You are on page 1of 28

HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG

THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG




Buổi thảo luận thứ nhất: Nghĩa vụ


Lớp: TMQT45B (1)
Khoa: Luật Quốc tế
Nhóm: 2
Danh sách thành viên:
Họ và tên MSSV
Phạm Thị Anh Phương 205380109010094
Trần Duy Đông Phương 205380109010
Đinh Như Diễm Quỳnh 2053801090102
Huỳnh Thanh Thoảng 2053801090109
Phan Ngọc Trúc Thy 2053801090117

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT:


1. BLDS: Bộ luật Dân sự
2. Tlđd: Tài liệu đã dẫn
3. TTLT: Thông tư liên tịch
4. DS – GĐT: Dân sự - Giám đốc thẩm
5. NQ – HĐTP: Nghị quyết – Hội đồng Thẩm phán
6. DSST: Dân sự sơ thẩm
MỤC LỤC
Vấn đề 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN...........................1
1.1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?....................................1
1.2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ? 1
1.3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực
hiện công việc không có ủy quyền"........................................................................2
1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền" theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện...............................................3
1.5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có
thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của
chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì
sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.........................................................................7
Vấn đề 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)........9
2.1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?........................................................................9
2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.....................................9
2.3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?
10
2.4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho
cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?..................................................................11
2.5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)?.....................................................................................12
Vấn đề 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN..........................14
3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?...............................................................14
3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho
bà Tú?.................................................................................................................. 16
3.3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?.............................................17
3.4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?...................................17
3.5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.........................................................18
3.6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị
biết. 19
3.7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?..........................................20
3.8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền...................................................................21
3.9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án........................22
3.10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời..................................23
1

Vấn đề 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN


1.1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?

Trả lời:

- Điều 574 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) quy: “Thực hiện công việc
không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc
nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc
được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”
1.2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?

Trả lời:

- Theo điều 274 định nghĩa nghĩa vụ: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc
nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật,
chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không
được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác
(sau đây gọi chung là bên có quyền)” và điều 574 BLDS 2015 định nghĩa thực
hiện công việc không có ủy quyền: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là
việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực
hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người
này không biết hoặc biết mà không phản đối”.
- Thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa
vụ dân sự giữa người thực hiện công việc với người được thực hiện công việc:
o Điều 576 BLDS 2015 quy định nghĩa vụ thanh toán của người có công
việc được thực hiện. Trong đó, người được thực hiện công việc có nghĩa
vụ thanh toán các chi phí hợp lí mà người thực hiện công việc, đồng thời
phải trả thù lao cho người thực hiện công việc.
o Ngoài ra, thực hiện công việc không có ủy quyền còn làm phát sinh nghĩa
vụ thực hiện và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho chính người thực hiện
công việc. Do tự ý, tự nguyện thực hiện phần việc của người khác, Điều
575, 577 quy định người thực hiện công việc sẽ có những nghĩa vụ đối
với công việc mình thực hiện và cũng như với người có công việc được
thực hiện. Tuy không bắt buộc phải tạo ra kết quả mà đối phương mong
2

muốn nhưng người thực hiện công việc phải cố gắng thực hiện như công
việc của mình, cũng như chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại... để tránh
trường hợp những quy định này bị lợi dụng nhằm mục đích tiêu cực cá
nhân.
1.3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện
công việc không có ủy quyền".

Trả lời:
Chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” ở BLDS 2015 so với BLDS
2005 có hai điểm mới như sau:

- Thứ nhất, BLDS 2015 bỏ đi từ “hoàn toàn” khi quy định về khái niệm “thực
hiện công việc không có ủy quyền”. Điều 594 BLDS 2005 quy định về khái
niệm này như sau: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người
không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc
đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này
không biết hoặc biết mà không phản đối”.
o Ở quy định này có thể hiểu theo hai nghĩa như sau: “Nghĩa thứ nhất là
người thực hiện công việc hoàn toàn không có lợi ích trong công việc mà
họ thực hiện và tất cả phải vì lợi ích của người có công việc được thực
hiện.”1 hay “Nghĩa thứ hai là việc thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi
ích của người có công việc được thực hiện không ngoại trừ khả năng
người tiến hành công việc cũng có lợi ích từ việc thực hiện.”2
o Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp người có công việc được
thực hiện dựa trên từ “hoàn toàn” này để hiểu theo nghĩa thứ nhất. Đây là
cách mà người có công việc chối bỏ nghĩa vụ thanh toán của mình, tạo
nhiều bất cập và thiệt thòi cho người thực hiện công việc trong quá trình
xét xử.
 Việc BLDS 2015 bỏ đi hai chữ “hoàn toàn” để củng cố cho cách hiểu thứ
hai, nhằm đẩy mạnh và bảo đảm quyền lợi cho người thực hiện công việc.
Cùng với đó, điều này cũng tạo cơ sở cho Tòa án xét xử các vụ việc liên

1
Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án
(Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba) (Tập 1), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí
Minh, tr.73-74.
2
Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.74.
3

quan đến “thực hiện công việc không có ủy quyền” một cách linh hoạt hơn,
giảm thiểu các ý kiến trái chiều trong quá trình xét xử.
- Thứ hai, BLDS 2015 phân định rõ đối tượng thực hiện công việc có ủy quyền có
thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Cụ thể, tại khoản 4 Điều 575 quy định về nghĩa
vụ thực hiện công việc không có ủy quyền so với khoản 4 Điều 595 BLDS 2005
và khoản 4 Điều 578 về chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền so với
Điều 598 BLDS 2005, đã có sự xuất hiện của “pháp nhân” bên cạnh “cá nhân”
nhằm làm rõ các đối tượng “người thực hiện nghĩa vụ”. Việc này làm tăng thêm
tính cụ thể, chi tiết của Bộ luật Dân sự, giúp cho quá trình xét xử được diễn ra
thuận lợi, chính xác và nhanh chóng hơn.

Tóm lại, so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã thành công khắc phục điểm hạn chế khi
quy định về thực hiện nghĩa vụ không có ủy quyền. BLDS 2015 đã củng cố bảo vệ
quyền lợi cho người thực hiện công việc, giúp Tòa án có cơ sở giải quyết tranh chấp
một cách hợp lý, đưa pháp luật dân sự Việt Nam phát triển hơn.

1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền"
theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.

Trả lời:
BLDS 2015 không có điều khoản riêng để quy định về điều kiện áp dụng chế định
“thực hiện công việc không có ủy quyền”. Nhưng dựa trên khái niệm được nêu ra ở
Điều 574 BLDS 2015: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người
không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó
vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết
mà không phản đối.” thì có thể suy ra các điều kiện cơ bản như sau:

a. Đối với người thực hiện công việc:


- Người thực hiện công việc không có nghĩa vụ thực hiện công việc : Tạo ra hai
hướng giải thích khác nhau.
o Có quan điểm cho rằng, quy định này nói đến “người hoàn toàn không
có nghĩa vụ phải thực hiện công việc đó nhưng đã thực hiện công việc đó.
Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ do các bên thỏa
thuận”3. Qua nhiều bất cập trong thực tiễn xét xử liên quan đến người thứ
3
Hoàng Thế Liên (Chủ biên) (2008), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005 (Tập 2), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.699.
4

ba đối với quan điểm này, thì cách hiểu phù hợp nhất cho điều kiện trên là
không có nghĩa vụ thực hiện “giữa người thực hiện công việc và người
có công việc được thực hiện”4, mà không xét đến sự tồn tại nghĩa vụ giữa
người thực hiện với bên thứ ba hay theo luật định.
o Ngoài ra, giả sử các trường hợp người thực hiện nghĩa vụ có căn cứ pháp
luật, nhưng không biết về quy định pháp luật đó mà thực hiện vì sự tự
nguyện thì điều kiện “không có nghĩa vụ” này còn được đảm bảo hay
không? Để giải đáp điều này, có ý kiến cho rằng, BLDS 2015 đã có quy
định về bồi thường thiệt hại do tình thế cấp thiết để “tạo cơ chế ràng
buộc người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho thiệt hại mà họ gây ra.” 5
(ở đây là người có công việc được thực hiện với người thực hiện công
việc). Giả sử như không thể chứng minh được yếu tố “tình huống cấp
thiết”, và thực hiện công việc đó vẫn được xem là nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật, thì trong khi tổ chức, thực hiện công việc nếu có tốn kém
chi phí, việc đơn phương tạm ứng tiền riêng của mình để trả chi phí cũng
có thể coi được là thực hiện công việc không có ủy quyền.6
- Thực hiện công việc một cách tự nguyện:
o Một trong những điều kiện cơ bản để xác định có nghĩa vụ phát sinh từ
thực hiện công việc không ủy quyền, là khi một chủ thể thực hiện công
việc của người khác. Xét trong mối quan hệ với hành vi pháp lý đơn
phương, BLDS 2015 không đặt ra yêu cầu về năng lực chủ thể cho người
thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong khi đó, để hành vi pháp lý
đơn phương được pháp luật công nhận thì cần thỏa mãn quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự
phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Vậy nên “ai cũng có thể là
người thực hiện công việc không có ủy quyền”7.

Trích từ: Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.72.


4
Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.73
5
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng (Bình luận án), Lê Minh Hùng, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ
Chí Minh, tr.34-35.
6
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (5), tr.34-35
7
Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.72.
5

o Bên cạnh đó, thực hiện công việc không có ủy quyền lại đòi hỏi sự “tự
nguyện”, như quy định tại điểm b khoản 1 Điều 117 BLDS 2015: “Chủ
thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện”. Điểm cần lưu ý ở
đây là, nếu người thực hiện công việc một cách “ngẫu nhiên, không có
chủ ý, hoặc thiếu tự nguyện (ví dụ do bị ép buộc hay nhầm lẫn)” 8, thì sẽ
không được xem là thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong trường
hợp đó, nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được thực hiện cho
người thực hiện công việc chỉ được phát sinh nếu nhận được lợi ích
(trong trường hợp này được xem là không có căn cứ pháp luật). Đây là
nghĩa vụ hoàn trả theo khoản 2 Điều 579 BLDS 2015: “Người được lợi
về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại
thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại, trừ trường hợp quy
định tại Điều 236 của Bộ luật này.”, khác so với nghĩa vụ thanh toán của
người có công việc được thực hiện không có ủy quyền quy định tại Điều
576 Bộ luật này
b. Đối với người có công việc được thực hiện.
- Không yêu cầu đối phương thực hiện công việc : Giữa người thực hiện công
việc và người có côngviệc được thực hiện “không tồn tại một hợp đồng,
không có ủy quyền”9. Nếu giữa hai bên đã có sự thỏa thuận trước đó, hoặc
có thể hiện sự đồng ý song phương thì “vẫn được xem như có sự tạo lập
hợp đồng”10. Ngoài ra, trong trường hợp ban đầu người có công việc không
ủy quyền cho bên thứ ba nhân danh họ xác lập giao dịch với người được
thực hiện công việc, mà bên thứ ba vẫn xác lập giao dịch, sau đó người có
công việc mới biết và đồng ý, thì không được xem là “thực hiện công việc
không có ủy quyền”. Đây là trường hợp “xác lập giao dịch do không có
quyền đại diện”, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ với người được đại diện (ở
đây là người có công việc được thực hiện) theo khoản 1 Điều 142 BLDS
2015: “Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực
hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện...”
- “Không biết hoặc biết mà không phản đối”:

8
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (5), tr.36.
9
Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.74
10
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (5), tr.38.
6

o Đây là điều kiện được suy ra từ khái niệm ở Điều 574 BLDS 2015. Điều
kiện này tương ứng với khoản 1 Điều 578 quy định về chấm dứt thực
hiện công việc không có ủy quyền: “Theo yêu cầu của người có công
việc được thực hiện.”. Trong trường hợp bị phản đối mà vẫn tiếp tục thực
hiện thì “không thuộc chế độ này” 11. Khi đó, việc cố tình tiếp tục thực
hiện có thể bị xem là hành vi “trái pháp luật”, phải bồi thường thiệt hại
dựa trên quy định tại khoản 7 Điều 8 BLDS 2015: “Bị thiệt hại do hành
vi trái pháp luật”.
o Bên cạnh đó, việc quy định “không phản đối” ở đây không đồng nghĩa
với “đồng ý”, vì không được quy định trong pháp luật dân sự hiện hành.
Cần phân biệt rằng, trong trường hợp xác lập giao dịch do không có
quyền đại diện, luật quy định “người được đại diện biết mà không phản
đối trong thời hạn hợp lý” thì vẫn được xem là “đồng ý”, “tức làm phát
sinh hệ quả pháp lý với hành vi đại diện”12. Như vậy, khác với trường hợp
“thực hiện công việc không có uỷ quyền” (chỉ cần có sự phản đối thì phải
chấm dứt thực hiện); việc phản đối một “giao dịch do không có quyền đại
diện” nhưng quá thời hạn (khi công việc đã được thực hiện gần xong hoặc
xong) thì không được chấp nhận, và kết quả là giao dịch đó vẫn được xem
là có hiệu lực.
c. Đối với công việc:
- “vì lợi ích của người có công việc”: Như đã phân tích ở câu 1.3, điểm mới
khi quy định về vấn đề này giữa BLDS 2015 so với BLDS 2005 (bỏ đi chữ
“hoàn toàn”), đã mở rộng phạm vi đối tượng nhận được lợi ích từ việc
“thực hiện công việc không có thẩm quyền”. Ở đây, pháp luật dân sự không
hạn chế sự lợi ích (nếu có) của người thực hiện công việc, bên thứ ba hoặc
cộng đồng. Nghĩa là, chỉ cần đảm bảo “khi thực hiện công việc chủ yếu là
vì lợi ích của người có công việc, thì hành vi đó được coi là thực hiện công
việc không có uỷ quyền”13.
- Hay, căn cứ xác định có tồn tại yếu tố lợi ích ở đây, không cần là một kết
quả xác định, phù hợp với mong muốn của người có công việc được thực

11
Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.74.
12
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (5), tr.41
13
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), tlđd (5), tr.45
7

hiện. Chỉ cần công việc này được thực hiện xuất phát từ sự tự nguyện,
nhằm đem lại lợi ích cho người có công việc cần thực hiện, đảm bảo các
quy định về nghĩa vụ thực hiện công việc (quy định tại Điều 575 BLDS
2015), thì người có công việc phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình,
kể cả khi “công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình”
(khoản 1 Điều 576 BLDS 2015)
1.5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể
yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của
chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không?
Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trả lời:
Tóm tắt tình huống: Chủ đầu tư công ty A lập Ban quản lý dự án B để tiến
hành xây dựng một công trình công cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng lao
động với nhà thầu C mà không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện cho A và
cũng không có ủy quyền của A. Trong khi đó, theo quy định, B không được tự
ký hợp đồng với C vì là công việc của chủ đầu tư A (thực tế Ban quản lý dự án
B không có nhiều tài sản để thanh toán cho B).
Sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực
hiện những nghĩa vụ trên theo nghĩa vụ thanh toán quy định tại Điều 576 BLDS
2015:
“1. Người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người
thực hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc và thanh toán các
chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra để
thực hiện công việc, kể cả trường hợp công việc không đạt được kết quả theo
ý muốn của mình.
2. Người có công việc được thực hiện phải trả cho người thực hiện công việc
không có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện công việc chu
đáo, có lợi cho mình, trừ trường hợp người thực hiện công việc không có ủy
quyền từ chối”.

- Để chứng minh nghĩa vụ nêu trên của A đối với C, cần xác định việc xây dựng
công trình của C có thuộc trường hợp thực hiện công việc không có ủy quyền
hay không:
8

o Về việc làm của C:

+ Trong hợp đồng ký kết giữa B và C không nêu rõ B đại diện cho A và A chưa
từng ủy quyền cho B thực hiện giao kết hợp đồng này, A cũng chưa từng thể hiện
sự đồng ý của mình với giao dịch này. Vậy, kể cả khi C và B đã cùng nhau thiết lập
hợp đồng xây dựng thì chỉ phát sinh nghĩa vụ giữa B và C, không có sự ràng buộc
đối với A theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 quy định về hậu quả của giao dịch
dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện. Thỏa mãn yếu tố người
thực hiện công việc không có nghĩa vụ thực hiện công việc như đã phân tích ở câu
1.4.
+ C thực hiện công việc này không có sự ép buộc hay cưỡng chế từ phía A.

o Về phía chủ đầu tư A:

+ A thành lập ban quản lý B nhằm mục đích tiến hành xây dựng công trình công
cộng mà không hề ủy quyền cho B để ký hợp đồng với nhà thầu C. Vậy, A chưa
từng yêu cầu C phải thi công xây dựng công trình mà mình mong muốn.
+ Với vai trò là chủ đầu tư thì A hoàn toàn có khả năng biết và phải biết về việc thi
công công trình này. Việc C xây dựng công trình này đã chứng minh cho điều kiện
“biết mà không phản đối” (Điều 574 BLDS 2015). Vì, nếu như có sự phản đối từ
A, C đã phải chấm dứt thực hiện công việc theo quy định tại khoản 1 Điều 578
BLDS 2015 quy định về chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền.

o Về công việc mà C thực hiện:

+ Công việc đã mang đến lợi ích cho A với tư cách là một chủ đầu tư dự án. Nếu C
tiếp tục thực hiện công việc do xuất phát một phần từ lợi ích của mình, thì lợi ích
lớn nhất khi công việc được hoàn thành vẫn thuộc về A. Khi đó, dù cho người thực
hiện công việc được lợi một phần, ở đây C được lợi từ hợp đồng với B, điều kiện
“vì lợi ích của người có công việc” quy định tại Điều 574 BLDS 2015 vẫn được
công nhận.
Suy ra, khi C hoàn thành công việc theo đúng nghĩa vụ của mình thì có quyền yêu
cầu A thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo quy định tại khoản 1 Điều 576 BLDS
2015: “Người có công việc được thực hiện phải … thanh toán các chi phí hợp lý mà
người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc…”
9
10

Vấn đề 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN


TIỀN)
2.1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?

Trả lời: Thông tư thông tư liên tịch của toà án nhân dân tối cao - viện kiểm sát nhân
dân tối cao - bộ tư pháp - bộ tài chính số 01/TTLT ngày 19 tháng 6 năm 1997
hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản cho phép tính lại giá trị khoản tiền
phải thanh toán như sau:

- Trường hợp 1: Theo điểm a, Điều 1, Mục I: “Nếu việc gây thiệt hại hoặc
phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và trong thời gian từ
thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm
mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo
theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo")
tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó
thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ
về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó”.
- Trường hợp 2: Theo điểm b, Điều 1, Mục I: “Nếu việc gây thiệt hại hoặc
phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy ra trước ngày 1-7-
1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát
sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy
có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó
để buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người
có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với số
tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định
tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định
tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác”.
- Việc tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán qua vật trung gian là gạo.
2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
11

Trả lời:
Tóm tắt tình huống: Năm 1973, ông Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế
chân của bà là 50.000đ. Nay ông yêu cầu bà trả nhà, bà đồng ý và yêu cầu ông
trả tiền thế chân (Lưu ý: giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg và giá
gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính TP. HCM là 15.000/kg).
Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ
thể là 5.475.000 đồng. Cơ sở pháp lý:

- Điều 280 BLDS 2015:


1. Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng
địa điểm và phương thức đã thỏa thuận.
2. Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.
- Điểm a, Điều 1, Mục I Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997, cụ thể như sau:
o Phát sinh nghĩa vụ dân sự vào ngày 15/11/1973, ông Quới cho bà Cô
thuê nhà và nhận tiền thế chân của bà Cô, trước ngày 1-7-1996. Và tại
thời điểm ông Quới yêu cầu bà Cô trả lại nhà, giá gạo tăng trên 20%
(từ 137 đồng lên 15.000 đồng).
o Phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán:
Số lượng gạo được quy đổi = 50.000 ÷137 ≈ 365(kg)
Giá bán gạo tại thời điểm trên là 15.000 đồng thì số gạo được quy đổi
=365 ×15.000=5.475.000 (đồng).
2.3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì
sao?

Trả lời:
Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT:
Cụ Ngô Quang Bảng có chuyển nhượng 1 mảnh đất cho vợ chồng bà Mai
Hương và ông Hoàng Văn Thịnh giá 5 triệu. Bà Mai Hương đã thanh toán 4
triệu còn nợ 1 triệu. Sau bà Hương chuyển nhượng tiếp cho vợ chồng ông
Chinh bà Sáu và vẫn chưa thanh toán cho cụ Bảng. Cụ Bảng kiện bà Hương và
Tòa xử bà Hương phải thanh toán 1/5 giá trị mảnh đất chưa thanh toán theo
giá trị tại thời điểm mở phiên tòa.
12

Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp
đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT mà
điều chỉnh nghĩa vụ về tài sản và hiện vật, đồng thời liệt kê những đối tượng là
những nghĩa vụ thanh toán tiền có thể được tính lại trong trường hợp trượt giá như
tiền bồi thường, tiền công, tiền lương, tiền hoàn trả... Tuy nhiên, “... danh sách này
chỉ đưa ra một số nghĩa vụ trả tiền, một số nghĩa vụ trả tiền khác có thể bị ảnh
hưởng về trượt giá nhưng lại không được quy định” 14. Thay vì áp dụng cách điều
chỉnh trong việc thanh toán tiền đối với hợp đồng chuyển nhượng bất động sản
trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT (quy đổi về giá gạo trung bình của địa
phương hoặc trả bằng số tiền mặt do Tòa án xác định, cộng thêm việc trả lãi nếu
bên thực hiện nghĩa vụ có lỗi), Tòa án sẽ đi theo hướng xác định lại nội dung nghĩa
vụ thanh toán của bị đơn thông qua giá trị của tài sản được giao dịch tại thị trường
địa phương.

2.4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì,
theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh
toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?

Trả lời:
Theo mục [3], phần NHẬN ĐỊNH của Toà án trong Quyết định số 15/2018/DS-
GĐT: “Bà Hương phải thanh toán cho cụ
- Bảng số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm
xét xử sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II
Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.”
- Theo điểm b.2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP
ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
“2.1. Đối với tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
xác lập trước ngày 01/7/1980 (ngày Hội đồng Chính phủ nay là Chính phủ
ban hành Quyết định số 201/CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất và
tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước) mà sau ngày

14
Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.349.
13

15/10/1993 mới phát sinh tranh chấp, thì việc giải quyết tranh chấp này như
sau:
b) Trường hợp nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật
nhưng hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật tại
thời điểm giao kết hợp đồng.
[…]
b.2) … Nếu công nhận phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng
giao diện tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc
bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng phần
chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so với diện
tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị
quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm…”
Vậy bà Hương phải trả cho ông Bảng 1.697.760.000đ theo giá trị quyền sử dụng đất
tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

2.5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)?

Trả lời:
Với hướng như trên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. Đó là Quyết
định Giám đốc thẩm số: 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ án tranh chấp nhà
đất và đòi nợ”.
Tóm tắt bản án:

a. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Lai.


b. Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân.
c. Diễn biến:
- Năm 1994, bà Lai cho ông Xuân vay 11.500.000đ (giấy ghi nợ không ghi rõ
ngày tháng năm nhưng hai bên thống nhất thời gian cho vay là năm 1994).
- Ngày 12/02/1996, bà Lai cho ông Xuân vay tiếp 128.954.000đ.
- Ngày 08/8/1996, hai bên thống nhất số tiền nợ tính cả lãi là 188.600.000đ, và
thỏa thuận chuyển nhượng căn nhà số 19 Chu Văn An cho bà Lai với giá
188.600.000đ. Do vợ chồng ông Xuân không thanh toán nợ và không giao
nhà mà vẫn quản lý ngôi nhà nên bà Lai vẫn tính lãi của số tiền
188.600.000đ.
14

- Ngày 05/8/1997, vợ chồng ông Xuân và vợ chồng bà Lai tiếp tục tính cả nợ
gốc và lãi từ 188.600.000đ lên 250.000.000đ; hai bên lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất với giá 250.000.000đ.
- Sau khi lập hợp đồng, bà Lai vẫn tính lãi số tiền 250.000.000đ trong thời
gian 02 tháng thành 6.000.000đ để cộng dồn vào số tiền 44.000.000đ bà Lai
đã cho ông Xuân vay vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ.
d. Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
- Vụ tranh chấp phải giải quyết cả hai quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà
đất.
- Xác minh, thu thập các chứng cứ chứng minh rằng liệu thủ tục làm giấy tờ
mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có theo quy trình pháp luật
quy định hay không.
- Trường hợp xác định được việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất là hợp
pháp và bên mua chưa trả đủ tiền thanh toán thì phần còn thiếu sẽ được tính
thông qua giá trị của tài sản chuyển nhượng tại thị trường địa phương tại thời
điểm xét xử.
15

Vấn đề 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN

3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Trả lời:

a. Giống nhau:
- Có ít nhất ba chủ thể.
- Đều dẫn tới hậu quả pháp lý là làm thay đổi chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ,
theo đó, chấm dứt tư cách chủ thể của chủ thể đã chuyển giao, xác lập tư
cách chủ thể cho người nhận chuyển giao.
- Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/bên có quyền nếu chuyển giao
quyền/chuyển giao nghĩa vụ.
- Không được chuyển giao trong trường hợp hai bên đã thoả thuận không
chuyển giao hoặc pháp luật có quy định về việc không được chuyển giao,
như nghĩa vụ gắn liền với nhân thân, quyền yêu cầu cấp dưỡng, bồi thường
do xâm phạm tới tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín.
- Hậu quả pháp lý là làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao
quyền/nghĩa vụ, làm phát sinh tư cách chủ thể, quyền và nghĩa vụ dân sự ở
người được chuyển giao.
- Sau khi chuyển giao quyền/nghĩa vụ, bên có quyền/nghĩa vụ ban đầu chấm
dứt toàn bộ quan hệ nghĩa vụ với bên có nghĩa vụ/quyền.
- Xuất phát từ sự thoả thuận giữa các bên.
- Chỉ áp dụng đối với các quan hệ nghĩa vụ đang còn hiệu lực.
b. Khác nhau:

Tiêu chí Chuyển giao quyền yêu Chuyển giao nghĩa vụ


cầu (điều 365 – 370 (điều 371, 372 BLDS
BLDS 2015) 2015)
Chủ thể Bên có quyền có quyền Bên có nghĩa vụ có thể
chuyển giao quyền cho chuyển nghĩa vụ cho bên
sang bên thứ ba (người thứ ba (người thế nghĩa
thế quyền) vụ).
Quyền hạn Người chuyển giao quyền Người đã chuyển giao
yêu cầu không phải chịu nghĩa vụ phải chịu trách
trách nhiệm về khả năng nhiệm về khả năng thực
16

thực hiện nghĩa vụ của hiện nghĩa vụ của mình


bên có nghĩa vụ nên việc đối với bên có quyền nên
chuyển giao quyền không để bảo vệ lợi ích của bên
cần có sự đồng ý của bên có quyền, việc chuyển
có nghĩa vụ (khoản 2 giao nghĩa vụ phải được
Điều 365 BLDS). sự đồng ý của bên có
quyền (khoản 1 Điều 370
BLDS).
Phạm vi - Đối với chuyển quyền - Đối với chuyển giao
yêu cầu có các biện pháp nghĩa vụ có biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa bảo đảm thì biện pháp
vụ thì việc chuyển giao bảo đảm sẽ đương nhiên
quyền yêu cầu bao gồm chấm dứt, trừ trường hợp
cả các biện pháp bảo đảm có thỏa thuận khác (Điều
đó (Điều 368 BLDS). 371 BLDS).

- Người chuyển giao - Không quy định về


quyền có nghĩa vụ đối nghĩa vụ của người
với người thế quyền: chuyển giao nghĩa vụ đối
người chuyển giao quyền với người thế nghĩa vụ.
yêu cầu vi phạm nghĩa vụ
cung cấp thông tin và
chuyển giao giấy tờ có
liên quan cho người thế
quyền mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường thiệt hại
(Điều 366 BLDS).
Hiệu lực của biện pháp Trường hợp quyền yêu Biện pháp bảo đảm chấm
bảo đảm cầu thực hiện nghĩa vụ có dứt khi nghĩa vụ có biện
biện pháp bảo đảm thì pháp bảo đảm được
việc chuyển giao yêu cầu chuyển giao, trừ trường
bao gồm cả biện pháp hợp có thỏa thuận khác.
bảo đảm đó.
Hình thức Bằng văn bản và phải Không có quy định bắt
thông báo cho bên có buộc về mặt hình thức.
nghĩa vụ biết về việc
chuyển quyền để tránh
việc bên có nghĩa vụ phải
từ chối việc thực hiện
nghĩa vụ đối với người
thế quyền hay thực hiện
nghĩa vụ bổ sung, trừ
trường hợp có thoả thuận
17

khác. (khoản 2 Điều


365).
Tóm tắt bản án: Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007
Nguyên đơn: Bà Tú
Bị đơn: Bà Phương
Bà Tú cho bà Phương vay tổng số tiền là 615 triệu đồng. Bà Phương đã cho 2
người chị vay lại là bà Loan và bà Ngọc. Năm 2004, do phía bà Loan và bà Tú
không có tiền trả nên cho bà Tú nên bà Phương và bà Tú đã cùng nhau vay
nóng bên ngoài để trả tiền cho Ngân hàng (vì số tiền bà Tú cho bà Phượng vay
là bà vay của Ngân hàng).
Tòa án xét rằng: Vì bà Tú đã chấp nhận cho bà Phương chuyển giao nghĩa vụ
trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan thể hiện ở việc bà Tú lập hợp đồng vay với 2 bà
này nên nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã chấm dứt, chuyển nghĩa vụ sang
cho bà Ngọc và bà Loan.

3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho
bà Tú?
Trả lời: Thông tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú:
“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người
trực tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và
theo biên nhận ngày 27/4/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị
Nhan số tiền 615.000.000đ. Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ
xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai
của bà Phượng thì vào tháng 4 năm 2004, do phía bà Loan, ông Thạnh và bà
Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay ngân hàng nên bà đã cùng với
bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền tả cho ngân hàng. Xác định bà Phượng là
người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.”

3.3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Trả lời: Đoạn của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển
sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là:
18

“Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà
Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền
150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp
đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà
Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan
và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký.”

3.4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
Trả lời:
Đánh giá của Tòa án về nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là hợp lý và hợp pháp vì:

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 370 BLDS 2015 quy định về việc chuyển
giao nghĩa vụ: “bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế
nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý”. Mặc dù BLDS 2015 không quy
định rõ sự đồng ý này được thể hiện theo hình thức nào nhưng theo một số ý
kiến cho rằng sự đồng ý này có thể được thể hiện theo bất kỳ hình thức nào,
không phụ thuộc vào hình thức của thỏa thuận chuyển giao nghĩa vụ giữa
người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa vụ.
- Ngày 12/05/2005, bà Ngọc ký hợp đồng vay với bà Tú vay 465.000.000đ và
tiền lãi theo thoả thuận 1,3%/tháng, thế chấp tài sản là diện tích đất toạ lạc tổ
34, khóm Châu Long 6, phường Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc. Cùng với đó, bà
Tú cũng đã lập hợp đồng vay với vợ chồng bà Loan, ông Thạnh trên vốn vay
150.000.000đ. Do đó, ta thấy rằng bà Tú đã đồng ý việc bà Phượng chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Hạnh.

3.5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Cơ sở pháp lý:

- Điều 283 BLDS 2015 quy định về thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ
ba: “Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho
19

người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm
với bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ”.
- Khoản 2 Điều 370 BLDS 2015 quy định về chuyển giao nghĩa vụ:
“1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu
được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân
của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao
nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có
nghĩa vụ”.

Nhìn từ góc độ văn bản, BLDS 2015 không quy định rõ liệu người có nghĩa vụ ban
đầu có còn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao hay không, mà chỉ quy định là “khi được chuyển
giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”. Để làm rõ thì xét
hai trường hợp như sau:

- Trường hợp 1 - Người có nghĩa vụ ban đầu vẫn còn trách nhiệm đối với
người có quyền: hệ quả pháp lý của trường hợp này sẽ giống như hệ quả của
quy định “khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền
cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách
nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ”. Vậy, quy định chuyển giao nghĩa vụ và quy định thực
hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba sẽ không độc lập với nhau.
- Trường hợp 2 - Người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với
người có quyền: hệ quả pháp lý là sẽ chấm dứt trách nhiệm của người có
nghĩa vụ ban đầu với người có quyền và người thế nghĩa vụ phải chịu trách
nhiệm độc lập trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền. Mặc dù
BLDS hiện hành chưa có quy định rõ về đề này nhưng qua thực tiễn xét xử,
Toà án đã giải phóng cho người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi các bên có thoả
thuận khác. Lí do là vì hai chế định trên vốn đã có nhiều điểm giống nhau. Ví
dụ được bên có quyền đồng ý, do người thứ ba thực hiện nghĩa vụ, đều là sự
thỏa thuận giữa bên có quyền và người thứ ba… Vậy chúng ta có thể ngầm
nhận định người có nghĩa vụ không chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa
20

vụ của người thế nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, dù
pháp luật chưa quy định minh thị.

3.6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị
biết.
Trả lời:
Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa
vụ được chuyển giao, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

a. Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu
vẫn có trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác
nhau giữa chuyển giao nghĩa vụ với “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua
người thứ ba”. Do vậy, để chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với
chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba, cần xác định rõ
chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có bên
có thoả thuận khác.”15
- Tác giả đưa ra những ví dụ cụ thể như hướng giải quyết của Trọng tài trong
vụ việc Công ty Việt Nam và công ty Hồng Kông hay quyết định của Toà án
cấp sơ thẩm trong Bản án số 913/2006/DS-PT ngày 06-09-2006 của Toà án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, tác giả một lần nữa khẳng
định, “khi có chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận thì người có nghĩa vụ
ban đầu không còn trách nhiệm với người có quyền đối với nghĩa vụ hay
phần nghĩa vụ được chuyển giao” thông qua hướng giải quyết của Toà giám
đốc thẩm trong Quyết định số 361/2009/DS-GĐT ngày 13-8-2009 của Toà
dân sự Toà án nhân dân tối cao.
b. Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài, “trên cơ sở thỏa thuận, với sự đồng ý của
bên có quyền, người thứ 3 thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành
người có nghĩa vụ mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ

15
Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án
(Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba) (Tập 1), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí
Minh, tr.73-74).
21

chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc
chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có quyền chỉ được phép yêu cầu
người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao nghĩa vụ
không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa
vụ.”16 Bên cạnh đó, khi đặt hai chế định chuyển giao nghĩa vụ và thực hiện
nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba để so sánh, tác giả nhận định “đối
với việc uỷ quyền, người được uỷ quyền không thể trở thành một bên chủ thể
độc lập trong quan hệ nghĩa vụ chính mà người này chỉ được thực hiện
nghĩa vụ theo sự uỷ quyền của người uỷ quyền, nhân danh người uỷ quyền
và vì lợi ích của người uỷ quyền.”17

3.7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Trả lời:
Đoạn của bản án cho thấy Toà án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiệm đối với người có quyền:
“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và
ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt, làm
phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp
đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán
nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận”;
“Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận.
Phíabà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà
Phượng giấychứng minh Hải quan.”

3.8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có nghĩa
vụ ban đầu và người có quyền.
Trả lời:

16
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Đỗ Văn Đại, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật
gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.64.
17
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), tlđd (16), tr.64.
22

- Ở châu Âu, một số nước quy định người có nghĩa vụ ban đầu được giải
phóng hoàn toàn nhưng một số nước lại quy định ngược lại theo hướng
người thứ ba là người có nghĩa vụ bổ sung.
- Theo Bộ nguyên tắc Unidroit (Điều 9.2.5) 3: “Người có quyền có thể giải
phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu”. Vậy, người có quyền có thể
giải phóng hoàn toàn nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu. “Người có
quyền cũng có thể quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là người có
nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới không thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình”. Điều đó có nghĩa là người có quyền có thể lựa chọn một
khả năng khác đó là chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ của người có nghĩa
vụ ban đầu cho người có nghĩa vụ mới, nhưng người có quyền bảo lưu quyền
yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu.
- Ngoài ra, Bộ nguyên tắc quy định: “Trong trường hợp khác, người có nghĩa
vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải liên đới chịu trách nhiệm”. Quy
tại điều này thể hiện rõ là giải pháp cuối cùng cũng là giải pháp được áp
dụng trong trường hợp người có quyền không có quyết định nào. Nói cách
khác, nếu người có quyền không nêu rõ ý định giải phóng người có nghĩa vụ
ban đầu cũng không quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn còn trách
nhiệm thực hiện, thì người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới
phải có trách nhiệm liên đới về việc thực hiện nghĩa vụ.
- Tuy nhiên theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng 4 thì việc chuyển giao
nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu quy định tại Điều 12:101:
“Người có nghĩa vụ ban đầu không còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của
họ”.

3.9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Trả lời: Hướng xét xử của Tòa án là hợp lý vì:

- Thứ nhất, căn cứ Khoản 1 Điều 370 BLDS 2015 quy định: “khi chuyển giao
nghĩa vụ phải có sự đồng ý của bên có quyền”, đồng nghĩa với việc người có
quyền phải xét đến điều kiện, khả năng thực hiện nghĩa vụ của người thế
nghĩa vụ để bảo đảm quyền lợi của mình. Vì lẽ đó, xem xét giải phóng hoàn
toàn cho người chuyển giao nghĩa vụ là có căn cứ. Nghĩa vụ trả nợ của bà
Phượng (bên có nghĩa vụ) đã được chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và
23

ông Thạnh (bên thế nghĩa vụ) và có sự chấp thuận của bà Tú (bên có quyền).
Cụ thể là “Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ
trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập
hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan,
ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005”. Như vậy “khi
được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa
vụ”. Vì lẽ đó, xem xét giải phóng hoàn toàn cho người chuyển giao nghĩa vụ
là có căn cứ.
- Thứ hai, nếu như không giải phóng hoàn toàn người có nghĩa vụ ban đầu thì
chế định này sẽ không tìm thấy sự khác nhau với chế định ủy quyền (thực
hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba). Do vậy, để chuyển giao nghĩa
vụ là một chế định độc lập, nên xác định rõ việc giải phóng hay không với
người có nghĩa vụ ban đầu. Điều này không chỉ có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi
cho bà Phượng, mà còn thể hiện cách giải quyết hợp lý của Toà án khi phân
định “chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện
nghĩa vụ thông qua người thứ ba” trong tình thế pháp luật nước nhà chưa
quy định rõ ràng về vấn đề này.

3.10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh
có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người
thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh sẽ chấm dứt căn cứ
theo quy định tại Điều 371 BLDS 2015 về chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo
đảm: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp
bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Tuy nhiên, ngành luật
dân sự với phương pháp điều chỉnh đặc thù là tôn trọng quyền tự định đoạt, tự do ý
chí của các bên chủ thể, nên nếu các bên có thoả thuận khác thì phải thực hiện theo
thoả thuận đó.
24

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Danh mục văn bản pháp luật:


- Bộ luật Dân sự 2005
- Bộ luật Dân sự 2015
- Thông tư liên tịch 01/TTLT của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát
nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính Hướng dẫn việc xét xử và thi
hành án về tài sản.
- Bộ nguyên tắc Unidroit
- Bộ nguyên tắc luật hợp đồng châu Âu (PECL)
2. Danh mục tài liệu tham khảo:
- Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam
– Bản án và Bình luận bản án (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba) (Tập
1), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật
về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1, có
sửa đổi và bổ sung), Đỗ Văn Đại, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam,
TP. Hồ Chí Minh.
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Sách tình huống Pháp
luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Bình luận án), Lê
Minh Hùng, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.

You might also like