You are on page 1of 15

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA QUẢN TRỊ

HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI


NGOÀI HỢP ĐỒNG
Buổi thảo luận thứ nhất

GVHD: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải


Thực hiện: Nhóm 1
1. Trần Thị Mỹ Duyên - 2253401020057
2. Đặng Thị Mỹ Dung - 2253401020052
3. Lê Nguyễn Quỳnh Anh - 2253401020014
4. Hồ Thanh Ân - 2253401020009
5. Huỳnh Ngọc Châu Giang - 2253401020058
6. Trịnh Nguyễn Lan Anh - 2253401020026
7. Nguyễn Ngọc Thanh Hà - 2253401020065
8. Trần Thị Ánh Dương - 2253401020054
9. Trần Bảo Diệp - 2253401020046
10. Dương Thiên Ân – 22534002008

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2024


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN.................................3
1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?...................................................3
2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?............3
3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện công
việc không có ủy quyền"..................................................................................................3
4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền" theo
BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện............................................................................4
5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu
chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện
công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời..........................................................................................................................4
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)..............5
1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào? Qua
trung gian là tài sản gì?....................................................................................................6
2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ
thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời...........................................................6
3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất
động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?...........................7
4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất được
xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì theo Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao
nhiêu? Vì sao?..................................................................................................................7
5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu một
tiền lệ (nếu có)?...............................................................................................................8
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN..................................8
1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao
nghĩa vụ theo thỏa thuận?................................................................................................9
2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú?..11
3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?...........................................................................11
4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?...................................................11
5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển
giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời................................................................................12

1
6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm
đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết..................................12
7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền? (TNHI)........................................................13
8. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án. (TNHI).........................13
9. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của
người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt
không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời........................................................................14

2
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN

Tình huống: Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một
công trình công cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không
nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền của A trong khi đó,
theo quy định, B không được tự ký hợp đồng với C vì đây là công việc của chủ đầu
tư A (thực tế Ban quản lý dự án B không có nhiều tài sản để thanh toán cho C). Và
cho biết:
1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực
hiện một công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.
2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?
Thực hiện công việc không có ủy quyền là những sự kiện có thể xảy ra trong thực
tế, được pháp luật dự liệu trước và công nhận là có giá trị pháp lý thông qua các quy
phạm pháp luật nhất định, cụ thể: khoản 3 Điều 275, Điều 574 điến Điều 578 BLDS
2015. Sự xuất hiện của các sự kiện pháp lý này chính là nguyên nhân khiến những quan
hệ pháp luật dân sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt, kéo theo đó là nghĩa vụ giữa các bên
chủ thể được hình thành. Vì vậy,có thể nói thực hiện công việc không có ủy quyền là căn
cứ phát sinh nghĩa vụ.
3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện
công việc không có ủy quyền".
1. Mục đích “thực hiện công việc không có ủy quyền”
Tại Điều 594 BLDS 2005 quy định rằng: “Thực hiện công việc không có ủy quyền
là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện
công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này
không biết hoặc biết mà không phản đối”. Nghĩa là người thực hiện công việc sẽ không
có bất kì lợi ích nào từ việc thực hiện công việc cho người khác, tất cả sẽ vì lợi ích của
người có công việc được thực hiện.
Tuy nhiên ở Điều 574 BLDS 2015 thì đã lược bỏ đi từ “hoàn toàn”. Nghĩa là trên
thực tế có nhiều trường hợp người thực hiện công việc không có ủy quyền nhận được một
lợi ích khác miễn sao không trái với lợi ích của người có công việc được thực hiện.
Việc BLDS 2015 có sự thay đổi trên là hoàn toàn hợp lí vì trong thực tế, có nhiều
trường hợp một người thực hiện công việc không có ủy quyền không chỉ hoàn toàn vì lợi
ích của người có công việc được thực hiện mà còn để đảm bảo cho lợi ích của bản thân.
2. Chủ thể
BLDS 2005 quy định người có công việc được thực hiện chỉ là cá nhân. Còn ở
BLDS 2015 đã mở rộng phạm vi chủ thể đối với người có công việc được thực hiện là cá
nhân và pháp nhân. Thêm chủ thể là pháp nhân vào chế định này hợp lí vì trong đời sống
xã hội không ít những chuyện phát sinh giữa cá nhân và pháp nhân. Nếu không thay đổi
thì có những vụ việc về pháp nhân sẽ không có quy định để xử lí.
3. Nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền:
3
Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015 quy định các trường hợp người thực hiện công việc
không có ủy quyền không cần phải báo cho người có công việc được thực hiện về quá
trình và kết quả thực hiện công việc bao gồm cả “không biết nơi cư trú” và không biết trụ
sở của người có công việc được thực hiện. Còn khoản 3 Điều 595 BLDS 2005 thì chỉ quy
định về “không biết nơi cư trú”. Sự bổ sung trên là hoàn toàn hợp lí vì chủ thể của luật
dân sự ngoài cá nhân thì còn có pháp nhân. Theo đó, với một pháp nhân thì lại không tồn
tại khái niệm “nơi cư trú” mà lại là khái niệm “trụ sở”, tức nơi đặt cơ quan điều hành của
pháp nhân đó.
Khoản 4 Điều 575 BLDS 2015 quy định rõ ràng về trường hợp người có công việc
được thực hiện chết, nếu là cá nhân và chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân thì người thực
hiện công việc phải tiếp tục thực hiện công việc..., trong khi khoản 4 Điều 595 BLDS
năm 2005 thì lại không quy định đối với pháp nhân. Sự bổ sung trên là hoàn toàn hợp lí
vì chủ thể của luật dân sự không chỉ có cá nhân mà còn bao gồm pháp nhân. Mà đối với
pháp nhân, khái niệm “chết” không tồn tại mà thay vào đó là “chấm dứt tồn tại”.
4. Về chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền
Khoản 4 Điều 578 BLDS 2015 quy định rõ ràng một trong các trường hợp chấm
dứt thực hiện công việc không có ủy quyền là “người thực hiện công việc không có ủy
quyền chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân” trong khi khoản 4
Điều 598 BLDS 2005 chỉ quy định: “người thực hiện công việc không có ủy quyền chết”.
Sự thay đổi này hoàn toàn hợp lí vì có bổ sung thêm quy định đối với pháp nhân. Theo
đó, đối với một pháp nhân thì không có khái niệm “chết” mà chỉ có “chấm dứt tồn tại”.
4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền"
theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”, cần phải thỏa mãn
các điều kiện sau:
+ Khi có công việc cần thiết, cấp bách mà theo đó, các công việc này cần phải
thực hiện ngay. Nếu không được thực hiện thì chủ công việc hoặc những người xung
quanh sẽ phải chịu hậu quả bất lợi hơn.
+ Người thực hiện công việc đã tự nguyện thực hiện công việc dù pháp luật không
quy định và chủ công việc không yêu cầu. Nói cách khác, việc thực hiện công việc đối
với người thực hiện công việc không có ủy quyền hoàn toàn không phải là nghĩa vụ do
các bên thỏa thuận cũng như do pháp luật quy định.
+ Người thực hiện công việc đã thực hiện công việc vì lợi ích của người chủ công
việc.
+ Việc thực hiện công việc đã gây ra hao tổn công sức, tốn kém chi phí nhất định
5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể
yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế
định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì sao?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Sau khi xây dựng công trình , nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện
những nghĩa vụ trên có sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền”, căn cứ vào Điều 575 BLDS 2015: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là
việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện
4
công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết
hoặc biết mà không phản đối”. Cho ta thấy được các điều kiện để áp dụng chế định :
“thực hiện công việc không có ủy quyền”:
+ Khi có công việc cần thiết, cấp bách mà theo đó, các công việc này cần phải
thực hiện ngay: Việc xây dựng công trình công cộng cần được thực hiện và nhà thầu
C là người thực hiện công việc này của chủ đầu tư A.
+ Người thực hiện công việc đã tự nguyện thực hiện công việc dù pháp luật không
quy định và chủ công việc không yêu cầu: Nhà thầu C không có nghĩa vụ thực hiện công
việc này nhưng đã tình nguyện thực hiện bởi vì ban quản lí dự án B mới là người kí kết
hợp đồng với nhà thầu C (mà B vi phạm quy định giữa bên A và B tự ý kí kết hợp đồng
nên việc vi phạm này do bên A và B tự thỏa thuận với nhau về việc vi phạm của B và B
sẽ chịu trách nhiệm về việc kí kết hợp đồng này với C chứ chủ đầu tư A không chịu trách
nhiệm. Cho nên việc thực hiện công việc xây dựng công trình này có thực hiện hay
không, là hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của C.
+ Người thực hiện công việc đã thực hiện công việc vì lợi ích của người chủ công
việc: Bởi vì thực hiện trên sự tự nguyện nên là vì lợi ích của chủ đầu tư A, vì nếu khi
hoàn thành xong công trình thì C vẫn có thế không nhận được thù lao gì từ việc này bởi
vì A không chịu trách nhiệm về hợp đồng mà C kí kết với B.
+ Việc thực hiện công việc đã gây ra hao tổn công sức, tốn kém chi phí nhất định:
Việc nhà thầu C thực hiện công trình sẽ gây ra hao tổn về lực lượng nhân công, nguyên
vật liệu đáng kể mà vẫn có thể sẽ không nhận được khoản thù lao trong tương lai.
+ Người có công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà không phản đối:
Chủ đầu tư A có thể không biết hoặc đã biết nhưng không phản đối việc xây dựng công
trình này của nhà thầu C.

VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)

Tình huống: Ngày 15/11/1973, ông Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế
chân của bà Cô 50.000đ. Nay, ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà. Bà Cô đồng ý trả
nhà và yêu cầu ông Quới trả tiền thế chân (Lưu ý: giá gạo trung bình vào năm 1973
là 137đ/kg và giá gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính Tp.HCM là
15.000đ/kg).
Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 15/2018/DS-GĐT ngày 15 tháng 3 năm 2018
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ việc “Tranh chấp nghĩa vụ trả tiền trong
hợp đồng chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất”.
Nguyên đơn là cụ Bằng khởi kiện yêu cầu bị đơn là bà Hường thanh toán số tiền
còn thiếu trong hợp đồng chuyển nhượng căn nhà cấp bốn hai gian cùng toàn bộ thửa đất
số 49, Tờ bản đồ số 13 mà cụ đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Thịnh, bà Hường vào
năm 1991 với giá 5.000.000 đồng, bà Hường đã trả 4.000.000 đồng, còn nợ 1.000.000
đồng tương đương 1/5 giá trị thửa đất chưa thanh toán. Sau đó bà Hường đã chuyển
nhượng lại toàn bộ nhà đất trên cho vợ chồng ông Chính, bà Sáu trong khi vẫn chưa trả
nợ cho cụ Bằng. Cụ Bằng yêu cầu bà Hường trả cho cụ số tiền tương đương 1/5 giá trị
căn nhà, cụ thể là 1.697.760.000 đồng (theo định giá tài sản), nếu không thì trả bằng 1/5

5
diện tích đất mà bà Hường chưa thanh toán. Tòa sơ thẩm và phúc thẩm đều quyết định bà
Hường trả cả tiền gốc và lãi cho cụ Bằng là 2.710.000 đồng. Tòa giám đốc thẩm nhận
định, bà Hường phải thanh toán cho cụ Bằng số tiền tương đương 1/5 giá trị nhà, đất
theo định giá tài sản tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2,
tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tòa quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc
thẩm, giao hồ sơ vụ án xét xử lại.
1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Thông tư 01/TTLT ngày 16/07/1997 (sau đây gọi tắt là “thông tư”) hướng dẫn, cho
phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán thông qua trung gian là gạo trong trường
hợp khoản tiền đó: tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản,
tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thuế, tiền truy thu
do thu lợi bất chính.
Trường hợp thứ nhất, theo điểm a mục 1 phần I: “ nếu việc gây thiệt hại hoặc phát
sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt
hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì
Tòa án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá loại trung bình ở địa phương (từ đây gọi
tắt là “giá gạo”) tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo
đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản
phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó”. Như vậy, muốn tính lại giá trị khoản tiền
phải thanh toán thông qua giá gạo phải thỏa mãn hai điều kiện: thứ nhất là thời điểm gây
thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự phải trước ngày 1-7-1996, thứ hai là trong
khoảng thời gian từ thời điểm đó cho đến khi xét xử sơ thẩm giá gạo phải tăng 20% trở
lên. Lúc này, giá trị khoản tiền phải thanh toán được xác định lại thông qua giá gạo như
ví dụ sau: giả định giá gạo tháng 1-1995 là 2000 đồng/kg, khoản tiền phải thanh toán là
1.000.000 đồng. Vậy quy đổi tiền thành gạo là 1.000.000 : 2000 = 500kg gạo. Đến tháng
1/1997 giá gạo là 4000 đồng/kg thì số tiền phải thanh toán được xác định lại là 4000×500
= 2.000.000 đồng.
Trường hợp thứ hai, theo điểm b mục 1 phần I, “nếu việc gây thiệt hại hoặc phát
sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng
trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm
xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án
chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong
trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với
số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với
thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 313
BLDS, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền là
5.475.000đ. Căn cứ vào điểm a mục 1 phần I: Thông tư 01/TTLT ngày 19/06/1997 của

6
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ tài chính hướng
dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản:
Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và
trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá
gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt
hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm
xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số
tiền đó.
Thời điểm gây thiệt hại là vào ngày 15/11/1973, ông Quới nhận 50.000đ tiền thế
chân của bà Cô. Tại thời điểm bà Cô yêu cầu ông Quới hoàn trả tiền thế chân, giá gạo
trung bình theo Sở tài chính Tp.HCM là 15.000đ/kg, giá gạo đã tăng lên quá 20%. Khi
xét xử, Tòa án sẽ quy đổi 50.000đ ra gạo theo giá gạo năm 1973. Vào thời điểm trên, giá
gạo trung bình là 137đ/kg, số lượng gạo được quy đổi ra xấp xỉ 365kg (50.000đ :137đ).
Tại thời điểm bà Cô yêu cầu ông Quới hoàn trả tiền thế chân, Tòa án sẽ buộc ông Quới
phải hoàn trả cho bà Cô số tiền là 5.475.000đ (15.000đ x 365kg).
3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?
Theo mục 1 phần I Thông tư 01/TTLT: “Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi
thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền
cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính...”
Thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng
bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT vì thông tư điều chỉnh áp dụng
cho các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền
đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do
thu lợi bất chính.
4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì theo Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ
thể là bao nhiêu? Vì sao?
Theo Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội trong Quyết định số 15/20218/DS-GĐT, bà
Hương mới thanh toán được 4/5 giá trị chuyển nhượng đất cho cụ Bảng, số tiền còn nợ
tương đương 1/5 giá trị nhà, đất. Do đó, bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng số tiền
còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới
đúng với hướng dẫn tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II nghị quyết số 02/2004/NQ-
HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nếu giá trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000 đồng như Tòa án cấp sơ thẩm
đã làm thì theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán
cho cụ Bảng cụ thể là 1/5 của 1.697.760.000 đồng. Vậy nên khoản tiền bà Hương phải
thanh toán là: 1/5 x 1.697.760.000 = 339.552.000 đồng.

7
5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Với hướng như trên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. Đó là
Quyết định Giám đốc thẩm số: 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ án tranh chấp nhà
đất và đòi nợ”. Tóm tắt bản án:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Lai.
- Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân.
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Trần Thị Minh.
+ Ông Hoàng Minh Khoa.
- Diễn biến vụ việc:
+ Năm 1994, bà Lai cho ông Xuân vay 11.500.000đ (giấy ghi nợ không ghi rõ
ngày tháng năm nhưng hai bên đều thống nhất thời gian cho vay là năm 1994).
+ Ngày 12/02/1996, bà Lai cho ông Xuân vay tiếp 128.954.000đ.
+ Ngày 08/8/1996, hai bên thống nhất số tiền nợ (lẫn lãi) là 188.600.000đ, đồng
thời thỏa thuận chuyển nhượng căn nhà số 19 Chu Văn An cho bà Lai với giá
188.600.000đ. Do vợ chồng ông Xuân không thanh toán nợ và không giao nhà mà vẫn
quản lý ngôi nhà nên bà Lai vẫn tính lãi của số tiền 188.600.000đ.
+ Ngày 05/8/1997, vợ chồng ông Xuân và vợ chồng bà Lai tiếp tục chốt nợ gốc và
lãi từ 188.600.000đ lên 250.000.000đ; hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với giá 250.000.000đ.
+ Sau khi lập hợp đồng, bà Lai vẫn tính lãi số tiền 250.000.000đ trong thời gian 02
tháng thành 6.000.000đ để cộng dồn vào số tiền 44.000.000đ bà Lai đã cho ông Xuân vay
vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ.
- Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
+ Xác minh, thu thập các chứng cứ chứng minh rằng liệu thủ tục làm giấy tờ mua
bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có theo quy trình pháp luật quy định hay
không.
+ Trường hợp có đủ căn cứ xác định việc mua bán chuyển nhượng nhà và quyền
sử dụng đất là hợp pháp và công nhận hợp đồng mua bán nhà đất giữa các bên thì phải
lấy giá nhà, đất theo thỏa thuận trong hợp đồng trừ đi số tiền nợ gốc và lãi.
+ Trường hợp còn thiếu bên mua chưa trả đủ thì phần còn thiếu (tính theo tỷ lệ %
giá trị nhà đất) bên mua phải thanh toán cho bên bán theo giá trị thị trường tại địa phương
ở thời điểm xét xử sơ thẩm lại.
Đây chính là nội dung của tiền lệ cho hướng giải quyết của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.

VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN


(TNHI) Tóm tắt Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân
dân thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Cẩm Tú.
Bị đơn: Bà Phùng Thị Bích Ngọc.

8
Nội dung bản án:
Bà Tú và bà Phượng xác lập quan hệ vay tiền, có thỏa thuận lãi suất (lãi suất 1.8%/
tháng); thời hạn vay là 12 tháng. Cụ thể ngày 27/4/2004 bà Phượng vay của bà Tú
615.000.000 đồng để cho 02 người chị của mình bà Ngọc vay 465.000.000 đồng và bà
Loan cùng chồng là ông Thạnh vay 150.000.000 đồng. Đến tháng 4/2005, bà Phượng xin
giảm lãi xuống còn 1.3%/tháng. Bà Tú nhận tiền lãi đến tháng 5/2005 thì bên vay không
trả tiền lãi như đã thỏa thuận.
Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa
vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú. Tuy nhiên bà Tú đồng ý cho bà
Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh qua việc lập hợp đồng
cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh vay số tiền như trên. Kể từ thời điểm bà Tú xác lập
hợp đồng vay với bà Ngọc, vợ chồng bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của
bà Phượng và bà Tú chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký.
Bà Tú khởi kiện yêu cầu bà Phượng liên đới trả nợ cùng bà Ngọc nhưng bà Phượng
lại cho rằng mình chỉ là trung gian giới thiệu cho bà Ngọc vay tiền bà Tú (bà Ngọc cũng
thừa nhận điều này).
Đối với hợp đồng vay xác lập với bà Loan, ông Thạnh phía bà Tú không yêu cầu
tranh chấp nên không xem xét đến.
Quyết định của Tòa án: Tòa xét rằng, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay
với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú
chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ theo hợp đồng vay tiền đã ký.
Buộc bà Phùng Thị Bích Ngọc có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị Cẩm Tú số tiền:
651.981.000 đồng.
1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
*Giống:
- Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/bên có quyền nếu chuyển giao
quyền/chuyển giao nghĩa vụ.
- Không được chuyển giao trong trường hợp hai bên đã thoả thuận không chuyển
giao hoặc pháp luật có quy định về việc không được chuyển giao, như nghĩa vụ gắn liền
với nhân thân, quyền yêu cầu cấp dưỡng, bồi thường do xâm phạm tới tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín.
- Hậu quả pháp lý là làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao
quyền/nghĩa vụ, làm phát sinh tư cách chủ thể, quyền và nghĩa vụ dân sự ở người được
chuyển giao.
- Sau khi chuyển giao quyền/nghĩa vụ, bên có quyền/nghĩa vụ ban đầu chấm dứt
toàn bộ quan hệ nghĩa vụ với bên có nghĩa vụ/quyền
- Xuất phát từ sự thoả thuận giữa các bên.
- Chỉ áp dụng đối với các quan hệ nghĩa vụ đang còn hiệu lực.

9
*Khác:
Quyền yêu cầu Nghĩa vụ
Chủ Bên có quyền Bên có nghĩa vụ
thể
Quyền Người chuyển giao quyền yêu cầu Người đã chuyển giao nghĩa vụ phải
hạn không phải chịu trách nhiệm về khả chịu trách nhiệm về khả năng thực
năng thực hiện nghĩa vụ của bên có hiện nghĩa vụ của mình đối với bên
nghĩa vụ nên việc chuyển giao quyền có quyền nên để bảo vệ lợi ích của
không cần có sự đồng ý của bên có bên có quyền, việc chuyển giao
nghĩa vụ (khoản 2 Điều 365 BLDS). nghĩa vụ phải được sự đồng ý của
bên có quyền (khoản 1 Điều 370
BLDS).
Phạm - Đối với chuyển quyền yêu cầu có các Đối với chuyển giao nghĩa vụ có
vi biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo
thì việc chuyển giao quyền yêu cầu bao đảm sẽ đương nhiên chấm dứt, trừ
gồm cả các biện pháp bảo đảm đó trường hợp có thỏa thuận khác (Điều
(Điều 368 BLDS). 371 BLDS).
- Người chuyển giao quyền có nghĩa - Không quy định về nghĩa vụ của
vụ đối với người thế quyền: người người chuyển giao nghĩa vụ đối với
chuyển giao quyền yêu cầu vi phạm người thế nghĩa vụ.
nghĩa vụ cung cấp thông tin và chuyển
giao giấy tờ có liên quan cho người thế
quyền mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường thiệt hại (Điều 366 BLDS).
Hình Bằng văn bản và phải thông báo cho Không có quy định bắt buộc về mặt
thức bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển hình thức.
quyền để tránh việc bên có nghĩa vụ
phải từ chối việc thực hiện nghĩa vụ
đối với người thế quyền hay thực hiện
nghĩa vụ bổ sung, trừ trường hợp có
thoả thuận khác. (khoản 2 Điều
365).

2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho
bà Tú?
Đoạn của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú là:
“Theo lời khai của Bà Tú thì bà Phượng yêu cầu cho bà vay tiền để kinh doanh cá
khô xuất khẩu và bà đã vay tiền Ngân hàng cho Phượng vay số tiền 615.000.000 đồng.
Bà Phượng có làm biên nhận tiền với bà Tú.”

10
“Theo các biên nhận do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực
tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000 đ và theo biên nhận
ngày 27/4/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền 615.000.000 đ.
Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền với
bà Tú. Ngoài ra cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4 năm 2004. Do phía bà
Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay Ngân hàng nên
bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho ngân hàng. Xác định bà
Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú. Các bên thống nhất xác định tổng số
tiền vay là 651.000.000 đ, lãi suất là 1.8%/tháng. Thời hạn vay là 12 tháng, phía bà Tú đã
nhận tiền lãi đầy đủ theo thoả thuận. Đến tháng 4 năm 2005 thì bà Tú giảm lãi suất xuống
còn 1.3%/tháng. Bà Tú tiếp tục nhận tiền lãi đến tháng 5/2005 thì bên vay không trả lãi
như thỏa thuận. Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi
phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải
có trách nhiệm thực hiện.”
Từ đó ta thấy, hai chủ thể của hợp đồng cho vay trên là bà Tú và bà Phượng, vậy
nên bà Phượng phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú.
3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn thứ năm phần Xét thấy, Tòa án nhân dân Thị xã Châu Đốc, Tỉnh An Giang
ghi nhận rằng:
"Xét hợp đồng vay tiền giữa và Phượng và bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm
nghĩa vụ thanh toán nợ vay mà không trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có
trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển nghĩa
vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà
Ngọc vay số tiền 465.000.000 đ và hợp đồng cho và Loan, ông Thạnh vay số tiền số tiền
150.000.000 đ vào ngày 12/05/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà tú xác lập hợp đồng
vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng với bà tú đã
chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ với bà Ngọc, bà Loan, và ông Thạnh đối với bà Tú theo
hợp đồng vay tiền đã ký.".
Như vậy, Tòa án đã xét thấy nghĩa vụ trả số tiền vay bà Tú của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh kể từ thời điểm mà bà Tú xác lập hợp
đồng vay với 3 người này. Đồng nghĩa bà Phượng đã chấm dứt nghĩa vụ thanh toán nợ
cho bà Tú
4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
Theo quan điểm cá nhân, đánh giá của Tòa án về vụ việc trên của Tòa án là hợp lý
và đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, việc Tòa án xác định nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển
giao cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều
370 Bộ luật dân sự 2015 về việc chuyển giao nghĩa vụ bắt buộc phải có sự đồng ý của
bên có quyền, lúc đó thì việc chuyển giao nghĩa vụ mới có hiệu lực. Ở đây ta thấy, bà Tú
biết và đã chấp thuận cho bà Phượng thực hiện chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh, thông qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền
465.000.000 đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đ vào ngày
11
12/5/2005. Điều đó thể hiện người có quyền là bà Tú đã đồng ý với việc chuyển giao này.
Ngoài ra, BLDS 2015 cũng không quy định về hình thức thông báo về việc chuyển giao
nghĩa vụ do đó việc bà Tú giao kết hai hợp đồng vay vào ngày 12/05/2005 đã thể hiện và
đã được thông báo và chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ. Từ đó ta thấy, việc chuyển
giao nghĩa vụ đã được xác lập và có hiệu lực do đó mà nghĩa vụ thanh toán của bà
Phượng đối với bà Tú cũng chấm dứt từ thời điểm đó, thay vào đó thì chủ thể là bên thế
quyền là bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh sẽ là người nhận nghĩa vụ được chuyển giao là
nghĩa vụ thanh toán đối với bà Phượng.
Thứ hai, Tòa án thừa nhận việc chuyển giao nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà
Loan, bà Ngọc và ông Thạnh là phù hợp với thực tế và thích đáng với bản chất của giao
dịch giữa các bên và cũng được các bên thừa nhận. Cụ thể, bà Phượng đã đóng vai trò
trung gian, làm cầu nối cho việc thực hiện vay tiền của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh
đối với bà Tú. Hơn nữa, thực tế cho thấy, bà Tú cũng đã đang nhận thế chấp tài sản bảo
đảm của bà Ngọc là quyền sử dụng đất (mảnh đất tọa lạc tại số 34, khóm Châu Long 6,
diện tích đất 571m2)
Tóm lại, chúng tôi đồng ý với quan điểm của Tòa án.
5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Điều 370 Bộ luật dân sự 2015
Nhìn nhận từ góc độ văn bản, căn cứ vào cơ sở pháp lý tại Điều 370 BLDS thì ta
thấy kể từ thời điểm chuyển giao nghĩa vụ được xác lập và có sự đồng ý của chủ thể có
quyền thì người có nghĩa vụ sẽ chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ đối với bên có
quyền. Vì thực chất, việc chuyển giao nghĩa vụ là sự thỏa thuận giữa ba bên: bên có
quyền, bên có nghĩa vụ và bên thế nghĩa vụ. Trên cơ sở thỏa thuận thì với sự đồng ý của
người có quyền thì người thứ ba thay thế cho người có nghĩa vụ trước đó sẽ trở thành
người có nghĩa vụ mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ. Cũng là từ đó, người có quyền
chỉ được phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao
nghĩa vụ (bên thực hiện nghĩa vụ cũ) không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa
vụ của bên thế nghĩa vụ đối với bên có quyền.
6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.
Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài: “Trên cơ sở sự thỏa thuận, với sự đồng ý của bên
có quyền người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành người có nghĩa vụ
mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ mối quan hệ
nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có
quyền chỉ được phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển
giao nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa
vụ.”
12
Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có
trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa chuyển
giao nghĩa vụ với
“thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do vậy, để chuyển giao nghĩa
vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ
ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi
có bên có thoả thuận khác.”
Bên cạnh đó, tác giả một lần nữa khẳng định, “khi có chuyển giao nghĩa vụ theo
thoả thuận thì người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm với người có quyền đối
với nghĩa vụ hay phần nghĩa vụ được chuyển giao” thông qua hướng giải quyết của Tòa
giám đốc thẩm trong Quyết định số 361/2009/DS-GĐT ngày 13-8-2009 của Toà dân sự
Toà án nhân dân tối cao
7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền? (TNHI)
Đoạn của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền là:
“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng cho vay với bà Ngọc, bà Loan
và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đối với bà Loan đã chấm dứt, làm phát
sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã
ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn
cứ chấp nhận”.
“Phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà
Phượng giấy chứng minh Hải quan.”
8. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án. (TNHI)
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, vì:
Thứ nhất, Tòa công nhận sự chuyển giao nghĩa vụ trả nợ từ bà Phượng (bên có
nghĩa vụ) sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh (bên thế nghĩa vụ) căn cứ theo khoản
2 Điều 370 BLDS 2015 “khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành
bên có nghĩa vụ”.
Theo đó, Tòa án xét thấy: “Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao
nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp
đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đồng và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh
vay số tiền 150.000.000 đồng vào ngày 12/5/2005” tức nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú của bà
Phượng đã chấm dứt, khẳng định việc chuyển giao nghĩa vụ trên là hoàn toàn có sự chấp
thuận của bà Tú (bên có quyền).
Thứ hai, Tòa khẳng định bà Phượng không còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ đã
được chuyển giao. Việc chuyển giao nghĩa vụ của bà Phượng cho ông Thạnh, bà Ngọc,
bà Loan đã làm chấm dứt nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú.
Cụ thể: “Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, và
Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt,
làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng
vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là
không có căn cứ chấp nhận” và “Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà
13
Phượng theo thỏa thuận. Phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú
hoàn trả lại bà Phượng giấy chứng minh Hải quan”. Điều này giúp cho quyền lợi của bà
Phượng được bảo vệ
9. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có
chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh
của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt
không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Điều 335 BLDS năm 2015, Điều 343 BLDS năm 2015, Điều 371
BLDS năm 2015 (Điều 317 BLDS năm 2005).
Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của
người thứ ba thì nghĩa vụ khi được chuyển giao biện pháp bảo lãnh cũng chấm dứt theo,
theo điều 317 BLDS năm 2005.
Điều 317: Chuyển giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm
“Trong trường hợp nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì
biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, nếu không có thỏa thuận khác.”
Việc bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bên thế nghĩa vụ sẽ làm quan hệ nghĩa vụ
ban đầu chấm dứt. Chuyển giao nghĩa vụ là bên có nghĩa vụ chuyển giao toàn bộ nghĩa
vụ của mình cho bên thế nghĩa vụ, mà trong đó, hợp đồng dựa trên sự thỏa thuận của cả
ba bên. Khi đó, bên thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ mới
với bà Tú.

14

You might also like