You are on page 1of 17

Khoa Dân sự - Thương mại – Quốc tế

Lớp Chất lượng cao 45C

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT

NGHĨA VỤ

Bộ môn: Hợp đồng dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Giảng viên: DS – Psg.Ts. Lê Minh Hùng

Nhóm: 04
Thành viên: 

1 Phạm Hồng Vân 2053801014307


2 Lê Mai Phương 2053801011203
3 Trần Thị Thu Thảo 2053801014249
4 Lưu Thuý Vy 2053801014314
5 Bùi Trần Thu Trang 2053801014275
6 Nguyễn Lê Hạnh Nguyên 2053801013105
7 Lê Thanh Phượng Uyên 1953801014269

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 10 năm 2021


VẤN ĐỀ 1: Thực hiện công việc không có uỷ quyền
1.1 Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?

Theo Điều 574 BLDS 2015 : “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc
một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công
việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết
hoặc biết mà không phản đối.”
1.2 Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ?

Người thực hiện công việc không có ủy quyền tự ý thức rằng nếu không có ai
thực hiện công việc này thì người có công việc bị thiệt hại một số lợi ích vật chất nhất
định. Lợi ích này có thể là những lợi ích mà người có công việc được thực hiện không
thu được hoặc lợi ích của họ giảm đáng kể.Từ đó người thực hiện công việc không
có ủy quyền xem đó là bổn phận của mình và phải thực hiện công việc nhằm
mang lại lợi ích cho người có công việc. Một người có thể thực hiện công việc vì lợi
ích của người khác. Nếu giữa hai bên có một hợp đồng ủy quyền thì nghĩa vụ của họ
xuất phát từ hợp đồng. nhưng trong trường hợp giữa họ không có hợp đông ủy quyền
nào, người thực hiện công việc không có nghĩa vụ phải làm nhưng đã thực hiện công
việc một cách tự nguyện, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc. Việc làm này tự
nguyện trên tinh thần tương thân, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong lúc gặp khó khăn
tạm thời nên giữa họ không có mối quan hệ pháp lý nào về công việc được thực hiện
trước đó.
Ví dụ: Nhà bà A có một mảnh vườn và một nông trại gà. Nhưng vì cháu bà bị
ốm nên bà phải lên bệnh viện chăm nom cháu và bà nhờ ông B gần nhà giúp mình
trông chừng mảnh vườn và nông trại đó. Trong lúc bà A đi vắng, ông B đã thu hoạch
số hoa quả chín và chăm sóc đàn gà. Từ đó, phát sinh nghĩa vụ của ông B là thực hiện
công việc phù hợp với khả năng, điều kiện của mình. Phải thực hiện công việc như
công việc của chính mình, phải nói cho bà A về quá trình, kết quả thực hiện công việc
nếu có yêu cầu.
1.3 Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực
hiện công việc không có ủy quyền”.

BLDS 2015 BLDS 2005


Khoản 4 Điều 575: “Trường hợp người Khoản 4 Điều 595: “Trong trường hợp
có công việc được thực hiện chết, nếu người có công việc được thực hiện
là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu chết thì người thực hiện công việc
là pháp nhân thì người thực hiện công không có ủy quyền phải tiếp tục thực
việc không có ủy quyền phải tiếp tục hiện công việc cho đến khi người thừa
thực hiện công việc cho đến khi người kế hoặc người đại diện của người có
thừa kế hoặc người đại diện của người công việc được thực hiện đã tiếp
có công việc được thực hiện đã tiếp nhận.”
nhận.”
Khoản 4 Điều 578: “Người thực hiện Khoản 4 Điều 598: “Người thực hiện
công việc không có ủy quyền chết, nếu công việc không có ủy quyền chết.”
là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu
là pháp nhân.”
Chủ thể người có công việc được thực Chủ thể người có công việc được thực
hiện bao gồm cả cá nhân và pháp nhân. hiện chỉ có cá nhân.
Thực hiện công việc đó vì lợi ích của Hoàn toàn vì lợi ích của người có công
người có công việc được thực hiện. (Vì việc được thực hiện. (Hoàn toàn vì lợi
lợi ích của người có công việc được ích của người có công việc được thực
thực hiện nhưng cũng có thể vì mục hiện, không có mục đích khác)
đích khác tuy nhiên không được làm
trái với lợi ích của người có công việc
được thực hiện và các chủ thể khác).

1.4 Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền" theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Phân tích dựa trên điều 574 BLDS2015 :” Thực hiện công việc không có ủy quyền là
việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện
công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không
biết hoặc biết mà không phản đối.”
1.4.1. Thực hiện công việc không có ủy quyền:
Người thực hiện công việc đã tự nguyện thực hiện công việc dù pháp luật
không quy định và chủ công việc không yêu cầu. Nói cách khác, việc thực hiện công
việc đối với người thực hiện công việc không có ủy quyền hoàn toàn không phải là
nghĩa vụ do các bên thỏa thuận cũng như do pháp luật quy định.
Tuy nhiên, cách hiểu này lại dẫn đến những bất cập nhất định trong thực tiễn
xét xử. Như trường hợp “công việc được thực hiện theo yêu cầu của người thứ ba hay
theo thỏa thuận của người thứ ba hoặc theo luật định” thì chúng ta có được áp dụng
chế định này hay không .Nhiều vụ việc xảy ra trong thực tế như trên thì Tòa án vẫn áp
dụng chế định này để tiến hành xét xử. Như vậy, cách hiểu phù hợp nhất cho điều kiện
này phải là không có nghĩa vụ thực hiện “giữa người thực hiện công việc và người có
công việc được thực hiện” mà không xét đến sự tồn tại nghĩa vụ giữa người thực hiện
với bên thứ ba hay theo luật định (nếu có)

1.4.2. Đối với công việc: “vì lợi ích của người có công việc”.
Theo phân tích ở câu 3, điểm mới giữa BLDS 2015 so với BLDS 2005 (bỏ đi
chữ “hoàn toàn”), đã mở rộng phạm vi đối tượng nhận được lợi ích từ việc “thực hiện
công việc không có thẩm quyền”. Vậy pháp luật dân sự không hạn chế sự lợi ích (nếu
có) của người thực hiện công việc, bên thứ ba hoặc cộng đồng. Tức là, chỉ cần đảm
bảo “khi thực hiện công việc chủ yếu là vì lợi ích của người có công việc, thì hành vi
đó được coi là thực hiện công việc không có uỷ quyền”
Vì thế chỉ cần việc thực hiện công việc này xuất phát từ sự tự nguyện, nhằm
đem lại lợi ích cho người có công việc cần thực hiện, đảm bảo các quy định về nghĩa
vụ thực hiện công việc (quy định tại Điều 575 BLDS 2015), người có công việc được
thực hiện phải trả cho người thực hiện công việc không có ủy quyền một khoản thù
lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi cho mình, trừ trường hợp người
thực hiện công việc không có ủy quyền từ chối. (khoản 1 Điều 576 BLDS 2015)

1.5 Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C
có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định
của chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không?
Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Vì C hoàn thành xong công việc theo đúng nghĩa vụ của mình (ghi nhận tại
Điều 575 BLDS 2015) thì C có quyền yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ thanh toán (theo
quy định tại Điều 576 BLDS 2015). Tuy nhiên các chi phí hợp lý mà C đã bỏ ra trong
khi thực hiện công việc chắc chắn sẽ được hoàn trả mà không cần xét đến kết quả
công việc có đáp ứng nguyện vọng, mong muốn của A hay không (trong điều kiện C
đã làm hết khả năng của mình khi thực hiện công việc này). Thậm chí, A còn có thể
phải thanh toán thù lao cho C nếu việc thực hiện công việc của C được đánh giá là
“chu đáo” và “có lợi” cho A (khoản 2 Điều 576 BLDS 2015)
Cơ sở pháp lý: Từ Điều 574 đến Điều 576 BLDS 2015
Về phía nhà thầu C:
Trong hợp đồng ký kết giữa B và C thì không nêu rõ B đại diện cho A, cũng
như A chưa từng ủy quyền cho B thực hiện giao kết hợp đồng này với C, chưa có sự
đồng ý của A với giao dịch này (dữ liệu không hề đề cập đến việc C đồng ý). Vì thế
mà khi có sự thiết lập hợp đồng xây dựng giữa B và C thì hợp đồng chỉ làm phát sinh
nghĩa vụ giữa B (bên thứ 3) và C, không hề có sự ràng buộc về nghĩa vụ của C đối với
A theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015. Điều này thỏa mãn yếu tố người thực hiện công
việc “không có nghĩa vụ thực hiện công việc”, vì nghĩa vụ phát sinh giữa C (người
thực hiện công việc) với B (bên thứ 3) nếu có, cũng không được tính trong điều kiện
này.
Đồng thời, C thực hiện công việc này một cách tự nguyện không có sự cưỡng
chế nào từ phía A.
Về phía chủ đầu tư A:
A thành lập ra Ban quản lý B để tiến hành xây dựng công trình công cộng.
Nhưng phía A không ủy quyền cho B để ký hợp đồng với nhà thầu C. Như vậy, A
chưa từng yêu cầu C phải thi công xây dựng công trình mà mình mong muốn.
Nếu A không biết về vụ việc này cho đến khi C thực hiện xong công trình, thì
A thỏa mãn điều kiện “không biết” theo quy định tại Điều 574 BLDS 2015. Tuy
nhiên, với vai trò là chủ đầu tư, A hoàn toàn có khả năng biết và phải biết về việc thi
công công trình công cộng của C. Kể cả trong trường hợp đó, việc C có thể xây dựng
xong công trình chính là minh chứng cho điều kiện “biết mà không phản đối” (Điều
576 BLDS 2015). Bởi vì chỉ cần có bất kì phản đối nào từ A thì C đã phải chấm dứt
thực hiện công việc theo quy định tại khoản 1 Điều 578 BLDS 2015.
Về phần công việc mà C đã thực hiện:
Đây là công việc đem lại lợi ích cho A với tư cách là một chủ đầu tư dự án.
Chính vì điểm mới trong BLDS 2015 (bỏ đi chữ “hoàn toàn”) khi quy định về vấn đề
này, dù khi C tiếp tục thực hiện công việc xuất phát một phần từ lợi ích của chính
mình, thì lợi ích lớn nhất khi công việc được hoàn thành vẫn thuộc về A. Khi lợi ích
phần lớn vẫn thuộc về người có công việc ( bên A), thì dù cho người thực hiện công
việc được lợi
một phần (như C được lợi từ hợp đồng với B), điều kiện “vì lợi ích của người có công
việc” (Điều 574 BLDS 2015) vẫn được công nhận.

VẤN ĐỀ 2: Thực hiện nghĩa vụ (thanh toán một khoản tiền)


1.1: Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như
thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Theo mục 1 Chương I trong Thông tư liên tịch 01/TTLT cho phép tính lại giá
trị khoản thanh toán như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-
1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời
điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền
đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo")
tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền
theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải
thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996
hoặc tuy xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây
thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng
hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để
buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ
có lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi
suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả
tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”
 Thông tư này cho phép ta tính lại khoản tiền phải thanh toán tại thời điểm
gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ thông qua tài sản trung gian là gạo.

Câu 2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà
Cô khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào điểm a mục 1 Chương I Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày
19/6/1997. Trong tình huống thứ nhất, thời điểm phát sinh nghĩa vụ giữa ông Qưới và
bà Cô là trước ngày 1/7/1997. Bên cạnh đó, giá gạo trung bình năm 1973 đã tăng trên
20% so với giá gạo trung bình hiện nay (từ 137đ/kg lên 15.000đ/kg) thì quy ra gạo
theo giá gạo trung bình rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm
hiện tại cụ thể là :
Ngày 15/11/1973, ông Qưới nhận tiền thế chân của bà Cô là 50.000đ. Để tính
lại số tiền thế chân trả lại cho bà Cô phải quy đổi 50.000đ ra gạo theo giá gạo trung
bình vào năm 1973 (137đ/ký): 50.000/137 = 365 (kg).
Từ đó, ta tính được số tiền thực tế ông Quới trả cho bà Cô theo giá gạo niêm
yết hiện tại của Sở Tài chính (15.000đ/ký): 365 x 15.000 = 5.475.000 (đ)
Vậy số tiền ông Qưới phải trả cho bà Cô là 5.475.000 đ
Cơ sở pháp lý điểm a khoản 1 Điều 1 của Thông tư 01/TTLT ngày
19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản.

Câu 3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng
chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không?
Vì sao?
Thông tư liên tịch 01/TTLT không điều chỉnh trong việc thanh toán tiền trong
hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
Vì tại tiêu đề của khoản 1 có nói: “1- Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi
thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiên lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền
cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính
thì giải quyết như sau: ...". Vậy, thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền
trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong quyết định số 15/2018/DS-
GĐT, vì nó chỉ áp dụng cho các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền
lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi,
tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính

Câu 4: Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá
trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì,
theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán
cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trong bản án, TAND cấp cao tại Hà Nội có nói rõ: “ Bà Hương phải thanh toán
cho cụ Bảng số tiền còn nợ tương ứng với 1/5 giá trị nhà đất theo định giá tại thời
điểm xét xử sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục
2 phần II nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm
phán TAND tối cao”, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là: 1/5
x 1.697.760.000đ = 339.552.000đ.
Vì ở vụ việc này, Tòa án cấp cao đã xác định khoản tiền nợ bà Hương cần phải
thanh toán cho cụ Bảng không phải là số tiền 1.000.000đ còn thiếu theo thỏa thuận
chuyển nhượng nhà, đất ban đầu – “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm …
xác định khoản tiền 1.000.000 đồng tiền chuyển nhượng nhà, đất mà bà Hương chưa
thanh toán cho cụ Bảng là khoản tiền nợ và buộc bà Hương phải trả số tiền này cùng
lãi suất theo quy định là không đúng và không bảo vệ được quyền lợi của đương sự” –
mà Tòa cấp cao đã giải quyết theo hướng “trường hợp còn thiếu bên mua chưa trả đủ
thì phần còn thiếu (tính theo tỷ lệ % giá trị nhà đất) bên mua phải thanh toán cho bên
bán theo giá thị trường tại địa phương ở thời điểm xét xử sơ thẩm lại” để xác định
khoản tiền nợ bà Hương phải trả là số tiền tương đương với tỷ lệ giá trị chuyển
nhượng đất còn thiếu theo định giá thị trường mà Tòa án cấp sơ thẩm đã làm.

Câu 5: Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?

Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ.

Trước đây, Hội đồng Thẩm phán nhân dân tối cao đã áp dụng tại Quyết định
số 14/2006/DS-GĐT ngày 06-6-2006.

Tóm tắt vụ việc như sau: Ông Son và bà Thìn cho ông Thiết, bà Lới đăng ký
mua kiốt số 29B1 với giá 7.800.000đ và bên mua đã nộp được 4.000.000đ vào năm
1992. Về số tiền còn thiếu, bà Thìn cho 800.000 đồng và cho nợ 3.000.000đ còn lại.
Toà án tối cao xác định thoả thuận của ông Son, bà Thìn bán kiốt số 29B1 cho ông
Thiết và bà Lới là hợp pháp, các bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện các cam kết đã
thỏa thuận. Số tiền còn thiếu, bên mua là ông Thiết, bà Lới phải thanh toán cho bên
bán là ông Son, bà Thìn theo thời giá (kiốt số 29B1 phải được định giá để ông Thiết,
bà Lới thanh toán theo giá mới phần chưa thanh toán theo tỷ lệ tương ứng).

Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trước đây đã
được Hội đồng Thẩm phán nhân dân tối cao áp dụng tại là Quyết định Giám đốc
thẩm số: 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ án tranh chấp nhà đất và đòi
nợ”. 

Cách giải quyết là: “Trường hợp xác định được việc mua bán, chuyển nhượng
nhà đất là hợp pháp và bên mua chưa trả đủ tiền thanh toán thì phần còn thiếu sẽ được
tính thông qua giá trị của tài sản chuyển nhượng tại thị trường địa phương tại thời
điểm xét xử (Quyết định số 09/HĐTP-DS: “[…] Trong trường hợp có đủ căn cứ xác
định việc mua bán chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất là hợp pháp và công
nhận hợp đồng mua bán nhà đất giữa các bên thì phải lấy giá nhà, đất thoả thuận trong
hợp đồng trừ đi số tiền nợ gốc và lãi; trường hợp còn thiếu bên mua chưa trả đủ thì
phần còn thiếu (tính theo tỷ lệ % giá trị nhà đất) bên mua phải thanh toán cho bên bán
theo giá thị trường tại địa phương ở thời điểm xét xử sơ thẩm lại.). Đây chính là nội
dung của tiền lệ cho hướng giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong
Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.

VẤN ĐỀ 3: Chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận


Tóm tắt Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị
xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Bà Tú (nguyên đơn) vay tiền Ngân hàng cho bà Phượng (đồng bị đơn) vay tổng
số tiền 615.000.000 triệu. Mặc dù bà Phượng giới thiệu cho bà Ngọc (đồng bị đơn), bà
Loan và ông Thạnh vay tiền của bà Tú nhưng bà Phượng là người xác lập quan hệ vay
tiền với bà Tú. Ngày 12/05/2005, bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao
nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh bằng việc lập hợp đồng vay tiền
với 3 chủ thể trên. Bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm liên đới cùng với bà
Ngọc trả vốn vay và tiền lãi.
Hướng giải quyết của Tòa án: xác định nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển giao chô bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh nên quan hệ nghĩa vụ giữa bà Tú và
bà Phượng đã chấm dứt. Do đó, Tòa án bác bỏ yêu cầu của bà Tú đòi bà Phượng có
trách nhiệm liên đới với bà Ngọc trả nợ.

3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận
3.1.1. Giống nhau:
- Việc chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ chỉ được áp dụng
đối với các quan hệ nghĩa vụ đang còn hiệu lực.
- Hậu quả pháp lý là làm chấm dứt tư cách chủ thể của bên chuyển giao quyền
yêu cầu hoặc của bên chuyển giao nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ, cụ thể:
+ Người chuyển giao quyền yêu cầu không phải chịu trách nhiệm về khả năng
thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ sau khi chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác. (Điều 367 BLDS 2015)
+ Bên có nghĩa vụ không chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của
người thế nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
+ Đồng thời, việc chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ dân sự ở người được chuyển giao.
+ Không phải trong mọi trường hợp thì sự thỏa thuận chuyển giao quyền hoặc
nghĩa vụ cũng được pháp luật cho phép. (khoản 1 Điều 365 và khoản 1 Điều 370
BLDS 2015).

3.1.2. Khác nhau:

Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ theo


theo thỏa thuận thỏa thuận
Sự đồng ý Bên chuyển quyền không cần Bên có nghĩa vụ phải được
của đối có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ khi bên có quyền đồng ý trước khi
phương về chuyển giao quyền yêu cầu cho bên chuyển giao nghĩa vụ cho bên thứ
việc chuyển thứ ba ba.
giao (khoản 2 Điều 365 BLDS 2015) (khoản 1 Điều 370 BLDS 2015)
Biện pháp Các biện pháp bảo đảm bằng Các biện pháp bảo đảm bằng
bảo đảm tài sản thuộc quyền sở hữu của bên tài sản thuộc quyền sở hữu của bên
có nghĩa vụ vẫn được chuyển giao có nghĩa vụ ban đầu sẽ chấm dứt
cho bên thế quyền. mà không được chuyển giao cho
bên thế nghĩa vụ.
(Điều 368 BLDS 2015) (Điều 371 BLDS 2015)

3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán
cho bà Tú?
Đoạn 3 phần Xét thấy cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thành toán cho bà Tú:
Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người
trực tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và theo
biên nhận ngày 27/4/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền
615.000.000đ. Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa
thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4
năm 2004, do phía bà Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả
vốn vay Ngân hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho
Ngân hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.

3.3.Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn 5 phần Xét thấy cho thấy bà Phượng đã chuyển giao nghĩa vụ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh:
Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm
nghĩa vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có
trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã
lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông
Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú
xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của
bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và
ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng
có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận.

3.4. Suy nghĩ của anh/ chị về đánh giá trên của Tòa án?
Việc Tòa án đánh giá rằng nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là hợp lý và có căn cứ. Bởi lẽ,
Thứ nhất, phía bà Tú đã chấp nhận việc bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh.
Thứ hai, nghĩa vụ của bà Phượng không thuộc trường hợp không được chuyển
giao.
Thứ ba, bà Tú cũng đã lập hợp đồng vay tiền với bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh.
Thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh cũng
chính là thời điểm bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh.
3.5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm
đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Dưới góc độ văn bản, Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về việc chuyển giao
nghĩa vụ dân sự theo thỏa thuận tại Điều 370, Điều 371 BLDS 2015. Tuy nhiên những
quy định này không cho biết rằng liệu người đã chuyển giao nghĩa vụ cho một người
khác có còn trách nhiệm đối với người có quyền trong trường hợp người được chuyển
giao nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ đó hay không.

Tuy Điều 370 BLDS 2015 không nói rõ khi đã chuyển giao nghĩa vụ thì bên có
nghĩa vụ sẽ không còn nghĩa vụ với bên có quyền nữa, nhưng theo tinh thần Điều này
thì có thể hiểu khi đã chuyển giao nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ sẽ không còn nghĩa vụ
với bên có quyền. Vì cũng theo Điều này, việc chuyển giao nghĩa vụ này phải được
bên có quyền đồng ý, thì bên có quyền đã đồng ý cho bên có nghĩa vụ chuyển nghĩa
vụ đó cho người thế nghĩa vụ rồi. Hơn nữa, khoản 2 Điều này cũng nêu rõ: “Khi được
chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”. Như vậy,
bên có nghĩa vụ đã chấm dứt nghĩa vụ, mà nghĩa vụ hiện tại là do bên thế nghĩa vụ
thực hiện.

Ngoại trừ trường hợp bên có nghĩa vụ ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực
hiện nghĩa vụ thì vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền nếu người thứ ba không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo quy định tại Điều 283 Bộ luật Dân
sự 2015.

3.6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị
biết.
Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài, “Người có nghĩa vụ không chịu trách nhiệm
về việc thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác. Việc chuyển giao nghĩa vụ là sự thỏa thuận giữa ba bên: bên có nghĩa vụ,
bên thế nghĩa vụ và bên có quyền. Trên cơ sở sự thỏa thuận, với sự đồng ý của bên có
quyền, người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành người có nghĩa vụ
mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ mối quan
hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người
có quyền chỉ được phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã
chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên
thế nghĩa vụ.”1 Tác giả cũng phân tích thêm trong trường hợp người có nghĩa vụ cam
kết với bên có quyền với nội dung khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ, nếu người thế
nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thì người có
nghĩa vụ ban đầu sẽ thực hiện nghĩa vụ thay người thế nghĩa vụ thì tư cách chủ thể của
người có nghĩa vụ ban đầu được xác định là người bảo lãnh cho việc thực hiện nghĩa
vụ. Trong quan hệ bảo lãnh, người bảo lãnh không phải là một bên trong quan hệ
nghĩa vụ chính.
Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có
trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa chuyển
giao nghĩa vụ với “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do vậy, để
chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự
thông qua người thứ ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có
nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có bên có thoả thuận khác.

3.7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ
ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
1
Đoạn của số 5 trong phần xét thấy của bản án cho thấy Toà án theo hướng người
có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền:
“Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm
nghĩa vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có
trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã
lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông
Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú
xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của
bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và
ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng
có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận.”

3.8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
Không chỉ pháp luật nước ta mà pháp luật nước ngoài cũng xây dựng chế định
tương tự về việc chuyển giao nghĩa vụ, trong đó sự đồng ý của bên có quyền thường là
điều kiện tiên quyết để việc chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận có giá trị pháp lý,
cũng như để bảo đảm quyền lợi của bên có quyền. Ví dụ như sau, cụ thể:
Điều 9.2.3 Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Việc chuyển giao nghĩa vụ theo
thoả thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải có sự đồng
ý của người có quyền”.
Khoản 1 Điều 12:101 Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng quy định: “với sự
đồng ý của người có quyền và người có nghĩa vụ, người thứ ba có thể cam kết thay thế
người có nghĩa vụ”.
Nhưng nếu ta xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan sau khi thực
hiện việc chuyển giao nghĩa vụ thì ta có thể thấy rằng quy định trong các hệ thống luật
tương đối khác nhau. Ở châu Âu, một số nước quy định người có nghĩa vụ ban đầu
được giải phóng hoàn toàn nhưng một số nước lại quy định ngược lại theo hướng
người thứ ba là người có nghĩa vụ bổ sung.
Theo Bộ nguyên tắc Unidroit (Điều 9.2.5): “Người có quyền có thể giải phóng
nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu”. Như vậy, người có quyền có thể giải phóng
hoàn toàn nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu. “Người có quyền cũng có thể
quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là người có nghĩa vụ trong trường hợp
người có nghĩa vụ mới không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình”. Điều đó có nghĩa là
người có quyền có thể lựa chọn một khả năng khác, đó là chấp nhận việc chuyển giao
nghĩa vụ mới, nhưng người có quyền bảo lưu quyền yêu cầu đối với người có nghĩa
vụ ban đầu. Vẫn theo Bộ nguyên tắc Unidroit: “Trong mọi trường hợp khác, người có
nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải liên đới chịu trách nhiệm”. Quy định
tại điều này thể hiện rõ là giải pháp cuối cùng cũng là giải pháp được áp dụng trong
trường hợp người có quyền không có quyền quyết định nào. Nói cách khác, nếu người
có quyền không nêu rõ ý định giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu cũng không
quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải chịu trách
nhiệm liên đới về việc thực hiện nghĩa vụ.
Tuy nhiên, theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng thì việc chuyển giao nghĩa
vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu (Điều 1210): “người có nghĩa vụ ban đầu
không còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ”

3.9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Hướng giải quyết trên của tòa án là hợp lý bởi lẽ:
Thứ nhất, đã có hành vi pháp lý chuyển giao nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận của
bà phượng (bên có nghĩa vụ) cho bên bà ngọc, bà Loan, ông Thạnh (bên thay thế
nghĩa vụ) và có sự đồng ý của bà Tú (bên có quyền). Cụ thể : “Tuy nhiên, phía bà Tú
đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và
ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền
465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào
ngày 12/5/2005.”. Thêm nữa đây là nghĩa vụ về tài sản (không phải nghĩa vụ nhân),
không thuộc trường hợp cấm chuyển giao nghĩa vụ nên theo điều 370 BLDS 20152 thì
nghĩa vụ này đã được chuyển giao cho người thế nghĩa vụ và bà Ngọc, bà Loan, ông
Thạnh sẽ trở thành bên có nghĩa vụ trả nợ cho bà phượng.
Thứ hai, tòa án đã có hướng giải quyết thích đáng về trách nhiệm của bà
phượng sau khi đã chuyển giao nghĩa vụ trả nợ. Tòa án cho rằng : “Như vậy, kể từ
thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa
vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú
yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp
nhận.” và “Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thoả thuận.
Phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại cho bà
Phượng giấy chứng minh Hải quan”. Quan điểm của tòa án ở đây là việc chuyển giao
nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh đã chấm dứt nghĩa vụ trả nợ của

2
Phượng đối với bà Tú, từ đó bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà phượng, đồng thời
phân định rằng : “chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện
nghĩa vụ thông qua người thứ ba”3 trong tình thế pháp luật nước nhà chưa quy định rõ
ràng về vấn đề này.

3.10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện
pháp bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp
bảo lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có thực hiện biện
pháp bảo lãnh của người thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao thì biện pháp sẽ
đương nhiên chấm dứt. Bởi lẽ xét theo điều 292 BLDS 2015 4 thì bảo lãnh được xem là
một loại biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, vì thế xét theo điều 371 BLDS 2015
thì “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo
đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”.

You might also like