You are on page 1of 19

MÔN HỌC: HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT

HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG – THẢO LUẬN NHÓM 2

Giáo viên: DS – Ngô Thị Anh Vân

Buổi thảo luận thứ nhất: Nghĩa vụ

Lớp: 114 – TM45.2

Nhóm: 08

Họ và tên: Mã số sinh viên:

Đào Đức Hoàng 2053801011091

Võ Minh Hoàng 2053801011094

Phạm Lê Kim Khánh 2053801011114

Nguyễn Thanh Huyền 2053801011110

Nguyễn Khánh Linh 2053801011133

Nguyễn Thị Bình Minh 2053801011143

Trần Văn Minh 2053801011144


Vấn đề 1: Thực hiện công việc không có ủy quyền.

- Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?

Trả lời:

Điều 574 BLDS năm 2015 “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một
người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công
việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết
hoặc biết mà không phản đối".

Ví dụ: Do có người nhà bị bệnh phải nằm viện nên A vào để chăm sóc. B là hàng
xóm của A, trời mưa khi nhìn thấy bên sân nhà A thóc vẫn còn nên B đã sang
giúp gom thóc cất vào hàng ba giúp.
Phân tích ví dụ trên: A là người có công việc được thực hiện, B là người thực hiẹn
công việc không có ủy quyền, làm hoàn toàn tự nguyện. B gom thóc vào nhà là vì
lợi ích của A.
- Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền làm phát sinh căn cứ nghĩa vụ?
Trả lời:
Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ là những quy định mới những dự liệu về những
trường hợp đã được luật hóa.
Cũng do xuất phát từ tinh thần đoàn kết sự hợp tác đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau
trong cuộc sống không ít nhiều gì chúng ta cũng đã bắt gặp những trường hợp thực
hiện nghĩa vụ công việc một cách tự nguyện chứ không xuất phát từ sự thỏa thuận
giữa các bên (trường hợp hơp đồng) hay những nghĩa vụ do Luật định (trường hợp
bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra). Về bản chất, khi một người nào
đó thực hiện công việc một cách tự nguyện thì sẽ làm căn cứ phát sinh nghĩa vụ
theo quy định tại khoản 3 Điều 276 BLDS năm 2015. Các cơ sở pháp lý liên quan
về thực hiện công việc không có ủy quyền từ quy định tại Điều 574 đến 578 của
Bộ luật này.
- Điểm mới của BLDS năm 2015 với BLDS năm 2005 về thực hiện công việc
không có ủy quyền?
Trả lời:
Về mục đích thực hiện:
BLDS năm 2005 ghi nhận tại Điều 594 “... hoàn toàn vì lợi ích của người được
thực hiện công viêc" (hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện
chứ không vì lợi ích nào khác).
BLDS năm 2015 ghi nhận tại điều 574 “... thực hiện công việc đó vì lợi ích của
người có công việc được thực hiện” (ngoài lợi ích của người có công việc được
thực hiện thì còn vì mục đích khác chỉ cần nó không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái với đạo đức xã hội đồng thời không làm ảnh hưởng tới lợi ích của
người có công việc được thực hiện cũng như chủ thể khác).
Về chủ thể:
BLDS năm 2005 thì người thực hiện công việc chỉ là cá nhân (quy định theo
khoản 4 Điều 595 BLDS năm 2005).
BLDS năm 2015 thì người thực hiện công việc có thể là cá nhân, pháp nhân (quy
định tại khoản 4 Điều 575 BLDS năm 2015).
- Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền"
theo BLDS năm 2015? Phân tích từng điều kiện.

Trả lời:

Căn cứ Điều 574 BLDS 2015 cần phải thỏa mãn 4 điều kiện mới được áp dụng
quy định pháp luật về thực hiện công việc không có ủy quyền:

(1) Người thực hiện là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó.

(2) Thực hiện công việc một cách tự nguyện.


(3) Thực hiện công việc vì lợi ích của người có công việc được thực hiện.

(4) Người có công việc được thực hiện không biết hoặc không phản đối.

Phân tích từng điều kiện:

(1) Người thực hiện là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó: người thực
hiện phải là người hoàn toàn không có nghĩa vụ phải thực hiện công việc đó
nhưng đã thực hiện công việc đó. Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ pháp lý do Luật
định hoặc do hai bên thỏa thuận.

(2) Thực hiện công việc một cách tự nguyện: người thực hiện công việc đó phải
hoàn toàn tự nguyện, nếu người thực hiện công việc trái với ý chí của bản thân
do bị lừa dối, đe dọa thì không áp dụng chế định này.

(3) Thực hiện công việc vì lợi ích của người có công việc được thực hiện: việc thực
hiện công việc đó phải hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc, nếu người
thực hiện công việc vì lợi ích của mình hoặc của người khác thì không áp dụng
chế định này.

(4) Người có công việc được thực hiện không biết hoặc không phản đối: Người có
công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà không phản đối việc thực
hiện đó. Nếu người có công việc phản đối mà bên kia vẫn tiếp tục thực hiện thì 
không thuộc chế độ này. 

- Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể
yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của
chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không?
Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trả lời:
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 142, Điều 574, 575, 576, 578 Bộ luật Dân sự 2015

Theo nhóm em, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ
đầu tư A thực hiện nghĩa vụ theo quy định của chế định “thực hiện công việc
không có ủy quyền” vì nhưng lý do sau:

Thứ nhất, trong hợp đồng ký kết giữa B và C không nêu rõ B đại diện cho A và A
chưa từng ủy quyền cho B thực hiện giao kết hợp đồng này với C, chưa từng thể
hiện sự đồng ý của mình với giao dịch này. Vì vậy, kể cả khi C và B đã cùng nhau
thiết lập hợp đồng xây dựng, hợp đồng chỉ làm phát sinh nghĩa vụ giữa B và C,
không hề có sự ràng buộc về nghĩa vụ của C đối với A theo khoản 1 Điều 142
BLDS 2015. Điều này thỏa mãn yếu tố người thực hiện công việc “không có
nghĩa vụ thực hiện công việc”.

Thứ hai, B ký hợp đồng với nhà thầu C mà không có sự ủy quyền của A và A
chưa từng yêu cầu C phải thi công xây dựng công trình mà mình mong muốn vì
vậy A đương nhiên thỏa mãn điều kiện “không biết” theo Điều 574 BLDS 2015.
Tuy nhiên, vì là chủ đầu tư, A hoàn toàn có khả năng biết về việc thi công công
trình công cộng của C và việc C có thể xây dựng xong công trình chính là minh
chứng cho điều kiện “biết mà không phản đối” theo Điều 574 BLDS 2015. Bởi vì,
nếu như có bất kì sự phản đối nào từ A, C đã phải chấm dứt thực hiện công việc
theo khoản 1 Điều 578 BLDS 2015.

Thứ ba, đây là công việc đem lại lợi ích cho A với tư cách là một chủ đầu tư dự
án và dù có thể sẽ có lợi cho C nhưng lợi ích lớn nhất khi công việc được hoàn tất
vẫn thuộc về A vì vậy điều này phù hợp với điều kiện “vì lợi ích của người có
công việc” theo Điều 574 BLDS 2015.

Vấn đề 2: Thực hiện nghĩa vụ (thanh toán một khoản tiền).


- Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/03/2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội.

Chủ thể:

Nguyên đơn: Cụ Ngô Quang Bảng.

Bị đơn: Bà Mai Hương (Mai Thị Hương).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị Sáu và cụ Nguyễn Thị Tần.

Tranh chấp về: Nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng chuyển nhượng nhà và quyền sử
dụng đất.

Lý do tranh chấp:

- Nguyên đơn trình bày: Năm 1982, ông Phục chuyển nhượng đất thừa kế của
mình cho cụ Ngô Quang Bảng. Đến năm 1991, ông Bảng chuyển nhượng cho
vợ chồng bà Mai Hương với giá 5.000.000 đồng. Bà Hương trả 4.000.000 đồng
và còn nợ 1.000.000 đồng tức 1/5 giá trị thửa đất chưa thanh toán. Cụ Bảng
nhiều lần đòi nhưng bà Hương viện lý do không trả. Đến năm 1996, bà Hương
chuyển nhận nhà, đất cho vợ chồng ông Chinh và bà Sáu. Cụ Bảng khởi kiện bà
Hương yêu cầu bà Hương trả số tiền bằng 1/5 giá trị nhà đất được tòa định giá
là 1.697.769 đồng. Bằng không bà Hương phải trả lại 1/5 diện tích đất tương
đương 188,6m2/1.010m2 thửa đất đã chuyển nhượng.
- Bị đơn trình bày: Bà Mai Hương thống nhất với lời khai của cụ Bảng về việc
chuyển nhượng nhà, đất đã thanh toán 4.000.000 đồng và còn nợ 1.000.000
đồng. Đồng thời bà đã nhận của cụ nhà, đất, giấy chứng nhận sở hữu, giấy biên
nhận tiền. Năm 1996, bà Hương sau khi chuyển nhượng nhà, đất lại cho ông
Chinh và bà Sáu có gặp ông Bảng để trả 1.000.000 đồng nhưng ông Bảng
không nhận. Bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Bảng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Sáu trình bày: Việc
chuyển nhượng giữa 2 vợ chồng bà Sáu với bà Hương là hoàn toàn đúng với
quy định của pháp luật. Bà không đồng ý vơí yêu cầu trả 1/5 diện tích đất của
ông Bảng.
Tòa án giải quyết như thế nào:

- Tòa án sơ thẩm: Buộc bà Mai Hương trả lại ông Bảng số tiền 2.710.000 đồng
gồm gốc 1.000.000 đồng và lãi 1.710.000 đồng. Cụ Bảng kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm.
- Tòa án phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Cụ
Bảng kháng cáo lần 2 và đề nghị xem xét lại bản án sơ thẩm theo thủ tục Giám
đốc thẩm.
- Tòa Giám đốc thẩm: Chấp nhận kháng nghị của Chánh Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội.

- Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Trả lời:
Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán bằng cách quy
đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương tại thời
điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo
giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh
toán và chịu án phí theo số tiền đó.
Trường hợp trên đối tượng nghĩa vụ về tài sản là các khoản tiền nên theo mục 1
khoản 1 điểm a, b Thông tư 01/TTLT thì việc tính lại khoản giá trị tiền phải thanh
toán được tính:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày
01/07/1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa
vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Tòa án
quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương tại
thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành
tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài
sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 01/07/1996
hoặc tuy xảy ra trước ngày 01/07/1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời
điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá
gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Tòa án chỉ xác
định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền.
Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên còn
phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà
nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm
theo quy định tại khoản 2 Điều 313 BLDS 2015, trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Như vậy, Thông tư này cho phép ta tính lại khoản tiền phải thanh toán tại thời
điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ thông qua tài sản trung gian là giá gạo.
- Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Đối với tình huống thứ nhất, nghĩa vụ dân sự phát sinh trước 01/07/1996 (cụ thể là
ngày 15/11/1973) nên áp dụng Tiểu mục a Mục 1 Chương I của Thông tư
01/TTLT ngày 19/06/1997.
Ông Quới phải trả cho bà Cô:
(50.000/137)*15.000 = 5.474.453 đồng

- Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì
sao?
Trả lời:
Thông tư 01/TTLT ngày 19/06/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án
về tài sản không quy định điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/03/2018
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mà chỉ điều chỉnh việc thanh toán tiền
trong 2 trường hợp:
 Đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là các khoản tiền vàng.
 Đối tượng của các nghĩa vụ về tài sản là hiện vật.
- Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000 đồng như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán
cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khi giá trị của nhà đất được xác định là
1.697.760.000 đồng theo như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì theo Tòa án nhân cấp
cao tại Hà Nội, số tiền bà Hương phải thanh toán hết cho ông Bảng là 339.552.000
đồng ( bằng 1/5 tổng giá trị nhà đất được xác định bởi Tòa án sơ thẩm ).

Bà Hương phải thanh toán hết số tiền đó bởi vì: trước đó, vào năm 1991, cụ Bảng
đã chuyển nhượng cho bà Hương toàn bộ nhà, đất với giá trị 5.000.000 đồng, bà
Hương đã thanh toán 4.000.000 đồng cho cụ Bảng, tương đương với 4/5 tổng giá
trị nhà đất và còn nợ 1/5 chưa thanh toán. Và theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội, bà Bảng phải thanh toán cho cụ Hương 1/5 tổng giá trị nhà đất còn lại theo
giá hiện hành, tương ứng với số tiền là 339.552.000 đồng.

- Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu
một tiền lệ (nếu có)?
Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ trước đó,
chính xác là Quyết định Giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về vụ
án “Tranh chấp nhà đất và đòi nợ”.

Vấn đề 3: Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận.

- Tóm tắt Bản án số 148/2007/DS-ST ngày 26/09/2007 của Tòa án nhân dân thị
xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Chủ thể: Nguyên đơn: Bà Trần Thị Cẩm Tú.
Bị đơn: Bà Phượng, bà Phùng Thị Bích Ngọc.
Tranh chấp về: Hợp đồng vay tài sản.
Lý do tranh chấp:
- Bà Tú và bà Phượng xác lập quan hệ vay tiền, có thỏa thuận lãi suất. Bà Tú
nhận tiền lãi đến tháng 05/2005 thì bên vay không trả tiền lãi như đã thỏa
thuận. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa
vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh. Bà Tú khởi kiện đòi bà Phượng
phải chịu trách nhiệm liên đới với bà Ngọc để trả nợ. Tòa xét rằng, kể từ thời
điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa
vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của
bên thế nghĩa vụ theo hợp đồng vay tiền đã ký.

Quyết định của Tòa án: Buộc bà Phùng Thị Bích Ngọc phải trả cho bà Trần Thị
Cẩm Tú số tiền 651.981.000 đồng. Chấm dứt nghĩa vụ trả nợ giữa bà Phượng và
bà Tú.
- Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Trả lời:
Giống nhau:

 Là quan hệ nghĩa vụ dân sự.


 Không chuyển giao quyền, nghĩa vụ gắn với nhân thân.
 Hậu quả pháp lý: làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao
quyền yêu cầu hoặc người chuyển giao nghĩa vụ, làm phát sinh tư cách
chủ thể, quyền và nghĩa vụ dân sự ở người được chuyển giao.
Khác nhau:

Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ theo


Tiêu chí
thỏa thuận

Về đối Bên có quyền là người có Bên có nghĩa vụ là người có


tượng quyền chuyển giao. quyền chuyển giao.

Về nguyên - Quyền yêu cầu không cần - Chuyển giao nghĩa vụ buộc
tắc có sự đồng ý của người có phải có sự đồng ý của bên
nghĩa vụ vì trong mọi có quyền.Khi người có
trường hợp người có nghĩa quyền đồng ý, việc chuyển
vụ đều phải thực hiện đúng giao mới có thể được thực
nội dung của nghĩa vụ đã hiện.
được xác định.
- Tuy nhiên người chuyển - Người chuyển giao nghĩa
quyền phải thông báo cho vụ không cần thông báo cho
người có nghĩa vụ biết về người có quyền.
việc chuyển giao quyền yêu
cầu.Và việc thông báo phải
lập thành văn bản.
- Nếu bên có nghĩa vụ không
được thông báo thì có quyền
từ chối thực hiện nghĩa vụ
đối với bên thế quyền.

Không chịu trách nhiệm về khả Trách nhiệm của người có


năng thực hiện nghĩa vụ của nghĩa vụ ban đầu về việc thực
Về trách
bên có nghĩa vụ hiện nghĩa vụ của người thế
nhiệm
nghĩa vụ không được quy định
rõ.

Nếu chuyển giao quyền yêu Với chuyển giao nghĩa vụ theo
cầu mà quyền yêu cầu có biện thỏa thuận, nếu nghĩa vụ thực
Về hiệu
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa hiện có biện pháp bảo đảm
lực của
vụ kèm theo thì biện pháp bảo được chuyển giao thì biện pháp
biện pháp
đảm được chuyển giao sang bảo đảm đó đương nhiên chấm
bảo đảm
người thế quyền. dứt (trừ trường hợp các bên
không có thỏa thuận khác).

- Thông tin nào của Bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú?
Trả lời:
Thông tin của Bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú là:
Đoạn: “Bà Tú trình bày từ đầu năm 2003, bà cho bà Phượng vay tổng số tiền
555.000.000đ, việc giao nhận tiền chia làm 5 đợt, có làm biên nhận, lãi suất
1,8%/tháng. Theo thỏa thuận, bà Phượng có trách nhiệm trả lại hàng tháng và hoàn
vốn sau 13 tháng vì tiền vay do bà Tú vay của ngân hàng để cho Phượng vay lại.
Đến tháng 4 năm 2004, đến hạn trả nợ. Phượng vay bên ngoài giao tiền cho bà Tú
trả cho Ngân hàng và vay tiếp.
Ngày 22/04/2004, bà Tú tiếp tục vay tiền Ngân hàng về cho bà Phượng vay lại với
số tiền 615.000.000đ, có làm biên nhận. Đến tháng 04/2005, bà Phượng không có
tiền trả nợ nên nhờ bà Tú vay nóng bên ngoài để trả nợ Ngân hàng khi đến hạn.
Phượng đồng ý trả khoản tiền lãi 2,5% trên vốn vay 615.000.000đ đồng thời
Phượng xin giảm lãi xuống còn 1,3%/tháng.”
Đoạn: “Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là
người trực tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ
và theo biên nhận ngày 27/04/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị
Nhàn số tiền 615.000.000đ. Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác
định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà
Phượng thì vào tháng 4 năm 2004, thì phía bà Loan, ông Thanh, bà Ngọc không có
tiền trả cho bà Tú để trả nợ vốn vay Ngân hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng
bên ngoài để có tiền trả nợ Ngân hàng.”

- Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn của Bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh: “Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà
Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện
qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp
đồng cho bà Loan và ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/05/2005.”
- Suy nghĩ của anh chị về đánh giá trên của Tòa án?
Trả lời:
Đánh giá trên của Tòa án là hợp lý. Trích nhận định tòa án: “Kể từ thời điểm bà Tú
xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh thì trách nhiệm trả nợ vay
của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà
Loan, ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu
bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà Tú là không có căn cứ chấp
nhận.”
Luật quy định, khi chuyển giao nghĩa vụ phải có sự đồng ý của bên có quyền là bà
Tú, đồng nghĩa với việc người có quyền phải xét đến điều kiện, khả năng thực
hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ để bảo đảm quyền lợi của mình. Ban đầu
mặc dù trên thực tế chỉ là người trung gian giới thiệu cho bà Ngọc vay tiền nhưng
bà Phượng là người ký hợp đồng cho vay và trực tiếp giao nhận tiền với bà Tú,
đương nhiên bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán nợ vay. Nhưng sau đó ngày
12/05/2005, bà Tú đã ký hợp đồng vay trực tiếp với bà Ngọc đồng nghĩa với việc
chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc. Vì lẽ đó, xem
xét giải phóng hoàn toàn cho người chuyển giao nghĩa vụ là có căn cứ.

- Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Nhìn từ góc độ văn bản, thứ nhất theo Điều 370 BLDS 2015: “Bên có nghĩa vụ có
thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý,
trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật
có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ”. Trong trường hợp này, bà Phượng
đã thỏa thuận cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh vay tiền, hơn nữa bà Tú đã đồng ý
cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ thanh toán nợ thông qua hợp đồng vay mà bà
Tú ký với bà Ngọc ngày 12/05/2005, giữa bà Tú và bà Phượng không có thỏa
thuận bà Phượng phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của bà
Ngọc.
Thứ hai, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có
quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao. Vì nếu
như không giải phóng hoàn toàn người có nghĩa vụ ban đầu thì chế định này sẽ
giống với chế định ủy quyền, quy định tại Điều 283 BLDS 2015 là thực hiện nghĩa
vụ dân sự thông qua người thứ ba. Do vậy, việc này được xác định là chuyển giao
nghĩa vụ thì người chuyển giao nghĩa vụ sẽ không còn trách nhiệm trong quan hệ
nghĩa vụ này nữa.
- Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị
biết.
Trả lời:
Theo quan điểm của tác giả Chế Mỹ Phương Đài trong giáo trình Pháp luật hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của trường Đại học Luật TPHCM
nêu rõ: “Người có nghĩa vụ dân sự không chịu trách nhiệm về việc thực hiện
nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”,
trong phân tích quan điểm này tác giả đã nêu rõ thêm: “Người có nghĩa vụ chấm
dứt toàn bộ nghĩa vụ, chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền
sau khi việc chuyển giao có hiệu lực, người có quyền chỉ được phép yêu cầu người
thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao nghĩa vụ không phải
chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ”. Tác giả cũng
phân tích thêm: “Trong trường hợp người có nghĩa vụ cam kết với bên có quyền
với nội dung khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ không thực hiện, không đúng, không
đầy đủ nghĩa vụ, người có nghĩa vụ ban đầu sẽ thực hiện nghĩa vụ thay người thế
nghĩa vụ thì tư cách chủ thể của người có nghĩa vụ ban đầu được xác định là
người bảo lãnh cho việc thực hiện nghĩa vụ”.
Từ những quan điểm này cho thấy rõ người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách
nhiệm đối với bên có quyền khi hai bên không có thỏa thuận gì thêm về việc thực
hiện của người có nghĩa vụ ban đầu.
Theo quan điểm của PGS.TS Đỗ Văn Đại: “BLDS năm 1995 và BLDS 2005
không cho biết là người có nghĩa vụ ban đầu có được giải phóng hay không” và
“Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có trách nhiệm đối với người có
trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa
chuyển giao nghĩa vụ được quy định tại Điều 315, Điều 316 và Điều 317 với Điều
293 BLDS 2005 về thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”.
Vậy theo quan điểm này chúng ta cần xác định rõ việc chuyển giao nghĩa vụ dân
sự với thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba.

- Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Trả lời:
Trích đoạn của Bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm với bên có quyền: “Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng
với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn,
lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía
và Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà
Loan, ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền
465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay 150.000.000đ vào ngày
12/05/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà
Loan, ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt,
làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp
đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ
cho bà là không có căn cứ chấp nhận.”
- Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có nghĩa
vụ ban đầu và người có quyền.
Trả lời:
Xét về điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý:
Sự đồng ý của bên có quyền là điều kiện cần thiết để chuyển giao nghĩa vụ theo
thoả thuận có giá trị pháp lý, cũng như để bảo đảm quyền lợi của bên có quyền.
Cũng như Việt Nam, pháp luật nước ngoài cũng xây dựng chế định tương tự về
vấn đề trên.
Ví dụ: Theo Điều 9.2.3 của Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại Quốc
tế 2004 quy định: “Việc chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận giữa người có nghĩa
vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải có sự đồng ý của người có quyền”.
Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan:

Ví dụ: Theo Điều 9.2.5 của Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại Quốc
tế năm 2004 quy định:

“Người có quyền có thể giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu”.

Như vậy, người có quyền có thể giải phóng hoàn toàn nghĩa vụ cho người có
nghĩa vụ ban đầu.

“Người có quyền cũng có thể quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là
người có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới không thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình”.

Điều đó có nghĩa là người có quyền có thể lựa chọn một khả năng khác, đó là
chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ mới, nhưng người có quyền bảo lưu quyền
yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu.

“Trong mọi trường hợp khác, người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ
mới phải liên đới chịu trách nhiệm”.

Quy định tại điều này thể hiện rõ là giải pháp cuối cùng cũng là giải pháp được
áp dụng trong trường hợp người có quyền không có quyền quyết định nào. Nói
cách khác, nếu người có quyền không nêu rõ ý định giải phóng nghĩa vụ thì cả
người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới đều phải chịu trách nhiệm.

→ Qua Điều 9.2.5 của Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại Quốc tế
năm 2004, ta có thể thấy được rằng, trừ trường hợp được người có quyền giải
phóng hoàn toàn nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu thì các trường hợp khi
thực hiện chuyển giao nghĩa vụ cho bên thứ ba thì người có nghĩa vụ ban đầu vẫn
có nghĩa vụ đối với người có quyền.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Trả lời:
Theo quan điểm nhóm em, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, phù hợp
với tinh thần của Bộ luật Dân sự 2015 vì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng (bên có
nghĩa vụ) đã được chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh (bên thế
nghĩa vụ) và có sự chấp thuận của bà Tú (bên có quyền) nên việc Toà xác định đã
có hành vi pháp lý là chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận là có căn cứ và giải
quyết theo khoản 2 Điều 370 BLDS 2015 là “khi được chuyển giao nghĩa vụ thì
người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ” là hợp lý. Hơn nữa, Tòa án theo
hướng người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền
mang ý nghĩa bảo vệ quyền lợi cho bà Phượng và thể hiện cách giải quyết hợp lý
của Toà án khi phân định việc chuyển giao nghĩa vụ là hoàn toàn độc lập với việc
thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba.

- Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh
có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Đối với trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh
của người thứ ba thì khi chuyển giao nghĩa vụ, biện pháp bão lãnh đó chấm dứt
nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Cơ sở pháp lý: Điều 371 BLDS 2015 (Điều 317 BLDS 2005).
Sở dĩ khi bên có nghĩa vụ chuyển giao nghĩa vụ cho bên thứ ba (bên thế nghĩa vụ)
thì biện pháp bảo đảm chấm dứt, do hai yếu tố. Thứ nhất, việc chuyển giao nghĩa
vụ đã làm quan hệ nghĩa vụ ban đầu chấm dứt từ đó chấm dứt tư cách chủ thể của
bên có nghĩa vụ, mà biện pháp bảo đảm là bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ
của bên có nghĩa vụ nên khi chuyển giao nghĩa vụ thì biện pháp bảo đảm cũng
chấm dứt. Thứ hai, bản chất của chuyển giao nghĩa vụ là hợp đồng dựa trên sự
thỏa thuận của ba bên gồm: bên có quyền, bên có nghĩa vụ và bên thứ ba. Bên có
nghĩa vụ chuyển giao toàn bộ nghĩa vụ của mình cho bên thứ ba và bên thứ ba trở
thành bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ mới với bên có quyền, khi bên có
quyền đồng ý cho bên có nghĩa vụ chuyển giao nghĩa vụ cho bên thứ ba tức là đã
dự đoán được bên thứ ba có thể thực hiện nghĩa vụ hay không và chấp nhận nếu có
rủi ro trong quan hệ nghĩa vụ với bên thứ ba. Do đó khi nghĩa vụ được chuyển
giao đồng thời biện pháp bảo đảm cũng chấm dứt, nếu không có thỏa thuận khác.

You might also like