You are on page 1of 5

VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH

CHẤT PHỤ CỦA BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM


Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày: 09/03/2010 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh
- Nguyên đơn: Ông Phạm Bá Minh, ủy quyền cho ông Lý Gia Đạt
- Bị đơn: Bà Bùi Thị Khen, Ông Nguyễn Khắc Thảo
- Nội dung: Ngày 14/9/2007, bà Khen và ông Thảo thế chấp sạp D2-9 tại
chợ Tân Hương để vay 60 triệu đồng trong 6 tháng, lãi suất 3%/tháng. Đến hạn,
bà Khen ông Thảo không trả được nợ. Đến thời điểm 7/2009, cả hai bên xác
nhận, ông Khen bà Thảo đã trả tổng số tiền 29.600.000 đồng. Tuy nhiên, theo
nhậnđịnh của Tòa, mức lãi suất 3%/tháng là vượt quá quy định của pháp luật.
Như vậy, Tòa tuyên ông Thảo bà Khen có nghĩa vụ trả lại cho ông Minh tổng số
tiền 38.914.800 đồng (đúng với mức lãi suất theo quy định của pháp luật), ông
Minh có trách nhiệm trả lại bản chính Giấy chứng nhận sạp D2-9 cho bà Khen
ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/02/2014 về việc tranh
chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất:
- Nguyên đơn: Nguyễn Văn Ôn, Lê Thị Xanh
- Bị đơn: Nguyễn Văn Rành
- Nội dung: Ngày 30/08/1995, vợ chồng ông Võ Văn Ôn và Lê Thị Xanh
cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc thục đất. Hai bên có lập “Giấy
thục đất làm ruộng” với nội dung giống như việc cầm cố tài sản với giá 30 chỉ
vàng
24k, thỏa thuận 3 năm sẽ chuộc, quá hạn không chuộc sẽ giao phần đất với số
vàng đã cầm cố. Theo lời khai của nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận là cầm
cố đất. Bản án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng
cầm cố quyền sử dụng đất”. Xét việc giao dịch thục đất nêu trên là tương tự với
giao dịch cầm cố tài sản, do đó phải áp dụng nguyên tắc tương tự để giải quyết.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
xin rút đoạn “Thứ nhất” về phần thủ tục, còn đoạn “Thứ hai” trong kháng nghị
về phần nội dung thì vẫn giữ y và đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hủy
bản án sơ thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền
Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử giám
đốc thẩm xét thấy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Tiền Giang là có căn cứ chấp nhận.
Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số: 27/2021/DS-GĐT ngày: 02/6/2021
về Tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Nguyên đơn: Ngân hàng Liên doanh V
- Bị đơn: Công ty PT
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Trần T, sinh năm 1941
+ Bà Trần Thị H, sinh năm 1947
+ Bà Trần Thị T, sinh năm 1980
+ Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1971
+ Ông Trương Minh H, sinh năm 1964
+ Bà Dương Thúy G, sinh năm 1975
+ Ông Nguyễn Huỳnh Nguyên V, sinh năm 1976
+ Công ty K
- Nội dung: Vào năm 2014, giữa Ngân hàng Liên doanh V và Công ty PT
đã ký kết các hợp đồng tín dụng như sau: Hợp đồng tín dụng hạn
mức số 60/2014/HĐTD ngày14/4/2014 và các phụ lục số 60/2014/PL01 ngày
17/6/2014, số 60/2014/PL02 ngày 23/9/2014 với mục đích vay vốn bổ sung vốn
lưu động phục vụ hoạt động sản xuất và ngân hàng cấp đã hạn mức tín dụng tối
đa 10.000.000.000 đồng. Trên cơ sở hợp đồng hạn mức nêu trên, Ngân hàng
đã giải ngân cho Công ty PT. Hợp đồng tín dụng hạn mức số 091/2015/HĐTD
ngày 23/4/2015 với hạn mức tín dụng tối đa 10.000.000.000 đồng mục đích vay
vốn là bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động sản xuất và ngân hàng đã giải
ngân ngày 14/5/2015 với số tiền 1.700.000.000 đồng. Để đảm bảo cho nghĩa vụ
trả nợ cho Ngân hàng, các bên bảo lãnh đã ký kết các hợp đồng thế chấp sau:
Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 05/6/2014 được ký kết
với ông Trần T, bà Trần Thị H (giá trị tài sản 5.400.000.000 đồng; Hợp đồng
thế chấp bất động sản số 119/2014/HĐTC ngày 18/9/2014 được ký kết với bà
Trần Thị T (giá trị tài sản 700.000.000 đồng; Hợp đồng thế chấp bất động sản
số 120/2014/HĐTC ngày 23/9/2014 được ký kết với bà Nguyễn Thị X (giá trị
tài sản 600.000.000 đồng); Hợp đồng thế chấp số 07/2013/HĐTC ngày
22/3/2013 được ký kết giữa bên thế chấp là Công ty PT với ngân hàng (giá trị
tài sản 1.880.000.000 đồng). Sau khi Ngân hàng giải ngân các khoản vay cho
Công ty PT thì đến tháng 4/2015 phía Công ty PT đã vi phạm về thời hạn thanh
toán lãi và gốc cho Ngân hàng. Khi Công ty PT không thanh toán nợ gốc và lãi
cho Ngân hàng thì phía Ngân hàng có mời những người bảo lãnh lên để làm
việc và bà Dương Thúy G, ông Nguyễn Huỳnh Nguyên V đã thanh toán cho
ngân hàng số tiền 1.600.000.000 đồng và lấy tài sản thế chấp về. Trong quá
trình giải quyết vụ án, bà Trần Thị T đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền
là 700.000.000 đồng và Ngân hàng đã giải chấp tài sản thế chấp đối với bà T.
Ngoài ra, bà Nguyễn Thị X cũng đã thanh toán cho Ngân hàng được số tiền
600.000.000 đồng và Ngân hàng cũng đã giải chấp đối với phần tài sản của bà
X. Đối với các tài sản mà phía Công ty PT thế chấp bảo lãnh cho khoản vay
theo Hợp đồng thế chấp số 07/2013/HĐTC ngày22/3/2013, qua xác minh hiện
nay không biết ở đâu do Công ty đã di chuyển tài sản đi nơi khác. Tính đến
ngày 05/9/2019, Công ty PT còn thiếu Ngân hàng Liên doanh V - Chi nhánh
Thành phố H số tiền là 5.235.426.579 đồng và 69.444,52 USD (bao gồm cả nợ
gốc và lãi). Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên buộc Công ty PT phải trả số
nợ trên và tiếp tục trả lãi phát sinh cho ngân hàng từ ngày 05/9/2019 cho đến
khi trả xong khoản nợ là có căn cứ. Đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của
ngân hàng và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Trần T, việc ký nâng hạn mức vay tín dụng từ 1.500.000.000 đồng lên
10.000.000.000 đồng nhưng không hề có ý kiến của người thế chấp là ông Trần
T và bà Trần Thị H là không đúng quy định. Mặt khác, việc ngân hàng ký nâng
hạn mức vay từ 1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000 đồng đã vượt quá giá
trị tài sản thế chấp là điều bất hợp lý. Do đó, việc Ngân hàng yêu cầu được xử lý
tài sản thế chấp của ông T, bà H để thu hồi nợ là không có cơ sở. Do hợp đồng
thế chấp đã chấm dứt nên Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả bản chính Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông T, bà H.

1.1 Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài
sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
BLDS 2005 BLDS 2015

- Điều 320: Vật bảo đảm thực hiện - Điều 295: Tài sản bảo đảm
nghĩa vụ dân sự
- Điều 321: Tiền, giấy tờ có giá
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự
- Điều 322. Quyền tài sản dùng để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
- BLDS 2015 không quy định cụ thể các loại tài sản được đảm bảo như BLDS
2005 mà tiếp cận theo hướng, tài sản được quy định trong Bộ luật đều có thể
là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trừ trường hợp có
điều cấm của luật hoặc BLDS, luật khác có liên quan quy định khác.
-Điểm mới này tạo nên sự đồng bộ với quy định về tài sản và nguyên tắc thực
hiện, bảo vệ quyền dân sự liên quan đến tài sản, quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản trong BLDS.1
- Khoản 1 Điều 320: “Vật bảo đảm - Khoản 1 Điều 295: “Tài sản bảo
thực hiện nghĩa vụ dân sự phải đảm phải thuộc quyền sở hữu
thuộc quyền sở hữu của bên bảo của bên bảo đảm, trừ trường hợp
đảm và được phép giao dịch.” cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở
hữu.”
- Bộ luật ghi nhận nguyên tắc chung, đó là, tài sản bảo đảm phải thuộc quyền
sở hữu của bên bảo đảm.
- Bên cạnh đó, BLDS 2015 lược đi quy định tài sản bảo đảm “phải được phép
giao dịch”.
-Thực chất, các giao dịch bảo đảm đều được hình thành trên cơ sở giao dịch
dân sự, mà trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã có yêu cầu
“giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật”2 .Quy định này đã đủ để
thể hiện rằng tài sản bảo đảm phải là tài sản được phép giao dịch.

Không có - Khoản 2 Khoản 2 Điều 295: “Tài sản bảo


đảm có thể được mô tả chung,
nhưng phải xác định được.”
- BLDS 2015 bổ sung quy định về việc tài sản đảm bảo có thể được mô tả
chung, nhưng phải xác định được.

Việc Bộ luật cho phép các chủ thể có thể mô tả chung về tài sản được dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là cần thiết và phù hợp với thực tiễn xác lập,
thực hiện giao dịch bảo đảm, đặc biệt là đối với trường hợp tài sản bảo đảm
luôn có sự biến động, thay thế về số lượng, chủng loại và giá trị hàng hóa
như hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh hay kho
hàng.
- Tuy nhiên, việc mô tả chung về tài sản bảo đảm cần thiết phải có giới hạn.
Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, khi giao kết giao dịch bảo đảm, các
bên mô tả tài sản quá chung chung, không rõ ràng, dẫn đến việc không xác
định được tài sản bảo đảm, gây nên những tranh chấp phát sinh cũng như khó
khăn cho quá trình xử lý. Do vậy, để có cơ sở xác định được tài sản bảo đảm,
tránh những tranh chấp phát sinh trong việc xác định tài sản bảo đảm, ngoài
việc cho phép mô tả chung về tài sản bảo đảm, Bộ luật quy định điều kiện tài
sản bảo đảm phải xác định được.

1 Bộ tư pháp (2017), Những


điểm mới cơ bản của bộ luật
dân sự 2015, NXB. Lao động,

1 Bộ tư pháp (2017), Những
điểm mới cơ bản của bộ luật
dân sự 2015, NXB. Lao động,

1 Bộ tư pháp 2017, những điểm mới cơ bản của Bộ Luật Dân sự 2015, tr. 150.
2 Điểm c khoản 1 Điều 117: "Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không
vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội."
1.2 Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận
sạp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
- Đoạn của bản án cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay: “Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn
Khắc Thảo xác nhận có thế chấp một giấy tờ sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để
vay 60 triệu đồng cho ông Phạm Bá Minh là chỉ dịch vụ cầm đồ lãi suất 3%
tháng”.
1.3 Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?
- Giấy chứng nhận sạp không phải là tài sản, vì theo như trong Bản án, ta
cũng có thể thấy giấy sử dụng sạp D2 - 9 tại chợ Tân Hương của bà Bùi Thị
Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo chứng minh rõ ràng là sạp đó không thuộc
quyền sở hữu của ông bà mà ông bà chỉ có quyền sử dụng sạp.
- Căn cứ theo Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản”, ta thấy rằng giấy chứng nhận sạp không phải là vật, tiền, giấy
tờ có giá hay quyền tài sản nên không được coi là tài sản.
1.4 Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được
Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự
không được tòa án chấp nhận.
- Đoạn của bản án cho câu trả lời nằm ở phần Xét thấy, cụ thể như sau:
“Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp
D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải quyền sở
hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án
trả tiền trong Minh”.
1.5 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án
đối với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
-Theo nhóm, hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc
dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ là hợp lý.
-Tòa án xét thấy, sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy
chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí sử dụng sạp, không
phải quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lí để bà Khen
thi hành án trả tiền cho ông Minh.
-Căn cứ vào Khoản 1, Điều 295, BLDS 2015 về tài sản đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ dân sự: “Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo
đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.”
-Vậy, hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý. Theo đó, tài sản cầm cố đó
nếu không thuộc quyền sở hữu của bà Khen thì bà Khen có quyền sử dụng nó
chứ không có quyền định đoạt nó trong giao dịch cầm cố sạp để trả nợ.

You might also like