You are on page 1of 13

VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN

Tóm tắt Bản án số: 94/2021/DS-PT về “V/v tranh chấp đòi lại tài sản” của Tòa án
nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
Bản án 94/2021/DS-PT với nguyên đơn là bà V và bị đơn là ông H. Bà V đã trả
thay tiền vay của ông H. Trong lúc vay, ông H và bà Đ trong thời gian chung sống như
vợ chồng. Do đó, ông H và bà Đ đều đồng ý có trách nhiệm trả lại tiền cho nguyên đơn.
Tòa án xác định việc nguyên đơn tự nguyện thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bị đơn
nhưng không có sự đồng ý hoặc ủy quyền, nhưng mục đích là nhằm không để quỹ
TDTW xử lý tài sản thế chấp, vì lợi ích của các bị đơn và cũng thông báo cho bị đơn và
bị đơn không phản đối. Nên xác định nguyên đơn thực hiện công việc không có ủy
quyền. Đồng thời, các bị đơn thanh toán tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền từ thời
điểm nguyên đơn yêu cầu các bị đơn thanh toán.
1.1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Điều 574 BLDS 2015 nêu khái niệm về thực hiện công việc không có ủy quyền
như sau: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ
thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”.
1.2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?
Cơ sở pháp lý: Điều 274, khoản 3 Điều 275 BLDS 2015.
Điều 274 BLDS 2015 quy định: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ
thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả
tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất
định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”.
Có thể thấy, bản chất của quá trình thực hiện công việc không có ủy quyền cũng là
việc một bên tự nguyện thực hiện công việc của người khác, vì lợi ích của người đó, ý
thức rằng nếu không có ai thực hiện công việc này thì người có công việc bị thiệt hại một
số lợi ích vật chất nhất định. Mục đích cuối cùng của hành vi này là nhằm mang lại lợi
ích cho người có công việc. Như vậy, quá trình này đương nhiên là căn cứ để phát sinh
nghĩa vụ cho cả hai bên.
Trong trường hợp này, xuất phát từ yếu tố chủ động và tự nguyện khi thực hiện
công việc, pháp luật không buộc người thực hiện tạo ra lợi ích thực tế, nhưng buộc người
có công việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền thù lao, thanh toán các chi phí hợp lý mà người
thực hiện công việc đã bỏ ra, ngay cả khi kết quả công việc được thực hiện đó không như
ý muốn (theo Điều 576 BLDS 2015).
Bên cạnh đó, thực hiện công việc không có ủy quyền còn làm phát sinh nghĩa vụ
thực hiện và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho chính người thực hiện công việc. Bằng
việc tự ý, tự nguyện thực hiện phần việc của người khác, người thực hiện công việc sẽ có
những nghĩa vụ nhất định đối với chính công việc mình thực hiện, cũng như với người có
công việc được thực hiện (theo Điều 575, 577 BLDS 2015). Tuy không bắt buộc phải tạo
ra kết quả mà đối phương mong muốn đạt được, bản thân người thực hiện công việc phải
cố gắng thực hiện tốt nhất có thể, cũng như chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, v.v. để
tránh trường hợp những quy định này bị lợi dụng nhằm mục đích tiêu cực riêng.
1.3. Cho biết điểm mới BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện công việc
không có ủy quyền”.
Chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” ở BLDS 2015 so với BLDS
năm 2005 (BLDS 2005) có hai điểm mới nổi bật như sau:
Thứ nhất, BLDS 2015 đã bỏ đi từ “hoàn toàn” khi quy định về khái niệm “thực hiện
công việc không có ủy quyền”. BLDS 2005 yêu cầu công việc được thực hiện phải “hoàn
toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện” (Điều 594 BLDS 2005). Cách quy
định này có thể được hiểu theo hai nghĩa: “Nghĩa thứ nhất là người thực hiện công việc
hoàn toàn không có lợi ích trong công việc mà họ thực hiện và tất cả phải vì lợi ích của
người có công việc được thực hiện” hoặc “Nghĩa thứ hai là việc thực hiện công việc hoàn
toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện không ngoại trừ khả năng người
tiến hành công việc cũng có lợi ích từ việc thực hiện”.
Trong thực tiễn xét xử, đã có nhiều trường hợp người có công việc được thực hiện
dựa vào hai chữ “hoàn toàn” này để lý giải theo nghĩa thứ nhất, đưa ra cơ sở rằng việc
thực hiện không có ủy quyền đó vẫn có yếu tố vì lợi ích của người thực hiện công việc.
Đây là cách giúp người có công việc chối bỏ nghĩa vụ thanh toán của mình, tạo nên bất
cập lẫn thiệt thòi cho người thực hiện công việc trong quá trình xét xử.
Chính vì vậy, việc BLDS 2015 bỏ đi hai chữ “hoàn toàn” là để củng cố cho cách
hiểu thứ hai, nhằm tăng cường bảo đảm quyền lợi cho người thực hiện công việc. Đồng
thời, đây cũng là cơ sở để Tòa án linh hoạt hơn trong việc xét xử các vụ việc liên quan
đến “thực hiện công việc không có ủy quyền”, hạn chế tranh cãi, nhập nhằng trong quá
trình xét xử.
Thứ hai, BLDS 2015 đã phân định rõ đối tượng thực hiện công việc không có ủy
quyền có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Tại khoản 4 Điều 575 quy định về “nghĩa vụ
thực hiện công việc không có ủy quyền” (Điều 595 BLDS 2005) và khoản 4 Điều 578 về
“chấm dứt thực hiện nghĩa vụ” (Điều 598 BLDS 2005), với sự xuất hiện của “cá nhân” và
“pháp nhân” (làm rõ các đối tượng “người thực hiện nghĩa vụ”). Việc bổ sung này góp
phần tăng thêm tính cụ thể, chi tiết của BLDS, giúp cho quá trình xét xử được diễn ra
thuận lợi, chính xác và nhanh chóng hơn.
Như vậy, tuy không có nhiều điểm mới so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã thành
công khắc phục điểm hạn chế (lỗ hổng) khi quy định về chế định “thực hiện nghĩa vụ
không có ủy quyền”. Từ đó, BLDS 2015 đã củng cố bảo vệ quyền lợi cho người thực
hiện công việc, giúp Tòa án có cơ sở giải quyết tranh chấp một cách hợp lý, đưa pháp luật
Dân sự Việt Nam phát triển bắt kịp xu hướng với luật pháp các nước tiến bộ trên thế giới.
1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” theo
BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Để xác định việc thực hiện công việc không có uỷ quyền thì phải bao gồm đầy đủ
các điều kiện sau đây:
 Thứ nhất, người thực hiện công việc không có uỷ quyền là người không có nghĩa
vụ phải thực hiện công việc đó nhưng đã thực hiện công việc đó. Nghĩa vụ ở đây
là nghĩa vụ pháp lý do luật định hoặc do các bên thoả thuận.
 Thứ hai, việc thực hiện công việc đó phải vì lợi ích của người có công việc, trên
cơ sở yêu cầu này chúng ta chỉ được áp dụng chế định khi người thực hiện công
việc tiến hành công việc này vì lợi ích của người có công việc được thực hiện.
 Thứ ba, người có công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà không phản
đối việc thực hiện đó. Nếu người có công việc phản đối mà bên kia vẫn tiếp tục
thực hiện thì không thuộc chế định này.
 Thứ tư, người thực hiện công việc đã tự nguyện thực hiện công việc dù pháp luật
không quy định và chủ công việc không yêu cầu, bởi việc thực hiện công việc này
mang tính tương trợ nghĩa hiệp giữa người với người không cần đền đáp, nhưng
chiếu theo lẽ công bằng thì người chủ có lẽ sẽ có đền đáp trên tinh thần vui vẻ
hàng xóm, con người với con người.
 Thứ năm, thực hiện công việc gây ra hao tổn công sức, tốn kém chi phí: khi thực
hiện công việc gây tốn kém chi phí và công sức mang lại lợi ích cho người có
công việc được thực hiện, thì bên chủ công việc nên thanh toán chi phí và công
sức mà người thực hiện công việc không uỷ quyền đã bỏ ra trên tinh thần dân sự
hoặc theo đúng quy định của pháp luật.
1.5. Trong Bản án nêu trên, Tòa án áp dụng quy định về “thực hiện công việc không có
ủy quyền” có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Toà án áp dụng quy định về “thực hiện công việc không có uỷ quyền” đối với
bản án nêu trên là thuyết phục căn cứ theo Điều 574 BLDS 2015. Vì mặc dù số tiền trên
nguyên đơn không có nghĩa vụ trả nợ, lại tự nguyện thực hiện trả nợ thay cho các bị đơn,
không có sự đồng ý hoặc ủy quyền của các bị đơn, nhưng việc nguyên đơn thực hiện việc
trả nợ thay cho các bị đơn là nhằm không để Quỹ TDTW chi nhánh Sóc Trăng xử lý tài
sản thế chấp là nguyên đơn thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của các bị đơn, sau
khi thực hiện nguyên đơn cũng báo cho bị đơn biết và bị đơn không phản đối. Do đó, Tòa
án cấp sơ thẩm nhận định việc nguyên đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho các bị đơn
vào ngày 21/5/2009 là nguyên đơn thực hiện công việc không có ủy quyền là có căn cứ.
1.6. Việc Tòa án tính lãi đối với nghĩa vụ trả tiền như trong Bản án có thuyết phục
không? Vì sao?
Việc Toà án tính lãi đối với nghĩa vụ trả tiền như trong Bản án là thuyết phục căn cứ
theo quy định tại khoản 1 Điều 357 BLDS 2015. Vì khi nguyên đơn có yêu cầu các bị
đơn thực hiện nghĩa vụ trả lại tiền mà các bị đơn không thực hiện hoặc chậm thực hiện
hay khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm mà nguyên đơn khởi kiện thì phát sinh
lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền, nên các bị đơn có trách nhiệm trả lãi đối với số
tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 357, khoản 2 Điều 468 BLDS 2015.
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN
TIỀN)
Tóm tắt Quyết định số: 15/2018/DS-GĐT về “V/v tranh chấp nghĩa vụ trả tiền
trong hợp đồng chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất” của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội.
Nguyên đơn Cụ Bảng và bị đơn bà Hương có thực hiện một giao dịch dân sự.
Cụ Bảng chuyển nhượng nhà và đất cho vợ chồng bà Hương, vợ chồng bà phải trả
cho cụ 5 triệu đồng, tuy nhiên, bà Hương mới chỉ trả cho cụ Bảng 4 triệu đồng, còn
nợ 1 triệu đồng tương đương 1/5 giá trị thửa đất chưa thanh toán. Sau nhiều lần yêu
cầu nhưng không trả, cụ Bảng khởi kiện yêu cầu bà Hương trả số tiền còn thiếu,
hoặc nếu không bà phải trả lại 1/5 diện tích đất chưa thanh toán. Tại phiên tòa giám
đốc thẩm xác định 1 triệu đồng tiền chuyển nhượng nhà, đất mà bà Hương chưa
thanh toán cho cụ Bảng là nợ và buộc bà Hương trả số tiền này và lãi suất theo quy
định như Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm giải quyết là không không đúng và
yêu cầu xét xử sơ thẩm lại.
2.1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào?
Qua trung gian là tài sản gì?
Theo Thông tư liên tịch số 01/TTLT của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành
án về tài sản quy định về trường hợp đối tượng của nghĩa vụ tài sản là các khoản
tiền, vàng thì giá trị khoản tiền phải thanh toán được tính lại như sau:
“1. Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền
công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng,
tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính
thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước
ngày 01-7-1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát
sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở
lên, thì Tòa án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá loại trung bình ở
địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là “giá gạo”) tại thời điểm gây thiệt hại
hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo
tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải
thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 01-7-
1996 hoặc tuy xảy ra trước ngày 01-7-1996, nhưng trong khoảng thời
gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét
xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới
20% thì Tòa án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ
phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì
ngoài khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi
suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời
gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2
Điều 313 BLDS 2015, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật
có quy định khác.
2. Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử
Tòa án chỉ quyết định mức tiền cụ thể mà không áp dụng cách tính đã
hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.
3. Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá
trị của các khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do
Ngân hàng Nhà nước quy định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp
Tòa án đều không phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định
ràng buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã
vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao dịch cho đến khi thi
hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy
định.
4. Đối với các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ
hạn) ở ngoài tổ chức Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền
đó cũng đã được đảm bảo thông qua việc chịu lãi của bên vay tài sản,
cho nên trong mọi trường hợp tòa án đều không phải quy đổi số tiền đó
ra gạo, mà chỉ buộc người vay phải trả số tiền nợ gốc chưa trả cùng với
số tiền lãi chưa trả.
5. Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, thì lãi suất
chỉ được chấp nhận khi Ngân hàng Nhà nước có quy định và cách tính lãi
suất không phân biệt như các trường hợp đã nêu tại khoản 4 trên đây, mà
chỉ tính bằng mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định”.
Theo đó, ta nhận thấy rằng trong Thông tư việc tính lại khoản tiền phải thanh
toán được quy định tại khoản 2, 3, 4 và 5 đều được quy định bằng mức tiền cụ thể
hoặc được đảm bảo bằng mức lãi suất Ngân hàng nên không phải thanh toán thông
qua một trung gian như khoản 1. Bên cạnh đó khoản 2, 3, 4 và 5 đều đã thể hiện
đúng như tinh thần của khoản 2 Điều 280 BLDS năm 2015 về “Thực hiện nghĩa vụ
trả tiền” như sau: “Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác”. Đối với khoản 1 thì việc tính lại giá trị khoản tiền được thực
hiện thông qua trung gian là “gạo”, nghĩa là khoản tiền đó sẽ được quy đổi ra gạo
theo giá gạo loại trung bình (giá gạo) tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh
nghĩa vụ, sau đó tính số lượng gạo đó thành tiền tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền
cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong tình huống này, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ
thể là 5.475.000 đồng.
Căn cứ vào Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và
thi hành án về tài sản:
 Thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa ông Quới và bà Cô trước ngày
1/7/1997. Trong thời gian gây ra thiệt hại và phát sinh nghĩa vụ đến thời
điểm xét xử sơ thẩm giá gạo đã tăng quá 20%.
 Quy đổi khoản tiền thế chân 50.000 đồng ra gạo với giá trị tại thời điểm phát
sinh nghĩa vụ: 50.000 : 137 = 365 kg.
 Giá gạo trung bình hiện nay là 15.000 đồng/kg nên số tiền ông Quới phải trả
cho bà Cô là: 365 x 15.000 = 5.475.000 đồng.
2.3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?
Thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT. Thông tư trên
điều chỉnh đối tượng là nghĩa vụ về tài sản là các khoản tiền, vàng (là các khoản
tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù
công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do
thu lợi bất chính) và nghĩa vụ tài sản là hiện vật, chứ không điều chỉnh việc thanh
toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định trên.
2.4. Đối với tình huống trong quyết định số 15/2018.DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.769.000đ như tòa sơ thẩm thì theo tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu?
Vì sao?
Tại phần nhận định [3] của tòa án: “Như vậy bà Hương mới thanh toán được
4/5 giá trị chuyển nhượng nhà đất cho cụ Bảng, số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá
trị nhà đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới đúng theo hướng dẫn tại
điểm b2 mục 2.1, mục 2 phần II theo nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán nhân dân tối cao”.
Vậy số tiền bà Hường phải thanh toán là 1.697.760.000đ * 1/5 =
339.552.000đ.
2.5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu
một tiền lệ (nếu có).
Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội đã có tiền lệ giải quyết.
Tóm tắt Quyết định số 741/2011/DS-GĐT ngày 26-9-2011 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao1 như sau:
Ông Hoanh với ông An có ký hợp đồng chuyển nhượng đất tuy nhiên ông An
đã không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán; nhưng ông An đã nhận đất và được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông An đã bán thửa đất mà ông nhận
chuyển nhượng của ông Hoanh. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc
thẩm buộc các bên tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất là có căn cứ.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông An đã vi phạm hợp đồng, không thực hiện
nghĩa vụ trả tiền nhận chuyển nhượng đất đúng thời hạn. Do đó, ông An phải thanh
toán cho ông Hoanh số tiền nhận chuyển nhận đất còn thiếu theo giá thị trường tại
thời điểm xét xử sơ thẩm.

1
Đỗ Văn Đại, Luật Nghĩa vụ và đảm bảo thực hiện nghĩa vụ - Bản án và Bình luận bản án,
Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ ba), Bản án số 54.
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN
Tóm tắt Bản án số: 148/2007/DSST về “V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản” của
Tòa án nhân dân thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Ngày 27/4/2004, bà Phượng có xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú, bà Tú vay tiền
ngân hàng cho bà Phượng vay với tổng số tiền 615.000.000 đồng, lãi suất 1,8%/tháng.
Vào tháng 4/2005, bà Tú giảm lãi suất xuống còn 1,3%/tháng. Đến tháng 5/2005 thì các
bên vay không trả lãi như đã thỏa thuận. Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng và bà Tú,
bà Phượng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn. Tuy nhiên, phía bà Tú
đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay 465.000.000 đồng và bà Loan,
ông Thạnh vay 150.000.000 đồng vào ngày 12/5/2005. Vậy nên kể từ thời điểm bà Tú lập
hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng
và bà Tú đã chấm dứt. Nhưng đối với hợp đồng giữa bà Ngọc và bà Tú, phía bà Ngọc đã
vi phạm nghĩa vụ không trả tiền lãi và vốn vay nên việc bà Tú khởi kiện là có căn cứ.
Cuối cùng, Tòa tuyên buộc bà Ngọc có trách nhiệm trả cho bà Tú số tiền 651.981.000
đồng.
3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao
nghĩa vụ theo thỏa thuận?
*Giống nhau:
- Đều là quan hệ nghĩa vụ dân sự, có sự tham gia của người thứ ba (hoặc người thế quyền hoặc
người thế nghĩa vụ) và chỉ được áp dụng đối với quan hệ nghĩa vụ dân sự đang còn hiệu lực.
- Hình thức thực hiện: bằng văn bản hoặc bằng lời nói, trừ trường hợp pháp luật có quy định việc
chuyển giao phải được lập thành văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký,
xin phép thì mới tuân thủ thực hiện theo quy định đó, ví dụ: Điều 310, 316 BLDS 2015;
- Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/bên có quyền nếu chuyển giao quyền/chuyển giao
nghĩa vụ;
- Không được chuyển giao trong trường hợp hai bên đã thỏa thuận không chuyển giao hoặc pháp
luật có quy định không được chuyển giao, chẳng hạn như nghĩa vụ gắn liền với nhân thân, quyền
yêu cầu cấp dưỡng, bồi dưỡng do xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm, uy
tín;
- Hệ quả pháp lí: làm chấm dứt tư cách chủ thể của người cuyển giao quyền/chuyển giao nghĩa
vụ, làm phát sinh tư cách chủ thể, quyền hoặc nghĩa vụ dân sự ở người được chuyển giao;
- Sau khi chuyển giao quyền/nghĩa vụ, bên có quyền/nghĩa vụ ban đầu chấm dứt toàn bộ quan hệ
nghĩa vụ dân sự với bên có nghĩa vụ/quyền.
*Khác nhau
Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ theo
theo thỏa thuận thỏa thuận
Đối tượng chuyển giao Bên có quyền có thể chuyển Bên có nghĩa vụ có thể
giao quyền cho bên thứ ba chuyển giao nghĩa vụ cho bên
(người thế quyền). thứ ba (người thế nghĩa vụ).
Nguyên tắc Người chuyển giao quyền yêu Người chuyển giao nghĩa vụ
cầu không phải chịu trách phải chịu trách nhiệm về khả
nhiệm về khả năng thực hiện năng thực hiện nghĩa vụ của
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ mình đối với bên có quyền
nên việc chuyển giao quyền nên để bảo vệ lợi ích của bên
không cần có sự đồng ý của có quyền, việc chuyển giao
bên có nghĩa vụ. phải được sự đồng ý của bên
CSPL: khoản 2 Điều 365 có quyền.
BLDS 2015 CSPL: khoản 1 Điều 370
BLDS 2015
Hiệu lực của biện pháp bảo Việc chuyển giao quyền yêu Việc chuyển giao nghĩa vụ có
đảm cầu có các biện pháp bảo đảm biện pháp bảo đảm thì biện
thực hiện nghĩa vụ nên pháp bảo đảm đương nhiên sẽ
chuyển giao quyền yêu cầu chấm dứt, trừ trường hợp có
bao gồm cả các biện pháp bảo thỏa thuận khác (CSPL: Điều
đảm đó (CSPL: Điều 368 371 BLDS 2015).
BLDS 2015). Không quy định về nghĩa vụ
Người chuyển giao quyền có của người chuyển giao nghĩa
nghĩa vụ đối với người thế vụ đối với người thế nghĩa
quyền trong việc cung cấp vụ.
thông tin và chuyển giao giấy
tờ (CSPL: Điều 366 BLDS
2015).

3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú?
Theo lời khai của bà Tú thì chính bà Phượng yêu cầu cho bà Phượng vay tiền để
kinh doanh cá khô xuất khẩu. Bà Phượng có làm đơn nhận tiền với bà Tú.
“Theo các biên nhận do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực tiếp
nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và theo biên nhận ngày
27/4/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền 615.000.000đ. Phía bà
Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền với bà Tú.
Ngoài ra cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 04 năm 2004. Do phía bà Loan,
ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay Ngân hàng nên bà đã
cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho ngân hàng. Xác định bà Phượng là
người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú”.
Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa
vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú.
3.3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Ở đoạn thứ 5 của phần xét xử của TAND Thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang ghi nhận
như sau: “Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng và bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm
nghĩa vụ thanh toán nợ vay mà không trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có
trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển nghĩa
vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thế qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà
Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho và Loan, ông Thạnh vay số tiền
150.000.000đ vào ngày 12/05/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà tú xác lập hợp đồng vay
với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng với bà tú đã chấm
dứt, làm phát sinh nghĩa vụ với bà Ngọc, bà Loan, và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp
đồng vay tiền đã ký”.
Suy ra từ thời điểm bà Tú chấp nhận cho bà Phượng chuyển nhượng thì đã làm
chấm dứt quan hệ nghĩa vụ với bà Phượng (bà Phượng chấm dứt thanh toán nợ cho bà
Tú) và làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ với ba người còn lại.
3.4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
Theo quan điểm cá nhân thì quyết định, đánh giá trên của tòa án cũng hoàn toàn hợp
lý, bởi vì:
 Điều 370 BLDS năm 2015 có quy định về việc chuyển giao nghĩa vụ cho người
khác và cần có sự đồng ý của bên có quyền. Cụ thể tại trường hợp này Tòa án xác
định nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển giao sang cho bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Phía của
bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà Loan, ông Thạnh
và bà Ngọc, thông qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền
465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào
ngày 12/5/2005. Ngoài ra BLDS năm 2015 cũng không quy định về hình thức
chuyển giao do đó việc bà Tú giao kết hai hợp đồng ngày 12/05/2005 có hiệu lực
pháp lý dẫn đến người có nghĩa vụ trả nợ ban đầu là bà Phượng sẽ được giải
phóng, không phải chịu trách nhiệm phát sinh trong hợp đồng cũ. Thay vào đó bà
Ngọc và bà Loan, ông Thạnh sẽ trở thành người thay thế nghĩa vụ, có trách nhiệm
trả số nợ còn lại cho bà Tú.
 Việc chuyển giao nghĩa vụ trên cũng hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của đôi bên
và được các bên đồng ý, cụ thể bà Phượng là trung gian vay tiền bà Tú và cho
những người khác mượn và bà Tú cũng có nhận của bà Phượng tài sản thế chấp là
quyền sử dụng đất.
3.5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển
giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
CSPL: Điều 370 BLDS 2015
Nhìn từ góc độ văn bản, BLDS 2015 có quy định về vấn đề chuyển giao nghĩa vụ
dân sự theo thỏa thuận - Điều 370 BLDS 2015 quy định:
“1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được
bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ
hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa
vụ.”
Thông thường, nghĩa vụ xuất hiện giữa hai loại chủ thể, một là chủ thể quyền, hai là
chủ thể có nghĩa vụ. Song song với chuyển giao quyền, nghĩa vụ cũng có thể được
chuyển giao từ người này sang người khác. Sự thay đổi này có thể được hình thành theo
quy định của pháp luật, cũng có thể được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận.
Theo BLDS, khi chuyển giao nghĩa vụ được chấp nhận thì theo khoản 2 Điều 370
BLDS 2015, người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ, nhưng bản chất nghĩa vụ vẫn
được duy trì, chỉ người thực hiện nghĩa vụ được thay thế.
Thêm vào đó, cũng chưa có căn cứ để xác định chấm dứt nghĩa vụ theo các nội
dung ở Điều 372 đến Điều 384 BLDS 2015.
Nên người có nghĩa vụ ban đầu vẫn còn có trách nhiệm đối với người có quyền khi
người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao.
3.6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.
Quan điểm của tác giả trong sách “Giáo trình Hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài Hợp đồng” ở mục 4.2.1 cho rằng: Người có nghĩa vụ không chịu trách nhiệm về
việc thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác. Như vậy, nghĩa vụ của người có nghĩa vụ được chấm dứt hoàn toàn sau khi chuyển
giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ và được người có quyền đồng ý.
Theo quan điểm PGS.TS Đỗ Văn Đại: “BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005
không cho biết là người có nghĩa vụ ban đầu có được giải phóng hay không” và “nếu cho
rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có trách nhiệm đối với người có trách nhiệm đối với
người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa chuyển giao nghĩa vụ được
quy định tại Điều 315, 316 và 317 với Điều 293 BLDS 2005 về thực hiện nghĩa vụ dân
sự thông qua người thứ ba”. Vậy theo quan điểm này chúng ta cần xác định rõ việc
chuyển giao nghĩa vụ dân sự với thực hiện nghĩa vụ dân sự với người thứ ba.
Theo quan điểm của tác giả Chế Mỹ Phương Đài 8 nêu rõ: “Người có nghĩa vụ dân
sự không chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác”. Trong phân tích quan điểm này tác giả đã nêu rõ thêm:
“Người có nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi
việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có quyền chỉ được phép yêu cầu người thế
nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu trách
nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ”.
3.7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền?
“Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng và bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có
trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao
nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp
đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số
tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng
vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú
đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà tú
theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán
nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận”.
3.8. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Hướng giải quyết trên của Tòa án hoàn toàn hợp lý. Thể hiện đúng quyền và nghĩa
vụ của các bên, tuân theo Điều 370 BLDS 2015 về chuyển giao nghĩa vụ.
3.9. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của
người thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt không?
Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của
người thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp này sẽ chấm dứt. Căn cứ theo
Điều 371 BLDS 2015 về chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm.

You might also like