còn lại sẽ thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ ngày thanh toán cuối cùng. Do
vậy, số tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng (406.920.000 đồng) được xác
định là tiền đặt cọc”.
Câu 2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến
khoản tiền trả trước 30%.
Theo nhóm hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả trước 30% là
hợp lí. Theo Điều 328 BLDS 2015 có quy định:
“1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây
gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị
khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết
hoặc thực hiện hợp đồng.
2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại
cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối
việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu
bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc
tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.”
Trong hợp đồng trên, 2 bên đã thỏa thuận xem 30% giá trị đơn hàng là tiền đặt cọc
và công ty Tân Việt sau khi kí hợp đồng cũng đã thanh toán số tiền này. Do đó, có thể
coi việc trả trước này là nhằm đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Và trong vụ việc
trên thì công ty Tường Long không được xem là từ chối giao kết hợp đồng bởi lẽ công
ty này đã thực hiện được 1 phần hợp đồng. Nhưng sau đó do không thể thỏa thuận với
công ty Tân Việt để thay đổi nội dung hợp đồng nên công ty Tường Long mới tự ý hủy
bỏ hợp đồng giữa các bên. Chính vì vậy, việc công ty Tường Long tự ý hủy bỏ hợp
đồng thì công ty này chỉ phải thanh toán số tiền phạt do vi phạm hợp đồng chứ không
phải thanh toán tiền phạt đặt cọc như bên nguyên đơn đã yêu cầu.
* Đối với vụ việc thứ hai
Câu 2.5. Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới
hạn như thế nào?
14

Trong quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn ở mức
8% giá trị hợp đồng theo Điều 301 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, do vậy việc
thỏa thuận phạt 30% giá trị hợp đồng của các bên tại điều 5 của hợp đồng là không phù
hợp với quy định của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 nên điều khoản này vô
hiệu phần mức phạt hợp đồng do cao hơn mức quy định của Luật Thương mại (8%).
Tuy nhiên, HĐTT còn cho rằng nếu các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường thiệt
hại thực tế tối đa là 30% tống giá trị hợp đồng thì có thể xem xét về bồi thường thiệt
hại thực tế cho nguyên đơn nhưng tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi
phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng.
Câu 2.6. So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết
phục không? Vì sao?
So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định là thuyết phục. Vì
mức thỏa thuận của các bên là rất cao nên Tòa lấy 8% giá trị là phù hợp, đảm bảo
quyền lợi cho bên vi phạm. Mặc dù nếu căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 422
BLDS 2005 về Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận thì Quyết định này không hợp
lí. Nhưng việc viện dẫn Luật Thương mại cho thấy các bên bị giới hạn trong việc định
đoạt mức phạt nên Luật Thương mại nên được ưu tiên hơn.
Câu 2.7. Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp
đồng có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thỏa
thuận về vấn đề này? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời?
*Trong pháp luật dân sự, phạt vi phạm hợp đồng không được kết hợp với bồi
thường thiệt hại nếu các bên không thỏa thuận về vấn đề này. Tuy nhiên trong pháp
luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng có quyền được kết hợp với bồi thường thiệt
hại nếu các bên không có thỏa thuận.
*Cơ sở pháp lý:
 Trong pháp luật thương mại:
- Căn cứ theo Điều 301 Luật Thương mại năm 2005 quy định về Mức phạt vi
phạm: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật
này”.
15

- Và khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại 2005 quy định về Quan hệ giữa chế tài
phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại: “2. Trường hợp các bên có thỏa thuận
phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi
thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
 Tức là theo Luật Thương mại, phạt vi phạm hợp đồng có quyền được kết hợp
với bồi thường thiệt hại nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề này.
 Trong pháp luật dân sự:
- “Phạt vi phạm” hay còn gọi là “phạt vi phạm hợp đồng” là sự thỏa thuận giữa
các bên, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
Việc phạt vi phạm hợp đồng không mang tính bắt buộc, mà do các bên thỏa thuận với
nhau. Tuy nhiên thỏa thuận này (nếu có), thì phải thể hiện rõ trong hợp đồng. Nếu
trong hợp đồng không có nội dung này, thì xem như hai bên không thỏa thuận.
- Căn cứ theo Điều 418 BLDS 2015 quy định Thỏa thuận phạt vi phạm như sau:
“1. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có
quy định khác.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi
phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa
phải bồi thường thiệt hại.
3. Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận
về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
 Vậy, nếu hai bên không có thỏa thuận gì về việc kết hợp phạt vi phạm hợp đồng
với bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm.
*Trong bản thân Điều 418 BLDS 2015 đã tồn tại sự mâu thuẫn. Cụ thể:
- Thứ nhất, “các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải
chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại”, điều này có thể hiểu là khi có
thỏa thuận phạt thì quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại vẫn là mặc định, nếu các bên
muốn chỉ áp dụng điều khoản phạt mà không đặt vấn đề bồi thường thiệt hại thì phải
nêu rõ trong thỏa thuận.
- Thứ hai, “… hoặc (có thể thỏa thuận) vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải
bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại
16

thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Điều này có thể hiểu ngược lại là
trong trường hợp có thỏa thuận phạt thì quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại không còn
là quyền mặc nhiên nữa, nghĩa là nếu các bên vừa muốn phạt hợp đồng, vừa muốn bồi
thường thiệt hại thì phải nói rõ trong hợp đồng. Nếu chỉ thỏa thuận về phạt vi phạm và
không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt
vi phạm.
Theo nhóm, quy định về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong Luật Thương
mại 2005 hợp lý hơn và phù hợp với ý nghĩa, mục đích của bồi thường thiệt hại. Bởi ý
nghĩa của chế tài phạt vi phạm là nhằm mục đích răn đe, trừng phạt nên việc có muốn
thực hiện mục đích này không thì phụ thuộc vào ý chí của các bên khi thiết lập hợp
đồng. Trong khi ý nghĩa của chế tài bồi thường thiệt hại lại là bù đắp những tổn thất mà
bên bị vi phạm phải gánh chịu do hành vi vi phạm của bên vi phạm, gây thiệt hại thì
phải bồi thường cho những tổn thất mình gây ra. Việc bên bị vi phạm không có câu
chữ “bên vi phạm vừa phải chịu phạt vi phạm vừa phải bồi thường thiệt hại” không có
nghĩa họ từ bỏ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của mình.
Câu 2.8. Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi
thường thiệt hại không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm được kết hợp với bồi thường thiệt hại.
Trong Phán Quyết Trọng tài tại trang số 2 có đoạn như sau:
“… Tuy nhiên, Điều 301 Luật Thương mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên,
bên bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận
về mức bồi thường thiệt hại…HĐTT cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế
cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không
được cao quá 30% giá trị hợp đồng”.
Câu 2.9. Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do
không thực hiện đúng hợp đồng.
- Điểm giống nhau: cả phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại đều được coi
là biện pháp chế tài mà luật dân sự quy định để áp dụng cho các trường hợp vi phạm
hợp đồng. Cơ sở để áp dụng 2 biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên
thực tế và phải có lỗi của bên vi phạm. Mục đích của việc quy định cũng như áp dụng
biện pháp này là nhằm ngăn ngừa sự vi phạm hợp đồng.
17

- Điểm khác nhau:


Phạt hợp đồng Bồi thường thiệt hại

Phải có sự thỏa thuận của các Không cần có sự thỏa thuận.


chủ thể về việc áp dụng các Biện pháp này sẽ được áp dụng
Cơ sở để áp biện pháp phạt hợp đồng. khi có hành vi vi phạm gây ra
dụng Không cần có thiệt hại do hành thiệt hại cho chủ thể bị vi phạm
vi vi phạm cũng có thể áp trên thực tế.
dụng.

Mục đích chủ Ngăn ngừa vi phạm. Khắc phục hậu quả thiệt hại do vi
yếu phạm.

Do thỏa thuận của các bên. Tối Tùy theo mức độ thiệt hại. Thiệt
đa không quá 5% - 8% giá trị hại được tính bao gồm cả thiệt
Mức độ thiệt
phần hợp đồng bị vi phạm. hại thực tế và trực tiếp do hành vi
hại về vật chất
vi phạm hợp đồng gây ra, những
của người bị
khoản lợi nhuận mà người bị vi
áp dụng
phạm đáng lẽ được hưởng nếu
không có hành vi vi phạm.

Câu 2.10. Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt
hại có bị giới hạn không? Vì sao?
Căn cứ theo khoản 3 Điều 418 BLDS 2015 về Thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng:
“Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm
mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi
thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa
thuận về việc vừa chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Bên cạnh đó, mức phạt vi phạm và mức bồi
thường thiệt hại được quy định tại Điều 418 và Điều 360 cũng không bị giới hạn. Như
18

vậy, BLDS không giới hạn mức phạt khi kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại
mà cho phép các bên thỏa thuận về mức phạt.
Câu 2.11. Trong Quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ về giải pháp trong Quyết định về
vấn đề này.
Trong Quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại bị giới hạn. Trong Quyết định trên có đoạn như sau: “Tuy nhiên, Điều 301 Luật
Thương mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên, bên bị thiệt hại có quyền đòi bồi
thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại tối
đa là 30% tổng giá Hợp đồng, nên việc cho phép bồi thường mức cao hơn sẽ tạo ra bất
ngờ cho Bị đơn. HĐTT cho rằng có thế xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên
đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao quá
30% giá trị hợp đồng”.
Quan điểm của nhóm cho rằng giải pháp của Hội đồng trọng tài là chưa thuyết
phục. Lý do mà Hội đồng trọng tài đưa ra làm căn cứ cho lập luận của mình là “việc
cho phép bồi thường mức cao hơn sẽ tạo ra bất ngờ cho Bị đơn”, và theo nhóm, lý do
này chưa thực sự có tính chất pháp lý trong trường hợp này. Hơn nữa, các bên đã có
thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại và mức phạt vi phạm, do đó, họ đã dự liệu được
hệ quả có thể xảy ra. Thêm vào đó, khác với chế tài phạt vi phạm, việc thỏa thuận về
mức bồi thường thiệt hại của các bên nên được tôn trọng vì việc chứng minh thiệt hại
để buộc bên vi phạm nghĩa vụ bồi thường đôi khi khá khó khăn. Do đó, các bên có thể
lựa chọn giải pháp thỏa thuận mức bồi thường trong hợp đồng. Vì những lẽ trên, nhóm
cho rằng khi kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, Hội đồng trọng tài nên giữ
mức bồi thường là 30% giá trị hợp đồng theo thỏa thuận và chỉ điều chỉnh mức phạt vi
phạm cho phù hợp với quy định của pháp luật chứ không giới hạn tổng mức bồi thường
thiệt hại và khoản phạt vi phạm không quá 30% giá trị hợp đồng để đảm bảo quyền lợi
của các bên.
Câu 2.12. Suy nghĩ về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt vi phạm hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam.
Đối với vi phạm hợp đồng, Luật Thương mại đã có giới hạn về mức phạt vi phạm,
trong khi đó, BLDS quy định theo hướng các bên có thể tự do thỏa thuận. Như vậy, đối
19

với các hợp đồng dân sự, mức phạt vi phạm không bị giới hạn. Trên thực tế, mức phạt
do các bên thỏa thuận có thể quá thấp hoặc quá cao so với thiệt hại thực tế xảy ra nên
hướng quy định như BLDS là chưa hợp lý.
Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng: “Bộ luật dân sự sủa đổi và trong Luật
thương mại sửa đổi cần phải có quy định cho phép Tòa án hạ mức tiền phạt mà các
bên thỏa thuận theo yêu cầu của bên vi phạm nếu họ chứng minh được rằng, thiệt hại
thực tế xảy ra thấp hơn rất nhiều so với mức phạt vi phạm mà các bên đã thỏa thuận
tại thời điểm ký kết hợp đồng”. Ngày nay, pháp luật của một số quốc gia cũng cho phép
Tòa án thay đổi mức phạt vi phạm mà các bên đã thỏa thuận. Cụ thể, theo Điều 1231-5
BLDS Pháp, “Tòa án Pháp có thể, thậm chí là mặc nhiên, ra quyết định giảm hoặc
tăng mức tiền phạt vi phạm đã thỏa thuận, nếu khoản tiền theo thỏa thuận đó rõ ràng
là quá cao hoặc quá thấp. Mọi điều khoản trái lại coi như vô hiệu”. Ngoài ra, Điều
7.4.14 Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế có quy định “mặc dù
có thỏa thuận khác, khoản tiền bồi thường có thể được giảm một cách hợp lý nếu nó
quá mức so với thiệt hại gây ra do việc không thực hiện và do các hoàn cảnh khác”. Bộ
nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng cũng quy định tương tự tại Điều 9.509.
Theo nhóm, pháp luật Việt Nam cũng nên quy định theo hướng như trên. Đối với
các hợp đồng dân sự, Tòa án có thể áp dụng lẽ công bằng, nguyên tắc thiện chí và chức
năng, nhiệm vụ bảo vệ công lý của Tòa án để tăng hoặc giảm mức phạt vi phạm cho
hợp lý khi luật chưa có quy định cho phép Tòa án can thiệp vào loại thỏa thuận này.
20

VẤN ĐỀ 3: SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG


TÌNH HUỐNG
Anh Văn nhận chuyển hàng cho anh Bình bằng đường thủy. Anh Văn có mua bảo
hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên đường vận
chuyển, tàu bị gió nhấn chìm và hàng bị hư hỏng toàn bộ.
TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 3.1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết
các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng
không? Nêu cơ sở khi trả lời.
- CSPL: Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015
- Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng:
1. Xảy ra một cách khách quan.
2. Không thể lường trước được.
3. Không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả
năng cho phép.
 Như vậy, chỉ khi đáp ứng các điều kiện nêu trên thì một sự kiện mới được xem là
bất khả kháng và là căn cứ để miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm.
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu
trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác” thì các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
Câu 3.2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
*CSPL: Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015, điểm b khoản 1 Điều 296 Văn bản hợp nhất
17/VBHN-VPQH
- Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện
đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
 Ngoại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại, BLDS 2015 không quy định rõ
những loại trách nhiệm nào mà bên vi phạm không phải chịu.
- Điểm b khoản 1 Điều 294 Văn bản hợp nhất 17/VBHN-VPQH:
21

“1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau
đây:
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;”
 Theo Văn bản hợp nhất số 17 thì trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
do sự kiện bất khả kháng thì bên vi phạm được miễn trách nhiệm bồi thường.
Câu 3.3. Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích
các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
*Theo nhóm, số hàng trên bị hư hỏng không phải do sự kiện bất khả kháng. Bởi lẽ:
- Căn cứ nội dung khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng
là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc
phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”
- Căn cứ theo nội dung điểm a khoản 3 Điều 4 Nghị định 62/2015/NĐ-CP hướng
dẫn Luật Thi hành án dân sự do Thủ tướng Chính phủ ban hành thì những trường hợp
được coi là sự kiện bất khả kháng được quy định như sau: “Sự kiện bất khả kháng là
trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, địch họa”.
Như vậy, một sự kiện chỉ được coi là bất khả kháng khi hội tụ đủ ba yếu tố:
1. Xảy ra một cách khách quan: Sự kiện đó nằm ngoài phạm vi kiểm soát của
các bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Ví dụ: bão, lũ, động đất, sóng thần…
2. Không lường trước được: Hậu quả xảy ra không thể lường trước được tại thời
điểm giao kết hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng cho đến trước thời điểm xảy ra
hành vi vi phạm
3. Hậu quả xảy ra không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp
cần thiết và khả năng cho phép.
Hoặc tùy theo thỏa thuận giữa các bên.
- Áp dụng vào tình huống trên:
1. Số hàng trên bị gió nhấn chìm dẫn đến hư hỏng toàn bộ nhưng ở đây không
nói rõ là gió bão hay gió gì dẫn đến nhấn chìm. Nếu là bão thì sẽ được dự báo thời tiết
trước để biết mà tránh giao vào những ngày có bão. Nên điều này có thể nằm trong
phạm vi kiểm soát của anh Văn. Nếu anh Văn vẫn lựa chọn giao hàng dù biết sẽ có bão
nghĩa là anh Văn xem nhẹ việc phải hoàn thành gnhixa vụ giao hàng của mình.
22

2. Tình huống không đề cập đến việc anh Văn có biết thông tin cơn bão đến
trước hay sau khi anh bắt đầu vận chuyển hàng hay không nên không thể xét.
3. Tình huống cũng không đề cập đến việc anh Văn áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép để khắc phục hậu quả xảy ra.
4. Đồng thời không nêu rõ hai bên có thỏa thuận trong hợp đồng gió làm chìm
tàu hư hỏng hàng có phải là sự kiện bất khả kháng hay không.
 Vì những phân tích trên, nhóm cho rằng số hàng bị hư hỏng trong tình huống
không phải do sự kiện bất khả kháng.
Câu 3.4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
*CSPL: Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện
đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
- Theo quy định trên, nếu anh Văn và anh Bình không có thỏa thuận về việc bồi
thường do sự kiện bất khả kháng thì anh Văn không phải chịu trách nhiệm bồi thường
cho anh Bình về việc hành bị hư hỏng.
- Nếu giữa anh Văn và anh Bình có thỏa thuận về việc bồi thường do sự kiện bấ khả
kháng thì anh Văn có phải bồi thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng hay không
phụ thuộc vảo thỏa thuận của hai bên.
Câu 3.5. Nếu hàng hóa bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa
thuận bồi thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu
cầu Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ
góc độ văn bản và thực tiễn xét xử.
- Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường
cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn được yêu cầu Công ty bảo hiểm
thanh toán khoản tiền này.
- CSPL: Điều 57 Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2020/QH10: “Theo yêu cầu của
người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có thể bồi thường trực tiếp cho người
được bảo hiểm hoặc cho người thứ ba bị thiệt hại.”
23

- Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có hai quan điểm trái ngược nhau. Được thể hiện qua
hai bản án:
1. Bản án số 110/2006/DSPT ngày 5/5/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà
Vinh. (Bản án và bình luận án Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam, bản án số 77).
Tóm tắt bản án:
Anh Lê Văn Khen nhận chở hàng bằng đường thủy và có mua bảo hiểm thân
tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên đường
vận chuyển, tàu bị gió lốc nhấn chìm và gây thiệt hại đến tài sản hàng hóa. Trong hợp
đồng nhận chuyển hàng anh đã thỏa thuận chịu trách nhiệm trường hợp tàu bị gió lốc
nhấn chìm và đã bồi thường cho người chủ số tiền 40.950.000 đồng. Nay anh yêu cầu
công ty Bảo Việt Trà Vinh phải bồi hoàn lại cho anh. Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh
khẳng định việc gây thiệt hại cho các chủ hàng là do sự kiện bất khả kháng nhưng anh
Khen tự nguyện nhận bồi thường nên phải tự gánh chịu hậu quả.
2. Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/5/2003 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao tỉnh An Giang (Bản án và bình luận án Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam).
Tóm tắt bản án:
Ông Khóm nhận chuyển 2.600 con vịt cho ông Điền và ông Trình bằng tàu của
ông. Ông Khóm mua bảo hiểm dân sự, bên bảo hiểm nhận trách nhiệm bồi thường mất
mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Trên đường
vận chuyển gặp mưa gió lớn, nước chảy mạnh tàu va vào chân cầu làm tổn thất đến
79.100.000đ số tiền vịt. Vì ông Khóm thỏa thuận trong hợp đồng với ông Trình và ông
Điền nên đã bồi thường số tiền trên. Nay ông Khóm yêu cầu Bảo Việt trả khoản tiền
trên. Theo điều 546 BLDS 2005 thì bên vận chuyển phải bồi thường thiệt hại cho bên
thuê vận chuyển, nếu để tài sản bị mất mát hoặc hư hỏng. Do đó thỏa thuận giữa ông
Khóm và ông Trình, ông Điền là không trái pháp luật và ràng buộc cả bên Bảo Việt.
24

VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐỀN CHẬM THỰC HIỆN
NGHĨA VỤ THANH TOÁN
Mỗi nhóm tự tìm ít nhất 01 bản án (quyết định) của Tòa án liên quan đến chậm
thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà Tòa án đã áp dụng BLDS 2015.
Cho biết suy nghĩ của nhóm về hướng giải quyết của Tòa án trong bản án (quyết
định) liên quan đến chậm thanh toán mà nhóm đã tìm thấy.
- Nhóm đã tìm được bản án số: 04/2018/KDTM-PT liên quan đến chậm thực hiện
nghĩa vụ thanh toán mà Tòa án đã áp dụng BLDS 2015.

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG


BẢN ÁN 04/2018/KDTM-PT NGÀY 06/02/2018 VỀ YÊU CẦU THỰC HIỆN
NGHĨA VỤ TRẢ TIỀN
Ngày 06 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử
phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 23/2017/TLPT- KDTM
ngày 02 tháng 11 năm 2017 về việc: “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 13/2017/KDTM-ST ngày 29 tháng 9
năm 2017 của Tòa án nhân dân quận T, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 14/2017/QĐ-PT ngày 14 tháng
11 năm 2017; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 19/2017/QĐ-PT ngày 30 tháng
11 năm 2017; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 07/2017/QĐ-PT ngày 29 tháng 12
năm 2017; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 02/2018/QĐ-PT ngày 26 tháng 01
năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Tổng công ty Xây dựng Công trình giao thông Đ; địa chỉ tại số 77
đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Phạm Văn P, sinh năm 1972; cư trú
tại Phòng B, chung cư N, H, thành phố Hà Nội, là người đại diện theo ủy quyền (theo
Giấy ủy quyền số 592/GUQ-TCT5 ngày 28.4.2017). Có mặt.
- Bị đơn: Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ; địa chỉ tại Tầng 12 Tòa nhà V,
số 255-257 H, phường V, quận T, thành phố Đà Nẵng.
25

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Thái Thanh T, sinh năm 1977; địa chỉ
liên lạc: Tầng 12 Tòa nhà V, số 255-257 H, phường V, quận T, thành phố Đà Nẵng
(Theo Giấy ủy quyền số:01/UQ-HC.579 ngày 02/02/2018). Có mặt.
3. Người kháng cáo
- Tổng Công ty Xây dựng Công trình giao thông Đ – nguyên đơn
- Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ – bị đơn
4. Viện Kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà
Nẵng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/4/2017, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện hợp pháp của nguyên đơn - Tổng Công ty Xây
dựng công trình Giao thông Đ trình bày:
Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ (gọi tắt là Công ty Đ) được thành lập trên
cơ sở cổ phần hóa Công ty Đầu tư và Xây dựng Đ, một đơn vị hạch toán phụ thuộc của
Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông Đ (gọi tắt là Tổng Công ty CĐ) theo
Quyết định 5079/QĐ-BGTVT ngày 30.12.2005 của Bộ Giao thông Vận tải về việc phê
duyệt phương án và chuyển Công ty Đầu tư và Xây dựng Đ thành công ty cổ phần.
Theo Quyết định số 1834/QĐ-BGTVT ngày 18.8.2011 của Bộ Giao thông vận tải
về việc xác định lại giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm chuyển sang công ty cổ
phần quyết toán chi phí cổ phần hóa của Công ty Đ, phần vốn nhà nước Công ty Đ còn
phải nộp về Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp Tổng Công ty là 202.461.546 đồng.
Ngoài ra, Công ty Đ còn nợ Tổng Công ty CĐ tiền cổ tức và nhiều khoản công nợ
khác.
Ngày 30.6.2013, đại diện Công ty Đ và đại diện Tổng Công ty CĐ đã lập biên bản
đối chiếu công nợ, theo đó, các bên đồng ý xác nhận đến thời điểm đối chiếu, Công ty
Đ còn nợ Tổng Công ty CĐ số tiền 4.099.314.732đ (chưa tính lãi chậm trả). Tổng
Công ty CĐ đã nhiều lần có văn bản yêu cầu Công ty Đ phải thanh toán các khoản tiền
còn nợ nêu trên và lãi chậm trả. Tuy nhiên, cho đến nay, Công ty Đ vẫn không thực
hiện việc thanh toán theo yêu cầu của Tổng Công ty CĐ. Do vậy, Tổng Công ty CĐ
khởi kiện yêu cầu buộc Công ty Đ thanh toán số tiền 8.561.089.732 đồng gồm số tiền
26

nợ gốc 4.099.314.732 đồng và lãi chậm trả tạm tính đến ngày 31.12.2016 là
4.461.775.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Tổng công ty CĐ giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với
khoản tiền gốc là 4.099.314.732 đồng, thay đổi một phần đối với khoản tiền lãi, yêu
cầu Công ty Đ trả lãi chậm trả theo lãi suất cơ bản 9%/năm từ ngày vi phạm 01/7/2007
và từ ngày BLDS 2015 có hiệu lực là 10%/năm đến ngày xét xử sơ thẩm 29/9/2017, cụ
thể khoản tiền lãi là 3.480.627.000 đồng. Tổng cộng, Công ty Đ phải trả
là: 7.579.941.732 đồng.
*Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, đại diện hợp pháp của bị đơn -
Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ (Công ty Đ) trình bày:
Ngày 30/6/2013, đại diện Công ty Đ và đại diện Tổng Công ty CĐ đã lập biên bản
đối chiếu công nợ, theo đó, các bên đồng ý xác nhận đến thời điểm đối chiếu, Công ty
Đ còn nợ Tổng công ty CĐ số tiền 4.099.314.732đ. Tuy nhiên, qua xem xét đối chiếu
sổ sách, tài liệu thì Công ty Đ chưa xác định được số nợ trên.
Nay, Tổng công ty CĐ khởi kiện yêu cầu buộc Công ty Đ thanh toán số
tiền 7.579.941.732 đồng, gồm số tiền nợ gốc 4.099.314.732 đồng và lãi chậm trả tạm
tính đến ngày 29/9/2017 là 3.480.627.000 đồng thì Công ty Đ chỉ đồng ý thanh toán
cho Tổng Công ty CĐ số tiền khoảng 1 tỷ đồng tiền gốc và không đồng ý trả số tiền
lãi. Vì hiện nay công nợ của Công ty Đ không thu được từ các công ty thành viên, thêm
vào đó, Công ty Đ đang gặp khó khăn.
Với nội dung trên, Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 13/2017/KDTM-ST
ngày 29-9-2017 của Tòa án nhân dân quận T, thành phố Đà Nẵng áp dụng Điều 280
BLDS 2015, quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc "Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả
tiền” của Tổng Công ty Xây dựng công trình Giao thông Đ đối với Công ty Cổ phần
Đầu tư và Xây dựng Đ.
2. Buộc Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ phải trả cho Tổng Công ty xây
công trình Giao thông Đ số tiền 4.099.314.732đ đồng.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc trả tiền lãi số tiền
3.480.627.000 đồng của Tổng Công ty xây công trình Giao thông Đ đối với Công t Cổ
phần Đầu tư và Xây dựng Đ.
27

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định án phí và quyền kháng cáo của các đương
sự theo quy định của pháp luật.
*Ngày 03 tháng 10 năm 2017, Công ty Đ có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, nội
dung: Bản án sơ thẩm buộc Công ty Đ phải trả cho Tổng Công ty CĐ số tiền
4.099.314.732 đồng là không chính xác vì: (i) ông Nguyễn Lương G đại diện Công ty
Đ xác nhận công nợ nhưng chưa được ủy quyền từ người đại diện theo pháp luật; (ii)
số tiền mà Tổng công ty CĐ yêu cầu trong đó có phần cổ tức được hưởng nhưng Công
ty Đ chưa kiểm toán nên số liệu lãi, lỗ chưa chính xác. Do vậy, đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 308 BLTTDS, sửa bản án sơ thẩm về việc yêu cầu
của Tổng công ty CĐ yêu cầu Công ty Đ trả số tiền 4.099.314.732 đồng là không chính
xác.
*Ngày 06 tháng 10 năm 2017, Tổng Công ty CĐ có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm,
nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
buộc bị đơn phải trả số tiền lãi chậm thanh toán đối với số tiền gốc là có sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng quy định tại Điều 357 BLDS 2015 về trách nhiệm do
chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền và khoản 2 Điều 305 BLDS 2005 về trách nhiệm do
chậm thực hiện nghĩa vụ. Do vậy, đề nghị tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Điều 308,309
BLTTDS 2015 sửa một phần bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Tổng
Công ty CĐ về lãi chậm thanh toán, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền lãi
chậm thanh toán (tạm tính đến ngày 29/9/2017) số tiền: 3.480.627.000 đồng.
*Ngày 27 tháng 10 năm 2017, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng kháng
nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm về phần nợ lãi và áp dụng thời hiệu khởi kiện
của bị đơn, nội dung: Căn cứ vào khoản 1 Điều 184 Bộ luật TTDS 2015, điểm b khoản
3 Điều 23 Nghị quyết số: 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC, Điều 429 BLDS 2015 thì yêu cầu khởi kiện liên quan đến phần nợ lãi
thì Tòa án không giải quyết vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm cần áp
dụng điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật TTDS để đình chỉ yêu cầu khởi kiện này của
nguyên đơn; ngoài ra, việc nguyên đơn điều chỉnh giảm một phần yêu cầu tiền lãi
chậm trả từ 4.461.775 đồng còn 3.480.627.000 đồng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm nhận
định nguyên đơn đã rút một phần khởi kiện và áp dụng Điều 244 BLTTDS để đình chỉ
phần đã rút là không đúng. Do vậy, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử
28

phúc thẩm sửa một phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 13/2017/KDTM-
ST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận T, thành phố Đà Nẵng, theo
hướng: (i) đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện về tiền lãi 3.480.627.000 đồng của Tổng
Công ty CĐ đối với Công ty Đ; (ii) hoàn trả cho Tổng công ty CĐ số tiền tạm ứng án
phí đã nộp theo biên lai thu số 3454 ngày 18/5/2017 của Chi cục Thi hành án nhân dân
quận T, thành phố Đà Nẵng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Tổng công ty CĐ và Công ty Đ vẫn giữ nguyên nội dung
kháng cáo, không bổ sung tài liệu, chứng cứ gì thêm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa phát biểu ý
kiến như sau:
(i) Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng:
Về thủ tục tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn được thực hiện đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại
cấp phúc thẩm.
Về nội dung vụ án:
- Về phần nợ gốc: Công ty Đ được cổ phần hóa từ Công ty Đầu tư và Xây dựng Đ,
đơn vị hoạch toán phụ thuộc của Tổng công ty CĐ. Các biên bản đối chiếu công nợ
ngày 31/12/2006, 31/12/2011 và 30/6/2013, thể hiện các khoản nợ hai bên tranh chấp
phát sinh từ quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp, cổ tức Tổng Công ty CĐ được nhận từ
2006 và các khoản nợ khác phát sinh từ năm 2001 đến ngày 31/12/2012. Các biên bản
xác nhận công nợ là sự thừa nhận nghĩa vụ dân sự, thực hiện nghĩa vụ trả tiền (đòi lại
tài sản), không làm phát sinh quyền hay nghĩa vụ thương mại mới. Do đó, Tòa án cấp
sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần nợ gốc là có cơ sở.
- Đối với phần nợ lãi và yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện của bị đơn: Theo quy
định tại khoản 2 Điều 190 BLTTDS 2015, ngày khởi kiện tính từ ngày Tòa án cấp sơ
thẩm nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, 11/5/2017. Ngày 30/6/2013, Công ty Đ thừa
nhận nghĩa vụ của mình tại biên bản đối chiếu công nợ của hai bên. Căn cứ vào Điều
184 BL TTDS 2015, Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Điều 429 BLDS 2015, điểm b khoản 3 Điều 23 Nghị
quyết số: 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC,
29

thì thời hiệu khởi kiện đối với phần tiền lãi trong trường hợp này là 03 năm kể từ ngày
Tổng Công ty CĐ biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm, là ngày 01/7/2013, đến hết ngày 01/7/2017 (03 năm) là hết thời hiệu khởi kiện.
Ngày 11/5/2017, Tổng Công ty CĐ mới thực hiện việc khởi kiện là đã hết thời hiệu
khởi kiện. Trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, Công ty Đ đã có yêu cầu áp dụng
thời hiệu khởi kiện nên cần áp dụng điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS đình chỉ yêu
cầu khởi kiện đối với phần tiền lãi, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tiếp tục giải quyết,
tuyên không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và buộc phải chịu án phí đối với phần
lãi không được chấp nhận là không đúng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.
- Ngoài ra, nguyên đơn chỉ điều chỉnh giảm về phần tiền lãi chậm trả, không thay
đổi phạm vi khởi kiện, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 244 BLTTDS đình chỉ
phần rút khoản tiền lãi này là không đúng pháp luật.
(ii) Đối với kháng cáo của bị đơn Công ty Đ: Ông Nguyễn Lương G là Phó Tổng
Giám đốc Công ty Đ. Ông G ký xác nhận vào biên bản đối chiếu công nợ ngày
30/6/2013 là thay mặt công ty, có đóng dấu xác nhận của Công ty. Sau khi ông G ký
xác nhận người đại diện theo pháp luật của Công ty Đ không phản đối, tại bản tự khai
ngày 16/01/2018 ông G cũng xác định việc ký đối chiếu công nợ với tư cách là đại diện
Ban Giám đốc Công ty. Ngoài ra, tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 31/12/2011
người đại diện theo pháp luật của Công ty Đ cũng đã xác nhận tính đến ngày
31/12/2011 Công ty Đ nợ CĐ số tiền 3.358.564.314 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần nợ gốc là có cơ sở.
Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; không chấp nhận kháng cáo của Công ty Đ và Tổng
Công ty CĐ; áp dụng khoản 2 Điều 308 BLTTDS, sửa một phần Bản án kinh doanh
thương mại sơ thẩm số: 13/2017/KDTM-ST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án
nhân dân quận T, thành phố Đà Nẵng, theo hướng: (i) đình chỉ đối với yêu cầu khởi
kiện về tiền lãi 3.480.627.000 đồng của Tổng Công ty CĐ đối với Công ty Đ; (ii) hoàn
trả cho Tổng Công ty CĐ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 3454 ngày
18/5/2017 của Chi cục Thi hành án nhân dân quận T, thành phố Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
30

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và
căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng, Hội đồng xét xử nhận định:
I. Về thủ tục tố tụng.
[1] Tranh chấp về yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền giữa nguyên đơn Tổng Công
ty Xây dựng công trình Giao thông Đ và bị đơn Công ty Cơ phần Đầu tư và Xây dựng
Đ, có trụ sở tại địa bàn quận T, thành phố Đà Nẵng, nên Tòa án nhân dân quận T thụ lý
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng quy định tại khoản 1 Điều 30, Điều 35 và điểm
a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tung dân sự 2015.
[2] Ông Nguyễn Lương G có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm, nên
căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Hội đồng xét xử tiến hành xét
xử vụ án.
II. Về nội dung vụ án.
[1] Xét kháng cáo của bị đơn Công ty Đ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
về phần nợ gốc 4.099.314.732 đồng:
[1.1] Theo Quyết định số: 5079/QĐ-BGTVT ngày 30/12/2005, Quyết định số:
1834/QĐ-BGTVT ngày 18/8/2011 của Bộ Giao thông vận tải, Công ty Đ được cổ phần
hóa từ Công ty Đầu tư và Xây dựng Đ (vốn là đơn vị hạch toán phụ thuộc Tổng Công
ty CĐ) theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007
về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Ngày 01/9/2011,
Tổng Công ty CĐ bàn giao doanh nghiệp cho Công ty Đ.
[1.2] Theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày
26/6/2007 của Chính phủ: Công ty cổ phần được sử dụng toàn bộ tài sản, nguồn vốn
đã nhận bàn giao để tổ chức sản xuất, kinh doanh; kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ,
trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa đã bàn giao và có các quyền, nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật. Công ty Đ kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách
nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa đã bàn giao theo thỏa thuận tại biên bản bàn giao
ngày 01/9/2011 nên phải có nghĩa vụ thanh toán các khoản còn nợ cho Tổng Công ty
CĐ.
[1.3] Các tài liệu thể hiện khoản nợ của Công ty Đ đối với Tổng Công ty CĐ, gồm:
các biên bản đối chiếu công nợ ngày 31/12/2006, ngày 31/12/2011 do ông Đàm Quang
31

T – là người đại diện theo pháp luật của Công ty Đ ký xác nhận, tính đến thời điểm
31/12/2011 Công ty Đ nợ Tổng Công ty CĐ số tiền 3.352.000.741 đồng và biên bản
đối chiếu công nợ ngày 30/6/2013 do ông Nguyễn Lương G – Phó Tổng Giám đốc
Công ty Đ xác nhận, tính đến ngày 30/6/2013 Công ty Đ nợ Tổng Công ty CĐ số tiền
4.099.314.732 đồng. Công ty Đ thừa nhận khoản nợ tại các biên bản đối chiếu công nợ
ngày 31/12/2006, ngày 31/12/2011. Đối với biên bản đối chiếu công nợ ngày
30/6/2013, Công ty Đ cho rằng: ông G – Phó Tổng Giám đốc ký nhưng không có ủy
quyền của người đại diện theo pháp luật của Công ty nên không có hiệu lực và số tiền
mà Tổng công ty CĐ yêu cầu trong đó có phần cổ tức được hưởng nhưng Công ty Đ
chưa kiểm toán nên số liệu lãi, lỗ chưa chính xác.
[1.4] Tuy nhiên, sau khi ông G ký đối chiếu công nợ ngày 30/6/2013, Tổng Công ty
CĐ nhiều lần gửi văn bản yêu cầu trả nợ nhưng Công ty Đ không có ý kiến phản đối.
Tại cấp sơ thẩm, Tòa án thông báo thụ lý, công khai chứng cứ và hòa giải Công ty Đ
không có ý kiến phản đối số tiền nợ gốc 4.099.314.732 đồng mà ông G đã đối chiếu.
Ngoài ra, theo trình bày của ông G tại bản khai ngày 16/01/2018, ông G ký đối chiếu
công nợ là đại diện Ban Giám đốc Công ty Đ sau khi được Phòng kế toán của Công ty
kiểm tra và tham mưu ký xác nhận, trong khoản tiền 4.099.314.732 đồng gồm có
khoản nợ 3.352.000.741 đồng mà ông Đàm Quang T – là người đại diện theo pháp luật
của Công ty Đ ký xác nhận tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 31/12/2011 và khoản
tiền cổ tức năm 2010 và 2011 mà Tổng Công ty CĐ được chia. Nội dung ông G trình
bày về khoản tiền cổ tức năm 2010 và 2011 mà Tổng Công ty CĐ được chia phù hợp
với các Nghị quyết số: 01/2011/NQ-ĐHĐCĐ ngày 19/5/2011 và Nghị quyết số:
01/2012/NQ-ĐHĐCĐ ngày 31/5/2012 Đại Hội đồng cổ đông Công ty Đ.
[1.5] Do vậy, bản án sơ thẩm căn cứ vào các biên bản đối chiếu công nợ nêu trên để
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần nợ gốc với số tiền
4.099.314.732 đồng là có cơ sở, nên kháng cáo của Công ty Đ không có căn cứ để Hội
đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận
[2] Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng và kháng
cáo của nguyên đơn về yêu cầu tính tiền lãi chậm trả là 3.480.627.000 đồng:
[2.1] Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 184 BLTTDS 2015: Thời hiệu khởi kiện
được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự và Tòa án chỉ áp dụng quy định về
32

thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu
cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải
quyết vụ việc. Tại Biên bản phiên tòa lập ngày 25/9/2017 thể hiện đại diện bị đơn đã có
yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với phần tiền lãi chậm trả trước khi Tòa án cấp
sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án. Trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm
cần xem xét, nhận định trong bản án để giải quyết yêu cầu của bị đơn mới đúng thủ tục
tố tụng quy định.
[2.2] Theo khoản 1 Điều 184 BLTTDS, Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ – HĐTP
ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về
thi hành Bộ luật tố tụng dân sự thì kể từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Bộ luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan về thời hiệu
để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự. Tranh chấp giữa Tổng Công ty CĐ và Công ty Đ
liên quan đến yêu cầu thanh toán lãi đối với nghĩa vụ trả tiền, không thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật thương mại và Luật doanh nghiệp nên cần áp dụng quy định của
Bộ luật dân sự 2015 để xác định thời hiệu khởi kiện của vụ án.
[2.3] Điểm b khoản 3 Nghị quyết số: 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn: Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về
đòi lại tài sản, đòi lại quyền sử dụng đất do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua
giao dịch dân sự thì không áp dụng thời hiệu khỏi kiện và theo Ví dụ 1 thì đối với yêu
cầu thanh toán tiền lãi thì áp dụng thời hiệu khởi kiện.
[2.4] Về thời hiệu khởi kiện: Theo Điều 429 Bộ luật dân sự 2015: “Thời hiệu khởi
kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có
quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm”. Và tại điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 157 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Thời
hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp bên có nghĩa vụ đã thừa
nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện. Thời hiệu
khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện quy
định tại khoản 1 Điều này.
[2.5] Tại Biên bản đối chiếu công nợ ngày 30/6/2013, Công ty Đ đã thừa nhận toàn
bộ nghĩa vụ của mình trước đó đối với Tổng công ty CĐ. Sau khi đối chiếu công nợ,
33

Tổng Công ty CĐ trình bày có gửi nhiều văn bản có nội dung yêu cầu Công ty Đ trả nợ
nhưng Công ty Đ không thực hiện.
[2.6] Căn cứ quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện như viện dẫn trên, thì
thời hiệu khởi kiện đối với phần tiền lãi trong trường hợp này là 03 năm kể từ ngày
Tổng Công ty CĐ biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm, là ngày 01/7/2013 và đến hết ngày 01/7/2017 (03 năm). Ngày 11/5/2017, Tổng
Công ty CĐ mới thực hiện việc khởi kiện là thuộc trường hợp đã hết thời hiệu khởi
kiện. Công ty Đ đã có yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện trước khi Tòa án cấp sơ
thẩm ra bản án. Hội đồng xét xử sơ thẩm cần áp dụng điểm e khoản 1 Điều 217, điểm b
khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự để đình chỉ yêu cầu khởi kiện đối với phần
tiền lãi chậm trả mà nguyên đơn yêu cầu. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm
quyết định không chấp nhận yêu cầu và buộc nguyên đơn phải chịu án phí đối với phần
không được chấp nhận là không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy cần
sửa phần này của bản án sơ thẩm, đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với
phần tiền lãi chậm trả 3.480.627.000 đồng.
[2.7] Đối với kháng cáo của Tông Công ty CĐ đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả số tiền lãi chậm thanh toán đối với số tiền gốc
theo quy định tại Điều 357 BLDS 2015 về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả
tiền và khoản 2 Điều 305 BLDS 2005 về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ. Như
Hội đồng xét xử phúc thẩm đã phân tích trên, khoản tiền lãi chậm thanh toán đã hết
thời hiệu khởi kiện nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của Tổng Công ty CĐ.
[2.8] Ngoài ra, tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn điều chỉnh giảm một phần về
khoản tiền lãi chậm trả từ 4.461.775.000 đồng còn 3.480.627.000 đồng. Nguyên đơn
vẫn giữ nguyên phạm vi khởi kiện bạn đầu về tiền lãi chậm trả, chỉ điều chỉnh cách
tính và giá trị của khoản tiền lãi chậm trả, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 244
BLTTDS đình chỉ phần rút khoản tiền lãi này là không đúng pháp luật, cần rút kinh
nghiệm.
[3] Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng là đúng quy định của pháp
luật nên chấp nhận; không chấp nhận kháng cáo của Tổng Công ty CĐ và Công ty Đ.
34

Căn cứ khoản 2 Điều 308 BLTTDS, sửa một phần Bản án kinh doanh thương mại sơ
thẩm số: 13/2017/KDTM-ST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận T,
thành phố Đà Nẵng, theo hướng:
(i) Chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty CĐ về khoản tiền gốc là
4.099.314.732 đồng;
(ii) Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện về tiền lãi 3.480.627.000 đồng của Tổng
Công ty CĐ đối với Công ty Đ;
(ii) Hoàn trả cho Tổng công ty CĐ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu
số 3454 ngày 18/5/2017 của Chi cục Thi hành án nhân dân quận T, thành phố Đà
Nẵng, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng.
[4] Về án phí.
[4.1] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
[4.1.1] Do chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty CĐ, nên căn
cứ khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTV/QH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Công ty Đ phải chịu án phí sơ thẩm là: 112.099.314 đồng.
[4.1.2] Hoàn trả cho Tổng công ty CĐ số tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương
mại sơ thẩm đã nộp là 58.280.544 đồng theo biên lai thu số 3454 ngày 18.5.2017 của
Chi cục Thi hành án dân sự quận T, thành phố Đà Nẵng.
[4.1.3] Do đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu tính lãi của Tổng công ty CĐ nên
Tổng Công ty CĐ không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đối với yêu
cầu tính lãi theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. [4.2] Án phí kinh doanh thương mại phúc
thẩm:
[4.2.1] Do sửa bản án sơ thẩm nên Tổng Công ty CĐ và Công ty Đ không phải chịu
án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[4.2.2] Hoàn trả cho Công ty Đ số tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương mại phúc
thẩm 2.000.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 7570 ngày 12/10/2017 của Chi cục
Thi hành án dân sự quận T, thành phố Đà Nẵng.
35

[4.2.3] Hoàn trả cho Tổng Công ty CĐ số tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương
mại phúc thẩm 2.000.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 7581 ngày 17/10/2017 của
Chi cục thi hành án dân sự quận T, thành phố Đà Nẵng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 290 BLDS 2015, Điều 157, 429 Bộ luật dân sự 2015;
- Điều 184, điểm e khoản 1 Điều 217, khoản 3 Điều 296, khoản 2 Điều 308 Bộ luật
Tố tụng dân sự 2015;
- Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao; Điểm b khoản 3 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
- Khoản 3 Điều 18, khoản 4 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTV/QH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc
“Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án”.
Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; Không
chấp nhận kháng cáo của Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông Đ và Công ty
Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ, sửa một phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm
số: 13/2017/KDTM-ST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận T, thành
phố Đà Nẵng.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty Xây công trình Giao
thông Đ đối với Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ.
2. Buộc Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng Đ phải trả cho Tổng Công ty xây
công trình Giao thông Đ số tiền 4.099.314.732đ đồng (Bốn tỉ, không trăm chín mươi
chín triệu, ba trăm mười bốn nghìn, bảy trăm ba mươi hai đồng).
4. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu trả tiền lãi số
tiền 3.480.627.000 đồng của Tổng Công ty Xây dựng công trình Giao thông Đ đối với
Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ.
5. Về án phí
36

5.1. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:


- Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ phải chịu án phí sơ thẩm là 112.099.314đ
- Hoàn trả cho Tổng Công ty Xây công trình Giao thông CĐ số tiền tạm ứng án phí
kinh doanh thương mại sơ thẩm 58.280.544 đồng đã nộp theo biên lai thu số 3454 ngày
18/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, thành phố Đà Nẵng.
5.2 Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Tổng Công ty Xây công trình Giao
thông CĐ và Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ không phải chịu.
- Hoàn trả cho Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ số tiền tạm ứng án phí kinh
doanh thương mại phúc thẩm 2.000.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 7570 ngày
12/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, thành phố Đà Nẵng.
- Hoàn trả cho Tổng Công ty xây công trình Giao thông CĐ số tiền tạm ứng án phí
kinh doanh thương mại phúc thẩm 2.000.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 7581
ngày 17/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, thành phố Đà Nẵng.
6. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất 10% tương ứng với
thời gian chưa thi hành án.
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
*Theo nhóm trong Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số: 04/2018/KDTM-
PT ngày 06/02/2018 của TAND thành phố Đà Nẵng là có căn cứ, đúng theo quy định
của pháp luật.
Trong quyết định này, Công ty Đ còn nợ Tổng Công ty CĐ số tiền 4.099.314.732đ.
Tổng Công ty CĐ đã nhiều lần có văn bản yêu cầu Công ty Đ phải thanh toán các
khoản tiền còn nợ nêu trên và lãi chậm trả. Tuy nhiên, cho đến nay, Công ty Đ vẫn
không thực hiện việc thanh toán theo yêu cầu của Tổng Công ty CĐ.
37

Xét thấy Tòa án phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng, không chấp nhận kháng cáo của Tổng Công ty Xây dựng công
trình giao thông Đ và Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ, sửa một phần Bản án
kinh doanh thương mại sơ thẩm số 13/2017/KDTM-ST ngày 29/9/2017 của TAND
quận T, theo hướng: Chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty CĐ về
khoản tiền gốc là 4.099.314.732 đồng; Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện về tiền lãi
3.480.627.000 đồng của Tổng Công ty CĐ đối với Công ty Đ là đúng theo quy định
của pháp luật.
Khi phân tích, nhận định từng nội dung kháng cáo, kháng nghị Tòa án cấp phúc
thẩm đều có đưa ra các tài liệu, chứng cứ có chứng minh và đầy đủ các cơ sở pháp lý.
Hết

You might also like