You are on page 1of 8

VƯỚNG MẮC TRONG QUY ĐỊNH VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN LÀ QUYỀN ĐÒI NỢ VÀ

HƯỚNG GIẢI QUYẾT

Trần Trọng Khánh1

TÓM TẮT

Từ khóa: Luật dân sự, Thế chấp tài sản, Quyền đòi nợ

Hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp luôn chú trọng vào vấn đề làm thế
nào để giúp doanh nghiệp xoay vòng vốn kịp thời và hiệu quả nhất. Vì lẽ đó, khi cho vay thế
chấp, ngân hàng thường cho phép doanh nghiệp thế chấp tài sản là quyền đòi nợ trong quá
trình hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, dựa trên những quy định trong pháp luật
chuyên ngành hiện nay, không tránh khỏi những vướng mắc, bất cập có thể dẫn đến tranh chấp
về hợp đồng vay giữa ngân hàng với doanh nghiệp, cụ thể ở hai vấn đề: thứ nhất, thông báo cho
bên có nghĩa vụ trả nợ về hợp đồng vay; thứ hai, mở tài khoản ký quỹ để đảm bảo khoản nợ, sau
khi đã được bên có nghĩa vụ trả nợ thanh toán, vẫn nằm trong khả năng giám sát của ngân
hàng. Bài viết trình bày các vướng mắc và đưa ra giải pháp để đảm bảo hiệu quả trong việc áp
dụng các quy định của pháp luật về thế chấp tài sản là quyền đòi nợ.

Mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ là những hoạt động đặc trưng cơ bản của kinh doanh
thương mại. Trong các hoạt động thương mại, việc bên bán cho bên mua một khoản công nợ và
thời gian để giải quyết công nợ chính là tạo điều kiện để bên mua có thể xoay vòng vốn và thực
hiện hoạt động kinh doanh của mình một cách thuận lợi nhất. Trong trường hợp bên bán cần vay
thêm vốn để kinh doanh, có thể đem thế chấp quyền đòi nợ bên mua của mình cho ngân hàng để
làm tài sản đảm bảo. Pháp luật Việt Nam với vai trò là khung định hình cho mọi nguyên tắc cơ
bản trong các hoạt động của xã hội hiện nay cũng điều chỉnh những vấn đề liên quan đến hoạt
động này, tuy nhiên, vẫn còn một số điểm chưa chặt chẽ và rõ ràng, dẫn đến việc vận dụng pháp
luật vào thực tiễn còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập.

Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích về cơ sở pháp lý cũng như đặc điểm của việc thế
chấp quyền đòi nợ, từ đó đưa ra một số tình huống cụ thể và những vướng mắc trong quy định
1
Sinh viên khoa Các chương trình đào tạo đặc biệt, Khóa 42, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
pháp luật trong quá trình áp dụng. Qua đó, tác giả đề xuất một số hướng giải quyết nhằm giúp
cho cá nhân, tổ chức nhận thức rõ hơn các quy định của pháp luật hiện hay, góp phần hạn chế tổi
đa rủi ro và khả năng phát sinh tranh chấp giữa các bên trong quá trình vay thế chấp quyền đòi
nợ.

1. Cơ sở lý luận của việc thế chấp tài sản là quyền đòi nợ.

1.1 Thứ nhất, về căn cứ pháp lý

Khái niệm “thế chấp tài sản” được quy định tại Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó: “thế
chấp tài sản” là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế
chấp).

Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài
sản thế chấp.2

Như vậy, quyền đòi nợ là quyền mà một bên có thể yêu cầu (các) bên còn lại trả nợ cho mình
đúng hạn (quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ). Quyền đòi nợ có được là một loại tài sản không?

Theo Bộ luật Dân sự 2015, “tài sản” là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản 3, còn “quyền tài
sản” là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí
tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác 4. Theo quan điểm này của các nhà lập pháp
soạn thảo Bộ luật Dân sự 2015, bất cứ quyền nào “có thể trị giá được bằng tiền”, đem lại giá trị
kinh tế cho con người, đều có thể được xem là quyền tài sản. 5 Cũng như quan điểm của TS.
Nguyễn Ngọc Điện thì “quyền tài sản trong luật thực định Việt Nam được hiểu là quan hệ pháp
luật khác với quan hệ sở hữu mà trên cơ sở quan hệ khác đó, một lợi ích định giá được bằng
tiền hình thành và thuộc về một chủ thể của quan hệ đó”6.

Vậy quyền đòi nợ chính là một loại tài sản, cụ thể là quyền tài sản bởi vì nó là quyền trị giá được
bằng tiền theo như quy định tại Bộ luật dân sự 2015

2
Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015
3
Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015.
4
Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015.
5
Ths. Nguyễn Hoàng Long, “Quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Tòa án, 24 tháng bảy năm
2018. https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/quyen-tai-san-theo-quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-nam-2015, tham khảo
ngày 19 tháng 9 năm 2021.
6
Ts. Nguyễn Ngọc Điện, “Cần xây dựng lại khái niệm “Quyền tài sản” trong luật dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số
3(50), 2005, tr.16-21.
1.2 Thứ hai, về đặc điểm của việc vay thế chấp quyền tài sản

Chủ sở hữu quyền tài sản, trong trường hợp này là quyền đòi nợ, có toàn quyền định đoạt tài sản
này, bao gồm việc sử dụng quyền đòi nợ như là một loại tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ.

Bộ luật Dân sự 2015 có quy định các đặc điểm của tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ 7, trong đó
có thể kể đến những đặc điểm của quyền đòi nợ như:

Thứ nhất, tài sản thế chấp phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm: Quyền đòi nợ hoàn toàn
thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm vì bên bảo đảm có toàn quyền chiếm hữu (nắm giữ, chi
phối một cách trực tiếp), sử dụng (khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức), định đoạt
(chuyển giao, từ bỏ, tiêu dùng, tiêu hủy) đối với quyền đòi nợ phát sinh từ một giao dịch dân sự
hợp pháp.

Thứ hai, tài sản thế chấp phải có thể được mô tả chung, và hoàn toàn xác định được.

Thứ ba, tài sản thế chấp phải là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai: Vì “đối
tượng của quyền đòi nợ chính là một khoản tiền sẽ được thanh toán vào một thời điểm nhất
định.”8

Ngoài ra, nhằm điều chỉnh quyền tài sản dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, trong đó có quyền
đòi nợ, Điều 322 Bộ luật Dân sự 2005 đã quy định:

“1. Các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền
tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được
nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh
nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên
bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.”

Trên cơ sở đó quyền tài sản được sử dụng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ, trong khi Bộ luật
Dân sự 2015 không tiếp tục đề cập nội dung này. Bởi lẽ, Bộ luật Dân sự 2005 chia tài sản dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thành ba đối tượng điều chỉnh là vật; tiền, giấy tờ có giá; quyền
tài sản, đồng thời quy định lần lượt tại ba Điều khoản khác nhau: Điều 320, Điều 321, Điều 322.
Ngược lại, Bộ luật Dân sự 2015 gộp chung ba đối tượng trên trong khái niệm tài sản bảo đảm,
và quy định tại Điều 295.
7
Điều 295 Bộ luật Dân sự 2015.
8
Ths. Bùi Đức Giang, “Giao dịch có đối tượng là quyền đòi nợ”, Tạp chí Ngân hàng, số 19, tháng 10 năm 2013, tr. 35-39 và
65.
Pháp luật chuyên ngành cũng quy định về vấn đề thế chấp quyền đòi nợ, cụ thể tại Điều 22,
Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ quy định về giao dịch bảo đảm đã
xác định:

“1. Bên có quyền đòi nợ được thế chấp một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ, bao gồm cả quyền
đòi nợ hình thành trong tương lai mà không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ trả nợ.

2. Bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có quyền và nghĩa vụ sau đây:

a) Yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán cho mình khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;

b) Cung cấp thông tin về việc thế chấp quyền đòi nợ, nếu bên có nghĩa vụ trả nợ yêu cầu.

3. Bên có nghĩa vụ trả nợ có quyền và nghĩa vụ sau đây:

a) Thanh toán cho bên nhận thế chấp theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều này;

b) Yêu cầu bên nhận thế chấp cung cấp thông tin về việc thế chấp quyền đòi nợ; nếu không cung
cấp thông tin thì có quyền từ chối thanh toán cho bên nhận thế chấp.

Ngày 19 tháng 3 năm 2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định thi
hành Bộ luật Dân sự về Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thay thế Nghị định 163/2006/NĐ-CP, có
hiệu lực từ ngày 15 tháng 5 năm 2021. Theo đó, bên có quyền trong hợp đồng được dùng quyền
đòi nợ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ9.

Ngoài ra, việc thế chấp bằng quyền đòi nợ, khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác
không cần có sự đồng ý của người có nghĩa vụ nhưng người này phải được bên nhận thế chấp
thông báo để biết trước khi thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp
luật.10

Như vậy, quyền đòi nợ được xem là một loại tài sản và có thể được sử dụng làm tài sản đảm bảo
việc thực hiện nghĩa vụ, cụ thể là thế chấp để vay ngân hàng.

2. Những vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn xử lý của cơ quan có
thẩm quyền

9
Điều 14 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ luật Dân sự về Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
10
Điều 33 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ luật Dân sự về Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Tại Bản án số 06 ngày 09/07/2019 của TAND Q. Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội về vụ việc Tranh
chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là TPBank với bị đơn là Công ty BTK có nội dung như
sau:

Theo đơn khởi kiện của TPBank (sau đây gọi là ngân hàng), giữa ngân hàng và Công ty TNHH
Phát triển công nghệ BTK (trụ sở tại quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, sau đây gọi là bên A) có
nhiều giao dịch vay tiền. Ngân hàng cho bên A vay tiền để mua xe ô tô, bổ sung vốn lưu động,
… tổng số nợ cả gốc lẫn lãi tới ngày nộp đơn khởi kiện là 10,9 tỷ đồng. Để đảm bảo cho khoản
vay này, bên A cầm cố, thế chấp 1 xe Toyota và 1 xe BMW, tổng giá trị hai chiếc xe là 2,3 tỷ
đồng. Ngoài ra, bên A còn thế chấp công nợ từ hợp đồng thi công giữa bên A và Viglacera (sau
đây gọi là bên B), công nợ từ hợp đồng kinh tế giữa bên A và Ban Quản lý đầu tư xây dựng Đại
học Quốc gia Hà Nội tại Hòa Lạc (sau đây gọi là bên C). Khoản phải thu phát sinh từ hai hợp
đồng nói trên trị giá 22,9 tỷ đồng.

Trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng, bên A đã cung cấp đầy đủ hồ sơ theo yêu cầu của cán
bộ ngân hàng. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, ngân hàng không thông báo gì với bên B và
bên C.

Đến hạn thanh toán, bên A không chịu trả nợ cho ngân hàng. Sau khi phát mãi hai chiếc xe vẫn
không đủ tiền trả nợ, ngân hàng tìm đến bên B và bên C để thu hồi nợ thì được biết cả hai bên B
và C đều đã quyết toán toàn bộ số công nợ trên cho bên A theo đúng như hợp đồng và đều cho
rằng mình không liên quan đến giao dịch giữa ngân hàng và bên A.

Xét thấy việc vay nợ giữa hai bên là sự thật khách quan và hợp pháp, có giá trị pháp lý. Tòa án
đã quyết định buộc bên A phải thanh toán toàn bộ số nợ cho ngân hàng. Trong trường hợp bên A
không thanh toán hoặc không thể thanh toán thì ngân hàng có quyền phát mãi tài sản bảo đảm và
đòi nợ bên B và bên C.

Tuy nhiên, tác giả cho rằng hướng giải quyết trong trường hợp này của Tòa án là không hợp lý,
vì bên B và bên C đã thanh toán khoản công nợ theo hợp đồng của mình đối với bên A. Ngoài
ra, bên B và bên C hoàn toàn không biết và không được xác định tư cách tham gia giao dịch giữa
bên A và ngân hàng. Do đó, không đủ cơ sở pháp lý để Tòa án buộc bên B và bên C trả tiền cho
ngân hàng.

Từ vụ việc trên, tác giả phân tích, đánh giá trên hai tình huống thực tế như sau:
2.1 Tình huống 1:

Bên A làm ăn với bên B, A hiện đang cho B nợ một khoản tiền. A đi vay ngân hàng, tài sản thế
chấp là quyền đòi nợ đối với B. Việc thế chấp này A và ngân hàng không thông báo cho B biết.
Đến hạn trả nợ, A không trả nợ cho ngân hàng, ngân hàng đến đòi B thì được biết B đã thanh
toán toàn bộ số tiền nợ cho A, có đầy đủ chứng từ ghi nhận. Giao dịch trên có phù hợp với quy
định pháp luật hiện hành hay không? Ngân hàng phải làm thế nào để có thể bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mình?

Trước đây, nếu căn cứ vào các quy định trong Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về
Giao dịch bảo đảm, thì hướng giải quyết cụ thể như sau:

Khoản 1 Điều 22 Nghị định 163/2006/NĐ-CP có quy định:

“1. Bên có quyền đòi nợ được thế chấp một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ, bao gồm cả quyền
đòi nợ hình thành trong tương lai mà không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ trả nợ.”

Như vậy, bên A được thế chấp một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ, bao gồm cả quyền đòi nợ
hình thành trong tương lai mà không cần có sự đồng ý của bên B. Quy định này chỉ đề cập việc
bên B không cần phải đồng ý, tuy nhiên không xác định việc bên B có quyền được biết quyền
đòi nợ đã được sử dụng làm tài sản đảm bảo.

Tác giả cho rằng việc quy định như trên nhằm tránh trường hợp bên B chậm hoặc không đồng ý
cho bên A sử dụng quyền đòi nợ làm tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, dẫn đến việc bên A bị
chậm trễ trong thủ tục vay vốn ngân hàng, từ đó, ảnh hưởng việc xoay vòng vốn và làm chậm
tiến độ kinh doanh. Vốn dĩ bên B chỉ có nghĩa vụ trả nợ chứ không có quyền ra quyết định, nên
không cần phải có sự đồng ý của bên B hay việc biết quyền đòi nợ trên đã được sử dụng vào
mục đích gì.

Tuy nhiên, tác giả cho rằng quy định như trên sẽ dẫn đến trường hợp bên B hoàn toàn không biết
quyền đòi nợ được sử dụng làm tài sản đảm bảo và vẫn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ của
mình cho bên A như đã cam kết trước đó. Trong trường hợp này, việc bên B thực hiện nghĩa vụ
trả nợ đối với bên A theo đúng hợp đồng hai bên A và B đã ký là ngay tình nên việc bên B
không chấp nhận thực hiện nghĩa vụ đối với ngân hàng khi không được thông báo quyền đòi nợ
của bên A đã được thế chấp tại ngân hàng là có cơ sở.
Do đó, để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho ngân hàng trong trường hợp này, việc bên B phải là
một bên của giao dịch, được cung cấp thông tin quyền đòi nợ đã được sử dụng làm tài sản đảm
bảo là một vấn đề rất quan trọng mà Nghị định 163/2006/NĐ-CP chưa đề cập tới. Vấn đề này
sau đó đã được khắc phục một phần tại Điều 33 Nghị định 21/2021/NĐ-CP, cụ thể như sau:

“Việc thế chấp bằng quyền đòi nợ, khoản phải thu, quyền yêu cầu thanh toán khác không cần có
sự đồng ý của người có nghĩa vụ nhưng người này phải được bên nhận thế chấp thông báo để
biết trước khi thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.”

2.2 Tình huống 2

A và B có quan hệ kinh doanh buôn bán, A cho B nợ tiền hàng. Sau đó A thế chấp quyền đòi nợ
để vay ngân hàng. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng ba bên (A, B và ngân hàng). B biết việc
quyền đòi nợ đã được A sử dụng làm tài sản thế chấp, tuy vậy, B vẫn hoàn tất nghĩa vụ thanh
toán tiền hàng cho A trước khi khoản nợ giữa A và ngân hàng đến hạn. Do đó, khi A không trả
tiền, ngân hàng cũng không thể buộc B phải thực hiện nghĩa vụ. Bởi vì nghĩa vụ thanh toán
khoản nợ tiền hàng được thực hiện theo hợp đồng giữa A và B (ngân hàng không có quyền cấm
B thanh toán tiền hàng cho bên A). Mặt khác, hiện chưa có quy định pháp lý nào xác định bên B
không được thanh toán tiền hàng cho bên A nếu quyền đòi nợ được sử dụng tài sản đảm bảo.

Nhằm khắc phục vướng mắc trong trường hợp này, tác giả cho rằng khi ký kết hợp đồng tín
dụng, để cân bằng được lợi ích của các bên (ngân hàng theo dõi được tài sản đảm bảo, bên B vẫn
được thanh toán cho bên A) cần thiết phải mở một tài khoản ký quỹ riêng, do bên A đứng tên và
được niêm phong tại ngân hàng. Căn cứ khoản 1 Điều 330 Bộ luật dân sự năm 2015: "Ký quỹ là
việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ trị giá được
bằng tiền vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ".

Vì vậy, nếu bên B muốn thanh toán cho bên A chỉ cần chuyển tiền vào tài khoản ký quỹ, ngân
hàng có thể trực tiếp theo dõi. Lúc ấy tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ sẽ từ quyền đòi nợ trở
thành số tiền nằm trong tài khoản11, sau khi bên B hoàn tất nghĩa vụ thanh toán cho bên A; đồng
thời, khoản nợ giữa bên A và ngân hàng đến hạn mà bên A không có khả năng chi trả thì ngân
hàng sẽ xử lý tài sản đảm bảo theo quy định của pháp luật và hoàn trả phần tiền còn lại cho bên
A (nếu có). Quyền và nghĩa vụ của các bên được thực hiện theo quy định về ký quỹ tại Bộ luật

11
Ths. Bùi Đức Giang, “Quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận thế chấp quyền đòi nợ”, Tạp chí Ngân hàng, số 17, tháng 9
năm 2012, tr. 58-61.
dân sự 2015 và tại Điều 39, Điều 40 Nghị định 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ luật dân
sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Tác giả đề xuất cần bổ sung quy định việc mở tài khoản ký quỹ đứng tên bên A vào quy định về
việc thế chấp tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Cụ thể thêm vào điều khoản quyền và nghĩa
vụ của bên có quyền đòi nợ (bên A), như sau:

“Bên có quyền đòi nợ sẽ mở một tài khoản ký quỹ. Nếu khoản nợ được thanh toán thì sẽ thanh
toán vào tài khoản ký quỹ và được niêm phong để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, mỗi lần giải
ngân phải có xác nhận công nợ giữa bên có quyền đòi nợ và bên có nghĩa vụ trả nợ, trong đó
xác định rõ số tiền và thời gian thanh toán.”

Trên đây là một số ý kiến của tác giả về việc thế chấp tài sản là quyền đòi nợ. Rất mong nhận
được sự trao đổi, đóng góp của người đọc./.

You might also like