1.1 Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền? Căn cứ tại Điều 574 BLDS 2015: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”. Như vậy, thực hiện công việc không có quyền là thực hiện một công việc với ý thức giúp đỡ cho bên kia vì lợi ích của bên kia dù các bên không có hợp đồng hay thỏa thuận trước với nhau và bên thực hiện công việc không có nghĩa vụ luật định phải làm công việc đó. Yếu tố quan trọng nhất của thực hiện công việc không có ý quyền chính là ý thức tự nguyện thực hiện công việc. 1.2 Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ? Căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là những sự kiện xảy ra trong thực tế, được pháp luật dân sự dự liệu, thừa nhận là có giá trị pháp lý, làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự. Thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ là vì trong thực tế có các trường hợp thực hiện công việc không có ủy quyền, mà BLDS 2015 đã dự liệu điều này tại: Chương XVIII: “Thực hiện công việc không có ủy quyền”; Khoản 8 Điều 8: Căn cứ xác lập quyền dân sự là thực hiện công việc không có ủy quyền; Khoản 3 Điều 275: Căn cứ phát sinh nghĩa vụ là thực hiện công việc không có ủy quyền. Việc quy định chế định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện; nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo quyền lợi của người thực hiện công việc cũng như đối với người có công việc được thực hiện. 1.3 Cho biết điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”. Căn cứ pháp lý: Điều 574 BLDS 2015 và Điều 594 BLDS 2005. Điểm nổi bật trong chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” của BLDS 2015 so với BLDS 2005: Thứ nhất, về chủ thể thực hiện: BLDS 2005 quy định chủ thể là người có công việc được thực hiện chỉ có cá nhân, trong khi BLDS 2015 quy định chủ thể người có công việc được thực hiện bao gồm cả cá nhân và pháp nhân. Điều này cho thấy BLDS 2015 có sự điều chỉnh về phạm vi chủ thể. Thứ hai, về mục đích thực hiện: BLDS 2005 quy định người thực hiện công việc “hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện”. Nghĩa là người thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện, ngoài ra không có mục đích khác. Nhưng đến với BLDS 2015, Điều 574 quy định người thực hiện công việc “thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện”. Người thực hiện vì lợi ích của người có công việc được thực hiện nhưng cũng có thể vì mục đích khác, tuy nhiên không được làm trái với lợi ích của người có công việc được thực hiện và các chủ thể khác liên quan. Như vậy, cụm từ “hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện” ở Điều 594 BLDS 2005 đã tạo ra sự cứng nhắc về mặt câu chữ khi bắt buộc người thực hiện công việc phải hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc cần thực hiện. Trong thực tiễn xét xử, sự cứng nhắc này sẽ không đảm bảo được sự công bằng giữa người thực hiện công việc và người có công việc phải thực hiện. Do đó, Điều 574 BLDS 2015 điều chỉnh quy định về thực hiện công việc không có ủy quyền, đã khắc phục được nhược điểm của Điều 594 BLDS 2005 bằng cách bỏ đi cụm từ “hoàn toàn”. 1.4 Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” theo Bộ luật Dân sự 2015? Phân tích từng điều kiện. Thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự. Trong thực tế, có các trường hợp thực hiện công việc không có ủy quyền tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện, nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo quyền lợi của người thực hiện công việc, căn cứ tại Điều 574 đến Điều 578 BLDS 2015. Theo BLDS 2015, việc thực hiện công việc không có ủy quyền thỏa mãn các điều kiện nhất định sau: Thứ nhất, người thực hiện công việc không có ủy quyền là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó. Một người có thể thực hiện công việc vì lợi ích của người khác. Nếu giữa hai bên có một hợp đồng ủy quyền thì nghĩa vụ của họ xuất phát từ hợp đồng. Nhưng trong trường hợp giữa họ không có hợp đồng ủy quyền nào, người thực hiện công việc không có nghĩa vụ phải làm nhưng đã thực hiện công việc một cách tự nguyện, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc. Việc làm này tự nguyện trên tinh thần tương thân, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong lúc gặp khó khăn tạm thời nên giữa họ không có mối quan hệ pháp lý nào về công việc được thực hiện trước đó. Thứ hai, người thực hiện công việc phải có chủ ý, tự nguyện khi thực hiện công việc. Người có hành vi tự nguyện thực hiện công việc của người khác được coi là thực hiện công việc không có ủy quyền trước khi tiến hành công việc, người thực hiện công việc không có ủy quyền tự ý thức rằng nếu không có ai thực hiện công việc này thì người có công việc bị thiệt hại một số lợi ích vật chất nhất định. Lợi ích này có thể là những lợi ích mà người có công việc được thực hiện không thu được hoặc lợi ích của họ giảm đáng kể. Người thực hiện công việc không có ủy quyền xem đó là bổn phận của mình và phải thực hiện công việc nhằm mang lại lợi ích cho người có công việc. Thứ ba, việc thực hiện công việc không có ủy quyền phải có sự tự nguyện của người thực hiện công việc. Dù không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng người thực hiện công việc vẫn có ý chí hết mình thực hiện công việc của người khác như công việc của chính mình, không hề suy tính lợi ích cá nhân. Người thực hiện công việc không có ủy quyền thực hiện công việc đó dựa trên tinh thần tự nguyện mà không có bất kỳ sự ép buộc hay cưỡng chế nào. Người thực hiện nhận thức được hành vi thực hiện công việc của mình và trong điều kiện, khả năng thực hiện công việc một cách độc lập nhằm đem lại lợi ích cho người có công việc. Thứ tư, người có công việc được thực hiện không biết việc có người khác đang thực hiện công việc cho mình hoặc biết nhưng không phản đối việc thực hiện công việc đó. Đây là điều kiện được suy ra từ Điều 574 BLDS 2015, thể hiện tính tuyệt đối trong quy định. Người thực hiện công việc không có ủy quyền thực hiện công việc dựa trên tinh thần tự nguyện, vì lợi ích của người có công việc được thực hiện mà không có sự thỏa thuận giữa các bên. Do đó, đa phần các công việc được thực hiện không có ủy quyền thì người có công việc được thực hiện không thể biết hoặc biết mà không phản đối việc thực hiện công việc. Nếu trong quá trình thực hiện có sự phản đối từ bên có công việc được thực hiện thì công việc đó buộc phải chấm dứt và không được xem là thực hiện công việc không có ủy quyền. Cuối cùng, việc thực hiện công việc không có ủy quyền không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. Một người tự nguyện thực hiện công việc của người khác coi đó là bổn phận của mình và phải xuất phát từ người có công việc. Mục đích và nội dung của việc thực hiện công việc là không trái pháp luật và xâm phạm đạo đức xã hội. 1.5 Quy định về “thực hiện công việc không có ủy quyền” của một hệ thống pháp luật nước ngoài. Theo pháp luật Pháp: Điều 1301-1: “Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải thực hiện công việc với tất cả sự chu đáo của một người có hiểu biết hợp lý; phải tiếp tục thực hiện công việc cho đến khi người có công việc được thực hiện hoặc người thừa kế của người này có thể tự thực hiện công việc. Tùy hoàn cảnh, tòa án có thể giảm bớt khoản bồi hoàn mà người có công việc được thực hiện phải chịu, căn cứ vào lỗi hoặc sơ suất của người thực hiện công việc không có ủy quyền”. Điều 1301-2: “Người có công việc được thực hiện một cách hữu ích phải thực hiện các nghĩa vụ đã được giao kết vì lợi ích của mình bởi người thực hiện công việc không có ủy quyền. Người có công việc được thực hiện phải hoàn trả cho người thực hiện công việc không có ủy quyền các chi phí đã được thực hiện vì lợi ích của mình và bồi thường cho người đó các thiệt hại đã gánh chịu do việc thực hiện công việc. Các khoản tiền được người thực hiện công việc không có ủy quyền ứng trước được tính lãi kể từ ngày thanh toán”. Điều 1301-3: “Sự phê chuẩn của người có công việc được thực hiện đối với công việc được thực hiện không có ủy quyền, có giá trị như ủy quyền”. Điều 1301-4: “Trường hợp người thực hiện công việc không có ủy quyền có lợi ích cá nhân khi thực hiện công việc cho người khác thì cũng không loại trừ việc áp dụng các quy định về thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong trường hợp này, trách nhiệm đối với nghĩa vụ được giao kết, chi phí và thiệt hại được phân bổ theo tỷ lệ lợi ích của mỗi người trong công việc chung”. 1.6 Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có ý quyền” trong Bộ luật dân sự 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Theo Điều 574 BLDS 2015: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”. Trong trường hợp trên, ban quản lý dự án B đã tự ý ký kết hợp đồng với nhà thầu C mà không có sự ủy quyền của chủ đầu tư A và chủ đầu tư A cũng không biết về việc này nên có thể kết luận trong trường hợp trên, B đã thực hiện công việc không có ủy quyền và người có công việc được thực hiện là A. Xét hai trường hợp: Thứ nhất, khi nhà thầu C chưa hoàn thành công việc, chủ đầu tư A biết và phản đối. Trong trường hợp này không thỏa mãn các quy định về thực hiện công việc không có ủy quyền nên C không thể yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ. Thứ hai, khi nhà thầu C đã hoàn thành công việc mà chủ đầu tư A vẫn không biết về việc ký kết hợp đồng giữa B và C. Khi đó, C có thể yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ thanh toán dựa trên quy định tại Điều 576 BLDS 2015 về nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được thực hiện.