You are on page 1of 19

MÔN HỌC: HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

NGOÀI HỢP ĐỒNG – THẢO LUẬN NHÓM 2

Giáo viên: DS – Ngô Thị Anh Vân

Buổi thảo luận thứ năm: Trách nhiệm dân sự, vi phạm hợp đồng

Lớp: 114 – TM45.2

Nhóm: 08

Họ và tên: Mã số sinh viên:

Đào Đức Hoàng 2053801011091

Võ Minh Hoàng 2053801011094

Phạm Lê Kim Khánh 2053801011114

Nguyễn Thanh Huyền 2053801011110

Nguyễn Khánh Linh 2053801011133

Nguyễn Thị Bình Minh (Nhóm trưởng) 2053801011143

Trần Văn Minh 2053801011144


Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra
- Tình huống: Ông Lạc (bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ) và bà Nguyễn thỏa thuận
phẫu thuật ngực với 4 yêu cầu: lấy túi ngực ra, thâu nhỏ ngực lại, bỏ túi nhỏ vào, không được
đụng đến núm vú. Ba ngày sau phẫu thuật, bà Nguyễn thấy núm vú bên phải sưng lên, đau
nhứt và đen như than. Sau 10 ngày vết mổ hở hết phần vừa cắt chỉ, nhìn thấy cả túi ngực đặt
bên trong và ông Lại tiến hành mổ may lại. Được vài ngày thì vết mổ bên tay phải chữ T lại
hở một lỗ bằng ngón tay, nước dịch tuông ướt đẫm cả người. Sau đó ông Lại mổ lấy túi nước
ra và may lại lỗ hồng và thực tế bà Nguyễn mất núm vú phải.
- Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
Trả lời
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
Cơ sở pháp lý: Điều 360 BLDS 2015: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra
thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác.”
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm dân sự được hiểu là
việc gánh chịu một hậu quả bất lợi mang tính chất tài sản của bên vi phạm nghĩa vụ, qua đó
để khắc phục hậu quả cho bên bị vi phạm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
là trách nhiệm dân sự phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên. Trong đó bên có
hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại mà
mình đã gây ra cho phía bên kia.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng: Hành vi không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, thực
hiện không đúng hợp đồng.
2. Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại bao gồm cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng với thiệt hại xảy
ra: Hành vi vi phạm hợp đồng phải là nguyên nhân gây nên thiệt hại.
Những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng trong BLDS 2015 trong
điều kiện có thiệt hại xảy ra đã mở rộng hơn về thiệt hại về tinh thần, đó là bổ sung thêm
“xâm phạm đến các lợi ích nhân thân khác”. Đây là một sự bổ sung mới, quyền nhân thân
khác bao gồm: quyền về đời sống riêng tư; quyền về hình ảnh; quyền tự do tín ngưỡng; …
Ngoài ra, theo như BLDS 2015 đã bỏ đi một điều kiện đó là lỗi của bên vi phạm. BLDS 2005
xếp lỗi làm điều kiện bắt buộc để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
nhưng năm 2015 thì lỗi chỉ còn là cơ sở, không còn bắt buộc. Trong Điều 360 BLDS 2015
không có từ lỗi nhưng Điều 360 vẫn đưa ra một ngoại lệ là “trừ trường hợp luật có quy định
khác”.
- Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn không?
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã hội đủ chưa? Vì
sao?
Trả lời
Trong tình huống trên, việc làm hư mất núm vú phải đã xâm phạm đến yếu tố nhân thân của
bà Nguyễn.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã hội đủ.
Vì: Bà Nguyễn và ông Lại đã làm một thỏa thuận với nhau về PHẪU THUẬT THẨM MỸ.
Ông lại có nghĩa vụ thực hiện đúng những yêu cầu của bà Nguyễn là “lấy túi ngực ra, thâu
nhỏ túi ngực lại, bỏ túi nhỏ vào, không được đụng đến núm vú”. Tuy nhiên, quá trình hậu
PHẪU THUẬT, chưa phục hồi sau khi mổ thì bà Nguyễn bị 2 lần PHẪU THUẬT lại dẫn đến
mất núm vú phải. Thấy rõ ông Lại đã vi phạm một trong bốn yêu cầu của bà Nguyễn. Theo
khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự 2015, hành vi vi phạm của ông Lại, khoản 2 Điều 584,
không có căn cứ xác định về sự việc bất khả kháng hoặc từ lỗi của bà Nguyễn là căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của ông Lại đối với bà Nguyễn.
- Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp đồng gây ra
được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời?
Trả lời
Theo quy định của BLDS 2015, những thiệt hại về vật chất sau đây do vi phạm hợp đồng gây
ra được bồi thường dựa theo cơ sở pháp lý Điều 361 BLDS 2015:
Thứ nhất, thiệt hại về tài sản.
Thứ hai, thiệt hại vật chất có thể là thiệt hại về chi phí phát sinh từ việc một bên vi phạm
nghĩa vụ.
Thứ ba, Thiệt hại có thể là khoản nợ đáng ra được hưởng nhưng không được do vi phạm hợp
đồng.
- BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi phạm hợp
đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời?
Trả lời
Bộ luật Dân sự 2015 có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng quy định tại cơ sở pháp lý khoản 3 Điều 419 BLDS 2015: “3. Theo yêu cầu
của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần
cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc.”
- Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh thần không?
Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời?
Trả lời
Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn được bồi thường tổn thất về tinh thần. Bởi vì theo
BLDS 2015:
Điều 360. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
“Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
Khoản 1, khoản 3 Điều 361. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
“1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
.........
3. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể.”

Khoản 1, khoản 3 Điều 419. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng
“1. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định theo quy
định tại khoản 2 Điều này, Điều 13 và Điều 360 của Bộ luật này.

3. Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội
dung vụ việc.”

Mà theo tình huống trên, rõ ràng ông Lại đã vi phạm thỏa thuận mà hai bên đã đặt ra. Cụ thể,
sau khi phẫu thuật thì núm vú bà Nguyễn bị sưng lên, đau nhức, đen như than, vết mổ bị hở,
và thực tế bà bị mất núm vú phải. Những điều đó đã ảnh hưởng đến sức khỏe, thân thể của bà
Nguyễn. Mà theo điều 360, khi vi phạm nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; theo điều
361, thiệt hại khi vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần;
theo khoản 3 điều 419, người có quyền có thể yêu cầu và Tòa án có thể buộc người có nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền.

Vậy, bà Nguyễn có thể yêu cầu, và Tòa án sẽ căn cứ vào đó buộc ông Lại bồi thường tổn thất
tinh thần cho bà.

Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng


- Tóm tắt bản án 121/2011/KDTM ngày 26/12/2011 của Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh

Trả lời
Vụ việc: Tranh chấp hợp đồng mua bán
Nguyên đơn: Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Tân Việt
Bị đơn: Công ty TNHH Tường Long
Nội dung vụ việc: Công ty Tân Việt và công ty Tường Long đã ký với nhau hợp đồng số 01-
10/TL-TV mua bán vải thành phẩm ngày 01/10/2010 với trị giá tổng hợp đồng là
1.356.400.000 đồng và kỳ hạn giao được quy định rõ trong hợp đồng. Sau khi ký hợp đồng,
công ty Tân Việt thanh toán 30% giá trị hợp đồng (406.920.000 đồng) cho công ty Tường
Long; ngày 12/11/2010, công ty Tường Long giao lô hàng đầu tiên. Tuy nhiên, sau đó, công
ty Tường Long yêu cầu tăng giá thành sản phẩm lên 62.500 đồng/m và công ty Tân Việt hoàn
toàn không chấp nhận yêu cầu đó.
Còn về phía công ty Tường Long, vì một vài lý do khách quan nên không thể thực hiện hợp
đồng với công ty Tân Việt. Dù đã có yêu cầu công ty Tân Việt hỗ trợ nhưng không được sự
chấp nhận.
Quyết định Tòa sơ thẩm: Chấp nhận việc công ty Tường Long thanh toán số tiền phạt
102.849.604 đồng do hủy hợp đồng với công ty Tân Việt. Không chấp nhận đòi tiền phạt cọc
của công ty Tân Việt đòi công ty Tương Long với số tiền là 406.920.000 đồng.
- Tóm tắt Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.
Trả lời
Nguyên đơn: Công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn
Bị đơn: Công ty Cổ Phần Yến Việt.
Lí do tranh chấp: Tranh chấp hợp đồng phân phối độc quyền, yêu cầu thanh toán tiền mua
hàng.
Nội dung vụ việc: Tháng 10/2010, Công ty Yến Việt và Công ty Yến Sào ký Hợp đồng
nguyên tắc số 02/HĐQT về việc “phân phối độc quyền phía Bắc”, công ty Yến Việt đồng ý
cho công ty Yến Sào là nhà phân phối độc quyền trong thời hạn 10 năm. Nội dung thoả thuận
thể hiện đây là hợp đồng mua bán hàng hoá có điều kiện. Công ty Yến Sào cho rằng Công ty
Yến Việt đã thành lập chi nhánh tại Hà Nội mà không trao đổi với Công ty Yến Sào, điều này
gây thiệt hại nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Yến Sào. Vì thế,
hai bên đã xảy ra tranh chấp.
Quyết định: Chấp nhận Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm số 11/2020/KNKDTM, huỷ
Quyết định Giám đốc thẩm số 12/2009/KDTM- GĐT, huỷ Bán án số 01/2017/DSPT và
D6/KDTM-ST, giao hồ sơ cho Tòa án nhà dân thành phố Phan Rang-Tháp Chàm.
- Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
Trả lời
Về mức phạt vi phạm, tại Khoản 2, Điều 422, BLDS 2005 quy định:
“2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”.
Và tại Khoản 2, Điều 418, BLDS 2015 quy định:
“2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định
khác”.
BLDS 2015 có bổ sung quy định về mức phạt vi phạm trong trường hợp “luật liên quan có
quy định” ngoài trường hợp các bên thoả thuận so với BLDS 2005. BLDS 2015 bổ sung quy
định trên bởi lẽ hiện nay vẫn có luật quy định khác về mức phạt như Luật xây dựng (12%),
Luật thương mại (8%) có quy định về mức phạt tối đa (các bên không được hoàn toàn tự do
thoả thuận).
Tại Khoản 3, Điều 422, BLDS 2005:
"3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vị phạm
mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường
thiệt hại, nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn
bộ thiệt hại.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”.
Và Khoản 3, Điều 418, BLDS 2015:
“3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà
không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường
thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải
chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu
phạt vi phạm”.
BLDS 2015 đã bỏ đi quy định nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại” của BLDS 2005, quy định này được bỏ đi vì đây là vấn đề
bồi thường thiệt hại và đã có quy định khác điều chỉnh (Điều 13 và Điều 360, BLDS 2015).
Về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, BLDS 2015 vẫn theo hướng nếu
không có thoả thuận cụ thể về việc kết hợp hai chế tài này thì thoả thuận phạt vi phạm loại
trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại (có thoả thuận về phạt vi phạm mà không có thoả thuận
về sự kết hợp thì chỉ áp dụng phạt vi phạm).
- Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng
Trả lời
Đối tượng thực hiện: đối với đặt cọc thì là số tiền mà bên đặt cọc nộp cho bên nhận đặt cọc;
đối với phạt vi phạm hợp đồng thì là số tiền và có thể kèm theo biện pháp bồi thường thiệt
hại theo thỏa thuận mà bên vi phạm phải thực hiện đối với bên bị vi phạm.
Hình thức: đều được lập thành văn bản. Cả đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng đều xuất phát
từ việc thỏa thuận giữa đôi bên, tránh những tình trạng không đáng có xảy ra như việc đặt cọc
không có giấy xác nhận đã thực hiện việc đặt cọc sẽ gây khó khăn trong việc xác nhận là đã
tiến hành đặt cọc; hay là việc một người vi phạm hợp đồng nhưng không có ghi chép lại việc
vi phạm của người đó dẫn đến việc gây khó khăn xác định lỗi sai của họ để bồi thường và bị
phạt.
(Ngày nay, BLDS 2015 đã thoáng hơn khi không quy định hình thức đặt cọc vì Luật cho rằng
không cần thiết phải gắt gao trong việc hình thức đặt cọc bởi có rất nhiều trường hợp tiến
hành đặt cọc với người thân của mình hay đặt cọc thông qua bạn bè. Lúc đấy việc lập đặt cọc
sẽ không cần phải thành lập văn bản mà chỉ thỏa thuận qua bằng miệng. Chỉ trừ những
trường hợp pháp luật bắt buộc phải lập thành văn bản khi thực hiện đặt cọc.)
Hậu quả pháp lý: Với đặt cọc thì bên đặt cọc sẽ mất đi một khoản tiền của mình, và bên nhận
đặt cọc nhận được phần tiền đó. Phạt vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm nộp một khoản tiền
cho bên bị vi phạm hoặc kèm theo bồi thường thiệt hại (nếu 2 bên có thỏa thuận) và bên bị vi
phạm được nhận khoản tiền phạt cũng như phần bồi thường nếu có từ bên vi phạm.
- Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội dung của
phạt vi phạm hợp đồng?
Trả lời
Khoản tiền 30% đó được Tòa án xác định là tiền đặt cọc.
Đoạn trong bản án cho ta thấy điều đó: “Xét thấy, khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh tế số 01-
10/TL-TV ngày 01/10/2010 các bên đã thỏa thuận: Ngay sau khi ký hợp đồng, bên mua (công
ty Tân Việt) phải thanh toán trước cho bên bán (công ty Tường Long) 30% giá trị đơn hàng
gọi là tiền đặt cọc, 40% giá trị đơn hàng thanh toán ngay sau khi bên Công ty Tường Long
giao hàng hoàn tất, 30% còn lại sẽ thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ ngày thanh toán
cuối cùng. Do vậy số tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng (406.920.000 đồng) được
xác định là tiền đặt cọc. Việc đặt cọc này là phù hợp khoản 7 Điều 292 Luật Thương mại và
Điều 358 BLDS. Việc đặt cọc này là việc đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng.”
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả trước
30%.
Trả lời
Theo nhóm em, hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả trước 30% là hợp
lý. Vì theo quy định tại khoản 2 Điều 328 BLDS 2015: “Trường hợp hợp đồng được giao
kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện
nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt
cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp
đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài
sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Trong bản án trên, bên nhận đặt cọc (công
ty Tường Long) không từ chối thực hiện hợp đồng, mà tranh chấp phát sinh khi các bên đã đi
vào giai đoạn thực hiện hợp đồng. Do đó, số tiền đặt cọc 30% được trừ để thực hiện nghĩa vụ
trả tiền, đồng nghĩa 406.920.000 đồng được coi là tiền bên đặt cọc (công ty Tân Việt) thanh
toán đợt I cho bên nhận đặt cọc (công ty Tường Long).
- Cho biết điểm giống và khác nhau giữa thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng và thoả
thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Trả lời
Điểm giống nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng
hợp đồng: căn cứ Điều 418 BLDS 2015 và Điều 419 BLDS 2015
Thứ nhất, Là biện pháp chế tài mà Luật dân sự quy định để áp dụng cho các trường hợp vi
phạm hợp đồng.
Thứ hai, Cơ sở để áp dụng 2 biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên thực tế
và phải có lỗi của bên vi phạm.
Thứ ba, Mục đích chung của việc quy định cũng như áp dụng biện pháp này là nhằm ngăn
ngừa sự vi phạm hợp đồng.
Điểm khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng
hợp đồng:
Thỏa thuận phạt vi phạm hợp Thỏa thuận về mức về bồi thường thiệt
đồng hại do vi phạm hợp đồng
Cơ sở pháp
Điều 418 BLDS 2015 Điều 419 BLDS 2015

Khoản 2 Điều 419 BLDS 2015, người có
quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại
cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ được hưởng
do hợp đồng mang lại.
Áp dụng khi các bên có thỏa Khoản 3 Điều 427 BLDS 2015, bên bị
Điều kiện
thuận về phạt vi phạm – khoản 1 thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của
áp dụng
Điều 418 BLDS 2015. bên kia được bồi thường.
Khoản 4 Điều 428, bên bị thiệt hại do
hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ
trong hợp đồng của bên kia được bồi
thường.
Theo Điều 13, Điều 360 BLDS 2015,
thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì
bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại, trừ trường hợp có thỉa thuận
Mức phạt do các bên thỏa thuận,
khác hoặc luật có quy định khác.
trừ trường hợp luật liên quan có
Mức bồi thường thiệt hại về tinh thần thì
quy định khác – khoản 2 Điều 418
theo yêu cầu của người có quyền và do
BLDS 2015.
Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung
Mức phạt Điều 301 Luật Thương mại sđ
vụ việc – khoản 3 Điều 419 BLDS 2015.
năm 2019 – Mức phạt được thỏa
Điều 302 Luật Thương mại sđ năm 2019
thuận trong hợp đồng và không
– Giá trị bồi thường thiệt hại gồm giá trị
được quá 8% giá trị phần nghĩa vụ
tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi
hợp đồng bị vi phạm.
phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và
khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng
lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi
phạm.

Bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của


Tác động vào ý thức của chủ thể
bên vi phạm (được thỏa thuận sau khi
để hạn chế việc vi phạm hợp đồng
Ý nghĩa hợp đồng đã được giao kết, có hiệu lực
(được thỏa thuận trong khi giao
và có hành vi vi phạm hợp đồng, gây
kết hợp đồng).
thiệt hại)

Áp dụng phổ biến đối với các vi Chỉ áp dụng khi khả năng thiệt hại có thể
Phạm vi
phạm hợp đồng. xảy ra.

- Theo Toà án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của Toà
án trong Quyết định số 10 là thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng hay thoả thuận về mức
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?
Trả lời
Theo Toà án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của Toà án trong
Quyết định số 10 là thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Vì Điều 11
Hợp đồng nguyên tắc số 02, hai bên thỏa thuận: “…nếu trong quá trình thực hiện Hợp đồng,
bên nào vi phạm các điều kiện đã cam kết trong Hợp đồng thì bên vi phạm phải chịu trách
nhiệm bồi thường cho bên kia số tiền là 10.000.000 đồng”. Tòa án cấp phúc thẩm lại không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn có nội dung: yêu
cầu Công ty cổ phần Yến Việt bồi thường khoản tiền 10.000.000 đồng do vi phạm hợp đồng
nguyên tắc số 02/HĐNT về việc phân phối độc quyền phía Bắc, ký tháng 10/2010 giữa Công
ty TNHH Yến Sào Sài Gòn và Công ty cổ phần Yến Việt.
- Theo Toà giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thoả thuận được nêu tại mục 4 phần
Nhận định của Toà án trong Quyết định số 10 là thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng hay
thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?
Trả lời
Theo Toà giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận
định của Toà án trong Quyết định số 10 là thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng. Vì Tòa án nhận
định: “Theo các Điều 300, 301, 302, 303, 304 Luật Thương mại năm 2005 thì phạt vi phạm là
việc các bên thỏa thuận bên vi phạm phải trả một khoản tiền phạt được xác định trước nhưng
không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm; còn bồi thường thiệt hại là
việc các bên thỏa thuận bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng
gây ra cho bên bị vi phạm, nhưng những tổn thất này chưa xác định được tại thời điểm thỏa
thuận. Các bên thỏa thuận vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bên bị vi phạm
10.000.000 đồng, tức là các bên thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng”.
- Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng thẩm phán?
Trả lời
Nhóm em đồng ý với hướng xác định nêu trên của Tòa án. Mặc dù trong phần nguyên đơn
trình bày có đề cập: “Công ty Yến Viêt đã thành lập chi nhánh tại Hà Nội và thành lập các
cửa hàng để phân phối sản phẩm trên thị trường phía Bắc mà không trao đổi với Công ty Yến
Sào, vi phạm hợp đồng số 02 và gây thiệt hại nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty Yến Sào”. Xét theo khoản 1 Điều 302 Luật Thương mại 2005: “Bồi
thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng
gây ra cho bên bị vi phạm” thì số tiền 10.000.000 đồng được xem là mức bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, Điều 1 của Hợp đồng nguyên tắc số 02/HĐNT không có
tỏa thuận hạn chế quyền của Công ty Yến Việt được bán sản phẩm trực tiếp cho khách hàng,
trước khi ký Hợp đồng với Công ty Yến Sào thì Công ty Yến Việt đã mở chi nhánh của mình
và các cửa hàng tại Hà Nội. Vì vậy, việc xác định Công ty Yến Việt vi phạm Điều 1 của Hợp
đồng và phải bồi thường mức phạt 10.000.000 đồng là không có căn cứ. Ngoài ra, nếu xác
định các bên có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì phải làm rõ căn cứ phát sinh bồi thường
thiệt hại quy định tại Điều 303 Luật Thương mại 2005.
Vấn đề 3: Sự kiện bất khả kháng
Tình huống
Anh Văn nhận chuyển hàng cho anh Bình bằng đường thủy. Anh Văn có mua bảo hiểm trách
nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên đường vận chuyển, tàu bị gió
nhấn chìm và hàng bị hư hỏng toàn bộ.
- Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các bên có thể
thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu rõ cơ sở khi
trả lời.
Trả lời
Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 có quy định về sự kiện bất khả kháng:
“1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện,
quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu. Sự kiện bất khả kháng là
sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục
được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.
Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng:
Thứ nhất, đây phải là “sự kiện xảy ra một cách khách quan”. Sự kiện lại tồn tại ngoài phạm
vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các hiểm họa thiên nhiên (động đất, sóng thần,
mưa lũ, sạt lở đất, ...), các sự biến xã hội biến xã hội (đình công bạo bạo loạn, chiến tranh, ...)
và các hiểm họa do cháy nổ tự nhiên.
Thứ hai, các bên “không thể lường trước được". Việc không thể lường trước được hiểu là
hoàn cảnh làm cho hợp đồng không thực hiện được, các bên không nhìn thấy được tại thời
điểm giao kết. Do đó, khi rơi vào hoàn cảnh này, bên vi phạm hoàn toàn bị động. Trên thực
tế, có nhiều trường hợp việc có lường trước được hay không vẫn không được phân định rõ
ràng.
Thứ ba, sự kiện xảy ra “không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép”. Việc xảy ra sự kiện khách quan và không thể lường trước được
sự kiện đó vẫn chưa đủ để có thể được miễn trách. Bên có nghĩa vụ khi gặp hoàn cảnh như
vậy phải áp dụng mọi biện pháp để khắc phục.
Các bên có thể thoả thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
Theo Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 về Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự: “2.
Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất
khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác”.
- Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự kiện
bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
Trả lời
Hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng
trong BLDS 2015:
Theo Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 về Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự: “2.
Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất
khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác”.
Hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng
trong Luật Thương mại:
Theo Điểm b Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 về Các trường hợp miễn trách nhiệm
đối với hành vi vi phạm:
“1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;”
Theo Điều 296 Luật thương mại năm 2005
"1. Trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời
hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường
hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo
dài quá các thời hạn sau đây:
a) Năm tháng đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thỏa
thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;
b) Tám tháng đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thỏa
thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.
2. Trường hợp kéo dài quá các thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, các bên có quyền từ
chối thực hiện đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại."
Do đó theo Luật thương mại thì trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện
bất khả kháng thì bên vi phạm
Được miễn trách nhiệm bồi thường.
Được kéo dài thực hiện hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng bị chậm trễ do sự kiện bất khả
kháng.
Ngoài ra nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng dẫn đến việc
thực hiện hợp đồng sẽ không có lợi cho các bên thì các bên có thể chấm dứt việc thực hiện
hợp đồng.
- Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không ? Phân tích các điều kiện
hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
Trả lời
Trước tiên chúng ta cần xem xét và phân tích các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng.
Tại đoạn 2 khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra
một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã
áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”
Như vậy theo Bộ luật, sự kiện bất khả kháng phải thỏa mãn ba điều kiện sau:
Thứ nhất: Đây phải là “Sự kiện xảy ra một cách khách quan”.
Thứ hai: Đây phải là sự kiện “Không thể lường trước được”.
Thứ ba: Sự việc xảy ra “Không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép”.
Xét vụ việc cần bình luận ta thấy:
Thứ nhất: Gió là sự kiện xảy ra một cách khách quan.
Thứ hai: Tàu bị gió nhấn chìm và hàng bị hư hỏng tuy là sự kiện khách quan nhưng thật sự
không thể lường trước được hay không thì bản án không nói rõ. Nhưng nếu thông tin đại
chúng có cho biết là có gió lớn, nguy cơ có thể xảy ra thiệt hại vào thời điểm này thì dường
như điều kiện này không thỏa mãn.
Thứ ba: Tàu chìm làm hàng hư hỏng toàn bộ có thật sự “Không thể khắc phục được” hay
không bản án cũng không nói rõ. Nếu biết rõ thiệt hại xảy ra có thể tránh được, hạn chế được,
khắc phục được phần nào thiệt hại mà bên vận chuyển cứ để mặc cho thiệt hại xảy ra thì điều
kiện này dường như không được thỏa mãn.
=> Dựa vào những phân tích trên, sự kiện này là sự kiện bất khả kháng.
- Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường cho anh
Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời
Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn không phải bồi thường cho anh Bình
về việc hàng bị hư hỏng.
Cơ sở pháp lý cho câu trả lời:
Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện
đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường
hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Khoản 3 Điều 541 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận
chuyển bị mất mất, hư hỏng hoặc bị huỷ hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển
không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác.”
Điều 20 Nghị định 125/2003/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2003 về vận tải đa phương thức
quốc tế quy định: “Điều 20. Miễn trừ trách nhiệm. Mặc dù có quy định tại khoản 1 Điều 16,
khoản 1 và khoản 4 Điều 18 Nghị định này, người kinh doanh vận tải đa phương thức không
phải chịu trách nhiệm về mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm đối với hàng hoá được
vận chuyển nếu chứng minh được việc gây nên mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm
trong quá trình vận chuyển là do một hoặc nhiều nguyên nhân sau đây: 1. Bất khả kháng;..”.
- Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường cho
anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công ty bảo hiểm thanh
toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản và thực tiễn xét xử.
Trả lời
Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường cho anh
Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn không được yêu cầu công ty bảo hiểm thanh toán
khoản tiền này.
Căn cứ vào bản án số 110/2006/DSPT ngày 05/05/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh:
Tai nạn xảy ra là do thiên tai gió lốc nhấn chìm tàu, đây là trường hợp bất khả kháng. Tại
Khoản 3 điều 541 BLDS 2015 quy định: “Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản
bị mất mát, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển, thì bên vận chuyển không
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.” Trong trường hợp này anh Khen không có lỗi nên anh không có trách
nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho các chủ hàng. Tại Điều 15 về quy tắc bảo hiểm của Tổng
Công ty Bảo hiểm Việt Nam quy định: “Trường hợp tàu, thuyền được bảo hiểm gây ra tổn
thất cho người thứ ba mà có liên quan đến trách nhiệm bồi thường của Bảo Việt thì người
được bảo hiểm phải thông báo ngay cho Bảo Việt và cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng từ
thông tin cần thiết và các tình tiết liên quan đến việc khiếu nại của họ, đồng thời phải làm
theo sự chỉ dẫn của Bảo Việt hoặc đại diện Bảo Việt chỉ định”. Trong vụ tai nạn trên, sau khi
sự việc xảy ra anh Khen có thông báo cho Công ty Bảo Việt biết và cung cấp thông tin cần
thiết cho việc khiếu nại của người thứ ba Bảo Việt không có trách nhiệm bồi thường. Mặc dù
nhận được thông tin từ phía công ty Bảo hiểm nhưng anh Khen tự thỏa thuận, tự nguyện bồi
thường thiệt là trái với quy định của pháp luật và quy tắc bảo hiểm do đó bản thân anh Khen
tự chịu trách nhiệm.
=> Từ đó có thể thấy việc tàu của anh Văn bị gió nhấn chìm dẫn đến hàng hóa hư hỏng là sự
việc bất khả kháng, không thể lường trước được, cho nên anh Văn không cần bồi thường cho
anh Bình, nếu trường hợp anh Văn tự thỏa thuận bồi thường thì công ty bảo hiểm không có
nghĩa vụ phải thanh toán khoản tiền này.
Vấn đề 4: Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
- Tóm tắt bản án số 133/2021/DS-PT ngày 08-7-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
Trả lời
Nguyên đơn: Anh Phan Văn T, chị Nguyễn Hồng N.
Bị đơn: công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư và Phát triển Thanh M (gọi tắt là Công ty M) do
Trần Thị Thúy A làm Giám đốc.
Vấn đề tranh chấp: Anh T và Chị N cho Công ty M thuê nhà để làm Trung tâm giảng dạy
tiếng anh và toán tính nhanh. Hai bên thỏa thuận khi nào chấm dứt hợp đồng vợ chồng anh T
sẽ hoàn lại tiền cọc cho Công ty, nếu Công ty vi phạm thì mất tiền cọc. Ngày 26/9/2018, giao
nhận nhà, tiền thuê tính từ ngày 01/10/2018. Đến tháng 02/2020, do dịch Covid nên chị A có
gửi cho vợ chồng anh T thông báo sự kiện bất khả kháng và phía vợ chồng anh T không lấy
tiền nhà 03 tháng. Sau đó tiếp tục gửi thông báo chấm dứt hợp đồng thuê nhà với lý do bất
khả kháng nên nguyên đơn không đồng ý vì theo nguyên đơn có dịch Covid-19 nhưng không
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn vì nguyên đơn không nhận tiền nhà 03 tháng và
Công ty của bị đơn vẫn hoạt động bình thường được thể hiện là bị đơn chấm dứt thuê nhà
nhưng thành lập Công ty ở địa điểm mới và lớp học vẫn hoạt động. Và bị đơn cũng không
thực hiện sơn nhà, đi lại đường điện, nước, gắn bóng đèn…. đúng như thỏa thuận ban đầu
nên nguyên đơn không nhận nhà và bị đơn cũng không trả chìa khóa cho nguyên đơn.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng, bị đơn trả lại chìa kháo nhà cùng remote
cửa cuốn của nhà chính, trả tiền thuê nhà và bồi thường 01 năm tiền nhà.
Hướng giải quyết của Tòa án:
Tòa sở thẩm đã không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc hủy bỏ hợp đồng thuê nhà
và buộc chị A là chủ sở hữu Công ty trả tiền thuê nhà, bồi thường các khoản với số tiền là
342.000.000 đồng. Sau đó nguyên đơn kháng cáo buộc bị đơn bồi thường 1 năm tiền thuê nhà
và 7 tháng tiền nhà chưa trả.
Hội đồng xét xử nhận thấy, dịch Covid-19 xảy ra thì các đương sự không lường trước được,
gây hậu quả hết sức nặng nề và ảnh hưởng đến thu nhập của mọi người. Trong trường hợp
này thì, quá trình thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì các bên có thể thương
lượng với nhau. Phía bị đơn cũng có gửi thông báo về việc xin chấm dứt hợp đồng và trên
thực tế ý thức nguyên đơn cũng có thiện chí cho bị đơn chấm dứt hợp đồng. Như vậy, trước
khi chấm dứt hợp đồng thuê nhà bị đơn có thực hiện theo điều khoản của hợp đồng là báo
trước 03 tháng và với căn cứ trên được xem là lý lo chính đáng để không thuê nhà tiếp tục. Vì
vậy, không buộc bị đơn phải bồi thường 01 năm tiền thuê nhà như kháng cáo của nguyên đơn
- Điểm giống và khác nhau giữa sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi khi thực
hiện hợp đồng (về sự tồn tại và hệ quả pháp lý của hai trường hợp này).
Trả lời
Điểm giống nhau:
Về điều kiện, sự kiện bất khả kháng được áp dụng khi hội đủ ba điều kiện: xảy ra một cách
khách quan, xảy ra ngoài ý chí của bên vi phạm, bên vi phạm không thể lường trước được và
không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết và khả năng cho phép
(đoạn 2 Điều 156 BLDS năm 2015). Giống với ba điều kiện cần có của hoàn cảnh thay đổi cơ
bản khi thực hiện hợp đồng (diểm a, điểm b, điểm d khoản 1 Điều 420 BLDS năm 2015).
Điểm khác nhau:
Thứ nhất, về điều kiện thì trong đó hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì cần có thêm hai điều kiện
là hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được
giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác (điểm c khoản 1 Điêu 420
BLDS 2015) và việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng
sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên (diểm d khoản 1 Điều 420 BLDS 2015).
Thứ hai, về hệ quả pháp lý:
Sự kiện bất khả kháng:
Bên có nghĩa vụ được miễn trách nhiệm nếu nghĩa vụ không được thực hiện, không được
thực hiện đầy đủ hoặc không được thực hiện đúng.
Được kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng bị chậm trễ.
Nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng dẫn đến việc thực hiện
hợp đồng sẽ không có lợi cho các bên thì các bên có thể chấm dứt việc thực hiện hợp đồng.
Trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự thì không phải chịu
trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuân khác hoặc pháp luật có quy định kháng.
=> Sự kiện bất khả kháng là cơ sở để bên vi phạm nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân
sự.
Hoàn cảnh thay đổi cơ bản:
Bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời
hạn hợp lý (khoản 2 Điều 420 BLDS 2015).
Một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:
Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định (điểm a khoản 3 Điều 420 BLDS 2015) Sửa
đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ
bản (điểm b khoản 3 Điều 420 BLDS 2015).
Lưu ý:
Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng
sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi (đoạn 2
khoản 3 Điều 420 BLDS 2015).
Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc, các bên
vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác (khoản 4 Điều 420 BLDS 2015).
=> Hoàn cảnh thay đổi là cơ sở để các bên sửa đổi nội dung hợp đồng nhằm cân bằng quyền
và nghĩa vụ lợi ích của các bên hoặc chấm dứt hợp đồng tại thời điểm hợp lý chứ không phải
là cơ sở để xác định bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm dân sự.
- Trong vụ việc nêu trên, theo Tòa án việc chấm dứt hợp đồng là do sự kiện bất khả
kháng hay do hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Vì sao?
Trả lời
Trong vụ việc nêu trên theo Tòa án việc chấm dấm hợp đồng là do hoàn cảnh thay đổi cơ
bản. Trong mục 2.2 phần nhận định của Tòa án ghi nhận “...Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn
cung cấp chứng cứ bị đơn vẫn tiếp tục kinh doanh sau khi chấm dứt thuê nhà, đó là bị đơn
vẫn nộp tiền thuế hàng tháng, có phiếu thu tiền học phí, tuy vậy hồ sơ không thể hiện thu
nhập của bị đơn từ hoạt động kinh doanh. Trong trường hợp này, quá trình thực hiện hợp
đồng khi hoán cảnh thay đổi cơ bản thì các bên có thể thương lượng với nhau, tại khoản 2
Điều 420 Bộ luật Dân sự quy định: “Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có
lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời gian
hợp lý”.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết về hướng giải quyết nên trên của Tòa án (đặc
biệt là liên quan đến hoàn cảnh thay đổi cơ bản).
Trả lời
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý. Vì dịch bệnh covid bản thân nó không là một sự
kiện bất khả kháng vì nó không hội đủ những điều kiện sau đây để được xem là một sự kiện
bất khả kháng theo như quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015: Thứ nhất nó
phải là một sự kiện khách quan; thứ hai nó xảy ra mà con người không thể lường trước được;
Thứ ba là chủ thể đã thực hiện mọi cách, mọi phương pháp nhưng không thể khắc phục được.
Dịch bệnh covid 19 chỉ thỏa mãn được điều kiện thứ nhất và thứ hai cho nên chúng ta không
thể mặc nhiên xem nó là một sự kiện bất khả kháng. Ở vụ việc này Tòa án đã theo hướng
dịch bệnh covid 19 là hoàn cảnh thay đổi cơ bản hết sức thuyết phục. Hoàn cảnh cơ bản thay
đổi được quy định tại khoản 1 Điều 420 BLDS năm 2015. Tòa án theo hướng chấm dứt hợp
đồng thuê nhà do hoàn cảnh cơ bản thay đổi là dịch covid 19 xảy ra một cách khách quan mà
tại thời điểm giao kết hợp đồng các bên tham gia không thể lường trước được, nếu mà biết
được có sự thay đổi này thì các bên đã không kí kết hợp đồng hoặc kí kết nhưng với nội dung
hoàn toàn khác (theo như vụ việc trên thì bị đơn thuê căn nhà của nguyên đơn vì mục đích để
kinh doanh dạy học, nếu biết trước có dịch bệnh thì việc giao kết hợp đồng có thể đã không
xảy ra). Nếu vẩn tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung sẽ gây ra
thiệt hại nghiêm trọng cho một bên (vụ việc này nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng thì bị đơn sẽ
bị thiệt hại rất lớn vì các lí do sau do chỉ thị 16 của Chính phủ nên hạn chế số lượng học sinh
tham gia học điều này làm giảm rất nhiều lợi nhuận thu được từ việc kinh doanh dạy học, bên
cạnh đó thì bị đơn cũng phải trả tiền thuê nhà theo như quy định trong hợp đồng). Bên có lợi
ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hơp với
tính chất và mức độ của hợp với tính chất của hơp đồng mà không thể ngăn chặn (nguyên
đơn đã chủ động không lấy tiền 03 tháng tiền nhà). Tòa án áp dụng Điều 420 nhằm giảm
thiểu hiệt hại bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia, theo khoản 2 Điều này
bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng (thay đổi nội dung hợp
đồng, chấm dứt hợp đồng, ... tùy thuộc vào ý chí giữa các bên Tòa án không can thiệp). Theo
hướng có hoàn cảnh thay đổi cơ bản nên Tòa án chỉ chấp thuận yêu cầu đòi trả tiền nhà của
nguyên đơn và không chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của nguyên đơn là hợp lý.

You might also like