You are on page 1of 4

 Đối với Quyết định số 968

- Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và
người được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền?
Đoạn cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và người được
bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền là: “Tại Bản án dân sự sơ
thẩm số 89/2008/DS-ST ngày 30/7/2008, Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh
Đồng Nai quyết định: Chấp nhận yêu cầu của bà Vũ Thị Hồng Nhung. Bà Nguyễn Thị
Mát và bà Nguyễn Thị Thắng cùng có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm trả cho bà Vũ
Thị Hồng Nhung 700.100.000 đồng.”
- Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không?
Hướng liên đới trên không được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận.
Đoạn trong văn bản cho thấy điều này là: “Như vậy, căn cứ vào các tài liệu nêu
trên có cơ sở xác định bà Mát là người vay tiền của bà Nhung còn bà Thắng, ông Ân
chỉ là người bảo lãnh cho bà Mát nên trước hết cần xác định bà Mát phải là người thực
hiện nghĩa vụ dân sự của mình đối với bà Nhung; nếu bà Mát không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần, thì phần không thực
hiện được bà Thắng cùng ông Ân mới phải có trách nhiệm thực hiện thay theo quy
định tại Điều 361, 363 và Điều 365 Bộ luật dân sự.
Tòa án các cấp chưa thu thập, xác định rõ khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của
bà Mát nhưng Tòa án cấp sơ thẩm (Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom) đã buộc bà
Thắng cùng liên đới thực hiện nghĩa vụ dân sự cùng bà Mát là chưa chính xác. Tòa án
cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm hướng dẫn đương sự lựa chọn có thể khởi kiện bà
Mát hoặc bà Thắng là không đúng quy định của pháp luật.”
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên
quan đến vấn đề liên đới nêu trên.
Theo em, hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến vấn đề liên đới
nêu trên là hợp lý bởi vì trước tiên chúng ta cần phải xác định khả năng thực hiện
nghĩa vụ của bà Mát đối với bà Nhung. Căn cứ Điều 361 BLDS 2005 quy định:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa
vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận
về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”
Theo quy định trên, người bảo lãnh và người được bảo lãnh không phải liên đới
thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền, mà người bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên được bảo lãnh khi người được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ. Nghĩa là nghĩa vụ
bảo lãnh của người bảo lãnh sẽ phát sinh khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Mặt khác, chúng ta cần xem xét đến
khả năng thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh đối với người nhận bảo lãnh bởi
vì các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên
được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ở đây xác định bà Mát là người phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Nhung, nếu
bà Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thì bà Thắng và ông Ân sẽ liên đới thực
hiện nghĩa vụ thay cho bà Nhung. Như vậy, cần phải xác định rõ khả năng thực hiện
nghĩa vụ của bà Mát đối với bà Nhung nhưng Tòa án các cấp lại chưa thu thập, xác
định khả năng thực hiện nghĩa vụ của bà Mát mà đã buộc bà Thắng cùng liên đới thực
hiện nghĩa vụ của bà Mát là không hợp lý. Tòa án giám đốc thẩm hủy bản án dân sự
phúc thẩm và sơ thẩm đảm bảo quyền và lợi ích của bên bảo lãnh (bà Thắng, ông Ân)
và bên nhận bảo lãnh (bà Nhung) là có căn cứ do các bên không có thỏa thuận khác về
việc bảo lãnh giữa các bên.
- Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh.
Căn cứ Điều 335 BLDS 2015 thì thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh là thời
điểm khi người bảo lãnh thỏa thuận, cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên có nghĩa vụ nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo
lãnh không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ, hoặc không thể thực hiện nghĩa
vụ.
o Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015, khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Vậy bên
nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ kể từ thời
điểm bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
đến hạn.
o Khoản 2 Điều 335 BLDS 2015, bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ khi bên được
bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Các bên chỉ áp dụng
thời điểm này khi đã có thỏa thuận từ trước và phải chứng minh được bên được
bảo lãnh không thể thực hiện được nghĩa vụ. Vậy thời điểm thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh trong trường hợp này được xác định từ thời điểm có đủ căn cứ để xác
định bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.
- Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 335 BLDS năm 2015 thì người bảo lãnh phải thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Ngoài ra căn cứ vào khoản 2 Điều 335 BLDS năm 2015 thì các bên có thể thỏa
thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh
trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
- Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
Theo Quyết định, người bảo lãnh thực hiện bảo lãnh khi Bà Mát (bên được bảo
lãnh) không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc chỉ có thể thực hiện một phần thì
phần chưa thực hiện sẽ do bà Thắng (bên bảo lãnh) mới có trách nhiệm thực hiện thay.
Trong phần Xét thấy của Quyết định có nêu rõ: “...; nếu bà Mát không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ dân sự thì hoặc chỉ có thể thực hiện một phần thì phần không thực
hiện được bà Thắng và ông Ân mới có trách nhiệm thực hiện thay theo quy định tại Điều
361, 363 và Điều 365 năm BLDS.”
- Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh/chị biết.
Đã có Quyết định theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh. Đó là Quyết định số 01/2017/DS-GĐT ngày 06-01-2010 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao. Trong Quyết định này, chị Nguyễn Thị Bích Thảo đã vay của
ông Lê Văn Sang 60 triệu đồng và đã giao Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đối với
nhà số 50/3 đường Xuân An, phường 3 thành phố Đà Lạt do ông Nguyễn Văn Lộc và bà
Trần Thị Phục (bố, mẹ chị Thảo) đứng tên cho ông Sang để làm tin. Các bên lập hợp
đồng thế chấp căn nhà trên (trị giá 100 triệu đồng) để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho chị
Thảo, hợp đồng có công chứng hợp pháp vào ngày 09/11/1996, các bên có mặt và không
phản đối. Sau đó, chị Thảo không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông Sang. Bên cho vay
đã khởi kiện yêu cầu bà Phục, ông Lộc (với tư cách bị đơn) thanh toán khoản nợ. Tuy
nhiên, trong vụ án này, chị Thảo là người vay tiền của ông Sang, còn ông Lộc, bà Phục là
những người dùng tài sản của mình để bảo đảm cho khoản vay của chị Thảo. Do vậy, ông
Sang phải khởi kiện yêu cầu chị Thảo trả nợ, nếu chị Thảo không trả được nợ gốc và lãi
thì ông Lộc, bà Phục có trách nhiệm trả thay.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý và phù hợp với quy định
của pháp luật.
Vì: bà Thắng đã xác nhận viết vào giấy ghi nợ là sẽ chịu trách nhiệm về số tiền bà
Mát vay (tuy không phải ý chí của bà Thắng nhưng trên giấy tờ đã có xác nhận rõ ràng).
Căn cứ theo Điều 361 BLDS 2005: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên
bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa
vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng
có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình” thì trong trường hợp này, sau khi trả
được 8 tháng tiền lãi, bà Mát không thực hiện trả cả tiền gốc lẫn lãi cho bà Nhung nên
dựa vào nội hàm cam kết mà bà Thắng đã viết thì bà Thắng sẽ là người thực hiện nghĩa
vụ này thay cho bà Mát khi bà Mát không thực hiện.
Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, đối với người bảo lãnh là cá nhân không có thù
lao (tức bà Thắng trong trường hợp này), Tòa án có xu hướng áp dụng thời điểm theo
Điều 361 BLDS 2005 đó là phải chứng minh thêm điều kiện bên được bảo lãnh (tức bà
Mát) không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Đặt trong trường hợp của Quyết
định nêu trên, ta thấy chỉ khi chứng minh được bà Mát không thực hiện được hoặc chỉ
thực hiện được một phần của nghĩa vụ thì người bảo lãnh theo cam kết đó là bà Thắng và
ông Ân mới thực hiện thay nghĩa vụ của bà Mát. Đồng thời, vì chưa chứng minh được
khả năng thực hiện của bà Mát nên Tòa án trong trường hợp này cũng không thể xác định
việc liên đới thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh dựa theo Điều 365 BLDS 2005.
Có thể thấy, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao là thỏa đáng đối với
người bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Vì điều này đã giúp chúng ta xem xét, nhìn nhận
về khả năng thực hiện của bên nhận bảo lãnh để xem có đủ điều kiện, căn cứ để được bên
bảo lãnh bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ hay không. Điều này thực sự rất cần thiết cho bên
bảo lãnh để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho bản thân, từ đó tránh được việc trốn
tránh thực hiện nghĩa vụ và đùn đẩy trách nhiệm cho bên bảo lãnh của bên nhận bảo lãnh.

You might also like