You are on page 1of 275

www.fdvn.vn | www.fdvnlawfirm.vn | www.diendanngheluat.

vn

LUẬT SƯ FDVN

BẢN ÁN & QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC


THẨM LIÊN QUAN ĐẾN TRANH
CHẤP HỢP ĐỒNG CÓ THOẢ THUẬN
SỬ DỤNG NGOẠI TỆ

ĐƯỢC TỔNG HỢP BỞI LUẬT SƯ FDVN


MỤC LỤC
TỔNG HỢP 25 BẢN ÁN & QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM LIÊN QUAN ĐẾN
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CÓ THOẢ THUẬN SỬ DỤNG NGOẠI TỆ
STT TÊN VĂN BẢN TRANG

Bản án số 2100/2007/KDTM-ST ngày 22/11/2007 của Toà án nhân dân


thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Tranh chấp nhận cung cấp và lắp đặt thang máy”
Nội dung: Nguyên đơn là Công ty TNHH Công nghiệp Nam Tiến ký kết
Hợp đồng kinh tế số 701/WESTERN nhận cung cấp và lắp đặt thang máy cho
Bị đơn là Công ty TNHH Việt Phát tại Công trình Khách sạn Việt Phát. Nguyên
đơn Công ty Nam Tiến đã lắp đặt xong nhưng Bị đơn chưa thanh toán đủ, còn
nợ lại 157.600.000 đồng. Ngày 12/9/2005, Công ty TNHH Công nghiệp Nam
Tiến ký tiếp Hợp đồng kinh tế số 703/WESTERN nhận cung cấp và lắp đặt 2
tháng máy cho Bị đơn Công ty TNHH Việt Phát tại công trình toà nhà văn
phòng Việt Phát. Nguyên đơn nhận của Bị đơn 21.000USD (tương đương
333.900.000 đồng) tiền cọc nhưng chưa thực hiện việc lắp đặt thang máy vì Bị
đơn làm áp lực, hăm doạ khiến Nguyên đơn không thể chuyển tiền thêm ra nước
ngoài để nhập hàng. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu thanh lý 02 hợp đồng, buộc
Bị đơn thanh toán số tiền con nợ của Hợp đồng số 701. Công ty Công nghiệp
Nam Tiến đồng ý trả lại cho Công ty Việt Phát số tiền cọc đã nhận của Hợp
đồng số 703.
1 Cấp sơ thẩm nhận định: 01- 06
Về yêu cầu trả tiền phạt cọc 21.000 USD: Do các bên thỏa thuận trong hợp
đồng phương thức thanh toán bằng đô la Mỹ và thực tế cũng thanh toán trực
tiếp với nhau bằng đô la Mỹ không qua ngân hàng được phép hoạt động ngoại
hối (căn cứ vào Phiếu thu ngày 12/9/2005 do nguyên đơn xuất trình) là vi phạm
điều cấm của pháp luật (Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày
17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối) nên theo quy định tại Điểm a
Khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và hướng dẫn tại Nghị quyết số
04/2003/NQ- ĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, dù
các bên có hủy bỏ hay không hủy bỏ, Hợp đồng số 703 cũng bị vô hiệu toàn bộ
và phải được xử lý theo quy định tại Điều 39 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (hoàn
trả cho nhau tài sản đã nhận, thiệt hại các bên tự chịu, không có việc phạt vi
phạm hợp đồng).
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, buộc Bị đơn phải có trách
nhiệm thanh toán cho Nguyên đơn số tiền mua hàng còn nợ theo Hợp đồng kinh
tế số 701/WESTERN ngày 23/7/2005 giữa hai bên là 157.600.000 đồng và hủy
bỏ Hợp đồng kinh tế số 703/WESTERN ngày 12/9/2005.
2. Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn đòi Bị đơn phải bồi
thường thiệt hại 20.012.000 đồng là trị giá số đồ nghề của Nguyên đơn do Bị
đơn chiếm giữ.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Bị đơn, Nguyên đơn phải có
trách nhiệm hoàn trả cho Bị đơn số tiền cọc đã nhận theo Hợp đồng kinh tế số
703/WESTERN ngày 12/9/2005 là 337.197.000 đồng.
4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Bị đơn đòi Nguyên đơn phải trả
tiền phạt tương đương 21.000 USD.

Bản án số 08/2012/KDTM-ST ngày 29/8/2012 của Toà án nhân dân


quận X thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Tranh chấp kinh doanh thương mại về hợp đồng đặt cọc”
Nội dung: Nguyên đơn là Công ty TNHH Biomen Việt Nam do bà Trần Đỗ
Thúy Oanh đại diện, đã thỏa thuận lập hợp đồng thuê căn nhà số 474 LHP,
Phường 1, Quận X với Bị đơn bà Nguyễn Thiên Ngân Hồng, hợp đồng thuê do
hai bên thống nhất soạn thảo. Theo nội dung hợp đồng thì Nguyên đơn đồng ý
cho Bị đơn thuê toàn bộ căn nhà để Công ty làm văn phòng và showroom, giá
thuê là 1.000 USD/tháng, giá thuê ổn định trong 02 năm, thời gian thuê là 02
năm. Ngày giao mặt bằng trễ nhất là ngày 10/11/2011, tuy nhiên các bên chưa
thực hiện việc ký kết hợp đồng. Cùng ngày bà Oanh đã tiến hành đặt cọc là
3.000 USD cho bà Hà Thị Thu Hiền là mẹ của bà Hồng tại nhà 474 LHP,
Phường 1, Quận X. Ngày 06/11/2011, Công ty TNHH Biomen Việt Nam đề
nghị bà Hồng, bà Hiền tiến hành công chứng hợp đồng thuê nhà. Ngày
07/11/2011, bà Hiền cho biết bà Thư chị bà không đồng ý nội dung hai bên đã
thỏa thuận và đề nghị thay đổi hai điều khoản ghi trong hợp đồng, đó là không
2 cho bên thứ 3 thuê lại nhà và không được sửa chữa lại nhà thì mới đồng ý công 07 - 12
chứng hợp đồng. Phía Công ty không đồng ý và yêu cầu bên cho thuê trả lại
tiền cọc nhưng bà Hiền chỉ đồng ý trả lại 2.000 USD. Do bên cho thuê không
thực hiện đúng thỏa thuận nên bà Oanh đại diện cho Công ty TNHH Biomen
Việt Nam nộp đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Bị đơn và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trả tiền cọc 3.000 USD tương đương với
63.033.000 đồng và trả tiền lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước qui
định là 9%/năm trên số tiền đã đặt cọc, tiền lãi được tính từ ngày 16/11/2011
cho đến khi trả hết số tiền.
Cấp sơ thẩm nhận định: Xét hai bên đã giao dịch đặt cọc bằng tiền đô la
Mỹ là vi phạm điều cấm pháp luật về quản lý ngoại hối quy định tại Điều 22
Pháp lệnh ngoại hối. Căn cứ vào Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005 giao dịch
bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. Về hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự bị vô hiệu theo Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005, giao dịch dân sự
không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể
từ thời điểm xác lập, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận.
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Tuyên bố vô hiệu Hợp đồng đặt cọc thuê căn nhà số 474 LHP, Phường 1,
Quận X giữa Nguyên đơn là Công ty TNHH Biomen Việt Nam với Bị đơn là
bà Nguyễn Thiên Ngân Hồng và bà Hà Thị Thu Hiền.
2. Buộc bà Nguyễn Thiên Ngân Hồng, bà Hà Thị Thu Hiền và bà Hà Thị
Thu Thư liên đới hoàn trả Công ty TNHH Biomen Việt Nam số tiền 3.000 USD
tương đương 62.448.000 đồng.
3. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của Nguyên đơn Công ty TNHH
Biomen Việt Nam đòi Bị đơn phải thanh toán tiền lãi. Đôi bên thi hành tại cơ
quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Quyết định giám đốc thẩm số 11/2013/KDTM-GĐT ngày 16/05/2013


của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Về việc “Vụ án tranh chấp hợp đồng tư vấn đầu tư”
Nội dung: Bị đơn là Công ty Cổ phần đầu tư và Phát triển Phượng Tím và
Nguyên đơn là Công ty Shinhwa ký kết Hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến
khu đất tại Lô E7, đường PH, TL, HN. Cùng ngày 28/01/2008, ông Kim Sang
Bum - đại diện theo ủy quyền của Công ty Shinhwa đã trực tiếp giao cho bà
Nguyễn Thị Thái Bình - Tổng giám đốc Công ty Phượng Tím bằng tiền mặt
1.000.000 USD. Ngày 26/5/2008, Công ty Shinhwa gửi Công văn cho Bị đơn
với nội dung đề nghị Công ty thông báo bằng văn bản về tiến trình thực hiện
công việc cho Công ty Shinhwa nhưng quá trình thực hiện Bị đơn rất nhiều lần
không thực hiện cam kết.
Do đó, ngày 01/9/2008, Nguyên đơn Công ty Jangkum với tư cách pháp
nhân kế thừa của Công ty Shinhwa đã gửi Công văn số 010/2008-DEJangkum
3 chính thức thông báo chấm dứt hợp đồng tư vấn ký ngày 28/01/2008 giữa Công 13 - 21
ty Shinhwa và Bị đơn Công ty Phượng Tím. Đề nghị Công ty Phượng Tím hoàn
trả lại ngay lập tức số tiền đặt cọc 1.000.000 USD
Ngày 05/12/2008, Nguyên đơn Công ty Jangkum khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết: Hủy bỏ Hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến khu đất tại lô E7, PH,
HN giữa Công ty Shinhwa và Công ty Phượng Tím. Buộc Công ty Phượng Tím
hoàn trả 1.000.000 USD và tiền lãi chậm trả, bồi thường thiệt hại vật chất
50.000.000 đồng và 5.400.000 đồng do tổn thất tinh thần.
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn đối với Bị đơn.
2. Hủy bỏ hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến khu đất lô E7, PH, HN giữa
Công ty Phượng Tím và Công ty TNHH Công nghiệp và Xây dựng Shinhwa
ký ngày 28/01/2008. Buộc Công ty Phượng Tím phải hoàn trả cho Công ty
TNHH De Jangkum khoản tiền 1.000.000 USD, phải thanh toán tiền lãi do
chậm trả tương ứng với số tiền 1.000.000 USD là 20.000 USD.
Bản án phúc thẩm tuyên: Bác kháng cáo của Bị đơn. Giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao nhận định:
Công ty Shinhwa (nay là Nguyên đơn Công ty Jangkum) chuyển số ngoại tệ
nói trên vào Việt Nam đã thực hiện đúng quy định của pháp luật Việt Nam hay
chưa, chưa được Tòa án làm rõ. Khi giải quyết lại vụ án cần làm rõ vấn đề này.
Nếu có đủ căn cứ xác định Công ty Shinhwa chuyển số tiền 1.000.000 USD
vào Việt Nam không hợp pháp và đã chuyển số tiền này cho Công ty Phượng
Tím, do bà Nguyễn Thị Thái Bình trực tiếp nhận bằng tiền mặt (không qua tài
khoản ngoại tệ tại Ngân hàng) là vi phạm quy định của Pháp lệnh ngoại hối và
các Khoản 1 và 3 Điều 6 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ngoại hối thì phải tịch thu số tiền này.
Trường hợp Công ty Shinhwa chuyển tiền vào Việt Nam đúng quy định của
pháp luật, nhưng dùng số tiền này thanh toán cho bà Bình bằng tiền mặt (không
qua tài khoản ngoại tệ tại Ngân hàng) thì hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm quy
định của Pháp lệnh ngoại hối và các Khoản 1 và 3 Điều 6 Nghị định số
160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp
lệnh ngoại hối, Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp
đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật. Do hợp đồng bị vô hiệu, việc giao
nhận tiền phí dịch vụ giữa Công ty Shinhwa (nay là Nguyên đơn Công ty
Jangkum) và Bị đơn Công ty Phượng Tím không đúng quy định của pháp luật,
do đó, Nguyên đơn Công ty Jangkum chỉ được nhận lại 1.000.000 USD mà
không được hưởng tiền lãi do chậm hoàn trả số tiền này, số tiền lãi này phải bị
tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Ngoài ra, tại thời điểm các bên ký kết hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến
lô đất E7 đường PH, HN, thì Ủy ban nhân dân thành phố HN đã cấp lô đất trên
cho các doanh nghiệp khác để xây dựng trụ sở làm việc từ trước năm 2008 và
Nguyên đơn, Bị đơn đã biết rõ hiện trạng của lô đất. Vì vậy, hợp đồng tư vấn
đầu tư ký kết ngày 28/01/2008 bị vô hiệu bởi có đối tượng không thể thực hiện
được theo quy định tại Điều 411 Bộ luật dân sự năm 2005. Lỗi ở đây thuộc về
hai công ty. Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Bị đơn
Công ty Phượng Tím phải hoàn trả cho Nguyên đơn 1.000.000 USD và buộc
Bị đơn phải chịu tiền lãi chậm trả của số tiền 1.000.000 USD là chưa đủ căn cứ
(do chưa làm rõ việc Công ty Shinhwa chuyển số tiền 1.000.000 USD vào Việt
Nam có hợp pháp không) và không đúng pháp luật.
Nếu hợp đồng có hiệu lực thì Công ty Phượng Tím cũng đã vi phạm hợp
đồng, không thực hiện được các cam kết trong hợp đồng (kể cả khi đã được
Công ty Shinhwa đồng ý gia hạn thời hạn thực hiện hợp đồng). Trong trương
hợp này Công ty Shinhwa chấm dứt hợp đồng và yêu cầu Công ty Phượng Tím
trả lại tiền đã nhận là có căn cứ.
Quyết định giám đốc thẩm tuyên: Hủy Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 147/2009/KDTM-PT ngày 16/10/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao tại HN và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
93/2009/KDTM-ST ngày 18-19/5/2009 của Tòa án nhân dân thành phố HN,
giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại.

Bản án số 03/2014/KDTM-ST ngày 11/03/2014 của Toà án nhân dân


quận X thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê mặt bằng”
Nội dung: Ngày 17/12/2010, Bị đơn Công ty Cổ phần Đầu tư địa ốc Linh
Nga và Nguyên đơn Công ty TNHH An Khang đã ký hợp đồng thuê mặt bằng
thuê một phần diện tích (Mặt bằng) của Tòa nhà 172-174 KC, Phường NTB,
Quận X, Thành phố HCM, để mở quán cà phê các loại, nước giải khát và thức
ăn nhanh, với thời hạn thuê là 10 năm theo quy định trong Hợp đồng, giá thuê
03 năm đầu (17/02/2011 - 16/02/2014), tính bằng tiền Việt Nam đối với Khu
Tl: 20USD/m2 X 65 m2 = 1.300 USD, Khu T2: 20USD/m2 X 16 m2 = 320 USD,
tổng cộng 1.620 USD/tháng.
Ngày 24/3/2011, hai bên tiếp tục ký kết Phụ lục Hợp đồng số 01/PL-
2011/HĐ: 135/BTLHĐKT-2010 để sửa đổi, bổ sung một số điều khoản theo
Hợp Đồng số: 135/BTL-HĐKT-2010, cụ thể như sau:
+ Thời hạn thuê là: 10 năm tính từ ngày 17/02/2011.
+ Mặt bằng thuê: thuộc tầng trệt và khu outdoor (ngoài trời) của Tòa nhà
Times Square gồm: Mặt bằng 1: 81m2 (Tl= 65m2, T2= 16m2); Mặt bằng 2: T3=
19m2.
4 22 - 33
+ Giá thuê: Đối với 03 năm đầu (Từ 17/02/2011 đến 16/02/2014) là 19,440
USD/năm. Đối với 03 năm tiếp theo (Từ 17/02/2014 đến 16/02/2017) là 21.384
USD/năm. Đối với 04 năm cuối (Từ 17/02/2017 đến 16/02/2020) là 23.520
USD/năm.
Trong khi nhà hàng café Newyork đang kinh doanh bình thường thì bất ngờ
ngày 31/01/2013 Nguyên đơn Công ty An Khang nhận được văn bản Thông
báo chấm dứt Hợp Đồng thuê mặt bằng của Bị đơn, kèm theo văn bản của Sở
Xây dựng TP.HCM và Biên bản làm việc ngày 25/01/2013 của Thanh tra xây
dựng Quận X và thanh tra xây dựng Phường NTB yêu cầu tháo dỡ nhà hàng-
café Newyork với lý do lấn chiếm vỉa hè, vi phạm khoảng lùi công trình và
không có Giấy phép xây dựng sau 02 năm đã kinh doanh.
Do đó Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toàn án tuyên hành vi đơn phương
chấm dứt hợp đồng thuê mặt bằng là trái pháp luật. Buộc bị đơn hoàn trả lại số
tiền đầu tư ban đầu vào nhà hàng Newyork, bồi thường thiệt hại tiền thu nhập
thực tế từ kinh doanh nhà hàng cà phê mỗi tháng đến ngày xét xử, bồi thường
thiệt hại một năm tiền thuê nhà do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái
pháp luật, bồi thường thiệt hại tiền phí bảo vệ nhà hàng, bồi thường tiền phí
Thừa phát lại lập vi bằng về việc cúp điện, nước và hoàn trả lại tiền thuê nhà
còn dư.
Cấp sơ thẩm nhận định: Căn cứ Điều 492 Bộ luật dân sự năm 2005 thì hợp
đồng thuê nhà có thời hạn thuê từ 06 tháng trở lên phải có công chứng hoặc
chứng thực, nhưng hợp đồng thuê nhà nêu trên lại không có công chứng, chứng
thực. Căn cứ khoản 2 Điều 28 Luật kinh doanh bất động sản thì tổ chức, cá
nhân kinh doanh bất động sản cho thuê nhà, công trình xây dựng phải thực hiện
thông qua sàn giao dịch bất động sản, nhưng các bên cũng không qua sàn giao
dịch bất động sản, nên hợp đồng này bị vô hiệu do không tuân thủ quy định về
hình thức và căn cứ Pháp lệnh số 28/2005/PL-BTVQH ngày 13/12/2005 về
ngoại hối đã quy định trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm
yết, quảng cáo không được thực hiện bằng ngoại hối, cho nên hợp đồng thuê
nhà nêu trên bị vô hiệu do vi phạm điều cấm. Do đó, lỗi làm cho hợp hợp đồng
thuê nhà trên bị vô hiệu là lỗi của hai bên. Xử lý hậu quả pháp lý của Hợp đồng
thuê nhà vô hiệu:
- Đối với giá trị các khoản đầu tư vào quá cà phê Newyork: Công ty An
Khang hoàn trả lại mặt bằng thuê cùng toàn bộ công trình xây dựng trên mặt
bằng thuê và trang thiết bị, máy móc phục vụ kinh doanh quán cafe cho Bị đơn
và công ty Bị đơn Linh Nga Land phải hoàn lại cho Nguyên đơn số tiền
1.368.000.000 đồng
- Đối với số tiền thuê nhà còn dư mà hai bên đã đối chiếu là 74.767.611 đồng
Bị đơn phải hoàn trả lại cho Nguyên đơn.
- Đối với bồi thường tiền thu nhập thực tế từ kinh doanh nhà hàng cà phê
mỗi tháng và tiền bồi thường 1 năm tiền nhà do hành vi đơn phương chấm dứt
hợp đồng trái pháp luật thì Hợp đồng thuê nhà bị vô hiệu nên không phát sinh
quyền, nghĩa vụ giữa các bên và số tiền này cũng không phải là thiệt hại thực
tế nên không có cơ sở chấp nhận.
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn. Buộc bị đơn Công ty cổ
phần địa ốc Linh Nga có trách nhiệm thanh toán tổng cộng 1.477.267.611 đồng.
Nguyên đơn có trách nhiệm trả lại toàn bộ mặt bằng thuê cho Bị đơn.

Bản án số 15/2014/KDTM-ST ngày 25/6/2014 của Toà án nhân dân


quận X thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”
Nội dung: Nguyên đơn là Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An
Phát và Bị đơn là Công ty TNHH phòng khám Gia Định có ký Hợp đồng thu
5 xếp công việc vào ngày 16/9/2008 và các phụ lục. Theo Hợp đồng Nguyên đơn 34 - 40
là bên trung gian giàn xếp (Mô giới) cho phía Bị đơn trao đổi làm việc với Công
ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà (RESCO) để có được
khu đất tại khu đô thị mới An Khánh, An Phú thuộc quyền quản lý của Công ty
TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà (RESCO) để đầu tư xây
dựng bệnh viện theo hướng xã hội hoá lĩnh vực y tế, cùng với việc tư vấn, soạn
thảo văn bản cho phía Bị đơn là Công ty TNHH phòng khám Gia Định để đạt
được sự chấp thuận chủ trương của Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cho phép
thực hiện dự án đầu tư xây dựng bệnh viện trên khu đất này.
Sau khi ký kết hợp đồng Nguyên đơn với tư cách là bên thực hiện dịch vụ
thu xếp đã thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các phạm vi công việc dịch vụ
thuộc nội dung thỏa thuận thể hiện xác nhận qua các văn bản ý kiến chủ trương
của các cơ quan chức năng chuyên môn trực thuộc ủy ban nhân dân Thành phố
HCM, cũng như ủy ban nhân dân Thành phố HCM, và phía Bị đơn Công ty
TNHH phòng khám Gia Định cũng đã thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc
thanh toán phí dịch vụ đợt 2 theo hợp đồng thu xếp và phụ lục I, II. Tiếp đến,
trách nhiệm của Bị đơn Công ty TNHH phòng khám Gia Định là thực hiện thủ
tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật và thực hiện
thanh toán phí dịch vụ đợt 3.
Sau khi được Ủy ban nhân dân Thành phố HCM chấp nhận chủ trương đầu
tư thì Bị đơn có gặp khó khăn trong việc thoả thuận đền bù khoản hỗ trợ cơ sở
hạ tầng với Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà nên
ngày 18/9/2012 giữa Nguyên đơn và Bị đơn đã ký Phụ lục III của Hợp đồng
thu xếp. Theo Phụ lục III ngày 18/9/2013 thì Bị đơn phải có trách nhiệm thanh
toán phí dịch vụ 100.000 USD trong vòng 02 ngày sau khi có Bản Thỏa thuận.
Số tiền còn lại 100.000 USD sẽ được Bị đơn thanh toán cho Nguyên đơn trong
vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đầu tư cho phép
xây dựng Bệnh viện Quốc tế trên lô đất tại khu đô thị An Phú, An Khánh, Quận
Z. Quá trình thực hiện, Nguyên đơn đã làm các thủ tục dịch vụ về khoản đền
bù hỗ trợ cơ sở hạ tầng và kết quả là được sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân
Thành phố HCM và Sở Tài chính. Ngày 13/03/2013 Bị đơn và Công ty TNHH
một thành viên phát triển và kinh doanh nhà đã đạt được thỏa thuận thu khoản
hỗ trợ chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là 2.000.000 đồng/m2 tại khu đô
thị An Phú, An Khánh, Quận Z, Thành phố HCM.
Ngày 31/12/2013 Bị đơn Công ty TNHH phòng khám Gia Định đã được
Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy Chứng nhận đầu tư số
411043002xxx. Mặc dù Công ty TNHH phòng khám Gia Định đã được Ủy ban
nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy Chứng nhận đầu tư số 411043002xxx
nhưng cho đến nay Bị đơn vẫn chưa thanh toán phí dịch vụ nên Nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu Bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng.
Cấp sơ thẩm nhận định: Xét việc thỏa thuận thanh toán tiền dịch vụ của
hai bên bằng ngoại tệ không phù hợp quy định của pháp luật, nên theo quy định
tại Điều 24 Pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực ngày 01/6/2006, Điều 32 Nghị định
số 160/2006/NĐ CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
pháp lệnh ngoại hối và Điều 128, Điều 137 Bộ luật Dân sự thì giao dịch trên bị
vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, nên không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập, các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Do đó buộc Bị đơn phải thanh toán
cho Nguyên đơn tiền dịch vụ 200.000 USD được tính ra tiền đồng Việt Nam
tương đương là 4.274.000.000 đồng (theo giá bán ngoại tệ của Ngân hàng ngoại
thương Việt Nam - Chi nhánh Thành phố HCM với đôla Mỹ được đăng trên
Báo Sài Gòn giải phóng ngày 25/6/2014 là 01 đôla Mỹ = 21.370 đồng Việt
Nam).
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn. Buộc Công ty TNHH phòng khám
Gia Định phải thanh toán tiền dịch vụ cho Công ty cổ phần kinh doanh và phát
triển nhà An Phát 4.274.000.000 đồng. Ngoài ra, kể từ ngày Nguyên đơn có
Đơn yêu cầu thi hành án nếu Bị đơn không thanh toán số tiền nêu trên thì hàng
tháng Bị đơn còn phải trả tiền lãi trên số tiền còn phải thi hành theo lãi suất nợ
quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời
gian chậm trả.

Quyết định giám đốc thẩm số 70/2014/KDTM-GĐT ngày 29/7/2014 của


Toà án kinh tế Toà án nhân dân tối cao.
Về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”
Nội dung: Ngày 11/11/2009, Nguyên đơn là Công ty Hà Thanh – Bộ Quốc
Phòng và Bị đơn Công ty Cổ phần Thép Thiên An ký hợp đồng kinh tế về việc
mua bán 816,97 tấn (+/- 10%) thép cán nóng, dạng cuộn, xuất xứ Nhật Bản,
tổng trị giá hợp đồng là 7.422.000.000 đồng. Sau đó, hai bên ký Phụ lục hợp
đồng số 1 để chỉ định nhà cung cấp nước ngoài, và bên B sẽ chịu thêm phần
chênh lệch VAT (nếu có), chi phí giao nhận tại cảng, bốc xếp tại cảng, chi phí
giám định, chi phí lưu kho, lưu bãi... Ngày 12/11/2009, Bị đơn Công ty Thiên
An đã đặt cọc cho Công ty Hà Thanh 1.114.000.000 đồng. Ngày 14/11/2009,
chuyển tiếp 53.000.000 đồng, tổng cộng 1.167.000.000 đồng.
Ngày 08/01/2010 (khi chưa giao nhận hàng), hai bên đã ký biên bản nhận
nợ, theo đó tổng giá trị hàng là 386.590,20 USD, phí mở L/C là 579,89USD,
6 điện phí mở LC là 30 USD, Phí thanh toán là 773,18 USD, điện phí thanh toán 41 - 47
20 USD, lãi vay ngân hàng là 13.705,43 USD. Tổng cộng 401.698,69 USD,
thuế giá trị gia tăng 10% là 40.169,87 USD, Phí ủy thác là 6.185,44 USD, số
tiền đặt cọc là 1.167.000.000/19377 là 60.226,04 USD. Số tiền nhận nợ gồm
giá trị hàng nhập khẩu theo giá CIF và các chi phí khác là 387.827,97 USD. Kể
từ ngày 08/01/2010, Công ty Thiên An nhận nợ Công ty Hà Thanh số tiền là
387.827,97 USD. Số tiền thực tính lãi được tính trên phần trị giá tiền hàng theo
giá CIF, các phần chi phí khác bên B không phải thanh toán lãi.
Ngày 12/01/2010, Nguyên đơn Công ty Hà Thanh đã giao đủ số lượng
816,97 tấn thép theo hợp đồng, hai bên đã làm biên bản giao nhận hàng. Theo
các tài liệu có trong hồ sơ là các lệnh chuyển tiền thì từ ngày 22/02/2010 đến
05/10/2010, Công ty Thiên An đã thanh toán cho Công ty Hà Thanh 14 lần với
tổng số tiền là 5.693.582.000 đồng. Theo trình bày của Nguyên đơn thì từ ngày
14/7/2010 đến ngày 05/10/2010, Công ty Thiên An đã thanh toán cho Công ty
Hà Thanh 13 lần, tổng cộng là 5.000.000.000 đồng, tương đương 257.379,01
USD, quy đổi theo tỷ giá Ngân hàng vào từng thời điểm thanh toán. Từ ngày
05/10/2010 đến nay Công ty Thiên An không thanh toán cho Nguyên đơn nữa
nên Nguyên đơn khởi kiện.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn Công
ty Hà Thanh Bộ quốc phòng. Buộc Bị đơn Công ty cổ phần Thép Thiên An phải
thanh toán cho Nguyên đơn là 906.072.500 đồng.
Bản án phúc thẩm tuyên: Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
02/2011/KDTM-ST ngày 06 và 09/4/2011 của Tòa án nhân dân quận HM và
xử như sau:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của Nguyên
đơn Công ty Hà Thanh.
2. Buộc Bị đơn Công ty cổ phần Thép Thiên An phải thanh toán cho Nguyên
đơn Công ty Hà Thanh tổng cộng 2.688.653.135 đồng.
Toà án Kinh tế - Toà án nhân dân tối cao nhận định:
 Xét về Biên bản nhận nợ: Biên bản nhận nợ ngày 08/01/2010 được ký
kết sau Hợp đồng kinh tế 03 09/HT-PT ngày 11/11/2009 và trước khi các bên
giao nhận hàng (ngày 12/01/2010). Tại Khoản 1.1 Điều 1 Hợp đồng số 03-09
ngày 11/11/2009 quy định thì tổng trị giá lô hàng là 7.422.000.000 đồng (+/-
10%), tỷ giá tạm tính 1 USD = 18.5000 đồng, “giá trên là giá tạm tính”, nên
sau đó vào ngày 08/01/2010, các bên ký Biên bản nhận nợ xác định lại trị giá
lô hàng là có căn cứ chấp nhận. Như vậy, mặc dù Biên bản có tiêu đề là nhận
nợ nhưng thực chất là thỏa thuận mới của các bên về giá trị hợp đồng, các khoản
thuế, phí đều được thỏa thuận tính bằng đồng đô la Mỹ làm đồng tiền định giá
(để bảo đảm ổn định giá trị của hợp đồng) nhưng việc thanh toán là đồng tiền
Việt Nam được quy đổi theo tỷ giá bán ra thực tế của Ngân hàng TMCP Nhà
HN... tại từng thời điểm thanh toán. Trên thực tế, Bị đơn Công ty Thiên An
cũng thanh toán cho Nguyên đơn Công ty Hà Thanh bằng tiền đồng Việt Nam
thông qua chuyển khoản tại Ngân hàng TMCP Nhà HN, chi nhánh cầu Giấy
nên thỏa thuận của các bên không bị coi là vô hiệu và cũng không vi phạm Pháp
lệnh về quản lý ngoại hối. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Biên bản nhận nợ vô
hiệu do các bên thỏa thuận giá trị hợp đồng bằng ngoại tệ, từ đó không căn cứ
vào Biên bản nhận nợ để giải quyết vụ án là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm
cho rằng Biên bản nhận nợ không vô hiệu là có căn cứ.
 Xét về giá trị của Hợp đồng: Do Biên bản nhận nợ ngày 08/01/2010 được
coi là thỏa thuận mới về giá trị hợp đồng nên các khoản mà Nguyên đơn và Bị
đơn đã thỏa thuận như tổng giá trị lô hàng, phí mở L/C, điện phí mở L/C, phí
thanh toán, điện phí thanh toán được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận là có căn
cứ. Tuy nhiên, trong thỏa thuận này có nội dung tính lãi ngân hàng và ngày tính
lãi thì chưa được Tòa án cấp phúc thẩm làm rõ xem tính lãi bắt đầu từ ngày nào,
mặc dù tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn khai tính lãi từ ngày 08/01/2010
(ngày ký Biên bản nhận nợ) và số ngày tính lãi tại sao lại là 154 ngày, chưa
được làm rõ. Riêng về phí ủy thác thì quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn
Công ty Hà Thanh thừa nhận không có việc ủy thác nên Tòa án cấp phúc thẩm
không chấp nhận phần này là có căn cứ.
 Xét về tiền phạt chậm nộp thuế: Tại phiên tòa sơ thẩm, Bị đơn Công ty
Thiên An chấp nhận trả Nguyên đơn Công ty Hà Thanh số tiền phạt chậm nộp
thuế là 2.080.744 đồng, nên Tòa án chấp nhận là có căn cứ.
 Xét về tiền lãi do chậm thanh toán: Tại Điều 3.2 của Hợp đồng các bên
có thỏa thuận: Trong vòng 145 ngày kể từ ngày Nguyên đơn Công ty Hà Thanh
nhận nợ Ngân hàng (08/01/2010), Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn số
tiền hàng còn lại tương đương 85% trị giá hợp đồng. Quá thời hạn trên, bên B
phải chịu phạt theo lãi suất phạt chậm của Ngân hàng nhưng không quá 5 ngày.
Quá thời hạn 05 ngày, nếu vẫn chưa thanh toán hết thì phải chịu phạt theo lãi
suất 1 %/ngày. Theo thỏa thuận nói trên thì trong vòng 145 ngày kể từ ngày
08/1/2010, Bị đơn phải thanh toá nốt 85% giá trị hợp đồng cho Nguyên đơn
nhưng cũng không được quá 5 ngày. Vì vậy, thời điểm xác định Bị đơn vi phạm
nghĩa vụ thanh toán là 03/6/2010 (sau 145 ngày).
 Về tiền phạt vi phạm Hợp đồng: Theo thỏa thuận của các bên tại Điều 5
Hợp đồng kinh tế số 03 ngày 11/11/2009 thì: “Hai bên cam kết thực hiện
nghiêm túc các điều khoản đã thỏa thuận, không được đơn phương thay đổi
hoặc hủy bỏ hợp đồng. Bên nào không thực hiện hoặc đơn phương đình chỉ
thực hiện hợp đồng mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị phạt 8% trị giá hợp
đồng áp dụng theo mức phạt của Luật thương mại”. Như vậy, các bên thỏa
thuận “bên nào không thực hiện” hoặc “đơn phương đình chỉ thực hiện hợp
đồng” thì mới bị phạt vi phạm hợp đồng. Ở đây, Bị đơn vẫn thực hiện hợp đồng
cũng không đơn phương đình chỉ hợp đồng mà chỉ chậm thanh toán thì đã phải
chịu tiền lãi do chậm thanh toán. Do đó, không thể phạt vi phạm đối với Bị đơn.
Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng tại Tòa án, Nguyên đơn thay đổi yêu cầu chỉ
yêu cầu Tòa án phạt 8% giá trị hợp đồng bị vi phạm nên phù hợp với mức phạt
vi phạm theo quy định tại Điều 301 Luật thương mại năm 2005 nên Hội đồng
xét xử phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu này và buộc Bị đơn phải chịu phạt vi
phạm hợp đồng với số tiền là 535.218.674,24 đồng là không đúng.
 Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định: “Kể từ khi án có hiệu
lực pháp luật mà bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải
thi hành chưa trả tiền thì còn phải chịu lãi suất trên số tiền trả chậm trả theo
mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền
và thời gian chưa thi hành án” là không đúng mà phải tuyên theo mức lãi suất
quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán theo quy định tại
Điều 306 Luật thương mại 2005.
Toà án Kinh tế - Toà án nhân dân tối cao tuyên:
1. Hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 16/2011/KDTM-PT
ngày 19/7/2011 của Toà án nhân dân thành phố HN và Bản án kinh doanh,
thương mại sơ thẩm số 02/2011/KDTM-ST ngày 09/4/2011 của Toà án nhân
dân quận HM, thành phố HN;
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận HM, thành phố HN xét xử lại
theo quy định của pháp luật.

Bản án số 138/2014/DSST ngày 10/7/2014 của Toà án nhân dân quận X


thành phố Hồ Chí Minh
Về vệc Tranh chấp “Hợp đồng đặt cọc”
Nội dung: Ngày 20/9/2010 Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh Đào và Bị
đơn Công ty Cổ phần Thương mại địa ốc An Phú ký thoả thuận đặt cọc để mua
căn hộ C2 Block A tầng 18 của Dự án khu căn hộ cao cấp và văn phòng
HongKong Tower tại địa chỉ 243A ĐLT- ĐĐ-HN. Tổng giá trị chuyển nhượng
là 198.750 USD. Bị đơn cam kết sẽ sắp xếp thời gian để Nguyên đơn ký hợp
đồng mua bán nhà hình thành trong tương lai với chủ đầu tư là Công ty Cổ phần
đầu tư Đô thị Thanh Lan. Tổng số tiền bà Đào đã đặt cọc và thanh toán cho Bị
đơn Công ty An Phú là 91.426 USD. Do Nguyên đơn và Bị đơn thống nhất
không tiếp tục thực hiện Hợp đồng mua bán nhà nữa nên Nguyên đơn đã nhận
lại tiền cọc từ Bị đơn 32.400 USD còn lại 59.026 USD Công ty An Phú chưa
trả. Do đó, Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên thoả thuận đặt cọc giữa Nguyên
đơn và Bị đơn vô hiệu, buộc Bị đơn trả lại số tiền đặt cọc 1.244.286.080 đồng
(59.026USD).
7 Cấp sơ thẩm nhận định: Xét thời điểm hai bên ký kết “Thoả thuận đặt cọc” 48 - 55
thì Bị đơn là Công ty An Phú không phải là chủ đầu tư hay chủ sở hữu hợp pháp
đối với tài sản hai bên giao dịch. Việc này Nguyên đơn có biết vì đã được thể
hiện tại Điều 3 “Thoả thuận đặt cọc” số 0410/TTĐCHKT ngày 20/9/2010.
Mặt khác theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần mã
số doanh nghiệp 030417xxxx ngày 20/11/2012 thì Bị đơn không có chức năng
kinh doanh ngoại tệ nhưng “Thỏa thuận đặt cọc” số 0410/TTĐCHKT ngày
20/9/2010 và các phiếu thu do Bị đơn lập thể hiện giao dịch giữa hai bên bằng
đô la Mỹ là vi phạm Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005, vi phạm Điều 127,
128 Bộ luật dân sự. Vì vậy cả Nguyên đơn và Bị đơn đều có lỗi trong việc làm
cho giao dịch đặt cọc vô hiệu và Bị đơn trả lại số tiền đặt cọc là phù hợp với
quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự: “các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Nguyên đơn. Tuyên
Hợp đồng đặt cọc giữa bà Nguyễn Thị Minh Đào và Công ty Cổ phần địa ốc
Thương mại An Phú vô hiệu. Buộc Bị đơn có nghĩa vụ hoàn trả lại cho bà Đào
số tiền đã nhận 1.244.268.080 đồng tương ứng 59.026 USD

Bản án số 20/2015/KDTM-ST ngày 15/4/2015 của Toà án nhân dân


quận T thành phố Hồ Chí Minh
8 Về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà” 56 - 63
Nội dung: Nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà và Bị đơn là
ông Đaị, bà Thanh có ký kết thỏa thuận thuê nhà ngày 22/4/2009 với nội dung
Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà thuê của Bị đơn ông Đại, bà
Thanh hai căn nhà số 954 và 956 Mỹ Toàn 3, phường TP, Quận T, Thành phố
HCM, bên thuê được sửa chữa sử dụng theo công năng dùng làm văn phòng
hoạt động kinh doanh lĩnh vực ngân hàng với sự đồng ý của ông Đaị, bà Thanh.
Giá thuê bằng tiền Việt Nam đồng tương ứng 9.000USD/tháng và tăng dần theo
hàng năm theo phụ lục sửa đổi thỏa thuận thuê nhà. Thời hạn thuê nhà 05 tháng
và sẽ được tái tục không hủy ngang với tổng thời gian thuê không quá 05 năm
(tính từ ngày 01/6/2009 đến hết 31/5/2014). Ngày 22/4/2009 Nguyên đơn có
giao cho ông Đại, bà Thanh 480.141.000 đồng tương đương 27.000 USD tiền
đặt cọc thuê nhà. Thực hiện thỏa thuận thuê nhà Nguyên đơn và Bị đơn đã giao
nhà và trả tiền thuê nhà đến 28/02/2014. Ngày 06/12/2013, hai bên có lập biên
bản làm việc dự kiến hoàn trả mặt bằng cho ông Đại, bà Thanh ngày
30/01/2014. Trong trường hợp bên Ngân hàng hoàn trả mặt băng cho bên ông
Đại, bà Thanh trước hoặc ngay thời điểm 30/01/2014 thì bên ông Đại, bà Thanh
sẽ hoàn trả lại cho Ngân hàng 01 tháng tiền nhà đã thanh toán trước (tiền nhà
tháng 02/2014 nhưng Ngân hàng chịu tiền thuế ông Đại đã đóng). Thực hiện
Biên bản làm việc nói trên, Ngân hàng đã hoàn tất việc tái lập hiện trạng căn
nhà và bàn giao căn nhà cho bà Thanh, ông Đại vào ngày 04/3/2014. Nguyên
đơn yêu cầu ông Đại và bà Thanh hoàn trả lại tiền đặt cọc thuê nhà 480.141.000
đồng và tiền thuê nhà tháng 02/2014 là 232.375.000 đồng, tổng cộng
712.516.000 đồng trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
Cấp sơ thẩm nhận định:
Căn cứ vào lời khai của các bên đương sự và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
có thể xác định Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà và Bị đơn ông
Đại, Bị đơn bà Thanh có ký kết thoả thuận thuê nhà ngày 22/4/2009.
 Xét thời hạn thuê nhà trong “Thoả thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 ghi:
Thời gian thuê nhà là 05 (năm) tháng và sẽ được tự động tái tục không huỷ
ngang với tổng thời gian thuê không quá 05 năm (không quá 12 lần tái tục),
được tính từ ngày 01/6/2009 đến hết ngày 31/5/2014.
 Tại phiên toà các bên thống nhất do thời điểm ký kết năm 2009 ông Đại và
bà Thanh chỉ có Hợp đồng mua bán nhà với Công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng
chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất của hai căn nhà số 954 và 956 vì vậy “Thoả thuận thuê
nhà” ngày 22/4/2009 ghi” Thời gian thuê nhà là 05 (năm) tháng để không vi
phạm về hình thức của hợp đồng. Tuy nhiên, tại Toà hai bên đương sự đều xác
nhận thời hạn thuê nhà như Điều 4 thoả thuận là 05 năm không phải 05 tháng
như “Thoả thuận thuê nhà” đã ghi, mặt khác trong “Thoả thuận thuê nhà” tuy
Điều 2 ghi thời gian thuê nhà là 5 tháng nhưng Điều 3 giá thuê nhà và phương
thức thanh toán quy định cho 05 năm. Do đó có đủ cơ sở để xác định thời hạn
thuê nhà trong thoả thuận là 05 năm.
 Xét “Thoả thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 tuy có làm bằng văn bản tuy
nhiên như đã phân tích ở thời hạn thuê nhà giữa hai bên đương sự thoả thuận là
05 năm không phải 05 tháng như đã thể hiện nên theo quy định tại Điều 492 Bộ
luật Dân sự 2005 thì phải có công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký. Do
thoả thuận thuê nhà ngày 22/4/2009 vi phạm Điều 492 Bộ luật Dân sự vi phạm
về mặt hình thức.
 Xét về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng: Tại thời điểm ký kết năm 2009
Bị đơn ông Đại và bà Thanh chỉ có Hợp đồng mua bán nhà với Công ty liên
danh Phú Mỹ Hưng chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà gắn liền với đất của hai căn nhà trên, mặt khác, trong thoả thuận bên thuê
nhà là Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà – Chi nhánh Quận 4 -
Thành phố HCM là không phù hợp, đúng ra bên thuê nhà phải là Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Phú Hà, ông Liên Thanh vẫn đủ tư cách để đại diện Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Phú Hà ký kết theo Giấy ủy quyền số 2846/2008/QĐ-CS ngày
16/7/2008 của Tổng giám đốc Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà.
Vì các lẽ trên nên “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 vô hiệu về nội dung.
 Xét yêu cầu của Nguyên đơn về việc đòi tiền tháng 2/2014: Thực tế do
phải sửa lại nhà theo hiện trạng ban đầu theo đúng thỏa thuận nên đến ngày
04/3/2014 Ngân hàng mới giao chìa khóa cho ông Đại và do còn chưa thống
nhất tiền cọc nên hai bên không làm biên bản bàn giao. Tại Tòa Ngân hàng cho
rằng Ngân hàng không giao nhà được cho bên ông Đại do bên ông Đại không
hợp tác nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh và căn cứ vào biên bản
làm việc ngày 06/12/2013 để xác định ông Đại, bà Thanh có nghĩa vụ trả tiền
thuê nhà tháng 02/2014. Phía ông Đại không công nhận sự trình bày của ngân
hàng.
 Xét trình bày của Luật sư cho rằng vi phạm Điều 12 Pháp lệnh ngoại hối
là không chính xác bởi hai bên đương sự xác nhận trong hợp đồng cũng như
trong quá trình thực hiện thanh toán (chứng cứ Nguyên đơn, Bị đơn nộp) hoàn
toàn bằng tiền Việt Nam đồng. Căn cứ điểm b Khoản 3 Mục I Nghị quyết số
04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 quy định: “Nếu trong nội dung của hợp
đồng kinh tế các bên có thoả thuận giá cả, thanh toán bằng ngoại tệ trong khi
đó mộthoặc các bên không được phép thanh toán bằng ngoại tệ, nhưng sau đó
các bên có thoả thuận thanh toán bằng Đồng Việt Nam hoặc trong nội dung
của hợp đồng kinh tế các bên thoả thuận sử dụng ngoại tệ làm đồng tiền định
giá (để bảo đảm ổn định giá trị của hợp đồng) nhưng việc thanh toán là bằng
đồng Việt Nam, thì hợp đồng kinh tế không thuộc trương hợp quy định tại Điểm
a Khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và do đó không bị coi là vô hiệu toàn bộ”
nên trình bày của Luật sư về việc vi phạm pháp lệnh ngoại hối là không có cơ
sở.
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài
Gòn Phú Hà về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Thu Thanh và ông Nguyễn Thành
Đại trả lại tiền cọc là 480.141.000 đồng.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn Ngân hàng Thương
mại cổ phần Sài Gòn Phú Hà về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Thu Thanh và Bị
đơn Nguyễn Thành Đaị trả lại tiền thuê nhà tháng 02/2014 là 232.375.000 đồng
3. Buộc Bị đơn có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần
Sài Gòn Phú Hà số tiền cọc là 480.141.000 đồng.
4. Trong trường hợp bà Nguyễn Thị Thu Thanh và ông Nguyễn Thành Đại
chậm thi hành khoản tiền trên thì bà Thanh và ông Đại phải liên đới trả lãi đối
với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời
điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

Bản án số 207/2015/DS-ST ngày 14/5/2015 của Toà án nhân dân quận


GV thành phố Hồ Chí Minh
Về việc“Tranh chấp dân sự về đòi lại tài sản”
Nội dung: Vào năm 2011 Nguyên đơn bà Ngô Thị Hòa có giao cho Bị đơn
là Lê Thị Hoàng Linh số tiền 45.000 USD. Theo đó bà Linh sẽ cung cấp cho bà
Hòa lô hàng sữa Ensure. Bà Linh có giao cho bà Hòa một lượng hàng sữa với
giá trị là 12.150 USD, sau đó bà Linh ngừng cung cấp hàng và bà Linh đã
chuyển trả lại cho bà Hòa số tiền 18.850 USD. Số tiền đặt hàng còn lại từ đó
đến nay bà Linh không giao hàng và cũng không hoàn trả lại cho bà Hòa sau
nhiều lần gặp gỡ trao đổi bà Linh viện đủ lý do không trả tiền vì vậy, bà Hòa
khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Linh trả số tiền còn lại 14.000 USD quy đổi
bằng đồng Việt nam là 291.000.000 đồng. Trả một lần ngay sau khi bản án có
hiệu lực pháp luật
Cấp sơ thẩm nhận định: Bị đơn bà Linh cũng thừa nhận do bà sơ suất là
nhận giùm cho ông Đức trên Giây nhận tiền do Bị đơn bà Linh viết và ký tên
không thể hiện nội dung nhận theo yêu cầu của ông Đức điều này chứng tỏ các
9 bên chưa chuyển giao quyền yêu cầu theo quy định tại Điều 310 Bộ Luật Dân 64 - 69
sự 2005. Như vậy, Bị đơn bà Linh phải có trách nhiệm đối với giao dịch dân sự
này.
Xét thấy Giấy nhận tiền ngày 27/5/2011 và ngày 08/6/2011 giữa bà Hòa và
bà Linh thỏa thuận giao dịch với nhau bằng ngoại tệ là không đúng quy định tại
Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối. Như vậy, giao dịch giữa bà Hòa và bà Linh được
giải quyết theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự khi giao dịch dân sự vô
hiệu thì các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận.... Bị đơn đã nhận của Nguyên đơn 45.000 USD lẽ ra cần buộc bị đơn trả
số tiền trên cho Nguyên đơn nhưng Nguyên đơn chỉ yêu cầu Bị đơn hoàn trả số
tiền 14.000USD (tương đương 303.590.000 đồng) là có lợi cho Bị đơn, do đó
Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn (Thông tin giá USD tại
Ngân hàng Ngoại thương TP.HCM trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày
14/5/2015 là 21.685 đồng/USD). Buộc Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn số tiền
303.590.000 đồng.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn. Giao dịch dân
sự giữa bà Ngô Thị Hòa với bà Lê Thị Hoàng Linh theo giấy nhận tiền ngày ký
27/5/2011 và 08/6/2011 là vô hiệu. Buộc bà Lê Thị Hoàng Linh có trách nhiệm
trả cho bà Ngô Thị Hòa số tiền 303.590.000 đồng. Trả một lần ngay khi bản án
có hiệu lực pháp luật.

Bản án số 389/2015/ST-DS ngày 20/08/2015 của Toà án nhân dân quận


TB thành phố Hồ Chí Minh
Vụ án“Tranh chấp đòi tiền cọc”
Nội dung: Theo đơn khởi kiện ngày 24/12/2012 và trình bày của bà Nguyễn
Thị Diện là người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn đồng thời là người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì giữa bố của bà Diện với bà và
vợ chồng bà Nguyễn Thị Thư, ông Đinh Văn Hưng đã thỏa thuận với nhau về
việc sang nhượng quyền kinh doanh khách sạn Phương Lan địa chỉ tại số 678
SVH, Phường 12, Quận X, thành phố HCM với giá 600.000.000 đồng, tiền thuê
nhà hàng tháng 1.900 USD, tiền đặt cọc 23.000 USD. Sau khi thoả thuận, ngày
17/9/2011 hai bên tiến hành làm giấy nhận cọc theo đó, phía bà đã giao cho Bị
đơn là bà Thư 600.000.000 đồng và Bị đơn Thư đã giao khách sạn Phương Lan
cho bà quản lý, kinh doanh. Theo sự thoả thuận ghi trong giấy nhận cọc thì sau
khi nhận đủ toàn bộ số tiền 600.000.000 đồng và 23.000 USD thì Bị đơn bà
Thư sẽ làm Hợp đồng chuyển quyền kinh doanh khách sạn cho phía người khởi
kiện nên để thuận tiện cho việc quản lý khách sạn trong quá trình kinh doanh,
ngày 19/11/2011 Nguyên đơn tiếp tục chuyển vào tài khoản ông Nguyên đơn
ông Hưng số tiền 250.000.000 đồng và lần thứ 3 không nhớ ngày đã giao cho
Bị đơn là bà Thư 230.000.000 đồng cho đủ số tiền tương đương với 23.000
USD là tiền cọc. Tuy đã nhận đủ tiền sang nhượng và tiền đặt cọc thuê nhà theo
10 70 - 77
thỏa thuận nhưng Bị đơn bà Thư, Nguyên đơn Hưng không chịu làm các thủ
tục sang nhượng khách sạn lại cho bà theo như thỏa thuận mặc dù phía bà đã
yêu cầu nhiều lần, nên làm cho việc kinh doanh của phía bà gặp rất nhiều khó
khăn, đỉnh điểm là ngày 14/5/2012 Công ty Điện lực đã kiểm tra khách sạn phát
hiện vi phạm về sử dụng điện nên đã mời chủ nhà là ông Hồ Mạnh Cần đến làm
việc, tại buổi làm việc ông Cần cho biết không cho bà thuê nhà, nên việc bà
kinh doanh tại nhà ông là không đúng nên ông Cần đã báo Công an Quận X đến
lập biên bản và sau khi lập biên bản thì ông Cần và Công an Quận X đã yêu cầu
phía Người khởi kiện rời khỏi khách sạn…. Sau khi sự việc xảy ra phía bà đã
báo cho bà Thư, ông Hưng biết đồng thời yêu cầu bà Thư, ông Hưng trả lại cho
phía Người khởi kiện số tiền tổng cộng 1.080.000.000 đồng nhưng bà Thư ông
Hưng không trả nên bố của bà đã làm đơn khởi kiện yêu cầu bà Thư, ông Hưng
trả lại cho phía bà số tiền 1.080.000.000 đồng.
Cấp sơ thẩm nhận định:
Căn cứ vào Giấy nhận cọc ngày 17/9/2011, giữa đại diện bên A bà Bị đơn
Nguyễn Thị Thư và đại diện bên B Nguyên đơn ông Nguyễn Thanh Hưng thì
hai bên thoả thuận bên Bà đặt cọc cho bên A số tiền 600.000.000 đồng, bên A
đồng ý sang nhượng lại cho bên Bà hoạt động kinh doanh khách sạn.
Theo sự trình bày của Nguyên đơn vào ngày 17/9/2011 hai bên đã làm Giấy
nhận cọc và phía bà đã giao cho Bị đơn 600.000.000 đồng, tiếp theo ngày
19/11/20011 bà chuyển vào tài khoản của ông Đinh Văn Hưng 250.000.000
đồng và sau đó đã giao trực tiếp cho bà Bị đơn Thư 230.000.000 đồng có bà
Ngô Thị Vóc, bà Đặng Thị Ngọc Giàu làm chứng.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà Bị đơn Thư chỉ thừa nhận đã nhận
của Nguyên đơn 600.000.000 đồng tiền mặt và 250.000.000 đồng thông qua
chuyển khoản, không thừa nhận khoản tiền 230.000.000 đồng mà bà Diện trình
bày đã giao trực tiếp cho Bị đơn Thư.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ cho thấy Bị đơn Thư, Nguyên đơn ông
Hưng thuê nhà của ông Cần và Hợp đồng thể hiện không được cho thuê lại khi
chưa có sự đồng ý cuat ông Cần, Giấy phép kinh doanh do ông Hồ Mạnh Thắng
đăng ký và ông Thắng chỉ uỷ quyền cho bà Thư và ông Hưng trông coi, quản
lý...Trong quá trình tham gia tố tụng bà Thư, ông Hưng không chứng minh
được việc bà Thư, ông Hưng sang nhượng lại quyền thuê nhà và quyền kinh
doanh khách sạn cho ông Nguyễn Thanh Hưng và bà Nguyễn Thị Diện là đã
được sự đồng ý của ông Cần và ông Thắng do đó việc thỏa thuận sang nhượng
của bà Thư, ông Hưng với ông Hưng và bà Nguyễn Thị Diện là trái pháp luật,
vượt quá quyền hạn đã thỏa thuận với bên cho thu nhà và bên ủy quyền kinh
doanh, mặt khác giấy nhận cọc ngày 17/9/2011 thể hiện việc giao dịch bằng
tiền ngoại tệ (USD) là trái với quy định của pháp luật về quản lý giao dịch ngoại
hối, nên Hợp đồng thoả thuận sang nhượng khách số 678 SVH, Phường 12,
Quận X, Thành phố HCM thể hiện bằng giấy nhận tiền cọc ngày 17/9/2011
giữa bà Thư, ông Nguyễn Thanh Hưng bà Nguyễn Thị Diện là vô hiệu. Do hợp
đồng vô hiệu nên các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận. Vì giao dịch
vô hiệu nên căn cứ theo Điều 137 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về hậu quả
pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu thì phản tố của Bị đơn không có cơ sở để
chấp nhận.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn. Buộc
Bị đơn là Nguyễn Thị Thư và ông Đinh Văn Hưng trả cho ông Nguyễn Thanh
Hưng số tiền 850.000.000 đồng làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp
luật.

Bản án số 49/2013/KDTM-ST ngày 04/01/2016 của Toà án nhân dân


quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê”
Nội dung: Ngày 20/12/2007 theo hợp đồng thuê và bản sửa đổi hợp đồng
thuê mặt bằng thuộc tòa nhà CT Plaza giữa Nguyên đơn là Công ty Schonden
11 78 - 84
Việt Nam và Bị đơn là Công ty cổ phần quốc tế T & A đã ký kết, Nguyên đơn
đã chuyển số tiền đặt cọc cho Bị đơn nhằm thuê mặt bằng phòng 601-Tòa nhà
C.T Plaza với số tiền như sau:
- Đợt 1: 27.597USD;
- Đợt 2: 814.342.620 đồng.
Ngày 06/9/2012 Công ty Schonden Việt Nam tiến hành bàn giao mặt bằng
lại cho Ban quản lý tòa nhà C.T Plaza, chấm dứt hợp đồng thuê mặt bằng số
601 Tòa nhà C.T Plaza. Theo đúng quy định trong trường hợp này Nguyên đơn
là Công ty Schonden Việt Nam được hoàn lại toàn bộ số tiền đặc cọc. Do không
nhận được số tiền đặt cọc nên ngày 12/9/2012 Nguyên đơn gửi văn bản yêu cầu
Bị đơn thanh toán lại khoản tiền đặt cọc cho Công ty Shenher. Vào các ngày
04/10/2010, ngày 08/10/2010 và ngày 10/10/2010 Nguyên đơn Công ty
Schonden Việt Nam liên tục có thư nhắc nợ gửi tới Bị đơn Công ty T & A đồng
thời cũng thông báo sẽ tiến hành việc tính tiền lãi thanh toán chậm với mức lãi
suất 0,05%/ngày kể từ ngày 12/10/2010. Đến ngày 25/10/2010 Bị đơn Công ty
T & A mới đơn phương ký biên bản thanh lý hợp đồng thuê và tự đặt ra thời
hạn hoàn trả tiền cọc cho Công ty Schonden Việt Nam sau 30 ngày kể từ ngày
hai bên cùng ký biên bản thanh lý hợp đồng thuê (tức ngày 25/11/2012). Và
ngày 06/11/2012 Bị đơn Công ty T & A lại gửi đến Nguyên đơn văn bản số
06/11-BQLTN, trong đó Bị đơn Công ty T & A xác nhận sẽ chuyển trả cho
Nguyên đơn Công ty Schonden số tiền đã đặt cọc là 27,597 USD và
714.688.758 đồng sau khi đã cấn trừ tiền thuê mặt bằng từ ngày 01/9/2012 đến
ngày 06/9/2012), Bị đơn Công ty T & A cũng xác nhận sẽ chuyển trả số tiền
trên vào ngày 15/11/2012.
Do Bị đơn không thực hiện đúng cam kết, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích
hợp pháp của Nguyên đơn Công ty Schonden nên khởi kiện yêu cầu Bị đơn
Công ty T & A phải trả số tiền là 27.597 USD và 714.688.758 đồng.
Cấp sơ thẩm nhận định:
 Xét yêu cầy phản tố của Bị đơn: Nguyên đơn và Bị đơn đều cho biết việc
thanh toán tiền thuê hàng tháng chỉ được thực hiện khi Nguyên đơn nhận được
văn bản đề nghị thanh toán từ phía Bị đơn xác nhận đã thanh toán các khoản
tiền thuê của các tháng 4/2009, tháng 6/2009, tháng 7/2009, tháng 8/2009, tháng
9/2009 và tháng 11/2009 sau khi đã cấn trừ các chi phí liên quan đến dịch vụ
do Bị đơn cung cấp không đảm bảo chất lượng và trước khi cấn trừ có thông
báo bằng văn bản cho Bị đơn nhưng Bị đơn không có ý kiến gì và Bị đơn cũng
đã xuất hoá đơn cho Nguyên đơn. Trường hợp Bị đơn cho rằng Nguyên đơn
không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo Hợp đồng thì Bị đơn có quyền
khiếu nại theo quy định tại Khoản 3 Điều 318 Luật Thươn mại nhưng Bị đơn
không thực hiện. Căn cứ Điều 319 Luật thương mại thì yêu cầu này của Công
ty T & A tính đến thời điểm hiện nay đã hết thời hiệu khởi kiện nên không có
cơ sở để xem xét.
 Khi ký kết hợp đồng thuê ngày 20/12/2007 Công ty Schonden và Công ty
T & A đã thỏa thuận việc đặt cọc tiền thuê là USD và bên cho thuê sẽ hoàn trả
cho bên thuê tiền đặt cọc bằng cùng loại tiền đã nhận từ bên thuê (Khoản 2 Điều
IX của hợp đồng thuê) và Nguyên đơn đã đặt cọc đợt 1 cho Bị đơn Công ty T
& A đợt 1 số tiền là 27.597 USD. Căn cứ vào Phiếu báo có ngày 04/12/2007
của Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam –Chi nhánh Chợ Lớn
(Techcombank) và sự xác nhận của Công ty Schonden, Công ty T & A tại phiên
tòa thì việc chuyển và nhận tiền cọc đợt 1 là ngoại tệ (USD). Việc Công ty
Schonden và Công ty T & A thỏa thuận dùng ngoại tệ trong việc giao dịch (Đặt
cọc và trả cọc) là vi phạm pháp luật theo qui định tại Điều 128 Bộ luật Dân sự
và Pháp lệnh về ngoại hối nên phần giao dịch này vô hiệu và cần áp dụng Điều
137 Bộ luật dân sự để giải quyết hậu quả của phần giao dịch dân sự vô hiệu này
mặc dù hợp đồng thuê giữa Công ty Schonden và Công ty T & A đã chấm dứt
từ ngày 06/9/2012.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Công ty TNHH
Schonden Việt Nam. Buộc Công ty T & A có trách nhiệm trả cho nguyên đơn
Công ty TNHH Schonden Việt Nam số tiền là 1.351.269.898 đồng ngay sau
khi bản án có hiệu lực pháp luật thi hành.

Bản án số 697/2017/KDTM-PT ngày 03/8/2017 của Toà án nhân dân


thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
Nội dung: Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (Chi nhánh M, Thành phố Hồ
Chí Minh- gọi tắt là V- Chi nhánh M) có cho Công ty Cổ phần Nhựa T (gọi tắt
là Công ty T) vay tiền theo các hợp đồng tín dụng số 10.09.1082/HĐTD ngày
27/4/2010, số 10.09.1136/HĐTD ngày 03/8/2010, số 11.09.1063/HĐTD ngày
06/5/2011, các hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng và các phụ lục
kèm theo. Tài sản bảo đảm cho các khoản vay gồm có:
1. Hợp đồng thế chấp số 01/10.09.1082/HĐTC giữa V - Chi nhánh M và
Công ty T ngày 21/6/2010, với tài sản thế chấp là 2 máy nối đầu tự động để bảo
đảm cho Hợp đồng tín dụng số 10.09.1082/HĐTD ngày 27/4/2010.
2. Hợp đồng thế chấp số 10.09.1136/HĐTC giữa V- Chi nhánh M và Công
ty T ngày 03/8/2010, với tài sản thế chấp là 3 xe ô tô (Toyota Hiace số 53S
12 8448; County HD số 53S-8363 và County HD số 53S-8434) để bảo đảm cho 85 - 95
Hợp đồng tín dụng số 10.09.1136/HĐTD ngày 03/8/2010.
3. Hợp đồng thế chấp số 01/11.09.1063/HĐTC giữa V- Chi nhánh M, Công
ty T, ông Trần Tiến Th và bà Nguyễn Thị Mai H lập ngày 20/5/2011, công
chứng số 021258, tại Phòng Công chứng B, Thành phố Hồ Chí Minh với tài
sản thế chấp là căn nhà số 485/4 NK, Phường C, quận P và một phần của ½ căn
nhà số 483 NK, Phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc sở hữu của
ông Trần Tiến Th và bà Nguyễn Thị Mai H để bảo đảm cho Hợp đồng tín dụng
số 11.09.1063/HĐTD ngày 06/5/2011.
4. Hợp đồng thế chấp số 02/11.09.1063/HĐTC giữa V- Chi nhánh M và
Công ty T ngày 30/6/2011, với tài sản thế chấp là các máy móc, thiết bị để bảo
đảm cho Hợp đồng tín dụng số 11.09.1063/HĐTD ngày 06/5/2011.
Do Công ty T không thực hiện việc trả nợ theo cam kết, ngày 28/10/2012
V- Chi nhánh M đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty T phải
thanh toán:
1. Số nợ vay bằng tiền Việt Nam: Gốc: 37.485.780.642đ, Lãi trong hạn và
quá hạn: 4.340.424.451đ (tạm tính đến ngày 24/9/2012).
2. Số nợ vay bằng ngoại tệ: Gốc: 601.310 USD, tương đương
12.524.084.680đ, Lãi trong hạn và quá hạn: 39.818,16USD, tương đương
829.332.636đ (tạm tính đến ngày 24/9/2012). Trường hợp Công ty T không
thanh toán thì đề nghị Tòa án cho bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của V- Chi
nhánh M; buộc Công ty T phải thanh toán trả V- Chi nhánh M:
- Số tiền còn nợ tính đến ngày 19/4/2017 là 97.825.335.349đ, trong đó nợ
gốc là 48.948.835.992 đồng, lãi trong hạn là 34.083.316.481 đồng, lãi quá hạn
là 14.793.182.876 đồng.
- Số tiền lãi phát sinh tương ứng với số nợ gốc chưa thanh toán từ ngày
20/4/2017 theo thỏa thuận tại các hợp đồng tín dụng số 10.09.1082/HĐTD ngày
27/4/2010, số 10.09.1136/HĐTD ngày 03/8/2010, số 11.09.1063/HĐTD ngày
06/5/2011, các hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng và các phụ lục cho
đến khi thanh toán xong số nợ gốc.
Quá hạn mà Công ty T chưa thanh toán xong số nợ gốc và tiền lãi phát sinh
thì V- Chi nhánh M có quyền yêu cầu chi cục thi hành án có thẩm quyền phát
mãi các tài sản đã thế chấp sau đây để thu hồi nợ:
- Máy móc, thiết bị đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số
02/11.09.1063/HĐTC giữa V- Chi nhánh M và Công ty T ngày 30/6/2011.
- 2 máy nối đầu tự động theo Hợp đồng thế chấp số 01/10.09.1082/HĐTC
giữa V- Chi nhánh M và Công ty T ngày 21/6/2010. Buộc Công ty K và Công
ty Q phải thực hiện theo quy định của pháp luật việc phát mãi các tài sản thế
chấp của Công ty T cho V- Chi nhánh M. Tuyên bố hợp đồng vô hiệu và hủy
Hợp đồng thế chấp số 01/11.09.1063/HĐTC giữa V- Chi nhánh M, Công ty T,
ông Trần Tiến Th và bà Nguyễn Thị Mai H lập ngày 20/5/2011, công chứng số
021258, tại Phòng Công chứng B, Thành phố Hồ Chí Minh với tài sản thế chấp
là căn nhà số 485/4 NK, Phường C, quận P và một phần của ½ căn nhà số 483
NK, Phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc V- Chi nhánh M phải
trả lại ông Th và bà H bản chính các giấy tờ liên quan.
Cấp phúc thẩm nhận định:
Vào thời điểm xét xử sơ thẩm, tổng số tiền Bị đơn còn nợ đến ngày
19/4/2017 gồm khoản vay bằng tiền đồng Việt Nam và khoản vay bằng đô la
Mỹ được quy đổi thành tiền Việt Nam với tỷ giá 22.235đ/USD.
Cụ thể số nợ gốc là: 48.948.835.992đ, Lãi trong hạn: 34.083.316.481đ, Lãi
quá hạn: 14.793.182.876đ. Tổng cộng là 97.825.335.349đ, Trong đó: Khoản nợ
bằng tiền đồng Việt Nam là: 77.529.895.724 đồng, gồm nợ gốc
35.578.708.142đ, Lãi trong hạn: 29.441.907.642đ, Lãi quá hạn:
12.509.279.939đ. Khoản nợ bằng USD là 912.769,94 USD, gồm nợ gốc:
601.310 USD, Lãi trong hạn: 208.743,37USD, Lãi quá hạn: 102.716,57USD.
Không có căn cứ để cho rằng các hợp đồng tín dụng giữa hai bên có vi phạm
pháp luật, trái với đạo đức xã hội hoặc thuộc trường hợp phải được Hội đồng
quản trị của Công ty T đồng ý. Việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc Bị đơn phải trả
nợ là đúng nhưng phần quyết định về số nợ phải thanh toán không ghi rõ trong
tổng số nợ có khoản nợ bằng ngoại tệ được quy đổi thành tiền Việt Nam là chưa
đầy đủ, kháng cáo của Nguyên đơn yêu cầu xác định cụ thể trong bản án số nợ
bằng tiền đồng Việt Nam và số nợ bằng ngoại tệ cho phù hợp với thỏa thuận và
giao dịch của hai bên là có căn cứ.
Xét: Để bảo đảm việc thanh toán số tiền đã vay và tiền lãi phát sinh của Hợp
đồng tín dụng số 11.09.1063/HĐTD ngày 06/5/2011, ngày 20/5/2011 V Chi
nhánh M, Công ty T, ông Trần Tiến Th và bà Nguyễn Thị Mai H đã ký Hợp
đồng thế chấp số 01/11.09.1063/HĐTC thế chấp cho V- Chi nhánh M căn nhà
số 485/4 NK và một phần của ½ căn nhà số 483 NK thuộc sở hữu của ông Th
và bà H. Giao dịch bảo đảm này đã được đăng ký tại Phòng Tài nguyên và Môi
trường quận P ngày 27/5/2011 đúng với quy định tại Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài
Nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền
sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Theo quy định tại Tiểu mục 8.1 Mục 8
Phần II của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT thì “Hợp đồng
thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng
ký”. Không có căn cứ để cho rằng Hợp đồng thế chấp số 01/11.09.1063/HĐTC
thuộc trường hợp bị vô hiệu hoặc phải bị hủy bỏ.
Vào thời điểm các bên giao kết hợp đồng, theo Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh và đăng ký thuế số 0301952274 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành
phố Hồ Chí Minh cấp thì đại diện theo pháp luật của Công ty T là bà Nguyễn
Thị Mai H. Việc bà Nguyễn Thụy Minh Tâm đại diện cho Công ty T ký Hợp
đồng thế chấp số 01/11.09.1063/HĐTC bà H biết, cùng ký và có đóng dấu của
Công ty T vào phần chữ ký của người đại diện công ty trong hợp đồng, điều
này chứng minh được việc bà Tâm đại diện Công ty T để ký hợp đồng là có sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật của Công ty T. Đồng thời theo quy
định tại Điều 1 Nghị định số 58/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 của Chính phủ
về quản lý và sử dụng con dấu thì “Con dấu thể hiện vị trí pháp lý và khẳng
định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức”.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng việc ông Th, bà H dùng các tài sản nêu trên
của mình thế chấp cho V- Chi nhánh M để bảo lãnh cho việc vay tiền của Công
ty T chưa được sự thống nhất của Hội đồng quản trị của Công ty T là chưa đúng
quy định, trình tự, thủ tục cho vay, từ đó tuyên bố vô hiệu và hủy bỏ Hợp đồng
thế chấp số 01/11.09.1063/HĐTC là không đúng với quy định của pháp luật
nên cần sửa lại cho chính xác.
Xét: Trong tổng số tiền mà Công ty T còn nợ V- Chi nhánh M tính đến ngày
19/4/2017 gồm tiền Việt Nam và USD đã quy đổi thành tiền Việt Nam là
97.825.335.349đ, thì số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số
11.09.1063/HĐTD là 80.216.211.922đ, trong đó số nợ gốc là 40.351.110.992đ,
số còn lại là tiền lãi. Tuy nhiên, theo thỏa thuận của các bên tại Hợp đồng thế
chấp số 01/11.09.1063/HĐTC giới hạn bảo lãnh bằng 2 tài sản nêu trên của ông
Th, bà H không vượt quá giá trị tối đa của tài sản và nằm trong hạn mức cho
vay tối đa là 11.300.000.000đ. Do đó, giới hạn bảo lãnh bằng 2 tài sản nêu trên
của ông Th, bà H không thể vượt quá số nợ gốc là 11.300.000.000đ và tiền lãi
phát sinh của số nợ gốc này. Trong tổng số nợ gốc của Hợp đồng tín dụng số
11.09.1063/HĐTD gồm tiền Việt Nam và USD đã quy đổi ra tiền Việt Nam là
40.351.110.992đ, thì số tiền lãi phát sinh tương ứng đến ngày 19/4/2017 là
39.945.100.932đ. Do vậy, với số nợ gốc là 11.300.000.000đ thì số tiền lãi phát
sinh tương ứng đến ngày 19/4/2017 là: 11.300.000.000đ x 39.945.100.93đ :
40.351.110.992đ =11.186.300.190đ.
Tổng số nợ gốc và lãi thuộc phạm vi bảo lãnh theo hợp đồng thế chấp đến
ngày 19/4/2017 là: 11.300.000.000đ + 11.186.300.190đ = 22.486.300.190đ.
Bản án phúc thẩm tuyên: Sửa một phần bản án sơ thẩm phần xác định số
tiền Công ty Cổ phần Nhựa T phải thanh toán trả Ngân hàng Thương mại Cổ
phần C (Chi nhánh M, Thành phố Hồ Chí Minh) và phần xử lý đối với tài sản
thế chấp là căn nhà số 485/4 NK và một phần của ½ căn nhà số 483 NK, Phường
C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (Chi
nhánh M, Thành phố Hồ Chí Minh). Buộc Công ty Cổ phần Nhựa T phải thanh
toán trả Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (Chi nhánh M, Thành phố Hồ Chí
Minh) các khoản tiền sau bằng tiền đồng Việt Nam theo tỷ giá của Ngân hàng
Thương mại Cổ phần C công bố tại thời điểm thanh toán:
1. Khoản nợ bằng tiền đồng Việt Nam là: 77.529.895.724 đồng, gồm:
- Nợ gốc 35.578.708.142đ.
- Lãi trong hạn và quá hạn đến ngày 19/4/2017: 41.951.187.581đ.
2. Khoản nợ bằng USD là: 912.769,94USD, gồm:
- Nợ gốc: 601.310 USD.
- Lãi trong hạn và quá hạn đến ngày 19/4/2017: 311.459,94USD
Tổng số tiền Việt Nam và đô la Mỹ quy đổi theo tỷ giá thời điểm xét xử sơ
thẩm là 97.825.335.349đ.
3. Khoản tiền lãi phát sinh tương ứng với số nợ gốc chưa thanh toán từ ngày
20/4/2017 theo thỏa thuận tại các hợp đồng tín dụng số 10.09.1082/HĐTD ngày
27/4/2010, số 10.09.1136/HĐTD ngày 03/8/2010, số 11.09.1063/HĐTD ngày
06/5/2011, các hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng và các phụ lục cho
đến khi thanh toán xong số nợ gốc.
Bản án số 02/2017/DS-ST ngày 11/8/2017 của Toà án nhân dân huyện N
tỉnh Ninh Bình
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
Nội dung: Ngày 15/7/2015 anh Nguyễn Đức N và chị Nguyễn Thị H1 có ký
hợp đồng vay nợ với nội dụng anh N cho chị H1 vay số tiền 29.200 USD và
270.000.000 đồng, thời hạn thanh toán ngày 30/12/2015, lãi suất theo thỏa
thuận là 1%. Hết thời hạn thanh toán, anh N đã nhiều lần yêu cầu chị H1 thanh
toán số tiền trên nhưng chị H1 chưa trả nợ cho anh. Quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa anh N, người đại diện theo ủy quyền của anh N là chị H không
yêu cầu chị H1 phải trả lãi đối với số tiền 29.200 USD vì các đương sự không
biết giao dịch này là trái pháp luật và vẫn giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án
giải quyết buộc chị H1 phải trả cho anh N số tiền là: 29.200 USD qui đổi ra tiền
Việt nam đồng là 642.400.000đ và 270.000.000đ. Tổng cộng là (642.400.000đ
+ 270.000.000đ) = 912.400.000đ; và tiền lãi suất của số tiền 270.000.000đ theo
thỏa thuận là 1% từ ngày 15/7/2015 đến nay, được trừ đi 43.000.000đ tiền lãi
chị H1 đã thanh toán.
Cấp sơ thẩm nhận định: Đối với khoản tiền 29.200 USD là giao dịch bằng
ngoại tệ do đó, các giao dịch giữa các cá nhân về việc vay ngoại tệ trên lãnh thổ
Việt nam là trái với quy định tại Điều 22 pháp lệnh ngoại hối vì hai bên không
thuộc đối tượng được phép sử dụng ngoại tệ trong giao dịch dân sự. Vì vậy,
13 giao dịch ngày 15/7/2015 giữa anh N và chị H1 bị vô hiệu một phần do vi phạm 95 - 101
điều cấm của pháp luật được quy định tại Điều 128 và Điều 135 của BLDS năm
2005.
Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 137
của BLDS năm 2005, cần buộc chị H1 phải hoàn trả cho anh N số tiền 29.200
USD được quy đổi thành tiền đồng Việt nam theo tỉ giá hối đoái do Ngân hàng
Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành án. Về lỗi làm cho giao dịch dân sự bị
vô hiệu một phần anh N là người cho chị H1 vay số tiền 29.200 USD mặc dù
các đương sự không biết qui định giữa các cá nhân về việc vay ngoại tệ trên
lãnh thổ Việt nam là trái. Tuy nhiên, anh N là người có tiền ngoại tệ cho vay vì
vậy buộc anh N phải biết các qui định về việc vay ngoại tệ trên lãnh thổ Việt
nam. Do đó, cần xác định lỗi hoàn toàn thuộc về anh N.
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Tuyên bố một phần giao dịch ngày 15/7/2015 giữa anh Nguyễn Đức N và
chị Nguyễn Thị H1 bị vô hiệu, buộc chị H1 phải hoàn trả cho anh N số tiền
29.200 USD được quy đổi thành tiền đồng Việt nam theo tỉ giá hối đoái do
Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành án.
2. Chấp nhận một phần một phần yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Đức N;
Buộc chị Nguyễn Thị H1 phải có nghĩa vụ trả nợ cho anh N số tiền gốc và lãi
tính đến ngày 11/8/2017 là 294.140.000 đồng
Bản án số 19/2017/KDTM-PT ngày 17/8/2017 của Toà án nhân dân
thành phố Hải Phòng
Về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”
Nội dung: Ngân hàng (sau đây gọi là Ngân hàng Techcombank) và Công ty
Cổ phần XD A (sau đây gọi là Công ty Đức Phát) đã ký Hợp đồng tín dụng số
504/HDDHMTD/TCB-SGO ngày 05/03/2012 về việc cung cấp hạn mức tín
dụng. Theo đó, Ngân hàng Techcombank đồng ý cung cấp hạn mức tín dụng
cho bên vay Công ty Đức Phát với số tiền là 50,000,000,000đ, cấp hạn mức bảo
lãnh với số tiền là 25,000,000,000đ với thời hạn cung cấp hạn mức tín dụng,
hạn mức bảo lãnh là 12 tháng (từ 05/3/2012 đến ngày 05/3/2013). Thời hạn
thanh toán tối đa cho các khoản vay trong hạn mức không vượt quá 08 tháng,
mức lãi xuất được tính theo từng lần giải ngân. Trên cơ sở đó, Ngân hàng
Techcombank đã tiến hành giải ngân cho Công ty Đức Phát vay theo các khế
ước nhận nợ và cam kết trả nợ cụ thể như sau:
STT KUNN Ngày giải ngân Ngày đến hạn Lãi xuất Số tiền giải ngân ĐVT
1 79655 06/03/2012 06/10/2012 8.2 198,050 USD
2 79838 06/04/2012 06/12/2012 8.2 110,500 USD
3 79891 14/04/2012 14/12/2012 8.2 199,750 EUR
4 80021 09/05/2012 09/01/2013 8.2 118, 800 USD
5 80136 24/05/2012 24/11/2012 8.2 251,370,000 VNĐ
6 80157 04/06/2012 04/12/2012 8.2 251,370,000 VNĐ
7 80197 06/06/2012 06/12/2012 17.8 1,508,220,000 VNĐ
14 8 80332 06/07/2012 07/11/2012 17 2,010, 960,000 VNĐ 102 - 116
9 80529 25/07/2012 25/11/2012 16 6,032, 880,000 VNĐ
10 80586 13/08/2012 13/12/2012 16 2,010, 960,000 VNĐ
11 80596 27/09/2012 27/5/2013 15 2, 902,515,000 VNĐ

Như vậy, Ngân hàng Techcombank đã giải ngân cho Công ty Đức Phát vay
với tổng số tiền như sau:
1.Tiền ngoại tệ: 412,611 USD và 199,750 EUR;
2.Tiền Việt Nam: 12,957,315,000đ;
Trong quá trình Tòa án tiến hành giải quyết vụ án, ngày 7/10/2015, Tòa án
nhân dân quận Hải An thành phố Hải Phòng nhận được Công văn số
7589/2015/TCB-XLN của Ngân hàng (là Nguyên đơn) có nội dung Ngân hàng
rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với Công ty Đức Phát. Sau khi rút một phần
yêu cầu khởi kiện và đã giải chấp khoản nợ gốc, lãi đối với các tài sản nêu trên.
Tại phiên tòa hôm nay, quan điểm của Ngân hàng còn có yêu cầu khởi kiện tại
Tòa án cụ thể là:
1. Buộc Công ty Đức Phát phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền dư nợ theo
các khế ước và cam kết trả nợ còn lại là: 36,036,408, 860đ (trong đó bao gồm:
21,782,638,500đ tiền nợ gốc và 14.253. 770.360đ nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn
- tiền lãi tính đến ngày 25/11/2016 đã được quy đổi theo tỷ giá ngày 23/11/2016
là 1USD=22.550 VNĐ; 1EUR=23.536 VNĐ). Công ty Đức Phát phải tiếp tục
thanh toán cho Ngân hàng tiền lãi phát sinh theo quy định tại Hợp đồng cung
cấp hạn mức tín dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO kể từ ngày 26/11/2016 cho
đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc đã nêu.
- Rút yêu cầu Công ty Đức Phát phải trả cho Ngân hàng tiền phạt do vi phạm
Hợp đồng cung cấp hạn mức tín dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO kể từ ngày
26/11/2016 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc đã nêu.
- Rút yêu cầu Công ty Đức Phát thực hiện theo đúng thoả thuận tại Hợp đồng
tín dụng đã ký.
2. Đề nghị Toà án chấp thuận yêu cầu của Ngân hàng về việc xử lý tài sản
thế chấp để thu hồi nợ.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn. Buộc Công ty
Cổ phần XD A có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền dư nợ theo các khế
ước và cam kết trả nợ còn lại là: 36,036,408,860 VNĐ (trong đó bao gồm:
21,782,638,500 VNĐ tiền nợ gốc và 14.253.770.360 VNĐ nợ lãi trong hạn, lãi
quá hạn - tiền lãi tính đến ngày 25/11/2016 đã được quy đổi theo tỷ giá ngày
23/11/2016 là 1USD=22.550 VNĐ; 1EUR=23.536 VNĐ) theo Hợp đồng cung
cấp hạn mức tín dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO ngày 05/3/2012 và các khế
ước nhận nợ, kèm các cam kết trả nợ:
STT KUNN Ngày giải ngân Ngày đến hạn Lãi xuất Số tiền giải ngân ĐVT
1 79655 06/03/2012 06/10/2012 8.2 198,050 USD
2 80021 09/05/2012 09/01/2013 8.2 118, 800 USD
3 79891 14/04/2012 14/12/2012 8.2 199,750 EUR
4 80197 06/06/2012 06/12/2012 17.8 1,508,220,000 VNĐ
5 80332 06/07/2012 07/11/2012 17 2,010, 960,000 VNĐ
6 80529 25/07/2012 25/11/2012 16 6,032, 880,000 VNĐ
7 80596 27/09/2012 27/5/2013 Linh hoạt 2, 902,515,000 VNĐ
316,850 USD

Tổng nợ vay 199,750 EUR

12.454.575.000 VNĐ

Công ty Đức Phát phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng tiền lãi phát sinh kể
từ ngày 26/11/2016. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Công ty Cổ phần
XD A không trả đủ các khoản gốc, lãi trên. Ngân hàng có quyền yêu cầu các
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện trách nhiệm tương ứng với
phần bảo đảm của mình và yêu cầu Chi cục thi hành án Dân sự có thẩm quyền
kê biên, phát mại các tài sản đã thế chấp.
Cấp phúc thẩm nhận định:
1. Về quan hệ pháp luật và sự vắng mặt của đương sự: Vụ án tranh chấp về
hợp đồng tín dụng theo Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án.
Về sự vắng mặt của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Công ty Cổ phần XD A, ông Nguyễn Văn Hoàng (đã chết), bà Phạm Thị Mùi,
anh Nguyễn Văn Hoài (đại diện ủy quyền cho ông Hoàng, bà Mùi), anh Nguyễn
Hoài Giang, chị Nguyễn Hoài Hương. Bà Trần Thúy Anh và ông Nguyễn Hữu
Hùng, Ông Hoàng Long đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không
có lý do. Đối với sự vắng mặt của ông Nguyễn Văn H và bà Trần D là người
kháng cáo đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Nhưng tại phiên
tòa hôm nay có người đại diện theo ủy quyền là ông Bùi An. Do đó Hội đồng
xét xử vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sẽ không ảnh
hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự.
2. Xét nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Văn H và bà Trần D: Về tài sản
thế chấp là Quyềan sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi
ích phát sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 470, tờ bản đồ số 05 tại Yên Văn,
Đồng Hà, tỉnh Hà Tây theo GCNQSDĐ số A 945165, vào sổ cấp GCNQSDĐ
số 01620QSĐ/HĐ, do UBND Đồng Hà, tỉnh Hà Tây cũ cấp ngày 01/7/1993
mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Văn H và bà Trần D theo Hợp đồng thế
chấp tài sản số công chứng 973.2012/HĐTC-TCB ngày 17/7/2013 tại Văn
phòng Công chứng Thăng Long, thành phố Hà Nội thể hiện Ngân hàng đồng ý
cấp tín dụng cho bên được bảo đảm với số tiền là 14,112,000,000đ, đăng ký thế
chấp tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội để bảo đảm cho bên thứ ba là Công ty Đức Phát vay vốn ngân hàng, đều
đảm bảo các điều khoản chi tiết về việc vay và cho vay, về việc mở hạn mức
tín dụng, cung cấp hạn mức tín dụng, cung cấp hạn mức bảo đảm tín dụng và
đúng quy định tại khoản 2.3 Điều 2 của các Hợp đồng thế chấp tài sản nêu trên
“…..”. Mặt khác, tại thời điểm giao kết hợp đồng, thì các Hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trên đều được thực hiện theo đúng
quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai năm 2003, tại điểm a mục
1 Điều 12 Nghị định 163/NĐ- CP ngày 29/12/2006 của Chính Phủ và tại tiểu
mục 2.4 mục 2 Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày
13/6/2006.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì: “Nghĩa vụ được bảo đảm
là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ dân sự, có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ
trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện mà việc thực hiện nghĩa vụ đó được
bảo đảm bằng một hoặc nhiều giao dịch bảo đảm.”. Các hợp đồng cấp tín dụng
đã được ký kết trước đó nhưng Bên Được Bảo Đảm vẫn đang thực hiện nghĩa
vụ thì vẫn được coi là nghĩa vụ hiện tại nên Hợp đồng tín dụng trên hoàn toàn
đúng quy định của pháp luật. Vì vậy không có căn cứ để tuyên bố hợp đồng thế
chấp tài sản ông H, bà D ký kết với Techcombank là vô hiệu, ý kiến kháng cáo
này của người kháng cáo không có căn cứ để chấp nhận.
Đối với nội dung kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy quyền sử dụng
thửa đất số 470, tờ bản đồ số 05 tại Yên Văn, Đồng Hà, tỉnh Hà Tây theo
GCNQSDĐ số A 945165, vào sổ cấp GCNQSDĐ số 01620QSĐ/HĐ, do
UBND Đồng Hà, tỉnh Hà Tây cũ cấp ngày 01/7/1993 mang tên chủ sử dụng
ông Nguyễn Văn H và bà Trần D, do đó Tòa án cấp sơ thẩm không đưa các con
của ông H và bà D tham gia tố tụng là hoàn toàn có căn cứ. Đối với nội dung
ông H, bà D nêu ngày 01/8/2016 Ngân hàng đã có đơn xin rút 1 phần yêu cầu
khởi kiện liên quan đến quyền sử dụng đất thửa đất số 470, tờ bản đồ số 05 tại
Yên Văn, Đồng Hà, tỉnh Hà Tây của ông H, bà D.
Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy phía Ngân hàng đã có đơn xin rút 1 phần yêu
cầu khởi kiện đối với 1 số hợp đồng thế chấp khác nhưng không rút phần yêu
cầu khởi kiện đối với tài sản thế chấp của ông H, bà D trong vụ án này. Do đó
Tòa án cấp sơ thẩm đưa ông, bà tham gia tố tụng với tư cách người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là hoàn toàn đúng quy định pháp luật. Về
thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm có sự thay đổi người tiến hành tố tụng tại
phiên tòa không như trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa án cấp phúc
thẩm nhận thấy tại biên bản phiên tòa thể hiện Thẩm phán đã giải thích quyền,
nghĩa vụ và giới thiệu Hội đồng xét xử có sự thay đổi nhưng các bên đương sự
không thay đổi ai do đó Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo đúng quy định
pháp luật. Từ phân tích trên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn Văn H và bà Trần D đề nghị hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân
quận Hải An. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 03/2016/KDTM-ST ngày
25/11/2016 của Tòa án nhân dân quận Hải An, Hải Phòng.
Bản án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn. Buộc Công
ty Cổ phần XD A có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền dư nợ theo các khế
ước và cam kết trả nợ còn lại là: 36,036,408,860 VNĐ (trong đó bao gồm:
21,782,638,500 VNĐ tiền nợ gốc và 14.253.770.360 VNĐ nợ lãi trong hạn, lãi
quá hạn - tiền lãi tính đến ngày 25/11/2016 đã được quy đổi theo tỷ giá ngày
23/11/2016 là 1USD=22.550 VNĐ; 1EUR=23.536 VNĐ) theo Hợp đồng cung
cấp hạn mức tín dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO ngày 05/3/2012 và các khế
ước nhận nợ, kèm các cam kết trả nợ:
STT KUNN Ngày giải ngân Ngày đến hạn Lãi xuất Số tiền giải ngân ĐVT
1 79655 06/03/2012 06/10/2012 8.2 198,050 USD
2 80021 09/05/2012 09/01/2013 8.2 118, 800 USD
3 79891 14/04/2012 14/12/2012 8.2 199,750 EUR
4 80197 06/06/2012 06/12/2012 17.8 1,508,220,000 VNĐ
5 80332 06/07/2012 07/11/2012 17 2,010, 960,000 VNĐ
6 80529 25/07/2012 25/11/2012 16 6,032, 880,000 VNĐ
7 80596 27/09/2012 27/5/2013 Linh hoạt 2, 902,515,000 VNĐ
316,850 USD

Tổng khoản vay 199,750 EUR

12.454.575.000 VNĐ

Công ty Đức Phát phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng tiền lãi phát sinh
kể từ ngày 26/11/2016. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Công ty Cổ
phần XD A không trả đủ các khoản gốc, lãi trên. Ngân hàng có quyền yêu cầu
các người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện trách nhiệm tương ứng
với phần bảo đảm của mình và yêu cầu Chi cục thi hành án Dân sự có thẩm
quyền kê biên, phát mại các tài sản đã thế chấp.
Bản án số 75/2018/DS-PT ngày 24/4/2018 của Toà án nhân dân cấp cao
tại thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”
Nội dung: Vào năm 2012, do có nhu cầu muốn con trai là Lê Hoàng D trở
thành ca sĩ, qua giới thiệu của bạn bè ông gặp ông Võ Đại Hoài A1 là nhạc sĩ,
hai bên có ký hợp đồng ghi là hợp đồng kinh tế năm 2012 (nhưng không ghi
ngày tháng), với nội dung: Ông A1 thực hiện cho ông D một Album gồm 9 bài
ca với nhiều thể loại, phải đảm bảo chất lượng và quảng bá Album này trên các
phương tiện thông tin đại chúng như: Internet, báo giấy, đài phát thanh
v.v...Thời gian thực hiện là 6 tháng. Ông N được sở hữu độc quyền liên quan
đến toàn bộ Album này theo Luật sở hữu trí tuệ, ông N có trách nhiệm bảo đảm
lịch thu âm, luyện tập cho cho việc làm album, cung cấp đầy đủ thông tin của
ông Lê Hoàng D cho ông A1, ông N phải chi trả cho ông A1 các khoản tiền
sau:
 Chi phí sáng tác: 1.000USD/bài x 9 bài = 9.000USD;
 Chi phí hòa âm: 100USD – 150US/bài;
 Thu âm và Mix: 50USD/bài;
 Thực hiện in bìa, làm đĩa: 3.000 – 4.000USD/đĩa;
 Chi phí quảng bá, quảng cáo.
 Chi phí quản lý thực hiện: 2.000USD/tháng x 6 tháng = 12.000USD
15  Ông N đã giao 2 lần tiền: 117 - 123
 Lần thứ 1: ngày 28/5/2012 số tiền 166.640.000đồng.
 Lần thứ 2: 10.000USD
Tổng cộng được quy ra thành tiền Việt Nam là 396.920.000đồng
Nhận tiền xong ông A1 không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết, mà né
tránh không gặp ông N, nay ông khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng đã ký nêu trên
và buộc ông A1 trả lại cho ông số tiền đã nhận.
Bán án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê
Văn N. Tuyên bố hợp đồng kinh tế giữa ông Lê Văn N, ông Lê Hoàng D với
ông Võ Đại Hoài A1 (Hợp đồng ghi không ghi ngày tháng - năm 2012) là vô
hiệu. Ông Võ Đại Hoài A1 phải hoàn trả cho ông Lê Văn N số tiền
226.950.000đồng (tương đương với 10.000USD đã nhận theo tỷ giá tại thời
điểm xét xử).
Cấp phúc thẩm nhận định: Theo hợp đồng giao dịch hai bên đương sự đã
ký kết có nội dung thỏa thuận gồm 2 phần: Phần sáng tác Album 9 bài hát giá
trị số tiền 166.640.000 đồng tương đương 9.000USD. Phần tư vấn và thực hiện
chiến dịch phát hành quảng bá Album trị giá tương đương 12.000USD. Đối với
phần tư vấn và thực hiện chiến dịch phát hành quảng bá Album, ông N đòi ông
A1 trả lại số tiền 230.280.000 đồng (tương đương 10.000USD) đã nhận. Các
công đoạn đã thực hiện xong, ông N đã nhận được đĩa Master đúng như hợp
đồng để hoàn thành dịch vụ đến công đoạn hoàn tất bào giao xong đĩa nhạc
Master và chuẩn bị phát hành, việc không phát hành được cho là do ông N
không đồng ý tiếp tục thực hiện chứ không phải do ông Al đơn phương chấm
dứt hợp đồng. Trong nội dung của hợp đồng có thoả thuận quy định việc thanh
toán bằng ngoại tệ USD là vi phạm pháp luật về quản lý ngoại hối, nhưng thực
tế trong việc thực hiện thoả thuận thì các bên đã thanh toán bằng việc quy đổi
ra tiền đồng Việt Nam nên giao dịch dân sự trên của các bên phù hợp với pháp
luật. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy hợp đồng và buộc ông A1 trả lại số tiền quy
đổi tại thời điểm xét xử (tương đương 10.000USD) cho ông N là chưa xem xét
đến thực tế trong việc thanh toán bằng tiền đồng Việt Nam mà các bên đã giao
dịch trước đây và chưa xem xét đến quá trình tạo ra các sản phẩm dịch vụ mà
ông A1 đã thực hiện theo thỏa thuận như các bên đã thừa nhận. Điều cần lưu ý
là giao dịch mà các bên thỏa thuận là những sản phẩm đặc biệt nhằm đáp ứng
các nhu cầu về tinh thần, khi ký kết hợp đồng các bên đã không đặt ra yêu cầu
về mức độ chuẩn mực để có thể cân đong, đo đếm hoặc thẩm định được mà chỉ
thỏa thuận bằng các đầu việc theo hợp đồng, do đó có cơ sở xác định hầu hết
các danh mục công việc theo thỏa thuận ông A1 đều đã thực hiện, việc Album
không phát hành được là do lỗi của ông D bỏ về nước và ông N không đồng ý
tiếp tục thực hiện nữa.
Bản án phúc thẩm tuyên:
1. Đình chỉ yêu cầu của ông Lê Văn N về việc đòi ông Võ Hoài An trả lại số
tiền 166.640.000đồng (tương đương 9.000USD) chi phí sáng tác 9 bài hát, theo
hợp đồng dịch vụ năm 2012 (không ghi ngày tháng) ký kết giữa ông Lê Văn N
và ông Võ Đại Hoài A1.
2. Bác yêu cầu của ông Lê Văn N về việc đòi ông Võ Đại Hoài A1 trả lại số
tiền 230.280.000đồng (tương đương 10.000USD) chi phí tư vấn và thực hiện
chiến dịch phát hành quảng bá Abum, theo theo hợp đồng dịch vụ năm 2012
(không ghi ngày tháng) ký kết giữa ông Lê Văn N và ông Võ Đại Hoài A1.

Bản án số 22/2018/KDTM-PT ngày 27/6/2018 của Toà án nhân dân cấp


cao tại thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và đòi tiền đặt cọc”
Nội dung: Ngày 27/10/2014, ông Hour Ch đặt cọc 50.000USD cho ông
Giang Quốc H để mua 600 tấn muối hạt công nghiệp, tổng trị giá hợp đồng là
400.000USD. Theo hợp đồng đặt cọc thì trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày đặt
cọc, ông H phải có hàng giao cho ông Hour Ch. Nếu không có hàng, ông H phải
16 bồi thường số tiền là 110.000USD. Quá thời hạn theo thỏa thuận, ông H không 124 - 131
giao hàng, cũng không trả lại tiền đặt cọc mặc dù ông Hour Ch đã nhiều lần yêu
cầu. Vì vậy, ông Hour Ch yêu cầu Tòa án tuyên bố giấy đặt cọc vô hiệu, buộc
ông H phải trả lại tiền đặt cọc là 50.000USD tương đương 1.130.000.000 đồng.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hour
Ch. Tuyên bố hợp đồng mua bán muối hạt công nghiệp và nhận tiền cọc năm
2014 giữa ông Hour Ch và ông Giang Quốc H là vô hiệu. Ông Giang Quốc H
có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Hour Ch tiền cọc đã nhận là 50.000USD; khi
thanh toán bằng tiền đồng Việt Nam, quy đổi từ USD ra tiền đồng Việt Nam
theo tỷ giá bán ra của Vietcombank tại thời điểm thanh toán. Thanh toán ngay
sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Cấp phúc thẩm nhận định: Tại giấy đặt cọc năm 2014 (không ghi ngày,
tháng), có chữ ký của ông H và ông Hour Ch có nội dung: Ông H bán cho ông
Hour Ch 600 tấn muối hạt công nghiệp, với giá 400.000USD. Ông H đã nhận
50.000USD tiền đặt cọc của ông Hour Ch. Tại Biên bản phiên họp công khai
chứng cứ và hòa giải ngày 04/5/2017 và Biên bản phiên tòa ngày 16/6/2017,
đại diện ủy quyền của ông H thừa nhận: Hai bên có ký nhận tiền cọc năm 2014,
do phía nguyên đơn đã nộp trong hồ sơ. Bà Vòng Mỹ Kín nhận 50.000USD.
Ông H ký giấy trước rồi đưa cho vợ. Khi ông Hour Ch đưa tiền thì bà K đưa
giấy cho ông Hour Ch. Giấy ký tại Thành phố Hồ Chí Minh. Lời trình bày của
ông H phù hợp với trình bày của bà K tại Biên bản lời khai ngày 22/6/2017:
Trước khi đi làm ăn xa, ông H có đưa cho bà K 2 giấy nhận cọc và dặn chứng
nào có người qua đặt cọc thì đưa giấy tờ này cho người ta. Ông H ký rồi đưa
giấy cho bà K.
Như vậy, có căn cứ xác định ông H đã nhận tiền đặt cọc 50.000USD của ông
Hour Ch, địa điểm nhận tại Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua bà K. Do các
đương sự giao dịch bằng ngoại tệ (USD) thuộc trường hợp cấm được quy định
tại các điều 1, 2, 6 và 7 Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 và khoản 1 Điều 6 Nghị
định 160/2006/NĐ-CP ngày 18/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh Ngoại hối nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2005 xác định giao dịch giữa các bên vô hiệu và buộc trả lại
cho nhau những gì đã nhận là có căn cứ, đúng pháp luật.
Bản án phúc thẩm tuyên:
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Giang Quốc H.
2. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm 1031/2017/KDTM-ST ngày 31/7/2017 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Hour Ch:
3.1. Tuyên bố hợp đồng mua bán muối hạt công nghiệp và nhận tiền cọc
năm 2014 giữa ông Hour Ch và ông Giang Quốc H vô hiệu.
3.2. Ông Giang Quốc H có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Hour Ch tiền nhận cọc
là 50.000 USD, khi thanh toán bằng Đồng Việt Nam, quy đổi từ USD ra tiền
Đồng Việt Nam theo tỷ giá bán ra của Ngân hàng Vietcombank tại thời điểm
thanh toán. Thanh toán ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Bản án số 96/2018/KDTM-PT ngày 27/7/2018 của Toà án nhân dân


thành phố Hà Nội
17 Về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” 132 - 148
Nội dung: Ngày 23/7/2015, Ngân hàng TMCP SGHN (sau đây gọi tắt là
Nguyên đơn) chi nhánh Hà Nội và Công ty cổ phần XNK TH1 VN (sau đây gọi
tắt là Bị đơn) ký Hợp đồng cấp hạn mức tín dụng số 300/2014/HĐHM-
PN/SHB.110219 ngày 23/07/2014 (sau đây gọi tắt là Hợp đồng tín dụng số 300)
với các nội dung chủ yếu sau:
- Điều 1 quy định về giá trị, thời hạn, mục đích sử dụng hạn mức tín dụng:
Giá trị về hạn mức tín dụng là 150.000.000.000 đồng. Mục đích để phục vụ
hoạt động kinh doanh.Thời hạn là 12 tháng (từ ngày 23/7/2014 đến ngày
23/7/2015). Trong thời hạn này, bên vay có thể vay vốn, trả nợ nhiều lần (mỗi
lần vay vốn sẽ lập thành một khế ước nhận nợ). Lãi suất vay trong hạn là tùy
thuộc thời điểm giải ngân vốn vay và phương án sử dụng vốn cụ thể của bên
vay, lãi suất vay được áp dụng theo quy định của bên cho vay tùy từng thời kỳ.
Lãi suất vay được quy định cụ thể trên Khế ước nhận nợ được lập cho mỗi lần
rút vốn vay theo Hạn mức tín dụng. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất vay
trong hạn áp dụng tại kỳ tính lãi gần nhất so với thời điểm quá hạn. Cách tính
lãi vay: tiền lãi vay được tính hàng tháng, trên cơ sở một tháng 30 ngày, một
năm 360 ngày, theo công thức: số tiền lãi phải trả dư nợ thực tế x lãi suất vay
(%tháng) x số ngày vay thực tế trong tháng chia: 30 ngày.
Tài sản đảm bảo: ngày 16/11/2015, Bị đơn thế chấp cho Nguyên đơn quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
BB947977, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH00189/QDD do UBND huyện
Cẩm Mỹ cấp cho ông Nguyễn Viết Khả ngày 27/10/2010 và chuyển nhượng
cho bị đơn theo hồ sơ số 26353.962971.CN.VS do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đồng Nai xác nhận ngày 02/02/2015. Hợp đồng đã được công
chứng tại Phòng công chứng số 1 tỉnh Đồng Nai và được đăng ký thế chấp
quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai ngày
16/11/2015. Sau khi Hợp đồng tín dụng trên có hiệu lực kể từ ngày ký, Nguyên
đơn đã giải ngân cho bị đơn theo các khế ước nhận nợ sau:
Khế ước nhận nợ số 215-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
1
21/8/2014
Khế ước nhận nợ số 216-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
2
22/8/2014
Khế ước nhận nợ số 217-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
3
22/8/2014
Khế ước nhận nợ số 218-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
4
26/8/2014
Khế ước nhận nợ số 219-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
5
27/8/2014
Khế ước nhận nợ số 220-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
6
288/2014
Khế ước nhận nợ số 221-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
7
28/9/2014
Khế ước nhận nợ số 223-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
8
04/9/2014
Khế ước nhận nợ số 224-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
9
05/9/2014
Khế ước nhận nợ số 225-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
10
05/9/2014
Khế ước nhận nợ số 226-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
11
08/9/2014
Khế ước nhận nợ số 227-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
12
08/9/2014
Khế ước nhận nợ số 228-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
13
109/2014
Khế ước nhận nợ số 229-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
14
10/9/2014
Khế ước nhận nợ số 230-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
15
10/9/2014
Khế ước nhận nợ số 231-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
16
10/9/2014
Khế ước nhận nợ số 232-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
17
15/9/2014
Khế ước nhận nợ số 233-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
18
15/9/2014

Khế ước nhận nợ số 234-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày


19
159/9/2014
Khế ước nhận nợ số 235-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
20
17/9/2014
Khế ước nhận nợ số 236-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
21
17/9/2014
Khế ước nhận nợ số 239-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
22
18/9/2014
Khế ước nhận nợ số 240-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
23
19/9/2014
Khế ước nhận nợ số 241-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
24
19/9/2014
Khế ước nhận nợ số 242-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
25
24/9/2014
Khế ước nhận nợ số 244-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
26
25/9/2014
Khế ước nhận nợ số 245-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
27
26/9/2014
Khế ước nhận nợ số 246-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
28
26/09/2014
Khế ước nhận nợ số 247-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
29
26/09/2014
Khế ước nhận nợ số 251-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
30
01/10/2014
Khế ước nhận nợ số 251.1-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
31
01/10/2014
Khế ước nhận nợ số 252-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
32
06/10/2014
Khế ước nhận nợ số 255-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
33
16/10/2014
Khế ước nhận nợ số 256-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
34
16/10/2014
Khế ước nhận nợ số 257-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
35
16/10/2014
Khế ước nhận nợ số 263-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
36
24/10/2014
Khế ước nhận nợ số 264-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
37
29/10/2014
Khế ước nhận nợ số 265-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
38
31/10/2014
Khế ước nhận nợ số 267-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
39
04/11/2014
Khế ước nhận nợ số 268-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
40
07/11/2014
Khế ước nhận nợ số 269-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
41
10/11/2014
Khế ước nhận nợ số 271-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
42
20/11/2014
Khế ước nhận nợ số 272-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
43
24/11/2014
Khế ước nhận nợ số 273-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
44
25/11/2014
Khế ước nhận nợ số 274-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
45
28/11/2014
Khế ước nhận nợ số 275-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
46
08/12/2014
Khế ước nhận nợ số 276-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
47
09/12/2014
Khế ước nhận nợ số 278-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
48
12/12/2014
Khế ước nhận nợ số 280-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
49
24/12/2014
Khế ước nhận nợ số 281-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
50
25/12/2014
Khế ước nhận nợ số 284-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
51
06/01/2015
Khế ước nhận nợ số 285-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
52
06/01/2015
Khế ước nhận nợ số 286-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
53
06/01/2015
Khế ước nhận nợ số 287-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
54
06/01/2015
Khế ước nhận nợ số 288-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
55
07/01/2015
Khế ước nhận nợ số 289-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
56
09/01/2015
Khế ước nhận nợ số 291-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
57
13/01/2015
Khế ước nhận nợ số 292-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
58
15/01/2015
Khế ước nhận nợ số 293-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
59
16/01/2015
Khế ước nhận nợ số 294-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
60
16/01/2015
Khế ước nhận nợ số 297-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
61
22/01/2015
Khế ước nhận nợ số 298-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
62
22/01/2015
Khế ước nhận nợ số 299-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
63
23/01/2015
Khế ước nhận nợ số 300-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
64
23/01/2015
Khế ước nhận nợ số 302-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
65
23/01/2015
Khế ước nhận nợ số 305-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
66
29/01/2015
Khế ước nhận nợ số 306-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
67
29/01/2015
Khế ước nhận nợ số 307-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
68
02/02/2015
Khế ước nhận nợ số 309-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
69
06/02/2015
Khế ước nhận nợ số 310-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
70
09/02/2015
Khế ước nhận nợ số 311-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
71
10/02/2015
Khế ước nhận nợ số 312-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
72
13/02/2015
Khế ước nhận nợ số 313-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
73
14/02/2015
Khế ước nhận nợ số 314-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
74
27/03/2015
Khế ước nhận nợ số 314.1-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
75
03/04/2015
Khế ước nhận nợ số 315-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
76
06/04/2015
Khế ước nhận nợ số 316-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
77
07/04/2015
Khế ước nhận nợ số 319-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
78
27/04/2015
Khế ước nhận nợ số 320-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
79
27/04/2015
Khế ước nhận nợ số 321-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
80
04/05/2015
Khế ước nhận nợ số 322-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
81
05/05/2015
Khế ước nhận nợ số 323-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
82
05/05/2015
Khế ước nhận nợ số 324-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
83
07/05/2015
Khế ước nhận nợ số 325-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
84
08/05/2015
Khế ước nhận nợ số 326-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
85
08/05/2015
Khế ước nhận nợ số 327-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
86
08/05/2015
Khế ước nhận nợ số 329-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
87
15/05/2015
Khế ước nhận nợ số 330-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
88
19/05/2015
Khế ước nhận nợ số 331-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
89
20/05/2015
Khế ước nhận nợ số 332-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
90
25/05/2015
Khế ước nhận nợ số 333-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
91
28/05/2015
Khế ước nhận nợ số 334-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
92
29/05/2015
Khế ước nhận nợ số 335-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
93
01/06/2015
Khế ước nhận nợ số 336-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
94
02/06/2015

Khế ước nhận nợ số 337-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày


95
03/06/2015
Khế ước nhận nợ số 338-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
96
04/06/2015
Khế ước nhận nợ số 339-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
97
08/06/2015
Khế ước nhận nợ số 340-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
98
10/06/2015
Khế ước nhận nợ số 341-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
99
10/06/2015
Khế ước nhận nợ số 342-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
100
15/06/2015
Khế ước nhận nợ số 343-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
101
17/06/2015
Khế ước nhận nợ số 344-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
102
18/06/2015
Khế ước nhận nợ số 345-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
103
23/06/2015
Khế ước nhận nợ số 346-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
104
24/06/2015
Khế ước nhận nợ số 347-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
105
25/06/2015
Khế ước nhận nợ số 348-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
106
29/06/2015
Khế ước nhận nợ số 349-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
107
30/06/2015
Khế ước nhận nợ số 350-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
108
02/07/2015
Khế ước nhận nợ số 351-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
109
03/7/2015
Khế ước nhận nợ số 352-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
110
07/7/2015
Khế ước nhận nợ số 353-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
111
08/7/2015
Khế ước nhận nợ số 355-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
112
13/7/2015
Khế ước nhận nợ số 356-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
113
167/2015
Khế ước nhận nợ số 357-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
114
16/7/2015
Khế ước nhận nợ số 358-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
115
17/7/2015
Khế ước nhận nợ số 359-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
116
21/7/2015
Khế ước nhận nợ số 364-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
117
06/8/2015
Khế ước nhận nợ số 365-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
118
06/8/2015
Khế ước nhận nợ số 366-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
119
10/8/2015
Khế ước nhận nợ số 367-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
120
12/8/2015
Khế ước nhận nợ số 368-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày
121
17/8/2015
Trên cơ sở Hợp đồng tín dụng số 300 giữa Nguyên đơn và Bị đơn, từng khế
ước nhận nợ có quy định riêng về số tiền ngoại tệ được vay, lãi suất và thời hạn
trả nợ. Tổng số tiền Nguyên đơn đã giải ngân cho Bị đơn là 15,624,063.00 USD
và 6.019.742.334 đồng tương đương 361.779.656.844 đồng.
Quá trình thực hiện các khế ước nhận nợ, Bị đơn đã thanh toán được 74 khế
ước, sau đó đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi của các khế ước còn nợ,
Nguyên đơn đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở và tạo điều kiện cho bị đơn thanh
toán nợ, tuy nhiên kể từ ngày 05/9/2015 Nguyên đơn chuyển toàn bộ số nợ chưa
trả sang nợ quá hạn cho đến ngày 11/9/2017, Bị đơn mới chỉ thanh toán thêm
được cho Nguyên đơn 884.667.882đ và 6,028.70 USD. Số tiền này Nguyên đơn
đã thanh toán vào số nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn của các khế ước bị quá hạn,
sau đó mới thanh toán vào nợ gốc.
Do đã tạo điều kiện nhiều lần Bị đơn không trả được nợ nên nguyên đơn đã
khởi kiện bị đơn ra Tòa án theo Điều 11 Hợp đồng tín dụng và Điều 10 Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất được ký kết giữa hai bên.
Nguyên đơn đề nghị Tòa án giải quyết cụ thể:
1. Buộc bị đơn trả cho Nguyên đơn nợ gốc, nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn của
47 khế ước nhận nợ nêu trên tính đến ngày 11/9/2017, bao gồm: nợ gốc
5,766,327.04 USD tương đương 131.270.435.066 đồng; Lãi chậm trả 21,311.44
USD tương đương 485.154.932 đồng. Lãi quá hạn: 808,843.00 USD tương
đương 18.413.310.895 đồng. Tổng cộng là 6,596,481.48 USD tương đương
150.168.900.892 đồng.
2. Trong trường hợp Bị đơn không trả được nợ thì Nguyên đơn có quyền đề
nghị Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế để thu hồi nợ.
Kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong thì Bị đơn còn phải
tiếp tục thanh toán lãi suất nợ quá hạn theo mức lãi suất được quy định trong
Hợp đồng tín dụng trên số dư nợ gốc chậm trả.
Về số tiền 884.667.882 đồng và 6,028.70 USD mà Bị đơn trả nợ sau khi các
khế ước nhận nợ bị quá hạn từ ngày 05/9/2015 thì phải được trừ vào nợ gốc các
khế ước chưa thanh toán, chứ không phải theo cách tính của Nguyên đơn là trừ
vào lãi trong hạn và lãi quá hạn nên Bị đơn không chấp nhận số liệu về nợ gốc
mà Nguyên đơn đã tính toán, về vấn đề này Nguyên đơn có quan điểm không
chấp nhận quan điểm của Bị đơn vì theo thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng
kể từ ngày quá hạn thì số tiền thanh toán được ưu tiên thanh toán cho nợ lãi
trong hạn và quá hạn trước, sau đó mới thanh toán tiền nợ gốc.
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn về tranh chấp Hợp đồng
tín dụng số 300 đối với Bị đơn.
2. Buộc Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn số tiền nợ gốc, nợ lãi trong hạn,
nợ lãi quá hạn theo từng khế ước nhận nợ thuộc Hợp đồng tín dụng số 300 bao
gồm: nợ gốc 5,679,739.07 USD, nợ lãi trong hạn 87,601.25 USD, nợ lãi quá
hạn 979,444.95 USD. Tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi là 6,746,785.27 USD. Quy
đổi ra tiền Việt Nam đồng theo tỷ giá quy đổi ngày 25/01/2018 là 22.740
đồng/USD là 153.421.897.039 đồng.
3. Bị đơn tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi quá hạn trên số nợ gốc chưa trả
của từng khế ước kể từ sau ngày 25/01/2018 cho đến khi trả được hết số nợ gốc
theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong từng khế ước.
Nhận địng của cấp phúc thẩm: Bị đơn kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử
căn cứ vào các thỏa thuận của Nguyên đơn và Bị đơn tại điểm 2.4.1.2 Điều 2
Hợp đồng tín dụng số 300 để xem xét bỏ quy đổi khoản tiền nợ gốc, lãi bằng
tiền USD sang tiền Việt Nam đồng trong phần Quyết định của Bản án sơ thẩm,
Hội đồng xét xử xét thấy Bị đơn vay Nguyên đơn bằng tiền USD, theo Hợp
đồng tín dụng thì Bị đơn có nghĩa vụ trả lại cho Nguyên đơn bằng tiền USD,
nếu Bị đơn không có tiền USD để trả cho Nguyên đơn, thì khi đó mới quy đổi
ra tiền Việt Nam đồng và tỷ giá sẽ được tính vào ngày Bị đơn trả tiền cho
Nguyên đơn. Việc Bản án sơ thẩm quy đổi từ tiền USD sang Việt Nam đồng
chỉ có ý nghĩa trong việc tính án phí mà Bị đơn phải chịu. Tuy nhiên, Bản án
sơ thẩm tính quy đổi tiền USD sang tiền Việt Nam đồng ngay trong phần Quyết
định dễ gây hiểu nhầm là Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn toàn bộ khoản
nợ bằng tiền Việt Nam đồng. Do đó, cần sửa lại phần Quyết định của Bản án
sơ thẩm như Bị đơn kháng cáo. Xác định số tiền Bị đơn còn nợ Nguyên đơn
(hai bên đã thống nhất số liệu) bao gồm nợ gốc 5,679,739.07 USD, nợ lãi trong
hạn 87,601.25 USD, nợ lãi quá hạn 979,444.95 USD. Tổng số tiền nợ gốc và
nợ lãi là 6,746,785.27 USD. Quy đổi ra tiền Việt Nam đồng theo tỷ giá quy đổi
ngày 25/01/2018 là 22.740 đồng/USD là 153.421.897.039 đồng. Về thời gian
tiếp tục tính lãi, tại phiên tòa phúc thẩm Nguyên đơn đồng ý tính lãi từ ngày
tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm trên số tiền nợ gốc (từ ngày16 01/02/2018), thay
cho ngày 25/01/2018 trong Bản án sơ thẩm đây là sự tự nguyện của nguyên đơn
và có lợi cho Bị đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Bản án phúc thẩm tuyên:
1. Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2018/KDTM- ST ngày
31/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP SGHN về tranh chấp
Hợp đồng tín dụng số 300/2014/HĐHM-PN/SHB.110219 ngày 23/07/2014 đối
với Công ty cổ phần XNK TH1 VN.
3. Buộc Công ty cổ phần XNK TH1 VN trả cho Ngân hàng TMCP SGHN
tiền nợ gốc, nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn theo từng khế ước nhận nợ thuộc
Hợp đồng tín dụng số 300/2014/HĐHM-PN/SHB.110219 ngày 23/07/2014
tính đến ngày 25/01/2018, bao gồm nợ gốc 5,679,739.07 USD nợ lãi trong hạn
87,601.25 USD (tám mươi bảy nghìn sáu trăm linh một Đô la Mỹ và hai mươi
lăm cent), nợ lãi quá hạn 979,444.95 USD. Tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi là
6,746,785.27 USD.
4. Bị đơn tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi quá hạn trên số nợ gốc chưa trả
của từng khế ước kể từ ngày 01/02/2018 cho đến khi trả được hết số nợ gốc
theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong từng khế ước.

Bản án số 43/2018/DS-ST ngày 24/7/2018 của Toà án nhân dân huyện


18 Gò Dầu tỉnh Tây Ninh 149 - 155
Về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi, hợp đồng vay tài sản”
Nội dung: Bà Trần Thị H là hàng xóm của bà Võ Thị Ngọc O, bà và chị của
bà O là bạn bè với nhau. Bà O có nhờ bà tham gia hụi của người khác dùm là
hụi của bà Trần Thị H và bà Lương Thị T cụ thể như sau:
- Hụi 5.000.000 đồng/tháng, khui ngày 08/11/2017 âm lịch, do bà Trần Thị
H làm chủ hụi, gồm 24 phần, bà tham gia 01 phần. Hụi này chưa mãn, bà vẫn
góp hụi đầy đủ cho chủ hụi nhưng bà O không giao tiền đóng hụi, nên bà O còn
nợ bà tính đến mãn hụi 23 kỳ là 115.000.000 đồng.
- Hụi 3.000.000 đồng/tháng, khui ngày 20/10/2017 âm lịch, do bà Trần Thị
H làm chủ hụi, bà tham gia dùm 01 phần hụi, gồm 24 phần. Hụi này đến nay
chưa mãn, bà vẫn đóng hụi đầy đủ cho chủ hụi nhưng bà O không giao tiền cho
bà nên bà O nợ bà tính đến mãn hụi là 23 kỳ hụi, tổng cộng là 69.000.000 đồng.
- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 20/10/2017 âm lịch, do bà Lương
Thị T làm chủ hụi, bà tham gia dùm cho bà O 02 phần hụi, gồm 24 phần. Hụi
này đến nay chưa mãn, bà vẫn đóng hụi đầy đủ cho chủ hụi nhưng bà O không
giao tiền góp hụi nên bà O nợ bà tính đến mãn hụi là 23 kỳ hụi, tổng cộng là
46.000.000 đồng. Vào tháng 11 và 12/2017 (âm lịch) bà O có giao cho bà tiền
góp hụi được 14.000.000 đồng nên bà O còn nợ lại là 216.000.000 đồng. Ngoài
ra, bà yêu cầu bà O trả số tiền vay 8.000.000 đồng, đây là tiền vay cho trả góp
hàng ngày. Tổng cộng bà yêu cầu bà O trả số tiền là 224.000.000 đồng. Bà xác
nhận giữa bà và bà O có xác lập hợp đồng vay tài sản bằng ngoại tệ như sau:
vào tháng 6/2017 (âm lịch) với số tiền 2.000 USD, đến tháng 6/2017 (âm lịch)
thứ 2 trong năm với số tiền 2.000 USD và tháng 7/2017 (âm lịch) với số tiền
2.000 USD), nhưng vào ngày 15/11/2017 (âm lịch) hai bên đã chuyển sang tiền
hụi, bà không đồng ý việc bà O trả lại số tiền vay 6.000 USD.
Cấp sơ thẩm nhận định: Thực tế giữa bà H và O có xác lập hợp đồng vay
tiền bằng ngoại tệ tổng cộng là 6.000 USD vào thời gian 02 (hai) tháng 6 và
tháng 7/2017 (âm lịch), lãi suất 2.400.000 đồng/tháng đối với 2.000 USD, hai
bên có lập giấy vay tiền nhưng hiện nay không còn. Xét thấy việc bà H và bà
O tự thỏa thuận hợp đồng góp hụi với nhau không có sự thống nhất với các chủ
hụi, thực tế bà O không có tham gia góp hụi với các chủ hụi, không được lĩnh
(lãnh) hụi là chưa đúng theo quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự, các Điều 6,
7, 8, 9 và 17 Nghị định 144/2006/NĐ CP của Chính phủ ngày 27-11-2006 về
họ, hụi, biêu, phường. Việc bà H và bà O thỏa thuận hợp đồng góp hụi là nhằm
che giấu hợp đồng vay bằng ngoại tệ là không đúng quy định của pháp luật nên
cần tuyên bố hợp dồng góp hụi vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô
hiệu là phù hợp với Điều 124, 131 Bộ luật Dân sự.
Hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Bà O không yêu cầu đối với số tiền
14.000.000 đồng là tiền hụi đã giao cho bà H nên cần ghi nhận. Bà H và bà O
xác lập hợp đồng vay tài sản bằng ngoại tệ là vi phạm pháp luật nên cần buộc
bà O trả lại cho bà H 6.000 USD được quy đổi thành giá trị tiền Việt Nam tại
thời điểm xét xử sơ thẩm là 135.864.000 đồng (1 USD = 22.644 VND theo tỷ
giá trung tâm do Ngân hàng Nhà nước công bố ngày 23/7/2018) và cần sung
công quỹ Nhà nước đối với số tiền lãi suất bà H đã nhận là 36.000.000 đồng.
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Tuyên bố hợp đồng góp hụi theo giấy tay ngày 15/11/2017 (âm lịch) giữa
bà Trần Thị H và bà Võ Thị Ngọc O là vô hiệu. Hậu quả của hợp đồng vô hiệu:
Ghi nhận bà O không yêu cầu đối với số tiền hụi 14.000.000 đồng.
2. Tuyên bố hợp đồng vay tài sản bằng ngoại tệ (USD) giữa bà Trần Thị H
và bà Võ Thị Ngọc O là vô hiệu. Hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Buộc bà Võ
Thị Ngọc O phải trả lại cho bà Trần Thị H số tiền 135.864.000 đồng (tương
đương với 6.000 USD tại thời điểm xét xử sơ thẩm). Buộc bà Trần Thị H phải
nộp lại số tiền lãi suất đã nhận 36.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.
3. Công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự như sau: Bà Võ Thị Ngọc O
xác nhận có nợ bà Trần Thị H số tiền vay 8.000.000 đồng và đồng ý trả số tiền
này.

Bản án số 852/2018/DS-ST ngày 12/10/2018 của Toà án nhân dân quận


B thành phố H
Về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Nội dung: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích Th có ông Nguyễn Trung Ch
đại diện ủy quyền, trình bày: Ngày 15/12/2002, ông Phan Thanh T và bà Phan
Thị Tr làm hợp đồng chuyển nhượng 03 lô đất D4, D5, D6 tại phường TTA,
quận B, Thành phố H cho bà Th với giá 110.000 USD, 03 lô đất này nằm trong
số đất của ông T và bà Tr đầu tư vào dự án của Công ty TNHH Thương mại
dịch vụ ĐA (gọi tắt là công ty ĐA) nên trên GCN quyền sử dụng đất đứng tên
công ty ĐA. Sau nhiều lần bà Th yêu cầu ông T và bà Tr làm thủ tục chuyển
quyền sử dụng đất nhưng bị hẹn mãi không thực hiện. Vào ngày 04/4/2016, ông
T nhận thêm 75.000.000 đồng của bà Th để lo làm thủ tục sang tên nhưng cho
đến nay vẫn không thực hiện.
19 156 - 163
Nay, bà Th yêu cầu ông T và bà Tr thực hiện nghĩa vụ chuyển nhượng 03 lô
đất nói trên cho bà Th. Trường hợp ông T và bà Tr không thực hiện thì phải trả
lại tiền vốn và tiền lãi trong thời gian từ năm 2002 cho đến nay, cụ thể như sau:
Từ tháng 12/2002 đến 12/2007, theo tỷ giá 16.000 đồng/1USD nên số tiền
110.000 USD quy đổi là 1.760.000.000 đồng, lãi suất của số tiền này là
1.760.000.000 đồng x 8,25% x 05 năm = 726.000.000 đồng, như vậy, số tiền
gốc và lãi là 2.486.000.000 đồng. Từ tháng 12/2007 đến 12/2011, lãi suất cơ
bản 12%/năm, số tiền lãi được tính như sau: 2.486.000.000 đồng x 12% x 04
năm = 1.193.280.000 đồng, như vậy, số tiền mới được hình thành tính đến
12/2011 là 2.486.000.000 đồng + 1.193.280.000 đồng = 3.679.280.000 đồng.
Từ 12/2011 đến 11/2016, lãi suất cơ bản 9%/năm. Số tiền lãi của 3.679.280.000
đồng được tính như sau: 3.679.280.000 đồng
Cấp sơ thẩm nhận định: Trong quá trình thu thập chứng cứ, hoà giải đại
diện bà Th khai nhận các bên có quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất
bằng giấy viết tay đề ngày 15/12/2002 đối với 03 lô đất D4, D5 và D6 tại khu
dân cư ĐA thuộc ấp 2, xã TT, huyện BC (nay là phường TTA, quận B, Thành
phố H) với giá 110.000 USD. Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 10/01/2018,
ông T, trình bày: “... xác nhận có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất với bà Nguyễn Thị Bích Th đối với 03 lô đất D4, D5, D6, phường TTA, quận
B, Thành phố H....”, ông cũng xác nhận 04/4/2016, có nhận thêm của bà Th số
tiền 75.000.000 đồng để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Từ sự
thừa nhận của đôi bên, có cơ sở xác định giữa ông T và bà Tr với bà Th có ký
kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng giấy tay đề ngày
15/12/2002, không có công chứng chứng, chứng thực để chuyển nhượng 03 lô
đất D4, D5, D6 tại khu dân cư ĐA thuộc ấp 2, xã TT, huyện BC (nay là phường
TTA, quận B, Thành phố H). Theo quy định tại Điều 707 của Bộ luật dân sự
năm 1995 về hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì: “Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản. Việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, phải được làm thủ tục và đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật về đất đai”. Tại khoản 2 Điều 31 của Luật
đất đai năm 1993 quy định:“ Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nông
thôn làm tại Uỷ ban nhân dân huyện; ở đô thị làm tại Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương”.
Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Th với ông
T và bà Tr đã không tuân thủ đúng quy định của pháp luật về hình thức của hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khi thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, giữa bà Th với ông T và bà Tr tiến hành giao dịch
với nhau bằng ngoại tệ là đồng Đô la Mỹ.
Theo khoản 2 Điều 1 của Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của
Chính phủ quy định: “Tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi hoạt
động ngoại hối của tổ chức, cá nhân phải tuân theo các quy định của Nghị định
này và các quy định khác có liên quan của pháp luật. Ngoại hối chỉ được lưu
hành qua hệ thống ngân hàng, tổ chức và cá nhân được phép hoạt động ngoại
hối”.
Tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005, quy định: “Trên lãnh thổ Việt Nam,
mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không
cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín
dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại
lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép” và
khoản 13 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh số
06/2013/PL-UBTVQH13 ngày 18 tháng 03 năm 2013, quy định: “Điều 22
được sửa đổi, bổ sung như sau: Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh
toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận
và các hình thức tương tự khác của người cư trú, người không cư trú không
được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được phép theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Do đó, giao dịch giữa bà Th với ông T
và bà Tr đã vi phạm điều cấm là giao dịch bằng ngoại tệ nên giao dịch này là
vô hiệu, được quy định tại khoản 1 Điều 137 Bộ luật dân sự 1995 và tại Điều
123 Bộ luật dân sự 2015, nên hợp đồng được ký kết giữa bà Th với ông T, bà
Tr không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác
lập, đôi bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy định của pháp
luật.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi của bà Nguyễn Thị Bích
Th. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tên gọi là hợp đồng
mua bán) lập ngày 15/12/2002 giữa ông Phan Thanh T và bà Phan Thị Tr với
bà Nguyễn Thị Bích Th, hủy giấy nhận tiền đề ngày 04/4/2016 giữa ông Phan
Thanh T với bà Nguyễn Thị Bích Th. Buộc ông Phan Thanh T và bà Phan Thị
Tr có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Bích Th tổng cộng số tiền là
2.638.550.000 đồng, trả làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Đình
chỉ giải quyết yêu cầu của bà Nguyễn Thị Bích Th về việc buộc ông Phan Thanh
T và bà Phan Thị Tr phải trả tiền lãi đối với số tiền 110.000 USD.

Bản án số 03/2018/KDTM-PT ngày 27/11/2018 của Toà án nhân dân


tỉnh Quảng Bình
Về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”
Nội dung: Ngày 03/7/2017 giữa công ty TNHH TVA và Công ty TNHH
Thương mại và dịch vụ tổng hợp TV đã thống nhất ký kết hợp đồng nguyên tắc
bán hàng số 01-CT/2017. Theo đó Công ty TV sẽ bán hàng là than củi có xuất
xứ từ Lào cho Công ty TVA, quy cách hàng hóa, thời gian, phương thức thanh
toán sau này hai bên sẽ ký kết các hợp đồng đối với từng lô hàng cụ thể. Sau
khi ký kết hợp đồng nguyên tắc, hai bên đã nhiều lần giao dịch mua bán hàng
hóa nhưng chỉ thỏa thuận bằng miệng mà không lập các hợp đồng cụ thể, khi
nào Công ty TV giao hàng thì Công ty TVA giao tiền. Tuy nhiên, ngày
03/11/2017, Công ty TVA và Công ty TV từ Lào về Việt Nam và cùng nhau ký
kết Hợp đồng mua bán hàng hóa số 31102017/HĐMB về việc mua bán than
20 trắng xuất xứ từ Lào với số lượng 2.250 thùng với giá 23.625 USD, bên bán là 164 - 172
Công ty TV, bên mua là Công ty TVA, thời hạn giao hàng chậm nhất là 35 ngày
kể từ ngày đặt cọc và giao hết tiền chậm nhất 35 ngày kể từ ngày nhận hàng.
Tuy hợp đồng được ký kết vào ngày 03/11/2017 nhưng hai bên lại thống nhất
lấy ngày 31/10/2017 để ghi trong hợp đồng. Cùng ngày 03/11/2017, theo yêu
cầu của bên Công ty TV, Công ty TVA rút từ Ngân hàng và đã đặt cọc cho
Công ty TV số tiền mặt 150.000.000 đồng, hai bên giao nhận tiền bằng hình
thức Công ty TV ký nhận tiền vào cuối bản hợp đồng giao cho Công ty TVA.
Để thực hiện hợp đồng, ngày 06/11/2017, Công ty TVA tiếp tục chuyển tiền
đặt cọc vào số tài khoản 0311000705837 số tiền 150.000.000 đồng nhưng Ngân
hàng tính bằng ngoại tệ tương ứng 6.613,76 USD (Đô la Mỹ). Trong hai ngày
13 và 14/12/2017, Công ty TVA tiếp tục chuyển vào số tài khoản nói trên cho
Công ty TV số tiền 100.000.000 đồng, được chia làm hai lần, mỗi lần chuyển
50.000.000 đồng. Ngoài tổng số tiền 400.000.000 đồng mà Công ty TVA đã ba
lần chuyển cho Công ty TV nói trên thì Công ty TVA còn mua và chuyển qua
Lào cho Công ty TV 4.300 thùng giấy có giá là 73.100.000 đồng để Công ty
TV đóng hàng và hai bên thỏa thuận sẽ khấu trừ số tiền này vào khoản tiền mà
Công ty TVA giao cho Công ty TV sau khi nhận hàng. Hết thời hạn giao hàng
theo thỏa thuận tại hợp đồng nhưng không thấy Công ty TV chuyển hàng, Công
ty TVA đã nhắc nhở và gửi thông báo nhiều lần yêu cầu thực hiện hợp đồng
cho Công ty TV nhưng Công ty TV vẫn không thực hiện. Khi Công ty TVA đã
tìm cách gặp đại diện Công ty TV thì Công ty TV trốn tránh. Vì vậy, Công ty
TVA khởi kiện yêu cầu Công ty TV phải trả là 499.967.531 đồng.
Bản án sơ thẩm tuyên: Quyết định đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Nguyên
đơn - Công ty trách nhiệm hữu hạn TVA về việc yêu cầu Công ty trách nhiệm
hữu hạn Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV trả lại số tiền 150.000.000 đồng.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn - Công ty trách nhiệm
hữu hạn TVA: Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ tổng
hợp TV phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn TVA số tiền 291.057.531
đồng tiền phạt do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa; 14.190.000 đồng tiền
vận chuyển 4.300 thùng giấy mà Công ty trách nhiệm hữu hạn TVA chở từ Việt
Nam qua Lào giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Th mại và Dịch vụ tổng
hợp TV. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty trách nhiệm hữu hạn TVA về
việc buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV
thanh toán số tiền 58.910.000 đồng tương ứng trị giá 4.300 thùng giấy.
Cấp phúc thẩm nhận định: Nguyên đơn và Bị đơn thừa nhận ngày
03/7/2017 Công ty TVA và Công ty TV đã ký hợp đồng nguyê tắc số 01/
CY/2017 ghi nhận các thỏa thuận mang tính nguyên tắc về việc mua bán hàng
hóa là than trắng xuất xứ từ Lào. Ngày 31/10/2017 hai bên ký Hợp đồng mua
bán hàng hóa có nội dung bên công ty TV bán cho Công ty TVA 2250 thùng
than trắng với giá 10.5USD/thùng, đặt cọc trước giao hàng sau 30 ngày kể từ
ngày nhận tiền đặt cọc. Ngày 6/11 và ngày 13,14/12/2017, bên Công ty TVA
chuyển tiền cho công ty TV tổng số tiền 250 triệu đồng đặt cọc tiền mua than,
số tài khoản ghi trên hợp đồng là số tài khoản của chị Nguyễn Thị Cẩm Nh –
vợ anh Trần Hùng C – giám đốc Công ty TV. Phía công ty TV cho rằng TV
không nhận tiền của TVA chuyển theo số tài khoản ngoại tệ của Công ty TV.
Quá trình giao dịch chuyển và nhận tiền Công ty TV không có ý kiến gì và tất
cả các khoản tiền chuyển qua số tài khoản này Công ty TV đã nhận mà không
từ chối. Thông thường khi các bên giao kết hợp đồng gồm nhiều trang, ngoài
chữ ký và đóng dấu của các bên trong phần cuối cùng của hợp đồng thì còn có
dấu giáp lai của các bên ký kết (nếu các bên có sử dụng con dấu). Nhận thấy
trong hợp đồng mua bán hàng hóa việc không đóng dấu giáp lai cũng không
ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của hợp đồng như lập luận phía Công ty TV đưa
ra. Tuy nhiên, theo Thông tư số 32/2013/TT-NHNN ngày 26/12/2013 hướng
dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam thì
Công ty TV và Công ty TVA không thuộc các đối tượng quy định tại Điều 4
Thông tư được phép sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, đối
tượng giao dịch ghi trong hợp đồng số 3110207/HĐMB ngày 31/10/2017 là
USD (Đô la Mỹ) thuộc trường hợp cấm giao dịch. Do vi phạm điều cấm của
luật nên theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự, Hợp đồng trên là vô hiệu.
Bản án phúc thẩm tuyên:
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TNHH TV, sửa bản án sơ
thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 16/8/2018 của TAND thị xã Ba Đồn:
- Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Công ty TNHH TVA về việc
yêu cầu Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV trả lại số tiền
150.000.000 đồng.
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn - Công ty TNHH
TVA: Buộc Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV phải trả cho
Công ty TVA số tiền 254.190.000 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH TVA về việc buộc Công ty
TNHH Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV thanh toán số tiền 58.910.000
đồng tương ứng trị giá 4.300 thùng giấy và 26.867.531 đồng tiền phạt do vi
phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa số: 31102017/HĐMB ngày 31/10/2017.

Bản án số 09/2019/ DS-ST ngày 27/3/2019 của Toà án nhân dân huyện
Lạng Giang tỉnh Bắc Giang
Về việc “Tranh chấp kiện đòi tài sản và yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu, giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu”
Nội dung: Mối quan hệ giữa chị với anh Kim Ngọc T chỉ là quan hệ quen
biết. Anh T có nhờ chị một số công việc và anh T có gửi cho chị một số tiền
làm nhiều lần, chị có ghi giấy xác nhận cho anh T cụ thể chị nhận số tiền
248.000.000 đồng Việt nam đồng và 11.000 USD. Nay phía anh Kim Ngọc T
yêu cầu chị phải trả tổng số tiền nợ vay trên.
Cấp sơ thẩm nhận định: Đối với yêu cầu buộc chị H trả 11.000 USD và
không yêu cầu tính lãi đối với số tiền này. Hội đồng xét xử xét thấy tại Điều 22
Pháp lệnh về ngoại hối ngày 13/12/2005 và Điều 29 Nghị định 160/2006/NĐ
CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh ngoại
21 hối quy định “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, 173 - 182
quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng
ngoại hối trừ các giao dịch với các tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán
thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp khác cần
thiết khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép” cho nên giao kết được xác lập
giữa các bên vào ngày 10/12/2011 và ngày 01/02/2012 với số tiền 11.000 USD
là ngoại tệ của anh T, chị H đã vi phạm vào điều cấm của pháp luật. Việc các
bên giao dịch nhận tiền của nhau là tiền Đô la Mỹ là giao dịch dân sự vô hiệu
theo quy định tại Điều 122, 127, 128, 130 của Bộ luật dân sự năm 2005. Thời
điểm các bên giao dịch dân sự là vào năm 2011, 2012 nên Căn cứ vào các Điều
127, Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005, cần tuyên bố giao dịch bằng ngoại tệ
(11.000 USD) giữa anh Kim Ngọc T với chị Trần Thị H là giao dịch dân sự vô
hiệu.
Theo quy định tại Điều 137 của Bộ luật dân sự năm 2005 về giải quyết hậu
quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền…”, việc các bên
giao kết cho nhau vay bằng ngoại tệ đã vi phạm điều cấm của pháp luật, nên
không thể buộc bị đơn trả cho nguyên đơn bằng USD (đô la Mỹ) như đã nhận.
Do vậy, buộc chị Trần Thị H phải trả lại anh Kim Ngọc T số tiền 11.000 USD
quy đổi ra tiền Việt Nam. Việc anh T tự nguyện thỏa thuận trị giá 1 USD =
20.000 Việt nam đồng không cao hơn so với giá hiện tại là có lợi cho chị H, vì
đây là sự tự nguyện của anh T, không trái pháp luật nên HĐXX chấp nhận yêu
cầu này của anh T.
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Kim Ngọc T: Buộc chị Trần Thị H
phải trả anh Kim Ngọc T số tiền 248.000.000đồng (Hai trăm bốn mươi tám
triệu đồng).
2.Tuyên bố giao dịch bằng ngoại tệ (nhận số tiền 11.000 USD) được xác lập
bằng giấy biên nhận ghi các ngày 10/12/2011 và ngày 01/02/2012 giữa chị Trần
Thị H với anh Kim Ngọc T là giao dịch dân sự vô hiệu. Buộc chị Trần Thị H
phải trả cho anh Kim Ngọc T số tiền 220.000.000 đồng. Tổng cộng: Buộc chị
Trần Thị H phải trả anh Kim Ngọc T tổng số tiền là: 468.000.000 đồng.

Bản án số 128/2019/DS-ST ngày 26/4/2019 của Toà án nhân dân quận


10 thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Đòi tài sản”
Nội dung: Vào tháng 6/2017 vì có nhu cầu xin Visa đi Mỹ nên bà Nguyễn
Thị , thông qua cháu trai bà giới thiệu nhờ ông Đoàn Trung C làm thủ tục xin
Visa đi Mỹ với giá 5.000 USD. Theo thoả thuận thì bà M sẽ đưa trước cho ông
C 4.500 USD, số tiền này bà M chia làm 02 đợt: đợt 1 đưa cho ông C 2.000USD
vào tháng 3/2017, đợt 2 đưa tiếp cho ông C 2.500USD. Đôi bên có lập biên
nhận xác nhận đã nhận 02 đợt tiền này. Tổng số tiền bà M đã đưa ông C là
4.500USD. Số tiền 500USD còn lại bà M sẽ đưa cho ông C khi bà được cấp
visa. Trường hợp, bà không được cấp visa đi Mỹ thì ông C trả lại cho bà
22 3.700USD. Ông C có hứa với bà đến tháng 10/2017 sẽ thực hiện thủ tục xin 183 - 187
visa đi Mỹ. Nhưng tới tháng 10/2017 chưa thấy ông C làm thủ tục, bà M hỏi thì
ông C nói việc xin visa đi Mỹ tốn rất nhiều tiền, nên ông không làm cho bà
được. Sau đó, bà M có yêu cầu ông C trả lại 3.700USD như đã thỏa thuận ban
đầu, ông C hẹn qua năm 2018 sẽ trả lại tiền cho bà. Tuy nhiên, đến nay ông vẫn
không trả tiền cho bà. Nay, bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đoàn Trung
C phải trả lại 3.700USD được quy ra bằng tiền đồng Việt Nam tại thời điểm xét
xử sơ thẩm, trả một lần ngay sau khi bản án/quyết định có hiệu lực pháp luật.
Bản án sơ thẩm nhận định: Theo Biên nhận về việc làm visa ngày
09/6/2017 do nguyên đơn nộp thì ông C cam kết rằng “…có nhận làm visa đi
Mỹ với số tiền 5.000 dollar cho cô Nguyễn Thị M sanh năm 1963. Địa chỉ:
633/32 Lê Hồng Phong F.10, Quận 10, TPHCM Cô Mỹ đặc cọc trước cho tôi
4.500 USD…”, phía dưới tờ biên nhận này có chữ viết và chữ ký mang tên
Đoàn Trung C. Mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông C đều
vắng mặt trong suốt quá trình quá trình giải quyết vụ án, việc này xem như ông
C từ bỏ quyền trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, quyền cung cấp tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Căn cứ khoản 2 và khoản 4 Điều 91, Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Hội đồng xét xử chấp nhận lời khai và chứng cứ của nguyên đơn nên có cơ sở
xác định ông C có nhận của bà M số tiền 4.500USD. Cũng theo nội dung của
tờ biên nhận nêu trên thì ông C có cam kết rằng “…Sau khi làm xong cô M được
cấp visa (usa) thì cô Mỹ sẽ đưa thêm 500 USD. Nếu cô M không được cấp visa
thì tôi sẽ hoàn trả 3.700usd cho cô M”. Theo khoản 13 Điều 1 Pháp lệnh sửa
đổi Pháp lệnh ngoại hối năm 2013 thì “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch,
thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng,
thỏa thuận và các hình thức tương tự khác của người cư trú, người không cư
trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được phép theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”, nên sự thỏa thuận giữa bà M và
ông C là trái quy định pháp luật do các bên đã giao dịch với nhau bằng tiền đô
la Mỹ. Căn cứ Điều 123 và Điều 131 Bộ luật Dân sự, có cơ sở xác định giao
dịch giữa bà M và ông C là vô hiệu và ông C phải có nghĩa vụ trả lại cho bà M
4.500USD. Tuy nhiên, bà M chỉ yêu cầu ông C trả lại 3.700 USD, đây là yêu
cầu hoàn toàn có lợi cho phía bị đơn nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện
của bà M đối với yêu cầu này.
Về thời hạn và phương thức thanh toán: Xét thời gian ông C giữ số tiền đã
nhận của bà M đã quá lâu (từ tháng 6/2017) mặc dù đã được bà M gửi thông
báo nhắc nhở, nên cần thiết buộc ông C phải trả một lần ngay sau khi bản án có
hiệu lực pháp luật. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn buộc ông Đoàn Trung C phải trả cho bà
Nguyễn Thị M số tiền là 3.700 USD x 23.230 đồng = 85.951.000 đồng theo tỷ
giá ngoại tệ đăng trên Báo Sài gòn giải phóng ngày 26/4/2019 với giá mua
1USD là 23.230 đồng.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn. Buộc ông Đoàn Trung C phải trả cho bà Nguyễn Thị M số tiền 85.951.000
đồng trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án
chưa thi hành bản án nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải
trả tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả tại thời
điểm thanh toán theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự năm 2015.

Bản án số 153/2019/DS-PT ngày 29/8/2019 của Toà án cấp cao tại Đà


Nẵng
23 Về việc “Yêu cầu thanh toán tiền thuê nhà, tiền đặt cọc và tiền phạt” 188 - 195
Nội dung: Ngày 27/01/2018 ông Y và ông Trần Văn T đã ký hợp đồng thuê
nhà Lô số 73, tờ bản đồ số 10, tại địa chỉ số 42 Đường P, quận N, thành phố Đà
Nẵng. Theo hợp đồng này, giá thuê là 2400 USD/tháng. Thời hạn thuê nhà là
05 năm. Tiền cọc là 7200 USD tương đương 3 tháng tiền thuê nhà, được trả 06
tháng một lần. Mục đích thuê nhà là cung cấp các dịch vụ nhà hàng – khách
sạn. Căn cứ theo hợp đồng ông Y đã thanh toán 06 tháng tiền thuê nhà với số
tiền là 14.400 USD theo ủy nhiệm chi số 452985 ngày 09/2/2018 và 03 tháng
tiền cọc là 7.200 USD theo điện chuyển tiền ngày 29/12/2017. Tổng số tiền mà
ông Y đã thanh toán cho ông Trần Văn T là 21.600 USD. Ngày 27/01/2018 ông
Trần Văn T đã bàn giao nhà cho ông Y, toàn bộ nội thất của ngôi nhà đã bị hư
hỏng hoàn toàn, tất cả các thiết bị vệ sinh đều không thể sử dụng và phục vụ
cho mục đích kinh doanh của ông Y. Vào ngày 27/02/2018, ông Y phải thuê
đội vệ sinh với chi phí là 30.000.000 đồng đến tháo dỡ và chuyển toàn bộ thiết
bị cũ ra khỏi nhà và đầu tư thay thế thiết bị mới. Yêu cầu Tòa án xem xét và
hủy bỏ Hợp đồng thuê nhà đã ký ngày 27/01/2018 giữa ông Y và ông Trần Văn
T vì đã vi phạm các quy định của pháp luật Việt Nam. Yêu cầu ông Trần Văn
T trả lại tiền đặt cọc và thuê nhà 06 tháng tiền thuê nhà là 21.600 USD cộng
với tiền phạt tương đương với 03 tháng tiền thuê nhà là 7.200 USD vì đã đơn
phương chấm dứt hợp đồng. Tổng cộng số tiền mà ông T phải trả lại là
667.008.000 đồng.
Tại bản án sơ thẩm tuyên:
1. Đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn ông Y buộc bị đơn ông Trần Văn T phải
trả lại số tiền 30.000.000 đồng mà ông Y đã bỏ ra để thuê đội vệ sinh tháo dỡ
các thiết bị hư hỏng ra ngoài.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Y “Yêu cầu hủy hợp đồng
thuê nhà; Yêu cầu thanh toán tiền thuê nhà, tiền đặt cọc” đối với bị đơn ông
Trần Văn T.
2.1. Tuyên hợp đồng thuê nhà ký ngày 27/01/2018 giữa ông Y và ông Trần
Văn T vô hiệu. Buộc ông Trần Văn T phải trả lại cho ông Y số tiền 500.256.000
đồng
2.2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc phạt hợp đồng ông
Trần Văn T số tiền 166.752.000 đồng.
2.3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn
phải bồi thường tài sản bằng giá trị là: 500.325.000 đồng
Cấp phúc thẩm nhận định: Hợp đồng thuê nhà lập ngày 27/01/2018,7 giữa
ông Y và ông Trần Văn T, trong đó quy định giá thuê nhà là đồng USD và thực
tế các bên cũng đã thanh toán bằng đồng USD. Giao dịch này được thực hiện
trên lãnh thổ Việt Nam, do đó được điều chỉnh theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Căn cứ Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 và các Điều 3, 4 Thông
tư số 32/2013/TT-NHNN ngày 26/12/2013 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam,
hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt
Nam, thì hợp đồng này là vi phạm điều cấm của pháp luật. Do đó Tòa án cấp
sơ thẩm căn cứ vào điểm c Điều 117, Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, tuyên
bố hợp đồng cho thuê nhà nêu trên là vô hiệu và buộc các bên khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận là đúng quy định pháp luật,
nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T về nội dung
này.
Bản án phúc thẩm tuyên: Bác kháng cáo của ông Trần Văn T, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.

Bản án số 62/2019/DSST ngày 12/12/2019 của Toà án nhân dân thành


phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận.
Về việc “Tranh chấp HĐ vay tài sản”
Nội dung: Trong năm 2018, vợ chồng ông Nguyễn Thanh M và bà Nguyễn
Thị T có cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài T có vay
nhiều lần nhưng không trả lãi. Đến ngày 30/4/2019, thì bà Nguyễn Thị Ngọc L
chốt nợ gốc và lãi với tổng số tiền 402.100.000 đồng và 300 USD. Nhưng từ
khi chốt nợ đến nay vẫn không trả cho vợ chồng ông M, bà T. Nay tôi yêu cầu
vợ chồng bà L, ông T phải trả cho vợ chồng ông M, bà T số tiền 402.100.000
đồng và 300 USD.
Cấp sơ thẩm nhận định:
- Đối với khoản tiền 402.100.000 đồng, Bị đơn thừa nhận đã nợ số tiền trên
nên căn cứ theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 cần chấp nhận
yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn bà L phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn
số tiền gốc là 402.100.000 đồng.
- Đối với khoản tiền 300 USD là giao dịch bằng ngoại tệ: Các giao dịch giữa
các cá nhân về việc vay ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam là trái với quy định tại
24 Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005, sửa đổi bổ sung năm 2013 vì các đương sự 196 - 202
không thuộc đối tượng được phép sử dụng ngoại tệ trong giao dịch dân sự. Vì
vậy, giao dịch mượn nợ ngày 30/4/2019 giữa nguyên đơn và bị đơn bị vô hiệu
một phần do vi phạm điều cấm của pháp luật được quy định tại Điều 117 và
Điều 123 của Bộ luật dân sự năm 2015. Tuy nhiên, Nguyên đơn là người có
tiền ngoại tệ cho vay vì vậy buộc Nguyên đơn phải biết các qui định về việc
vay ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, cần xác định lỗi hoàn toàn thuộc
về Nguyên đơn. Vì vậy, đối với khoản tiền 300 đô la Mỹ, chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Nguyên đơn buộc bị đơn phải trả nợ nhưng giao dịch bị vô hiệu
1 phần là lỗi của Nguyên đơn nên Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự không
có giá ngạch trên số tiền 300 đô la Mỹ bị vô hiệu.
Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên
đơn. Buộc Bị đơn là vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài T
phải có nghĩa vụ trả nợ cho vợ chồng ông Nguyễn Thanh M và bà Nguyễn Thị
T số tiền 402.100.000 đồng. Tuyên bố một phần giao dịch ngày 30/4/2019 giữa
Nguyên đơn và Bị đơn bị vô hiệu, buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông
Nguyễn Hoài T phải hoàn trả cho Nguyên đơn ông Nguyễn Thanh M và bà
Nguyễn Thị T số tiền 300 USD được quy đổi thành tiền đồng Việt Nam theo tỉ
giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành án.
Bản án số 413/2020/DS-PT ngày 23/10/2020 của Toà án nhân dân thành
phố Hà Nội
Về việc “Tranh chấp Hợp đồng cho thuê mặt bằng”
Nội dung: Bà Phượng là chủ sở hữu Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương
Mại GE Việt Nam (gọi tắt là Công ty GE), chồng bà là ông Bae Yong (gọi tắt
là ông Yong) là Giám đốc Công ty. Ngày 28/10/2015, ông Lương Thành Đ và
bà P ký Hợp đồng cho thuê mặt bằng tại tầng 1 và tầng 3 nhà số 20 Hàng Tre,
Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội, thời hạn thuê 3 năm kể từ ngày 12/11/2015
đến ngày 31/12/2018, giá thuê là 2.600USD/1 tháng để mở cửa hàng buôn bán
mỹ phẩm và salon chăm sóc sắc đẹp. Hai bên thỏa thuận kỳ đầu tiên thanh toán
3 tháng một lần, tiếp sau đó thanh toán 6 tháng một lần. Bà Phượng đã thanh
toán cho ông Đ tiền thuê nhà đến hết ngày 12/8/2016, cụ thể: lần 1 vào ngày
21/10/2015 thanh toán 58.084.000đồng; lần 2, vào ngày 28/10/2015 thanh toán
116.168.000 đồng, lần 3 vào ngày 12/01/2016 thanh toán 15.600USD. Người
ký tên trên các phiếu thu, nhận tiền của bà P là ông Phạm Anh Sơn. Ngay sau
khi ký Hợp đồng, vợ chồng bà P ký hợp đồng thi công sửa chữa văn phòng với
Công ty TNHH Thương mại Thiết kế nội thất và xây dựng Hà Thành, cải tạo
lại toàn bộ nội thất tầng 1 và tầng 3 của nhà 20 Hàng Tre với giá trị là
883.466.000 đồng. Trong quá trình thi công, sửa chữa nâng cấp nội thất, vợ
chồng bà nhập máy móc, thiết bị từ Hàn Quốc có giá trị trên 600.000.000 đồng.
Công ty của vợ chồng bà giao cho ông Hong Jong Woun (gọi tắt là ông Woun)
25 là chuyên gia làm tóc và quản lý cửa hàng. Từ tháng 5/2016 doanh thu 1 tháng 203 - 220
là hơn 200.000.000 đồng. Cuối tháng 5/2016, bà P nghỉ sinh con thì doanh thu
tháng 6/2016 tụt xuống còn 30.000.000 đồng. Bà Phượng kiểm tra thì phát hiện
nhân viên người Hàn Quốc và nhân viên người Việt Nam đã cấu kết chiếm đoạt
doanh thu của cửa hàng. Ngày 11/7/2016, ông Sơn là người quản lý tòa nhà yêu
cầu bà P thanh toán 6 tháng tiền nhà tiếp theo cho ông Đ, trong khi ông Đ không
có liên hệ nào với bà. Ngày 13/7/2016, ông Sơn gửi thông báo cho bà P chấm
dứt hợp đồng thuê nhà. Khi bà P liên hệ với ông Đ thì ông Đ trả lời do bà đóng
cửa hàng nên chấm dứt hợp đồng. Theo Hợp đồng ký kết giữa bà P với ông Đ
thì không có quy định về trường hợp được đơn phương chấm dứt hợp đồng do
chậm nộp tiền, nếu có đơn phương chấm dứt thì phải thông báo trước 60 ngày.
Việc bà P chưa thanh toán tiền nhà sau khi đến thời hạn phải nộp mới được 2
ngày và việc bà đóng cửa hàng một tuần không thuộc trường hợp được đơn
phương chấm dứt hợp đồng. Ông Đức đơn phương chấm dứt hợp đồng trong
khi tiền nhà bà P đã nộp đến hết ngày 12/8/2016. Ngày 13/7/2016 ông Đ đã ký
hợp đồng với bà Yoo Kyung Hee (gọi tắt là bà Hee - vợ ông Woun) cho thuê
mặt bằng tại tầng 1 và tầng 3 nhà 20 Hàng Tre theo đúng nội dung hợp đồng đã
ký với bà, đồng thời bàn giao luôn tài sản của bà cho vợ chồng Woun khai thác,
sử dụng. Bà Phượng đã nhiều lần yêu cầu ông Đ bàn giao lại tài sản cho vợ
chồng bà nhưng ông Đ không hợp tác. Việc làm này đã gây thiệt hại rất lớn về
tài sản và uy tín trong hoạt động kinh doanh sản xuất của vợ chồng bà.
Nay bà khởi kiện yêu cầu:
1. Yêu cầu ông Đ tiếp tục thực hiện hợp đồng cho thuê mặt bằng đã ký giữa
hai bên ngày 28/10/2015, Bàn giao lại cho bà nguyên vẹn toàn bộ tài sản bao
gồm máy móc, thiết bị và hàng hóa mỹ phẩm trong Salon tóc và Showroom mỹ
phẩm tại nhà số 20 Hàng Tre; Bồi thường các thiệt hại cho bà trong thời gian
ông Đ đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật khiến bà không thể thực
hiện công việc kinh doanh tại đó.
2. Yêu cầu ông Đ bàn giao các tài sản của ông bà đã đầu tư vào địa điểm
thuê của ông Đ cho ông bà và yêu cầu bên thứ 3 chấm dứt việc sử dụng trái
phép tài sản của ông bà. Đề nghị ông Đ bồi thường thiệt hại theo giá trị bà đã
mua sắm là 1.792.309.600 đồng về việc chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Trả
lại cho bà 01 tháng tiền nhà là 2.600 đô la mỹ tương đương 59.189.000 đồng.
Bản án sơ thẩm tuyên:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P đối với ông Lương Thành Đ.
2. Tuyên bố Hợp đồng cho thuê mặt bằng giữa bà Nguyễn Thị P và ông
Lương Thành Đ ký ngày 28/10/2015 về việc thuê tầng 1 và tầng 3 nhà số 20
Hàng Tre, Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm Hà Nội có thời hạn 3 năm từ ngày
12/11/2015 tới 31/12/2018 là có hiệu lực pháp luật.
3. Bà Nguyễn Thị P vi phạm Khoản 2.2, Điều 2 Hợp đồng cho thuê mặt bằng
ký ngày 28/10/2015 giữa bà Nguyễn Thị P và ông Lương Thành Đ.
4. Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị P đề nghị ông Lương Thành
Đ bồi thường thiệt hại số tiền là 1.792.309.600 đồng.
5. Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị P đề nghị ông Lương Thành
Đ trả lại 01 tháng tiền thuê mặt bằng là 2.600 đô la mỹ tương đương 59.189.000
đồng.
6. Ông Lương Thành Đ không phải trả lại 01 tháng tiền thuê mặt bằng là
2.600 đô la mỹ tương đương 59.189.000 đồng cho bà Nguyễn Thị P.
Cấp phúc thẩm nhận định:
2.1 Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ vào lời khai của vợ chồng ông
Woun thì giữa ông Woun, ông Yong và ông Yeon có ký Hợp đồng hợp tác đầu
tư để mở Công ty tại Việt Nam, trên cơ sở đó ông Hong và ông Yeon đã đầu tư
tiền và chuyển vào tài khoản của ông Yong tại Hàn Quốc. Ông Woun, bà Hee
đã mua sắm một số máy móc trang thiết bị từ Hàn Quốc và thông qua Công ty
TNHH Thương mại GE Việt Nam để nhập khẩu vào Việt Nam, tuy nhiên ông
Woun, bà Hee chưa nộp được các tài liệu, chứng cứ hợp pháp chứng minh cho
trình bày nêu trên là có cơ sở. Quá trình giải quyết vụ án ông Woun, bà Hee có
Đơn yêu cầu độc lập, do không nộp tiền tạm ứng án phí nên Tòa án cấp sơ thẩm
không thụ lý đối với yêu cầu độc lập của ông Woun, bà Hee. Do có tranh chấp
về quyền sở hữu tài sản nên lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải làm rõ yêu cầu này
của ông Woun, bà Hee, giải thích để ông Woun, bà Hee thực hiện quyền có yêu
cầu độc lập để giải quyết vụ án đảm bảo quyền, nghĩa vụ cho các đương sự.
Nếu có căn cứ xác định trình bày của ông Woun, bà Hee là có cơ sở, ông Yeon
đang ở Hàn Quốc, theo quy định tại khoản 3 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ
án này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tòa
án nhân dân quận Hoàn Kiếm phải chuyển hồ sơ vụ án lên Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội để giải quyết theo thẩm quyền.
2.2 Về việc xác định người tham gia tố tụng:
Căn cứ vào trình bày của nguyên đơn cùng tài liệu, chứng cứ là Phiếu thu
thể hiện, ông Phạm Anh Sơn là người quản lý tòa nhà 30 Hàng Tre có 3 lần ký
nhận tiền thuê nhà của bà P.
Quá trình giải quyết vụ án bà P trình bày, tháng 5/2016 bà P nghỉ sinh con
nên có giao cho vợ chồng ông Hong quản lý cửa hàng. Do thấy doanh thu tháng
6 giảm nên bà P yêu cầu đóng cửa hàng để kiểm tra. Ngày 11/7/2016 ông Sơn
yêu cầu bà phải thanh toán tiền nhà cho ông Đ, trong khi ông Đ không có liên
hệ gì với bà. Ngày 13/7/2016, bà P nhận được Văn bản Thông báo chấm dứt
Hợp đồng trước thời hạn do ông Sơn gửi cho bà. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm
lại không đưa ông Sơn vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan để làm rõ việc ông Đ có ủy quyền cho ông Sơn thông báo
cho bà P hay không? Việc ủy quyền đó bà P có biết không?
2.3 Về tư cách chủ thể tham gia ký hợp đồng thuê nhà:
Ngày 13/11/2013 Công ty Cổ phần Đầu tư và Dịch vụ Đ do ông Lương
Thành Đ làm Giám đốc ký hợp đồng thuê nhà với ông Bùi Mạnh Hùng
(BL329). Điều 7 nội dung Hợp đồng thể hiện, Công ty Đ không được tự ý cho
thuê lại toàn bộ hoặc thuê lại một phần của diện tích nhà thuê nếu chưa được
sự đồng ý của bên cho thuê (ông Hùng).
Ngày 28/10/2015, ông Đ ký tên trong Hợp đồng cho thuê mặt bằng với bà P
với tư cách cá nhân. Việc cho thuê nhà chưa được làm rõ phía bên thuê nhà là
ông Hùng có đồng ý để cho thuê lại như các bên thỏa thuận trong hợp đồng
không?. Trong bản án không nhận định về nội dung này. Theo quy định tại Điều
119 Luật Nhà ở năm 2014 quy định: Điều kiện của các bên tham gia giao dịch
về nhà ở như sau:
1. Bên bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua
bán nhà ở thương mại, tặng cho, đổi, để thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn,
cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở phải có điều kiện sau đây:
a) Là chủ sở hữu nhà ở hoặc người được chủ sở hữu cho phép, ủy quyền để
thực hiện giao dịch về nhà ở theo quy định của Luật này và pháp luật về dân
sự. Trường hợp chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải
là người đã mua nhà ở của chủ đầu tư hoặc người đã nhận chuyển nhượng hợp
đồng mua bán nhà ở. Do đó, xác định việc ông Đ ký hợp đồng cho thuê nhà với
bà P là không đúng thẩm quyền. Chưa làm rõ việc chủ thể có quyền được thực
hiện giao dịch cho thuê nhà hay không?
2.4 Về việc thu thập chứng cứ:
- Như đã phân tích ở nội dung nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã chưa làm rõ
việc ông Đ ký hợp đồng cho bà P thuê nhà với tư cách gì ? ông Đ có quyền
được cho thuê lại nhà hay không? Toà án cấp sơ thẩm xác định Hợp đồng thuê
nhà giữa bà P với ông Đ có hiệu lực pháp luật là chưa đủ căn cứ.
- Qúa trình giải quyết vụ án, bà P yêu cầu ông Đ phải bồi thường cho bà toàn
bộ giá trị tài sản mà bà đã đầu tư theo giá trị mới. Để có căn cứ giải quyết đối
với yêu cầu của của bà P, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành định giá tài
sản, tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tiến hành xem xét, thẩm định mà không
tiến hành định giá phần sửa chữa trụ sở và tài sản bà P đã đầu tư máy móc thiết
bị, mỹ phẩm là thiếu sót. Không có căn cứ để giải quyết vụ án trong trường hợp
xác định Hợp đồng cho thuê nhà vô hiệu.
2.5 Về thanh toán tiền thuê nhà bằng ngoại hối trong Hợp đồng:
Căn cứ vào lời khai của bà P và Phiếu thu ngày 12/01/2016 thể hiện, bà P đã
thanh toán số tiền thuê nhà là 15.600USD. Căn cứ Điều 3 Thông tư 32/2013/TT-
NHNN quy định về sử dụng ngoại tệ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam: Trên
lãnh thổ Việt Nam, trừ các trường hợp được sử dụng ngoại hối quy định tại
Điều 4 Thông tư này, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá,
định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác
(bao gồm cả quy đổi hoặc điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ, giá trị của hợp
đồng, thỏa thuận) của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện
bằng ngoại hối. Như vậy, theo quy định nêu trên thì Hợp đồng thuê mặt bằng
được ký kết giữa bà P và ông Đ thỏa thuận thanh toán tiền thuê là 2.600 đô la
mỹ/1 tháng và thực tế bà P đã thanh toán tiền lần thứ 3 với số tiền 15.600USD
là vi phạm điều cấm theo Điều 123 Bộ luật dân sự 2015.
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại nhận định các bên thỏa thuận thanh toán
bằng ngoại tệ nhưng khi thanh toán đã quy đổi ra tiền Việt Nam, trên cơ sở đó
xác định hợp đồng có hiệu lực là không đúng.
2.6 Về giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại:
Xem xét nội dung Hợp đồng cho thuê nhà giữa bà P với ông Đ ký ngày
28/10/2015, không có điều khoản nào thoả thuận chấm dứt hợp đồng do vi
phạm nghĩa vụ thanh toán. Việc ông Đ đơn phương chấm dứt Hợp đồng với bà
P là vi phạm khoản 4.5 của Hợp đồng, cụ thể: “…Trong trường hợp bên A muốn
chấm dứt Hợp đồng trước thời hạn cần thông báo bằng văn bản cho bên B biết
trước 60 ngày. Trong trường hợp bên A vi phạm điều khoản chấm dứt hợp đồng
thì bên A phải bồi thường toàn bộ chi phí thiêt kế của bên B.”
Quá trình giải quyết vụ án bà P xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh
Công ty TNHH Thương mại GE Việt Nam do chồng bà là ông Yong là Giám
đốc đã thanh toán 799.733.000 đồng trên tổng số tiền 883.466.000đ. Hợp đồng
thi công sửa chữa Showroom và một số hoá đơn, chứng từ mua sắm thiết bị,
máy móc phục vụ cho việc kinh doanh. Ngày 13/7/2016, ông Đ thông báo chấm
dứt hợp đồng trước thời hạn và bàn giao toàn bộ tài sản này cho ông Woun quản
lý và sử dụng là trái quy định của pháp luật, gây thiệt hại về tài sản của Công
ty GE cũng như của vợ chồng bà P. Ngày 06/10/2017 Bà Phượng có đơn đề
nghị ông Đ bồi thường thiệt hại 1.792.309.600 đồng, trong đó có giá trị sửa
chữa đầu tư 883.466.000 đồng.
Tuy nhiên bản án sơ thẩm nhận định, Công ty TNHH Thương mại GE do bà
P đại diện theo uỷ quyền không có yêu cầu độc lập nên không xem xét là không
đúng, bởi lẽ trong vụ án này bà P tham gia với hai tư cách, vừa là người khởi
kiện vừa là người đại diện theo uỷ quyền của Công ty TNHH Thương mại GE.
Yêu cầu khởi kiện của bà P buộc ông Đ phải bồi thường thiệt hại số tiền nêu
trên phải được xác định là yêu cầu độc lập, đồng thời cần làm rõ những tài sản
nào thuộc tài sản của Công ty GE, những tài sản nào là của cá nhân bà P, trên
cơ sở đó hướng dẫn để tách và giải quyết đối với từng yêu cầu mới đảm bảo vụ
án được giải quyết một cách toàn diện.
Ngoài ra theo quy định tại khoản 2 Điều 132 Luật Nhà ở năm 2014, quy định
về việc Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở: Bên cho thuê
nhà ở có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà và thu hồi
nhà ở đang cho thuê khi Bên thuê không trả tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận từ
03 tháng trở lên mà không có lý do chính đáng.
Căn cứ theo quy định nêu trên thì bà P đã thanh toán tiền thuê nhà đến ngày
12/8/2016. Tòa án cấp sơ thẩm xác định lỗi thuộc về bà P nên không buộc ông
Đ phải bồi thường thiệt hại là không đúng quy định của pháp luật.
2.7 Việc xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng ông Woun, bà Hee: Theo
ông Woun trình bày, ông Woun cùng người có tên Yeon và ông Yong (chồng
bà P) ký Hợp đồng hợp tác đầu tư hỗ trợ hoạt động kinh doanh cho ông Woun
ở Việt Nam, ông Woun và ông Yeon đã chuyển tiền vào tài khoản của ông
Yong mở tại Hàn Quốc để mua sắm thiết bị, máy móc chuyển về Việt Nam hoạt
động kinh doanh, tuy nhiên phía ông Yong, bà P không thừa nhận việc này.
Trong hồ sơ không có tài liệu, chứng cứ hợp pháp chứng minh lời trình bày của
vợ chồng ông Woun là có căn cứ. Trong khi các bên đang có tranh chấp về
quyền sở hữu tài sản là trang thiết bị, sản phẩm mỹ phẩm đã đầu tư tại cửa hàng
thuê tại 20 Hàng Tre, lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm cần giải thích cho vợ chồng ông
Woun thực hiện quyền có yêu cầu độc lập để giải quyết trong cùng vụ án. Trong
khi chưa có căn cứ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu tài sản, bản án sơ thẩm
lại nhận định, lời trình bày của các đương sự phù hợp với thực tế nên xác định
có việc đầu tư hợp tác giữa ba bên để chia lợi nhuận, như vậy là thiếu căn cứ.
Bản án phúc thẩm tuyên:
Huỷ toàn bộ bản án Dân sự sơ thẩm số 06/2019/DSST ngày 03/5/2019 và
08/5/2019 Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Giao hồ sơ vụ
án về Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm để giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản số: 2100/2007/KDTM-ST


Ngày: 22/11/2007
V/v: “Tranh chấp hợp đồng nhận cung
cấp và lắp đặt thang máy ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HCM


Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Trong các ngày 14, 21 và 22 tháng 11 năm 2007, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân
thành phố HCM, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 365/2006/TLST-KDTM ngày
08 tháng 6 năm 2006 về “Tranh chấp hợp đồng cung cấp và lắp đặt thang m áy” theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 1872/2007/QĐST-KDTM ngày 23 tháng 10 năm 2007 giữa các
đương sự:

Nguyên đơn:
NĐ Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Công nghiệp Nam Tiến
Địa chỉ: 25 Đường 17, Phường BTĐ, Quận BT, Thành phố HCM
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Huỳnh Tấn Tài, Giám đốc (Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư TTH, Đoàn luật sư
Thành phố HCM

Bị đơn:
BĐ Công ty TNHH Việt Phát
Địa chỉ: 781/C1 LHP (nối dài), Phường 12, Quận Y, Thành phố HCM
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Võ Văn Ý, Giấy ủy quyền ngày 04/4/2006
(Có mặt)

Người làm chứng:


Bà Lê Hoài Thu Phương, Nhân viên Công ty cổ phần Thang máy Thịnh Đạt

NHẬN THẤY:
Nguyên đơn trình bày:

1
Ngày 23/7/2005, NĐ_Công ty TNHH Công nghiệp Nam Tiến ký Hợp đồng kinh tế số
701 /WESTERN nhận cung cấp và lắp đặt 2 thang máy cho BĐ Công ty TNHH Việt Phát tại
Công trình Khách sạn Việt Phát (VT). NĐ_Công ty Công nghiệp Nam Tiến đã lắp đặt xong
nhưng BĐ Công ty Việt Phát chưa thanh toán đủ, còn nợ lại 157.600.000 đồng.
Ngày 12/9/2005, NĐ_Công ty TNHH Công nghiệp Nam Tiến ký tiếp Hợp đồng kinh
tế số 703/WESTERN nhận cung cấp và lắp đặt 2 thang máy cho BĐ_Công ty TNHH Việt
Phát tại Công trình tòa nhà Văn phòng Việt Phát (địa chỉ: 19 TTT, Quận Y, Thành phố
HCM). NĐ_Công ty Công nghiệp Nam Tiến đã nhận của BĐ_Công ty Việt Phát 21.000 USD
(tương đương 333.900.000 đồng) tiền cọc nhưng chưa thực hiện việc lắp đặt thang máy vì
BĐ Công ty Việt Phát làm áp lực, hăm dọa khiến NĐ Công ty Công nghiệp Nam Tiến
không thể chuyển tiền thêm ra nước ngoài để nhập hàng về Việt Nam lắp đặt.
NĐ_Công ty Công nghiệp Nam Tiến khởi kiện yêu cầu thanh lý 2 hợp đồng nói trên,
buộc BĐ Công ty Việt Phát thanh toán số tiền còn nợ của Hợp đồng số 701, NĐ Công ty
Công nghiệp Nam Tiến đồng ý trả lại cho BĐ Công ty Việt Phát số tiền cọc đã nhận của Hợp
đồng số 703.

Bị đơn trình bày:


Xác nhận BĐ_Công ty Việt Phát có ký kết với NĐ_Công ty Công nghiệp Nam Tiến 2
hợp đồng cung cấp và lắp đặt thang máy nói trên.
Đối với Hợp đồng số 701, xác nhận số tiền mua hàng chưa thanh toán là 157.600.000
nhưng chỉ đồng ý thanh toán cho NĐ_Công ty Công nghiệp Nam Tiến 7.130.000 đồng vì
phải trừ đi chi phí sửa chữa thang máy là 144.870.000 đồng.
Đối với Hợp đồng số 703, xác nhận hợp đồng đã bị hủy bỏ, yêu cầu NĐ_Công ty
Công nghiệp Nam Tiến phải hoàn trả số tiền cọc đã nhận (tương đương 21.000 USD) và trả
tiền phạt tương đương 21.000 USD, tổng cộng 42.000 USD.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành, các bên đương sự vẫn giữ nguyên ý
kiến.

Tại phiên tòa hôm nay:


Nguyên đơn:
- Yêu cầu bị đơn phải thanh toán ngay số tiền mua hàng còn nợ của Hợp đồng số
701 là 157.600.000 đồng, không đồng ý trừ chi phí sửa chữa 144.870.000 đồng.
- Yêu cầu hủy bỏ Hợp đồng số 703, đồng ý trả lại số tiền cọc 21.000 USD cho bị
đơn ngay sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật (cấn trừ vào số tiền nợ của Hợp đồng số 701
nói trên). Không chấp nhận trả tiền phạt cọc 21.000 USD.
- Rút lại yêu cầu khởi kiện đòi hoàn trả hoặc bồi thường số đồ nghề (trị giá
20.012.000 đ) mà NĐ_Công ty Công nghiệp Nam Tiến đã gửi BĐ_Công ty Việt Phát.

Bị đơn:
- Đồng ý thanh toán số tiền còn nợ của Hợp đồng số 701 là 157.600.000 đồng
nhưng phải trừ chi phí mà BĐ Công ty Việt Phát đã bỏ ra để sửa chữa thang máy là
144.870.000 đồng.

2
- Yêu cầu nguyên đơn phải hoàn trả ngay 21.000 USD tiền cọc và trả tiền phạt cọc
21.000 USD theo quy định của Bộ luật Dân sự (bằng tiền đồng VN theo tỷ giá của Ngân hàng
Ngoại thương D - Chi nhánh Thành phố HCM).

Ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn:


- Hợp đồng giữa hai bên là hợp đồng kinh tế, phải áp dụng Luật Thương mại năm
1997.
- Bị đơn cho rằng có thuê Công ty Thịnh Đạt sửa chữa thang máy nhưng tại phiên
tòa hôm nay, đại diện Cty Thịnh Đạt xác nhận không có việc sửa chữa.
- Việc nguyên đơn không sửa chữa được thang máy là do bị đơn không cho người
của nguyên đơn vào sửa chữa. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị trừ
chi phí sửa chữa 144.870.000 đồng do bị đơn đưa ra.
- Bị đơn hoàn toàn không có khiếu nại về việc hủy bỏ hợp đồng và đòi phạt cọc
trong thời hạn quy định tại Điều 241 Luật Thương mại năm 1997. Trong Biên bản ngày
18/01/2006, các bên không có thỏa thuận về việc phạt cọc trong trương hợp nguyên đơn
không thực hiện hợp đồng mà chỉ có thỏa thuận việc trả lại tiền cọc.
- Hợp đồng số 703 được các bên thỏa thuận thanh toán bằng đô la Mỹ là trái pháp
luật nên bị vô hiệu.

XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. v ề thẩm quyền giải quyết vụ án:


Đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại (hợp đồng mua bán hàng hóa) giữa các
tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận, bị đơn có trụ sở tại Quận Y,
Thành phố HCM, với trị giá phần hợp đồng kinh tế có tranh chấp lớn hơn 50.000.000 đồng.
Vì vậy, căn cứ vào Điểm a, Khoản 1 Điều 29, Khoản 1 Điều 34, Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố
tụng dân sự; Khoản 3 Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 của Quốc hội về việc thi
hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 1 Nghị quyết số 742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày
24/12/2004 của ủ y ban thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền giải quyết các vụ việc
dân sự quy định tại Điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự cho các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
Thành phố HCM theo thủ tục Tố tụng dân sự.

2. v ề thời hiệu khởi kiện:


Tháng 7 và tháng 9 năm 2005, các bên ký kết các hợp đồng cung cấp và lắp đặt thang
máy. Tháng 4 năm 2006, nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết
tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng này.
Căn cứ vào Điểm a, Khoản 3, Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 242 Luật
Thương mại năm 1997 cũng như Điều 319 Luật Thương mại năm 2005, nguyên đơn đã làm
đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền và lợi
ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết.

3
3. v ề nội dung tranh chấp:
a) Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi BĐ Công ty Việt Phát phải thanh toán
ngay số tiền mua hàng còn nợ của Hợp đồng số 701 là 157.600.000 đồng và hủy bỏHợp
đồng số 703 (đồng ý trả lại cho BĐ_Công ty Việt Phát số tiền cọc 21.000.000 USD):
Căn cứ vào các chứng cứ do nguyên đơn xuất trình (gồm Bản tường trình ngày
24/01/2006 của ông Võ Quang Vinh có xác nhận của Công an phường TT và xác nhận của
Công an Phường 13 Quận Tân Bình ngày 11/10/2007) và lời khai nhận của đại diện các bên
tại phiên tòa hôm nay, đã có đủ căn cứ xác định NĐ Công ty Công nghiệp Nam Tiến đã thực
hiện xong việc lắp đặt 2 thang máy cho BĐ Công ty Việt Phát theo Hợp đồng số 701 nhưng
bên mua là BĐ Công ty Việt Phát chưa thanh toán đủ, còn nợ lại 157.600.000 đồng tiền mua
hàng. Việc bên bán không tiến hành sửa chữa được thang máy để được bên mua nghiệm thu
và chấp nhận thanh toán là do bên mua không tạo điều kiện để bên bán thực hiện (chưa hết
hạn thỏa thuận đã ngăn cản, không cho người của bên bán vào công trình để tiến hành sửa
chữa).
v ề chi phí sửa chữa thang máy mà bị đơn đề nghị khấu trừ vào tiền mua hàng, do bị
đơn không xuất trình được chứng cứ là bản chính của các chứng từ thực hiện để chứng minh,
đồng thời người làm chứng tại phiên tòa là đại diện Công ty cổ phần Thang máy Thịnh Đạt
(bên ký hợp đồng sửa chữa với bị đơn) cũng phủ nhận việc sửa chữa thang máy cho bị đơn,
nên không có căn cứ để Tòa án chấp nhận việc khấu trừ khoản chi phí này.
Do đó, yêu cầu của nguyên đơn đòi thanh toán số tiền hàng còn nợ 157.600.000 đồng
theo Hợp đồng số 701 là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật tại các Điều 63 và 71
Luật Thương mại năm 1997, cần được chấp nhận.
v ề Hợp đồng số 703, do các bên đã đồng ý hủy bỏ nên yêu cầu của nguyên đơnđòi
hủy bỏ hợp đồng cũng có căn cứ để được Tòa án chấp nhận.
b) Xét yêu cầu phản tố của bị đơn đòi NĐ_Công ty Công nghiệp Nam Tiến phải hoàn
trả ngay số tiền cọc đã nhận của Hợp đồng số 703 tương đương 21.000 USD đồng thời trả
tiền phạt tương đương 21.000 USD (chấp nhận trả tiền mua hàng còn nợ của Hợp đồng số
701 sau khi trừ chi phí sửa chữa 144.870.000 đồng là 12.730.000 đồng):
Do Hợp đồng số 703 đã bị hủy bỏ và nguyên đơn cũng đã đồng ý hoàn trả cho bị đơn
số tiền cọc tương đương 21.000 USD nên yêu cầu hoàn trả tiền cọc của nguyên đơn là có căn
cứ, cần được chấp nhận.
v ề yêu cầu trả tiền phạt cọc 21.000 USD: Do các bên thỏa thuận trong hợp đồng
phương thức thanh toán bằng đô la Mỹ và thực tế cũng thanh toán trực tiếp với nhau bằng đô
la Mỹ không qua ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối (căn cứ vào Phiếu thu ngày
12/9/2005 do nguyên đơn xuất trình) là vi phạm điều cấm của pháp luật (Khoản 2 Điều 1
Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối) nên theo
quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và hướng dẫn tại Nghị
quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, dù các
bên có hủy bỏ hay không hủy bỏ, Hợp đồng số 703 cũng bị vô hiệu toàn bộ và phải được xử
lý theo quy định tại Điều 39 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận;
thiệt hại các bên tự chịu; không có việc phạt vi phạm hợp đồng).
Mặt khác, khi chấp nhận hủy bỏ hợp đồng, BĐ Công ty Việt Phát cũng hoàn toàn
không có đưa ra yêu cầu phạt cọc 21.000 USD (Biên bản bàn giao tài sản ngày 18/01/2006

4
giữa 2 bên chỉ đề cập đến việc hoàn trả tiền cọc và việc chuyến giao chiếc xe SH 150 mà
không có thỏa thuận việc phạt cọc trong trường hợp NĐ_Công ty Công nghiệp Nam Tiến
không thực hiện hợp đồng).
Do đó, yêu cầu của bị đơn đòi trả tiền phạt 21.000 USD là không có căn cứ để được
chấp nhận.

4. v ề án phí:
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 131 Bộ luật Tố tụng dân sự và các Điều 15, 18 và 19 Nghị
định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án:
- NĐ_Công ty Công nghiệp Nam Tiến phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả
cho BĐ Công ty Việt Phát và phải nộp ngân sách số tiền tạm ứng án phí tương ứng với phần
yêu cầu được rút lại tại phiên tòa.
- BĐ Công ty Việt Phát phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho NĐ Công ty
Công nghiệp Nam Tiến và số tiền yêu cầu không được Tòa án chấp nhận.

Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng các Điều 63; 70; 71; 241 Luật Thương mại năm 1997; các Điều 8 và 39 Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc BĐ Công ty TNHH Việt Phát
phải có trách nhiệm thanh toán cho NĐ Công ty TNHH Công nghiệp Nam Tiến số tiền mua
hàng còn nợ theo Hợp đồng kinh tế số 701 /WESTERN ngày 23/7/2005 giữa hai bên là
157.600.000 đ (một trăm năm mươi bảy triệu sáu trăm ngàn đồng) và hủy bỏ Hợp đồng kinh
tế số 703/WESTERN ngày 12/9/2005.
2. Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi BĐ Công ty TNHH Việt
Phát phải bồi thường thiệt hại 20.012.000 đồng là trị giá số đồ nghề của NĐ_Công ty TNHH
Công nghiệp Nam Tiến bị BĐ Công ty TNHH Việt Phát chiếm giữ.

3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn, buộc NĐ Công ty TNHH Công
nghiệp Nam Tiến phải có trách nhiệm hoàn trả cho BĐ Công ty TNHH Việt Phát số tiền cọc
đã nhận theo Hợp đồng kinh tế số 703/WESTERN ngày 12/9/2005 là 337.197.000 đ (ba trăm
ba mươi bảy triệu một trăm chín mươi bảy ngàn đồng).

4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn đòi NĐ Công ty TNHH Công nghiệp
Nam Tiến phải trả tiền phạt tương đương 21.000 USD.
Thi hành án đồng thời các khoản tiền được chấp nhận nói trên, NĐ Công ty TNHH
Công nghiệp Nam Tiến phải thanh toán cho BĐ Công ty TNHH Việt Phát số tiền chênh lệch
là 179.597.000 đ (một trăm bảy mươi chín triệu năm trăm chín mươi bảy ngàn đồng).

5. v ề án phí:
- NĐ Công ty TNHH Công nghiệp Nam Tiến phải chịu án phí sơ thẩm là
16.360.000 đồng; cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 9.470.120 đồng (theo Biên lai

5
thu tiền số 002109 ngày 24 tháng 5 năm 2006 của Thi hành án dân sự Thành phố HCM),
NĐ Công ty TNHH Công nghiệp Nam Tiến còn phải nộp thêm 6.889.880 đồng.
- BĐ Công ty TNHH Việt Phát phải chịu án phí sơ thẩm là 23.163.000 đ (hai
mươi ba triệu một trăm sáu mươi ba ngàn đồng); cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
10.778.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 002656 ngày 27 tháng 7 năm 2007 của Thi
hành án dân sự Thành phố HCM), BĐ Công ty Việt Phát còn phải nộp thêm 12.385.000
đồng.

6. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải
thi hành án không chịu thanh toán số tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương
ứng với thời gian chưa thi hành án.

7. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án./.

6
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 08/2012/KDTM-ST


Ngày: 29/08/2012
V/v: “ Tranh chấp kinh doanh thương
mại về hợp đồng đặt cọc ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X - THÀNH PHỐ HCM


Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị H.


Các Hội thẩm nhân dân'. 1/ Bà Nguyễn Thị Thu c
2/ Bà Nguyễn Thị Lệ H
Thư kỷ Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Lê Thị Thuỳ T - Cán bộ Tòa án nhân dân
Quận X.

Ngày 29 tháng 8 năm 2012, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận X số 27 đường Thành Thái -
Phường 14 Quận X xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01.1/2012/TLST-KDTM ngày 17
tháng 01 năm 2012 về: “Tranh chấp kinh doanh thương mại về hợp đồng đặt cọc” Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 142/2012/QĐXX-ST ngày 08 tháng 8 năm 2012 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:
NĐ Công ty TNHH Bỉomen Việt Nam.
Địa chỉ: 94-96 Lê Lai, Phường BT, Quận Y, Thành phố HCM.
Đại diện theo pháp luật: Bà Trần Đỗ Thuy Oanh - Sinh năm: 1978.
Thường trú: 65/5 HVB, Phường 17, quận PN, Thành phố HCM (có mặt).

Bị đơn:
Bà BĐ Nguyễn Thiên Ngân Hồng - Sinh năm: 1988.
Đại diện theo ủy quyền: Bà LQ_Hà Thị Thu Hiền - Sinh năm: 1964.
(Theo giấy ủy quyền ngày 14/02/2012).
Địa chỉ: 107H/23 LLQ, Phường 3, Quận z, Thành phố HCM.

7
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà LQ_Hà Thị Thu Hiền - Sinh năm: 1964.
2/ Bà LQ_Hà Thị Thu Thư - Sinh năm: 1958.
Cùng địa chỉ: 107H/23 LLQ, Phường 3, Quận z, Thành phố HCM.
(Các đương sự xin vắng mặt tại Tòa)

NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện ngày 20/12/2011 và đơn khởi kiện bổ sung lần 3 ghi ngày 17/4/2011
và tại các bản tự khai của NĐ Công ty TNHH Biomen Việt Nam do bà Trần Đỗ Thúy Oanh đại
diện trình bày: Ngày 05/11/2011 NĐ_Công ty TNHH Biomen Việt Nam do bà Trần Đỗ Thúy
Oanh đại diện, đã thỏa thuận lập hợp đồng thuê căn nhà số 474 LHP, Phường ỉ, Quận X với bà
BĐ Nguyễn Thiên Ngân Hồng, hợp đồng thuê do hai bên thống nhất soạn thảo. Theo nội dung
hợp đồng thì bà BĐ Nguyễn Thiên Ngân Hồng đồng ýcho NĐ Công tyTNHH Biomen Việt
Nam thuê toàn bộ căn nhà để Công ty làm văn phòng và showroom, giá thuê là1.000
USD/tháng; giá thuê ổn định trong 02 năm; thời gian thuê là 02 năm; ngày giao mặt bằng trễ nhất
là ngày 10/11/2011, tuy nhiên các bên chưa thực hiện việc ký kết hợp đồng. Cùng ngày bà Oanh
đã tiến hành đặt cọc là 3.000 USD cho bà LQ_Hà Thị Thu Hiền là mẹ của bà BĐ Hồng tại nhà
474 LHP, Phường 1, Quận X. Ngày 06/11/2011 NĐ_Công ty TNHH Biomen Việt Nam đề nghị
bà BĐ Hồng, bà LQ Hiền tiến hành công chứng hợp đồng thuê nhà và Công ty đưa đội thi công
đến đo đạc và tiến hành sửa chữa. Ngày 07/11/2011 bà LQ Hiền cho biết bà LQ Thư chị bà
không đồng ý nội dung hai bên đã thỏa thuận và đề nghị thay đổi hai điều khoản ghi trong hợp
đồng, đó là không cho bên thứ 3 thuê lại nhà và không được sửa chữa lại nhà thì mới đồng ý
công chứng hợp đồng. Phía Công ty không đồng ý và yêu cầu bên cho thuê trả lại tiền cọc, do bà
BĐ Hồng, bà LQ Hiền không đồng ý giao nhà và không đồng ý công chứng hợp đồng; nhưng
bà LQ Hiền chỉ đồng ý trả lại 2.000 USD (việc đề nghị thay đổi, bà LQ Hiền chỉ thông báo qua
điện thoại, không có văn bản). Do bên cho thuê không thực hiện đúng thỏa thuận nên bà Oanh
đại diện cho NĐ Công ty TNHH Biomen Việt Nam nộp đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung
yêu cầu bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trả tiền cọc 3.000 USD tương đương
với 63.033.000 VNĐ và trả tiền lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước qui định là
9%/năm trên số tiền đã đặt cọc, tiền lãi được tính từ ngày 16/11/2011 cho đến khi trả hết số tiền.

Bị đơn bà BĐ Nguyễn Thiên Ngân Hồng có bà LQ_Hà Thị Thu Hiền đại diện trình bày:
Căn nhà số 474 LHP, Phường 1, Quận X, Thành phố HCM thuộc quyền sở hữu của bà LQ_Hà
Thị Thu Thư. Theo văn bản ủy quyền lập ngày 14/4/2011 tại phòng công chứng số 02, bà
LQ Thư ủy quyền cho bà BĐ Nguyễn Thiên Ngân Hồng được quyền cho thuê căn nhà trên và
ngày 27/9/2011 bà BĐ Hồng làm giấy chấp thuận cho bà LQ_Hà Thị Thu Hiền được nhận tiền
đặt cọc căn nhà, đồng thời bà LQ Thư cũng xác nhận đồng ý cho bà LQ Hiền được nhận tiền
đặt cọc của NĐ Công ty TNHH Biomen Việt Nam do bà Oanh làm đại diện đặt cọc. Trong quá
trình cho thuê nhà có nhờ ông Hứa Hoàng Kha là người trông coi nhà và hướng dẫn khách xem
nhà, không liên quan gì đến vụ án. Ngày 05/11/2011 hai bên thỏa thuận thống nhất các điều
khoản ghi trong hợp đồng, nhưng chưa thực hiện việc ký kết hợp đồng và liền sau đó NĐ Công

8
ty TNHH Biomen Việt Nam do bà Oanh làm đại diện đặt cọc 3.000USD cho bà LQ Hiền, việc
giao nhận tiền cọc được thực hiện ngay tại căn nhà cho thuê này, đây cũng được xem là bản ghi
nhớ thỏa thuận để làm cơ sở tiến hành ký hợp đồng chính thức tại phòng công chứng. Hai bên
thỏa thuận một tuần sau sẽ ra công chứng và dự kiến bàn giao mặt bằng vào ngày 10/11/2011.
Tuy nhiên trước ngày công chứng hợp đồng thuê nhà, bà Oanh chê nhà nhỏ và yêu cầu bà
BĐ Hồng thêm vào hợp đồng điều khoản cho cơi nới phần sân thượng để làm nhà kho thì mới
công chứng ký hợp đồng thuê nhà. Bà BĐ Hồng không đồng ý với yêu cầu này vì sợ ảnh hưởng
đến kết cấu của nhà mà yêu cầu công chứng theo hợp đồng hai bên đã thỏa thuận. Do đó ngày
30/11/2011 bị đơn gửi thông báo với nội dung: từ 30/11/2011 đến 05/12/2011 nguyên đơn không
tiến hành ký kết hợp đồng thuê nhà thì mất tiền đặt cọc. Nay bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà LQ_Hà Thị Thu Hiền trình bày: Thống nhất
như lời khai trình bày của bị đơn và vẫn kiên định cho thuê nhà theo các điều khoản mà hai bên
đã thỏa thuận, việc không tiến hành công chứng ký kết hợp đồng không phải do lỗi của bên cho
thuê. Bà LQ Hiền đã nhận tiền cọc 3.000USD của NĐ Công ty TNHH Biomen Việt Nam do bà
Oanh đứng đại diện đặt cọc, bà không đồng ý trả tiền cọc.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà LQ_Hà Thị Thu Thư trình bày: Bà là chủ
sở hữu căn nhà số 474 LHP, Phường ỉ, Quận X. Ngày 14/4/2011 tại phòng công chứng số 02, bà
làm văn bản ủy quyền cho bà BĐ Nguyễn Thiên Ngân Hồng được quyền cho thuê căn nhà trên
và ngày 27/9/2011 bà BĐ Hồng làm giấy chấp thuận cho bà LQ_Hà Thị Thu Hiền được nhận
tiền đặt cọc căn nhà, bà cũng xác nhận đồng ý cho bà LQ Hiền được nhận tiền đặt cọc của
NĐ Công ty TNHH Biomen Việt Nam do bà Oanh làm đại diện thuê và không có ý kiến yêu cầu
gì-

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn rút yêu cầu về tiền lãi, chỉ yêu cầu bị đơn và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trả tiền cọc 3.000 USD tương đương với 63.033.000
VNĐ.
Bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin vắng mặt.

XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Xét đơn khởi kiện của nguyên đơn NĐ Công ty TNHH Biomen Việt Nam khởi kiện đòi
hoàn trả số tiền đặt cọc 3.000USD, Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyên đơn NĐ_Công ty TNHH
Biomen Việt Nam là pháp nhân có đăng ký kinh doanh, bà Oanh khi ký hợp đồng đặt cọc thuê
nhà với tư cách là đại diện Công ty, mục đích thuê để làm văn phòng Công ty. v ề phía người cho
thuê ký hợp đồng đặt cọc cho thuê toàn bộ căn nhà để hưởng lợi. Như vậy, các bên cùng có mục
đích lợi nhuận, căn cứ hướng dẫn tại Điểm b Khoản 1.1 Điều 1 của Mục I Nghị quyết
01/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đây là quan hệ “tranh
chấp kinh doanh thương mại về hợp đồng đặt cọc”. Các bên thực hiện hợp đồng đặt cọc tại căn

9
nhà 474 LHP, Phường ỉ, Quận X nên Tòa án nhân dân Quận X là nôi thực hiện hợp đồng có
thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 36 Bộ luật Tố tụng dân sự (đã sửa
đổi, bổ sung năm 2011).
Xét hợp đồng ủy quyền chứng thực tại Phòng công chứng số 2 ngày 14/02/2012 của bà
BĐ Nguyễn Thiên Ngân Hồng ủy quyền cho bà LQ_Hà Thị Thu Hiền đại diện tham gia Tố tụng
tại Tòa là hợp lệ nên được chấp nhận.
Bà LQ_Hà Thị Thu Hiền tham gia Tố tụng trong vụ án với tư cách là đại diện theo ủy
quyền của bị đơn, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Bà LQ Hiền
có đơn xin vắng mặt trong quá trình Tòa giải quyết vụ án. Xét đơn của bà LQ Hiền là hợp lệ nên
được chấp nhận. Căn cứ Khoản 1 Điều 202 Bộ luật Tố tụng dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm
2011). Tòa xét xử vắng mặt bà BĐ Hồng, bà LQ Hiền.
Xét đơn xin vắng mặt của bà LQ_Hà Thị Thu Thư là hợp lệ, căn cứ Khoản 1 Điều 202
Bộ luật Tố tụng dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2011), Tòa tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn bà
LQThư.
Xét lời khai của bà LQ Hiền thừa nhận ông Hứa Hoàng Kha chỉ là người trông coi nhà
và hướng dẫn khách xem nhà, ông Kha không liên quan gì đến vụ án; mặt khác ông Kha cũng có
lời khai không có yêu cầu gì tại Tòa. Nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải đưa ông
Kha vào tham gia Tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tại phiên tòa nguyên đơn NĐ Công ty TNHH Biomen Việt Nam do bà Oanh đại diện tự
nguyện xin rút lại yêu cầu đòi bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải thanh toán tiền
lãi. Xét việc rút yêu cầu của nguyên đơn là tự nguyện, căn cứ Khoản 2 Điều 218 Bộ luật Tố tụng
dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2011), Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với
phần yêu cầu về tiền lãi của NĐ_Công ty TNHH Biomen Việt Nam.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn NĐ_Công ty TNHH Biomen Việt Nam đòi số tiền
đặt cọc thuê nhà 3.000 USD, Hội đồng xét xử xét thấy:
Căn cứ lời khai trình bày của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài
liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ thì các bên đều thừa nhận có thỏa thuận thuê căn nhà 474
LHP, Phường 1, Quận X, nhưng chưa thực hiện việc ký kết hợp đồng và công chứng hợp đồng
thuê nhà. Bà Oanh và bà LQ Hiền đều thừa nhận vào ngày 05/11/2011, bà LQ Hiền có nhận số
tiền đặt cọc thuê nhà bằng tiền đô la Mỹ là 3.000 USD tại căn nhà trên.

Xét hai bên đã giao dịch đặt cọc bằng tiền đô la Mỹ là vi phạm điều cấm pháp luật về
quản lý ngoại hối quy định tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối. Căn cứ vào Điều 128 Bộ luật Dân sự
năm 2005 giao dịch bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, về hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự bị vô hiệu theo Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005, giao dịch dân sự không làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Như vậy giao dịch đặt cọc
ngày 05/11/2011 bị vô hiệu và không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Bên cho thuê
có trách nhiệm hoàn trả cho nguyên đơn số tiền đã nhận là 3.000USD, tương đương số tiền
62.448.000 đồng (tỉ giá Đô la Mỹ ngày 29/8/2012 là 20.828 đồng/lUSD).

10
Tại phiên tòa hôm nay bà LQ Hiền, bà BĐ Hồng, bà LQ Thư đều xin xét xử vắng mặt.
Quá trình thu thập chứng cứ bà LQ Hiền, bà BĐ Hồng, bà LQ Thư không đồng ý hoàn trả tiền
cọc vì cho rằng việc không công chứng được hợp đồng thuê nhà là do lỗi của nguyên đơn. Tuy
nhiên, như đã phân tích, giao dịch trên là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật nên yêu cầu
này của bà LQ Hiền, bà BĐ Hồng, bà LQ Thư không có cơ sở để chấp nhận. Theo bà LQ Thư
là chủ sở hữu căn nhà xác định, bà đồng ý để bà LQ Hiền nhận số tiền cọc và bà BĐ Hồng được
bà LQ Thư ủy quyền cho thuê nhà cũng đồng ý để bà LQ Hiền nhận tiền đặt cọc của phía
nguyên đơn. Do không xác định được hiện nay ai là người đang quản lý số tiền đặt cọc này, để
đảm bảo quyền lợi cho các đương sự, Hội đồng xét xử buộc bà LQ Hiền, bà LQ Thư và bà
BĐ Hồng cùng liên đới chịu trách nhiệm hoàn trả cho nguyên đơn số tiền nêu trên. Nếu bà
LQ Hiền, bà LQ Thư, bà BĐ Hồng sau này có phát sinh tranh chấp về số tiền cọc đã nhận thì
có quyền khởi kiện trong vụ án khác.
v ề án phí DSST: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án, yêu
cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho nguyên
đơn, nguyên đơn được chấp nhận yêu cầu nên không phải chịu án phí. Đối với yêu cầu về tiền lãi
của nguyên đơn đã đình chỉ xét xử nên được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí theo quy định tại
Khoản 3 Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:
- Áp dụng Khoản 2 Điều 32 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
- Áp dụng Điểm e Khoản 1 Điều 29, Điểm b Khoản 1 Điều 33, Điểm g Khoản 1 Điều 36,
Khoản 1 Điều 131, Khoản 3 Điều 193, Khoản 1 Điều 202, Khoản 2 Điều 218, Khoản 1 Điều 245
Bộ luật Tố tụng dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2011).;
- Áp dụng Điều 122, Điều 127, Điều 128, Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Áp dụng Điều 306 Luật Thương mại;
- Áp dụng Điều 5, Khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;
- Áp dụng Thông tư Liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc xét xử và thi hành án
về tài sản.
Tuyên bố vô hiệu Hợp đồng đặt cọc thuê căn nhà số 474 LHP, Phường ỉ, Quận X giữa
NĐ Công ty TNHH Biomen Việt Nam với bà BĐ Nguyễn Thiên Ngân Hồng và bà LQ_Hà Thị
Thu Hiền.
Buộc bà BĐ Nguyễn Thiên Ngân Hồng, bà LQ_Hà Thị Thu Hiền và bà LQ_Hà Thị Thu
Thư liên đới hoàn trả NĐ Công ty TNHH Biomen Việt Nam số tiền 3.000 USD tương đương
62.448.000 đồng.
Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của nguyên đơn NĐ Công ty TNHH Biomen Việt
Nam đòi bị đơn phải thanh toán tiền lãi.
Đôi bên thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi án có hiệu
lực pháp luật.

11
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành
án xong tất cả các khoản tiền trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trương tại thời
điểm thanh toán tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Án phí dân sự sơ thẩm: 3.124.200 đồng bà BĐ Hồng, bà LQ Hiền, bà LQ Thư phải
chịu.
Hoàn lại cho NĐ Công ty TNHH Biomen Việt Nam số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
1.625.000 đồng theo biên lai thu tiền số 03175 ngày 09/01/2012 và số tiền nộp tạm ứng án phí là
59.000 đồng theo biên lai số 03508 ngày 20/4/2012 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X.
Trương hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cươõng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các đương sự có thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng đối bà
BĐ Hồng, bà LQ Hiền, bà LQ Thư thời hạn kháng cáo tính từ ngày được tống đạt hợp lệ bản
án.

12
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Quyết định giám đốc thẩm


Số: 11/2013/KDTM-GĐT
Ngày: 16/05/2013
về vụ án tranh chấp hợp đồng tư vấn
đầu tư

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO


Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

Ngày 16 tháng 5 năm 2013, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, đã mở phiên tòa giám đốc
thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng tư vấn đầu tư, giữa các đương
sự:

Nguyên đơn:
NĐ Công ty TNHH DE JANGKUM;
Có trụ sở tại số 53-8 CD, GN, so, KR (HQ);
Địa chỉ trụ sở Văn phòng đại diện tại Việt Nam: 3F TM Tower khu đô thị MĐ, huyện TL,
thành phố HN;
Do bà Nguyễn Thị Thu Hiền làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 05/01/2009 của Giám
đốc Công ty.

Bị đơn:
BĐ Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Phượng Tím;
Có trụ sở tại số 161A, tổ 15 NT, thị xã HG, tỉnh HG;
Do ông Vũ Văn Việt làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 24/8/2009 của Giám đốc
Công ty.

NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/12/2008 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án,
thì thấy:

13
SHINHWA Construction Industry Co.,Ltd (sau đây gọi tắt là Công ty Shinhwa) là doanh
nghiệp của HQ, do ông Kim Sang Bum đứng đầu Văn phòng đại diện tại HN (Giấy phép thành
lập văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam số 01-000967 cấp ngày
13/8/2007 của Sở Thương mại thành phố HN). Ngày 22/7/2008, SHINHWA Construction
Industry Co.,Ltd sáp nhập với NĐ_DE JANGKUM Co.,Ltd (sau đây gọi tắt là NĐ_Công ty
Jangkum), đặt Văn phòng đại diện tại HN vẫn do ông Kim Sang Bum đứng đầu (Giấy phép
thành lập văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam số 01-000967 cấp ngày
12/8/2007 của Sở Công thương thành phố HN).
Ngày 28/01/2008, BĐ_Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Phượng Tím (sau đây gọi tắt
là BĐ Công ty Phượng Tím) và Công ty Shinhwa ký kết Hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến
khu đất tại Lô E7, đường PH, TL, HN.
Theo hợp đồng thì “Bên A (BĐ Công ty Phượng Tỉm) sẽ thay mặt Bên B (Công ty
Shinhwa) liên hệ với cơ quan có thẩm quyền xin mọi phê chuẩn cần thiết đế xin được Khu đất
cho Bên B (hoặc những bên do Bên B chỉ định - gọi là Công ty Đầu tư) thực hiện D ự án bao gồm
xin phê chuẩn nguyên tắc và xin quyết định giao/thuê đất chỉnh thức
Dịch vụ do Bên A cung cấp (Điều II):
“(ỉ)- Bên A sẽ thay mặt Bên B tiến hành các thủ tục cần thiết để xin Khu đất từ các cơ
quan có thẩm quyền của thành ph ổ H N cho Bên B để thực hiện D ự án bao gồm nhưng không
giới hạn việc sau:
(a) Xin chấp thuận nguyên tắc cho Khu đất được cấp cho Bên B hoặc những bên do Bên
B chỉ định để thực hiện D ự án ừong vòng 4 tháng kể từ ngày của Hợp đồng này;
(b) Thu xếp việc kỷ kết hợp đồng thuê đất chỉnh thức giữa Công ty Đầu tư và cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam và xin được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dưới tên của
Công ty Đầu tư trong vòng 4 tháng kể từ ngày của chấp thuận nguyên tắc của ủ y ban nhân dân
thành ph ổ HN. Thời hạn quy định tại Điều này không bao gồm thời gian Bên B chuẩn bị và hoàn
thiện hồ sơ pháp lý theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;
(2)- Khu đất mà Bên A xin cho D ự án của Bên B sẽ không bị ràng buộc về cầm cổ thế
chấp, đã được giải phóng hoàn toàn và sẽ phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- M ục đích sử dụng đất: Trung tâm thương mại, văn phòng và căn hộ để bán và cho thuê;
- Hệ sổ sử dụng đất: toi thiểu là 1200%;
- Hình thức đầu tư: 100% von nước ngoài;
- Thời hạn D ự án: 49 năm
- Các bên đồng ỷ rằng mỗi yêu cầu trên là quan trọng đổi với Bên B và Công ty Đầu tư
và nếu không xin được phê chuẩn cho mọi yêu cầu ừên thì Bên B có thế chấm dứt hợp đồng này
mà không phải trả bất kỳ khoản p h ỉ hoặc bồi thường nào cho Bên A. Trong trường hợp này Bên
A sẽ phải hoàn lại cho Bên B mọi khoản thanh toán Bên B đã ứng trước cho Bên A theo Hợp
đồng này;
(3)- Bên A bảo đảm rằng mình có đủ năng lực và tư cách pháp nhân để cung cấp các
dịch vụ nêu tại Hợp đồng này. Neu bảo đảm này không đúng ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của
Hợp đồng thì Bên A cam kết bồi thường mọi thiệt hại cho Bên B;

14
(4)- Bèn B đảm bảo cung cấp mọi giấy tờ, tài liệu cần thiết và đáp ứng mọi yêu cầu tài
chỉnh cho D ự án mà các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu với tư cách là một nhà đầu tư nước
ngoài để Bên A h ỗ trợ trong việc xin giấy chứng nhận đầu tư cho D ự án
Phí dịch vụ và thanh toán (Điều III):
“(ỉ)- Các bên đồng ỷ rằng tổng p h ỉ dịch vụ mà Bên B phải trả cho Bên A cho các dịch vụ
mà Bên A cung cấp cho Bên B theo Hợp đồng này sẽ là USD 6.000.000 (gọi là Phỉ Dịch vụ);
(2)- P hỉ dịch vụ sẽ được thanh toán thành 3 lần như sau:
(a) Sau khi ký kết Hợp đồng này Bên B sẽ ứng trước một khoản là USD 1.000.000.
(b) Sau khi Bên A xin được phê chuẩn nguyên tắc như được quy định tại Điều I I (1)(a),
Bên B sẽ thanh toán một khoản là USD 3.000.000;
(c) Sau khi Bên B hoặc Công ty Đầu tư nhận được quyết định cho thuê đất hoặc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất như được quy định tại Điều I I (l)(c) trên, Bên B sẽ thanh toán
phần còn lại của P hỉ Dịch vụ cho Bên A; (3) Các bên đồng ỷ rằng ngoài P hỉ Dịch vụ nêu tại điều
này, Bên B sẽ không phải thanh toán cho Bên A bất kỳ khoản thanh toán nào khác. B ất kỳ loại
thuế nào có thể áp dụng đổi với P hỉ Dịch vụ theo luật pháp Việt Nam (nếu có) sẽ do Bên A hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Hợp đồng còn quy định hậu quả chấm dứt (Điều VII):
“(1) Trong trường hợp Bên A đơn phương chấm dứt Hợp đồng hoặc không thể xin được
các phê chuẩn và hoàn thành dịch vụ quy định trong Hợp đồng này, Bên B có thể gửi thông báo
bằng văn bản (gọi là Thông báo chấm dứt) cho Bên A đế chấm dứt Hợp đồng này. Sau khi chấm
dứt hợp đồng này, Bên A ngay lập tức hoàn lại bất kỳ khoản nào mà Bên A nhận được theo Hợp
đồng này cho Bên B và các bên sẽ không có bất kỳ nghĩa vụ nào đổi với nhau theo Hợp đồng
này; (2) Trong trường hợp Bên B đơn phương chấm dứt Hợp đồng hoặc không đáp ứng được
yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền theo Điều I I (4) dẫn đến việc Bên A không thể hoàn
thành được dịch vụ theo Hợp đồng này thì Bên A sẽ không phải hoàn trả các khoản tiền đã nhận
được từ Bên B ”.
Cùng ngày 28/01/2008, ông Kim Sang Bum - đại diện theo ủy quyền của Công ty
Shinhwa đã trực tiếp giao cho bà Nguyễn Thị Thái Bình - Tổng giám đốc BĐ Công ty Phượng
Tím bằng tiền mặt 1.000.000 USD.
Ngày 26/5/2008, Công ty Shinhwa gửi Công văn số 004/2008-IS cho BĐ_Công ty
Phượng Tím với nội dung: “Đe nghị quý Công ty thông báo bằng văn bản về tiến ừình thực hiện
công việc cho Công ty Shinhwa trước ngày 28/5/2008 để chúng tôi lên kế hoạch cho các phần
việc tiếp theo”. BĐ Công ty Phượng Tím đã gửi Thông báo số 16/TB-DA cho biết: “Thành thật
xin lỗi về việc chậm trễ trong việc thực hiện hợp đồng ngày 28/01/2008...trong thời gian thực
hiện đã có một sổ vướng mắc mà Ban lãnh đạo Thành p h ổ chưa thể ra Quyết định ngay trong
thời điểm này cho Công ty Shinhwa được...
Ngày 28/5/2008, Công ty Shinhwa tiếp tục có Công văn số 005/2008-IS gửi BĐ_Công ty
Phượng Tím với yêu cầu:
- BĐ Công ty Phượng Tím cung cấp bản copy các giấy tờ chứng minh việc BĐ Công
ty Phượng Tím vẫn đang tích cực triển khai dự án.

15
- BĐ Công ty Phượng Tím bố trí một cuộc gặp mặt giữa Công ty Shinhwa với lãnh
đạo các sở, ngành liên quan của thành phố HN trong tháng 6-2008.
Nếu BĐ_Công ty Phượng Tím nhất trí với 2 nội dung nêu trên, Công ty Shinhwa và
BĐ Công ty Phượng Tím sẽ thỏa thuận việc gia hạn hợp đồng để BĐ Công ty Phượng Tím tiếp
tục thực hiện phần việc của mình. Chi tiết cụ thể sẽ được hai bên xác nhận bằng một phụ lục hợp
đồng.
BĐ Công ty Phượng Tím đã không có ý kiến trả lời các yêu cầu trong công văn trên của
Công ty Shinhwa.
Ngày 26/6/2008, Công ty Shinhwa gửi tiếp Công văn số 010/2008-IS yêu cầu BĐ_Công
ty Phượng Tím “trả lời rõ ràng” về tình hình thực hiện hợp đồng trước ngày 30/6/2008.
Ngày 01/7/2008, BĐ_Công ty Phượng Tím gửi Công văn số 05/2008/KH-HL với nội
dung: “Khoảng từ 10/10 đến 30/10 sẽ có chủ trương cho BĐ Công ty Phượng Tỉm và Shinhwa
được đầu tư vào D ự án. M ột lần nữa, BĐ Công ty Phượng Tỉm thật sự xin lỗi về việc chậm trễ
của việc thực hiện hợp đồng”.
Ngày 09/7/2008, Công ty Shinhwa đã gửi Công văn số 012/2008-IS trả lời: “Sau khi
nhận được Công văn so 05/2008/KH-HL, chúng tôi đã cân nhắc và quyết định chúng tôi không
thể tiếp tục chờ đợi đến tháng 10/2008. Chúng tôi chỉnh thức thông báo với Bà và BĐ Công ty
Phượng Tỉm về việc Shinhwa quyết định chấm dứt hợp đồng tư vấn giữa Shinhwa và
BĐ Phượng Tỉm kỷ ngày 28/01/2008. Đe nghị BĐ Công ty Phượng Tỉm thanh toán lại cho
Shinhwa sổ tiền 1.000.000 USD
Ngày 25/7/2008, Công ty Shinhwa gửi Công văn số 012/2008-IS khẳng định chấm dứt
hợp đồng và đề nghị BĐ Công ty Phượng Tím hoàn lại số tiền 1.000.000 USD đã tạm ứng
trước.
Ngày 31/7/2008, BĐ_Công ty Phượng Tím gửi Công văn số 06/TB-DA lại tiếp tục đưa ra
lý do trì hoãn khác: “D ự án E 7 - P H đã được lãnh đạo xem xét cân nhắc. Kê từ 15 tháng 8 năm
2008 ủ y ban nhân dân thành ph ổ sẽ có văn bản cụ thể về việc ra chủ trương cho Công ty
Shinhwa. Từ ngày 30/8/2008 đến 30/9/2009, ủ y ban nhân dân thành p h ổ sẽ chỉnh thức ra chủ
trương cho Shinhwa triển khai lập dự án đầu tư xây dựng. Việc thực hiện hợp đồng giữa hai
Công ty đang được tiến triển rất khả quan vì vậy BĐ Công ty Phượng Tỉm kỉnh mong Công ty
Shinhwa HQ tiếp tục hợp tác để BĐ Công ty Phượng Tỉm tiếp tục thực hiện hợp đồng”.
Ngày 04/8/2008, Công ty Shinhwa gửi Công văn số 016/2008-IS nêu rõ: “..đến ngày 30
tháng 8 năm 2008 nếu Công ty Shinhwa không nhận được bất cứ văn bản cụ thể nào của ủ y ban
nhân dân thành ph ổ H N liên quan đến việc ra chủ trương cho Công ty Shinhwa triển khai lập dự
án đầu tư xây dựng tại lô đất E7 đường PH, TL, HN, Công ty Shinhwa sẽ ngay lập tức chấm dứt
hợp đồng tư vấn kỷ ngày 28/01/2008 giữa hai công ty. Đ ồng thời BĐ Công ty Phượng Tỉm phải
ngay lập tức trả lại cho Công ty Shinhwa sổ tiền 1.000.000 USD ßdöt triệu đô la Mỹ) mà Công
ty Shinhwa đã đặt cọc khi kỷ hợp đồng”.
Ngày 01/9/2008, NĐ_Công ty Jangkum với tư cách pháp nhân kế thừa của Công ty
Shinhwa đã gửi Công văn số 010/2008-DEJangkum chính thức thông báo: .chấm dứt hợp
đồng tư vấn kỷ ngày 28/01/2008 giữa Công ty Shinhwa và BĐ Công ty Phượng Tỉm. Đe nghị
BĐ Công ty Phượng Tỉm hoàn trả lại ngay lập tức sổ tiền đặt cọc 1.000.000 USD (Một triệu đô

16
la Mỹ) cho Công ty Shinhwa theo quy định tại Điều VII (ỉ) của Hợp đồng tư vấn đầu tư ”.
NĐ Công ty Jangkum cùng lúc nhận được Công văn số 016/TT-HL của BĐ Công ty Phượng
Tím cam kết: “BĐ Công ty Phượng Tỉm xin hứa sau 15 ngày kể từ khi nhận được văn bản của
Công ty Shinhwa HQ, nếu ủ y ban nhân dân thành p h ổ H N không có chủ ừương chấp thuận cho
Công ty Shinhwa HQ lập dự án đầu tư, BĐ Công ty Phượng Tỉm cam kết không viện một lý do
nào khác và đồng ỷ chấm dứt hợp đồng với Công ty Shinhwa, đồng thời trả lại sổ tiền 1.000.000
USD (một triệu đô la M ỹ) cho Công ty Shinhwa HQ. Neu BĐ Công ty Phượng Tỉm không trả lại
đầy đủ sổ tiền trên, BĐ Công ty Phượng Tỉm cam kết chịu trách nhiệm trước pháp lu ậ t”. Cùng
ngày 01/9/2008, NĐ_Công ty Jangkum có Công văn số 01 l/2008-DEJangkum đồng ý tiếp tục
hợp đồng với hai điều kiện: (1) BĐ Công ty Phượng Tím ký vào bản xác nhận nợ; và (2) Chậm
nhất đến ngày 15/9/2008, ủ y ban nhân dân thành phố HN phải ra chủ trương bằng văn bản chấp
nhận NĐ Công ty Jangkum làm chủ đầu tư dự án tại lô đất E7, đường PH, HN. Theo yêu cầu
của NĐ Công ty Jangkum, bà Nguyễn Thị Thái Bình - Tổng giám đốc BĐ Công ty Phượng Tím
đã lập Giấy xác nhận nợ số tiền 1.000.000 USD theo hợp đồng tư vấn ký ngày 28/01/2008.
Sau đó, BĐ Công ty Phượng Tím vẫn không thực hiện cam kết.
Ngày 17/9/2008, NĐ_Công ty Jangkum đã gửi Công văn số 01 l/2008-DEJangkum thông
báo chính thức chấm dứt Hợp đồng tư vấn đầu tư ngày 28/01/2008 và đề nghị BĐ_Công ty
Phượng Tím hoàn trảN Đ Công ty Jangkum số tiền 1.000.000 USD.
Ngày 05/12/2008, NĐ_Công ty Jangkum khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
Hủy bỏ Hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến khu đất tại lô E7, PH, HN giữa Công ty
Shinhwa và BĐ Công ty Phượng Tím.
Buộc BĐ Công ty Phượng Tím hoàn trả 1.000.000 USD và tiền lãi chậm trả.
Buộc BĐ Công ty Phượng Tím bồi thường thiệt hại vật chất 50.000.000 đồng và
5.400.000 đồng do tổn thất tinh thần.

Bị đơn trình bày:


Thừa nhận việc ký kết hợp đồng tư vấn đầu tư với Công ty Shinhwa như nguyên đơn
trình bày. Sau khi hợp đồng được ký kết, BĐ Công ty Phượng Tím đã nhận của Công ty
Shinhwa 1.000.000 USD bằng tiền mặt. Đây là khoản tiền phí dịch vụ đã được BĐ Công ty
Phượng Tím sử dụng phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng. BĐ Công ty Phượng Tím đã nhanh
chóng thực hiện các công việc quy định trong hợp đồng, tuy nhiên do trở ngại khách quan, như:
việc sáp nhập tỉnh HT và lân cận vào thành phố HN...dẫn đến BĐ Công ty Phượng Tím không
thể thực hiện công việc một cách nhanh chóng.
Nguyên đơn chấm dứt hợp đồng từ ngày 09/7/2008 nên không hoàn tiền tạm ứng đã
nhận.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 93/2009/KDTM-ST ngày 18, 19/5/2009,
Tòa án nhân dân thành phố HN căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 29, Điều 131 và Điều 245 Bộ luật
tố tụng dân sự; Điều 524 và Khoản 1 Điều 525 Bộ luật dân sự; các Điều 16, 17, Khoản 2 Điều 18
và Điều 78 Luật thương mại năm 2005, quyết định:

17
“1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NĐ Công ty TNHH De Jangkum đổi với BĐ Công
ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Phượng Tỉm theo hợp đồng tư vấn đầu tư ngày 28/01/2008.
2. Hủy bỏ hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến khu đất lô E7, PH, H N giữa BĐ Công ty
Phượng Tỉm và Công ty TNHH Công nghiệp và Xây dựng Shinhwa (nay là NĐ Công ty TNHH
De Jangkum) kỹ ngày 28/01/2008.
Buộc BĐ Công ty Phượng Tỉm phải hoàn trả cho NĐ Công ty TNHH De Jangkum
khoản tiền 1.000.000 USD (tương đương với 17.784.000.000 đồng - theo tỷ giá quy đổi giữa
đồng VND và USD ngày 18/5/2009 là 1 USD -17.784 đồng).
Buộc BĐ Công ty Phượng Tỉm phải thanh toán tiền lãi do chậm trả tương ứng với sổ
tiền 1.000.000 USD là 20.000 USD (thời gian tỉnh lãi từ 15/9/2008 đến 18/5/2009) tương đương
là 355.680.000 đồng.
Tổng cộng: 18.139.680.000 đồng.
Bác các yêu cầu khác của đương s ự ”.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn có quyết định về án phí, về trách nhiệm chịu lãi suất
nếu chậm thi hành án, về quyền kháng cáo của đương sự theo quy định pháp luật.

Ngày 28/5/2009, BĐ_Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Phượng Tím có đơn kháng
cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 147/2009/KDTM-PT ngày 16/10/2009,
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN căn cứ Khoản 1 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự,
quyết định:
“Bác kháng cáo của bị đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Cụ thể:
1. Áp dụng Khoản 2 Điều 92, Khoản 2 Điều 95, Khoản 4 Điều 524 Bộ luật dân sự.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NĐ Công ty TNHH De Jangkum đổi với BĐ Công ty
cổ phần Đầu tư và Phát triển Phượng Tỉm theo hợp đồng tư vấn đầu tư ngày 28/01/2008.
Hủy hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến khu đất lô E 7 đường PH, H N giữa BĐ Công
ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Phượng Tỉm với Công ty TNHH Công nghiệp và Xây dựng
Shinhwa (nay là NĐ Công ty TNHH De Jangkum) kỷ ngày 28/01/2008.
Buộc BĐ Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Phượng Tỉm phải hoàn trả cho
NĐ Công ty TNHH De Jangkum khoản tiền 1.000.000 USD tương đương 17.784.000.000 đồng
theo tỷ giá quy đổi ngày 18/5/2009 là 1USD -17.784 đồng.
Buộc BĐ Công ty Phượng Tỉm phải trả tiền lãi do chậm trả là 20.000 USD (thời gian
tỉnh lãi từ 15/9/2008 đến 18/9/2009) tương đương là 355.680.000 đồng.
Tổng hai khoản là 18.139.680.000 đồng”.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, BĐ Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Phượng Tím có đơn
đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm; còn NĐ Công ty Jangkum đề
nghị xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra

18
có thẩm quyền xem xét trách nhiệm hình sự của bà Nguyễn Thị Thái Bình - Tổng giám đốc
BĐ Công ty Phượng Tím.

Tại Quyết định kháng nghị số 31/2012/KDTM-KN ngày 03/10/2012, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám
đốc thẩm theo hướng: Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 147/2009/KDTM-PT
ngày 16/10/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN và Bản án kinh doanh,
thương mại sơ thẩm số 93/2009/KDTM-ST ngày 18-19/5/2009 của Tòa án nhân dân thành phố
HN; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố HN xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu ý kiến
nhất trí với quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:
Công ty Shinhwa là Doanh nghiệp của HQ có Văn phòng đại diện tại HN theo Giấy phép
thành lập Văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam số 01-000967 ngày
13/8/2007 của Sở Thương mại HN (do ông Kim Sang Bum làm Trưởng văn phòng). Ngày
22/7/2008, Công ty Shinhwa sáp nhập với NĐ_Công ty JANGKUM. NĐ_Công ty Jangkum có
Văn phòng đại diện tại HN (theo Giấy phép thành lập Văn phòng đại diện của thương nhân nước
ngoài tại Việt Nam số 01-000967 cấp ngày 12/8/2008 của Sở Công thương HN) và cũng do ông
Kim Sang Bum làm Trương văn phòng.
Ngày 28/01/2008, BĐ_Công ty Phượng Tím và Công ty Shinhwa do ông Kim Sang Bum
làm đại diện ủy quyền ký kết “Hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến khu đất tại Lô E7, PH, HN”
(Xây dựng khu phức hợp Trung tâm thương mại, văn phòng và căn hộ để bán và cho thuê).
Cùng ngày 28/01/2008, ông Kim Sang Bum - đại diện theo ủy quyền của Công ty
Shinhwa đã trực tiếp giao cho bà Nguyễn Thị Thái Bình - Tổng giám đốc BĐ Công ty Phượng
Tím 1.000.000 USD bằng tiền mặt (bl.19, 21).
Do BĐ Công ty Phượng Tím không thực hiện được các thỏa thuận theo hợp đồng nên
ngày 17/9/2008, NĐ_Công ty Jangkum đã có Công văn số 01 l/2008-DEJangkum thông báo
chính thức chấm dứt Hợp đồng tư vấn đầu tư ngày 28/01/2008 và đề nghị BĐ_Công ty Phượng
Tím hoàn trả số tiền 1.000.000 USD.
Ngày 05/12/2008, NĐ_Công ty Jangkum khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
Hủy bỏ Hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến khu đất tại lô E7, PH, HN giữa Công ty
Shinhwa và BĐ Công ty Phượng Tím.
Buộc BĐ Công ty Phượng Tím hoàn trả 1.000.000 USD và tiền lãi chậm trả.
Buộc BĐ Công ty Phượng Tím bồi thường thiệt hại vật chất 50.000.000 đồng và
5.400.000 đồng do tổn thất tinh thần.

19
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
NĐ_Công ty Jangkum tuyên Hủy Hợp đồng tư vấn đầu tư ký ngày 28/01/2008 giữa BĐ_Công ty
Phượng Tím và Công ty Shinhwa; đồng thời, buộc BĐ Công ty Phượng Tím phải hoàn trả cho
NĐ_Công ty Jangkum 1.000.000 USD và phải chịu tiền lãi chậm trả của số tiền 1.000.000 USD
là 20.000 USD (được quy đổi ra VND).

Xét thấy, việc Công ty Shinhwa (nay là NĐ_Công ty Jangkum) chuyển số ngoại tệ nói
trên vào Việt Nam đã thực hiện đúng quy định của pháp luật Việt Nam hay chưa, chưa được Tòa
án làm rõ. Khi giải quyết lại vụ án cần làm rõ vấn đề này. Nếu có đủ căn cứ xác định Công ty
Shinhwa (nay là NĐ_Công ty Jangkum) chuyển số tiền 1.000.000 USD vào Việt Nam không hợp
pháp và đã chuyển số tiền này cho BĐ Công ty Phượng Tím, do bà Nguyễn Thị Thái Bình trực
tiếp nhận bằng tiền mặt (không qua tài khoản ngoại tệ tại Ngân hàng) là vi phạm quy định của
Pháp lệnh ngoại hối và các Khoản 1 và 3 Điều 6 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày
28/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ngoại hối thì phải tịch thu số tiền này.
Trương hợp Công ty Shinhwa chuyển tiền vào Việt Nam đúng quy định của pháp luật, nhưng
dùng số tiền này thanh toán cho bà Bình bằng tiền mặt (không qua tài khoản ngoại tệ tại Ngân
hàng) thì hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm quy định của Pháp lệnh ngoại hối và các Khoản 1 và 3
Điều 6 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp
lệnh ngoại hối, Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo
quy định của pháp luật. Do hợp đồng bị vô hiệu, việc giao nhận tiền phí dịch vụ giữa Công ty
Shinhwa (nay là NĐ Công ty Jangkum) và BĐ Công ty Phượng Tím không đúng quy định của
pháp luật; do đó, NĐ Công ty Jangkum chỉ được nhận lại 1.000.000 USD mà không được hưởng
tiền lãi do chậm hoàn trả số tiền này; số tiền lãi này phải bị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, tại thời điểm các bên ký kết hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến lô đất E7
đường PH, HN, thì ủ y ban nhân dân thành phố HN đã cấp lô đất trên cho các doanh nghiệp khác
để xây dựng trụ sở làm việc từ trước năm 2008 (theo Công văn số 29/CAND ngày 16/9/2010 của
Công an thành phố HN). Tại các Văn bản đề ngày 29/8/2008 và ngày 01/9/2008 của NĐ_Công
ty Jangkum gửi ông Phạm Văn Hợi - Bí thư Thành ủ y HN đều có nội dung: “Qua tìm hiểu,
chúng tôi được biết lô đất E 7 trên đường P H đã có chủ ừương giao cho một sổ nhà đầu tư khác
từ những năm ừước nhưng đã hết hạn quá lâu mà nhà đầu tư được giao đó vẫn không tiến hành
được công việc... ”
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện NĐ Công ty Jangkum thừa nhận: “Chúng tôi được biết lô
đất E 7 đã được phân cho một sổ nhà đầu tư... ” (bút lục 260, 259, 244). Như vậy, theo các tài
liệu nêu trên thì khi ký hợp đồng với BĐ_Công ty Phượng Tím, NĐ_Công ty JANGKUM đã
biết hiện trạng lô đất. Vì vậy, hợp đồng tư vấn đầu tư ký kết ngày 28/01/2008 bị vô hiệu bởi có
đối tượng không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 411 Bộ luật dân sự năm 2005. Lỗi ở
đây thuộc về hai công ty.

Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc BĐ Công ty Phượng Tím phải
hoàn trả cho NĐ Công ty Jangkum 1.000.000 USD và buộc BĐ Công ty Phượng Tím phải chịu

20
tiền lãi chậm trả của số tiền 1.000.000 USD là chưa đủ căn cứ (do chưa làm rõ việc Công ty
Shinhwa chuyển số tiền 1.000.000 USD vào Việt Nam có hợp pháp không) và không đúng pháp
luật.
Nếu hợp đồng có hiệu lực thì BĐ Công ty Phượng Tím cũng đã vi phạm hợp đồng,
không thực hiện được các cam kết trong hợp đồng (kể cả khi đã được Công ty Shinhwa đồng ý
gia hạn thời hạn thực hiện hợp đồng). Trong trương hợp này Công ty Shinhwa chấm dứt hợp
đồng và yêu cầu BĐ Công ty Phượng Tím trả lại tiền đã nhận là có căn cứ.
M ặt khác, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa
xem xét làm rõ số tiền bà Bình nhận trực tiếp từ Công ty Shinhwa có nộp vào BĐ Công ty
Phượng Tím hay không; số tiền này đã được sử dụng như thế nào? Nếu qua xác minh, thu thập
chứng cứ mà xác định được bà Bình không đưa số tiền về công ty và bà Bình không chứng minh
được đã sử dụng số tiền này như thế nào? Có đúng với quy định của pháp luật không thì phải
chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan cảnh sát điều tra để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bà
Bình.

Căn cứ vào Khoản 3 Điều 291; Khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2011).

QUYẾT ĐỊNH:
Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 147/2009/KDTM-PT ngày 16/10/2009
của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại HN và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm
số 93/2009/KDTM-ST ngày 18-19/5/2009 của Tòa án nhân dân thành phố HN; giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án nhân dân thành phố HN xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

21
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬNX Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THÀNH PHỐ HCM

Số: 03/2014/KDTM-ST
Ngày: 11/3/2014
về vụ án: “Tranh chấp hợp đồng thuê mặt
bằng ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X - THÀNH PHỐ HCM


Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ Tọa phiên tòa: 1. Ông Ngô Ngọc T


Các Hội thẩm nhân dân: 2. Bà Trần Thị N
3. Bà Hoàng Thị L
Thư kỷ Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Đỗ Khắc D - Cán bộ Toà án nhân dân Quận
X.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X tham gia phiên tòa: Bà Tăng Tố T - Kiểm sát
viên.

Trong ngày 07 và ngày 11 tháng 03 năm 2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận X, đã xét
xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 106/2013/TLST-KDTM ngày 23/4/2013 về việc
“Tranh chấp hợp đồng thuê mặt bang’\ theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
158/2014/QĐXX-Ds ngay 24 tháng 02 năm 2014, giữa:

Nguyên đơn:
NĐ Công ty TNHH An Khang
Địa chỉ: 172-174 KC, Phường NTB, Quận X, Thành phố HCM.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền cho nguyên đơn là bà Trần Thị Hương, sinh năm
1985, số CMND 025243835 (Văn bản ủy quyền số 001411, quyển số 01.TP/CC-SCC/UQ ngày
28/02/2013 và giấy ủy quyền ngày 03/03/2014).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là Luật sư NĐT, thuộc Văn
phòng luật sư SG và Luật sư LQH thuộc Văn phòng luật sư LQH.

Bị đơn:
BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Lỉnh Nga

22
Địa chỉ: Tầng 4, tòa nhà Times Square, 172-174 KC, Phường NTB, Quận X, Thành phố
HCM.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền cho bị đơn là ông Trần Hải Bình (giấy ủy quyền
ngày 06/3/2014).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là Luật sư PTH và luật sư PĐL
thuộc Văn phòng luật sư PTH.
(Phiên toà ngày 07/3/2014 có mặt bà Hương, ông Bình, luật sư Trừng, luật sư Hiến, luật
sư Hoài và luật sư Linh, nhưng khi tuyên án ngày 11/3/2014 chỉ có mặt bà Hương và ông Bình).

NHẬN THẤY:

* Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền cho NĐ_Công ty TNHH An Khang (nguyên
đơn) trình bày:
Ngày 17/12/2010, BĐ_Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga (BĐ_Linh Nga Land) và
NĐ_Công ty TNHH An Khang (NĐ_Công ty An Khang) đã ký hợp đồng thuê mặt bằng số:
135/BTL-HĐKT-2010, theo hợp đồng này thì BĐ Linh Nga Land cho NĐ Công ty An Khang
thuê một phần diện tích (Mặt bằng) của Tòa nhà 172-174 KC, Phường NTB, Quận X, Thành phố
HCM, để mở quán cà phê các loại, nước giải khát và thức ăn nhanh, với thời hạn thuê là 10 năm
theo quy định trong Hợp đồng; giá thuê 03 năm đầu (17/02/2011 - 16/02/2014), tính bằng tiền
Việt Nam đối với Khu Tl: 20USD/m2 X 65 m2 = 1.300 USD, Khu T2: 20USD/m2 X 16 m2 =
320 USD, tổng cộng 1.620 USD/tháng.
Ngày 24/3/2011, hai bên tiếp tục ký kết Phụ lục Hợp đồng số 01/PL-2011/HĐ: 135/BTL-
HĐKT-2010 để sửa đổi, bổ sung một số điều khoản theo Hợp Đồng số: 135/BTL-HĐKT-2010,
cụ thể như sau:
+ Thời hạn thuê là: 10 năm tính từ ngày 17/02/2011.
+ Mặt bằng thuê: thuộc tầng trệt và khu outdoor (ngoài trời) của Tòa nhà Times Square
gồm: Mặt bằng 1: 81m2 (Tl= 65m2, T2= 16m2); Mặt bằng 2: T3= 19m2.
+ Giá thuê: Đối với 03 năm đầu (Từ 17/02/2011 đến 16/02/2014): 20USD/m2 X 81m2 =
1,620USD X 12 tháng = 19,440 USD/năm (Mười chín nghìn bốn trăm bốn mươi đô la Mỹ mỗi
năm); Đối với 03 năm tiếp theo (Từ 17/02/2014 đến 16/02/2017): 22USD/m2 X 81m2
=1,782USD X 12 tháng = 21.384 USD/năm (Hai mươi mốt nghìn ba trăm tám tư đô la Mỹ mỗi
năm); Đối với 04 năm cuối (Từ 17/02/2017 đến 16/02/2020) 24,2USD/m2 X 81 m2 = 1,960USD
X 12 tháng = 23.520 USD/năm (Hai mươi ba nghìn năm trăm hai mươi đô la Mỹ mỗi năm).
(Giá thuê chưa bao gồm thuế VAT. Tiền thuê mặt bằng được thanh toán mỗi năm một
lần bằng VNĐ chuyển khoản qua Ngân Hàng Phương Đông).

Trước khi ký kết Hợp Đồng, Ban Giám Đốc BĐ Linh Nga Land đã cam kết sẽ hỗ trợ
NĐ Công ty An Khang làm việc với chính quyền và nội bộ để đảm bảo việc kinh doanh nhà
hàng cà phê của NĐ Công ty An Khang. Tin tưởng lời cam kết và uy tín của BĐ Linh Nga
Land, nên NĐ Công ty An Khang đã quyết định ký Hợp đồng dài hạn (10 năm) để đầu tư nhà
hàng cà phê trên mặt bằng phía đường Lê Thị Hồng Gấm với tất cả tâm huyết và chi phí không
nhỏ. Đồng thời, trong suốt thời gian thực hiện Hợp đồng, NĐ Công ty An Khang luôn tôn trọng
và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của Bên thuê mặt bằng theo thỏa thuận đã ký giữa hai Bên.

23
Đầu tháng 10/2012, sau thời gian 02 năm khi nhà hàng café Newyork đã dần đi vào hoạt
động ổn định, thì ông Trần Hải Bình - Phó Tổng Giám Đốc BĐ Linh Nga Land đã gặp bà
Nguyễn Isabelle Ngọc Trâm để đề nghị sang nhượng lại nhà hàng café Newyork cho BĐ_Linh
Nga Land. Đại diện NĐ Công ty An Khang đã trả lời với ông Trần Hải Bình cần có thời gian
suy nghĩ, tính toán để có con số cụ thể nếu NĐ Công ty An Khang có nhu cầu thì sang lại cho
BĐ Linh Nga Land. Đen tháng 01/2013, NĐ Công ty An Khang có liên lạc với ông Trần Hải
Bình hỏi về đề nghị trước đây thì BĐ Linh Nga Land trả lời không còn nhu cầu sang nhượng
nữa.
Trong khi nhà hàng café Newyork đang kinh doanh bình thường thì bất ngờ ngày
31/01/2013 NĐ_Công ty An Khang nhận được Văn bản số: 06/CV- BTL đề ngày 30/01/2013
của BĐ Linh Nga Land thông báo chấm dứt Hợp Đồng thuê mặt bằng, kèm theo Văn bản số
230/SXD-TT ngày 10/01/2013 của Sở Xây dựng TP.HCM và Biên bản làm việc ngày
25/01/2013 của Thanh tra xây dựng Quận X và thanh tra xây dựng Phường NTB yêu cầu tháo dỡ
nhà hàng- café Newyork với lý do lấn chiếm vỉa hè, vi phạm khoảng lùi công trình và không có
Giấy phép xây dựng sau 02 năm đã kinh doanh. Chưa hết ngỡ ngàng, cùng ngày NĐ_Công ty An
Khang lại tiếp tục nhận được văn bản số: 04 CV/BQL-2013 của BĐ Linh Nga Land thông báo
sẽ ngưng cung cấp điện, nước khu vực Café Newyork vào lúc 07h sáng hôm sau.
Trong khi NĐ An Khang hoàn toàn bị động vì sự việc quá đột ngột nêu trên, thì vào lúc
21hl0 phút ngày 01/02/2013 BĐ_Linh Nga Land đã cho người xuống cúp điện, nước khi nhà
hàng đang đông khách, buộc NĐ An Khang phải mời khách ra về làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến kinh doanh và uy tín của Công ty. Sự việc đã được Văn phòng Thừa phát lại lập vi bằng ghi
nhận lại.
Ngày 02/02/2013, NĐ_Công ty An Khang tiếp tục gởi văn bản cho BĐ_Linh Nga Land
để nhắc nhở họ đã vi phạm Hợp Đồng Kinh Tế số: 135/BTL-HĐKT-2010 mà hai bên đã ký kết
ngày 17/12/2010, đồng thời yêu cầu BĐ_Linh Nga Land mở cầu dao điện, nước để nhà hàng
Newyork tiếp tục kinh doanh. Tuy nhiên, BĐ Linh Nga Land đã không đáp lại đề nghị chính
đáng này. Do đó dẫn đến việc kinh doanh của NĐ Công ty An Khang bị đóng cửa, gây tổn thất
nghiêm trọng cho việc đầu tư kinh doanh.
Ngày 28/02/2013 BĐ_Linh Nga Land tiếp tục có văn bản số 11/CV-BTL yêu cầu
NĐ_Công ty An Khang phải lập tức tự tháo dỡ Nhà hàng café Newyork, chậm nhất đến ngày
03/03/2013. Kèm theo biên bản của BĐ Linh Nga Land đã đơn phương làm việc với UBND
Phường NTB, Quận X vào lúc 9h sáng ngày 28/02/2013 và cũng tự ý ký cam kết tháo dỡ tài sản
của nhà hàng café Newyork khi chưa có bất kỳ cuộc họp mặt hay thảo luận nào với NĐ_Công ty
An Khang.
Trên cơ sở những thỏa thuận đã ký kết giữa hai Bên và xâu chuỗi các sự việc đã xảy ra,
thiết nghĩ, với cương vị bên cho thuê (BĐ Linh Nga Land) phải có trách nhiệm xin giấy phép
xây dựng, sửa chữa cho bên thuê để kinh doanh. NĐ_Công ty An Khang với cương vị bên thuê
mặt bằng không có quyền đứng ra xin Giấy phép xây dựng sửa chữa trên mặt bằng của BĐ Linh
Nga Land. Hơn nữa, tại Điều 1 trong văn bản số: 11/CV-BTL đề ngày 28/02/2013 của BĐ_Linh
Nga Land gửi cho NĐ Công ty An Khang chính ông Trần Hải Bình - Phó Tổng Giam Đốc Công
Ty BĐ Linh Nga Land cũng đã xác nhận: với tư cách là chủ đầu tư cao ốc BĐ Linh Nga Land
là đơn vị trực tiếp chịu trách nhiệm về các hành vi sai phạm xây dựng tại nhà hàng café Newyork
chứ không phải là NĐ Công ty An Khang. Vì thế, BĐ Linh Nga Land phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước pháp luật cũng như đối với Cty TNHH NĐ_An Khang về việc nhà hàng Newyork vi

24
phạm khoảng lùi công trình và không có giấy phép xây dựng, dẫn đến phải ngưng hoạt động, tổn
thất trầm trọng đến quyền lợi cũng như uy tín của NĐ_Công ty An Khang.
Mặt khác, cũng có thể thấy rõ, trong các văn bản của Thanh Tra xây dựng Thành phố,
Thanh Tra xây dựng Quận X, Thanh Tra xây dựng Phường NTB nêu trên không hề có nội dung
về việc quyết định cắt điện nước của nhà hàng Newyork. Do đó, BĐ Linh Nga Land dựa vào các
văn bản trên để tự ý cúp điện nước của nhà hàng Newyork trong khi đang hoạt động kinh doanh
mà quên rằng bên cho thuê là đối tác kinh doanh chứ không phải là đơn vị thi hành pháp luật của
cơ quan có thẩm quyền. Do đó, việc BĐ Linh Nga Land tự ý cắt điện nước của café Newyork là
vi phạm pháp luật.
Như vậy, dựa trên những diễn biến từ khi BĐ Linh Nga Land đề nghị sang nhượng lại
café Newyork. Sau đó dẫn đến tất cả sự việc đã xảy ra và BĐ Linh Nga Land đơn phương chấm
dứt Hợp Đồng trước thời hạn khi không thuộc quy định tại khoản 10.1 Điều 10 của Hợp đồng
cho thấy BĐ Linh Nga Land đã bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích: thu hồi mặt bằng
trước thời hạn mà không phải bồi thường.. .Điều đó đã thể hiện rõ:
BĐ Linh Nga Land đã không trung thực vì mục đích trục lợi, bất chấp hậu quả gây thiệt
hại trầm trọng về tài sản, uy tín cũng như việc kinh doanh của NĐ_Công ty An Khang.
BĐ Linh Nga Land đã dựa vào văn bản của các cơ quan có thẩm quyền uy hiếp doanh
nghiệp chúng tôi bằng hành vi cúp điện, nước và buộc chúng tôi phải tháo dỡ nhà hàng café
Newyork . Như vậy BĐ_Linh Nga Land đã vi phạm Điều 7.1 trong Hợp đồng số 135/BTL-
HĐKT-2010 “Đảm bảo quyền sử dụng hợp pháp mặt bằng một cách đầy đủ, độc lập và riêng rẽ,
tránh mọi tranh chấp về quyền sử dụng với bất kỳ bên thứ ba nào”.
Việc đơn phương chấm dứt Hợp đồng thuê mặt bằng của BĐ Linh Nga Land trước thời
hạn là ngang nhiên vi phạm Hợp đồng, vi phạm Điều 486 Bộ Luật Dân sự 2005 về “Nghĩa vụ
bảo đảm quyền sử dụng tài sản cho bên thuê”, đi ngược với những điều đã cam kết, gây thiệt hại
nghiêm trọng đối với quyền và lợi ích hợp pháp của NĐ_Công ty An Khang.

Nay nguyên đơn yêu cầu là:


1. Tuyên hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê mặt bằng số: 135/BTL-HĐKT-
2010 ngày 17/12/2010, giữa BĐ_Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga và NĐ_Công ty
TNHH An Khang và Phụ lục Hợp đồng số 01/PL-2011/HĐ: 135/BTL-HĐKT-2010 ngày
24/3/2011, giữa BĐ_Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga và NĐ_Công ty TNHH An Khang
là trái pháp luật;
2. Buộc BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga phải hoàn lại cho NĐ Công ty An
Khang tiền Giá trị các khoản đầu tư ban đầu vào Nhà hàng Newyork là: 2.864.137.670 đồng.
3. Buộc BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga phải bồi thường thiệt hại cho
NĐ Công ty An Khang tiền thu nhập thực tế từ kinh doanh nhà hàng cà phê mỗi tháng
120.000.000 đồng tính từ ngày 01/3/2012 đến ngày xét xử sở thẩm là: 120.000.000 đồng X 13
tháng = 1.320.000.000 đồng;
4. Buộc BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga phải bồi thường thiệt hại cho
NĐ Công ty An Khang 01 (một) năm tiền thuê nhà do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng
trái pháp luật là: 379.080.000 đồng;

25
5. Buộc BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga phải bồi thường thiệt hại cho
NĐ_Công ty An Khang tiền phí bảo vệ nhà hàng từ ngày 01/02/2013 đến ngày 31/07/2013 mỗi
tháng 5.000.000 đồng, cụ thể là: 06 tháng X 5.000.000 đồng = 30.000.000 đồng;
6. Buộc BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga phải bồi thường thiệt hại cho
NĐ_Công ty An Khang tiền phí Thừa phát lại lập vi bằng về việc cúp điện nước là: 4.500.000
đồng;
7. Buộc BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga hoàn lại cho NĐ Công ty An
Khang tiền thuê nhà còn dư là: 74.767.611 đồng.
Tổng cộng tất cả các khoản trên là: 2.864.137.670 đồng + 1.320.000.000 đồng +
379.080.000 đồng + 30.000.000 đồng + 4.500.000 đồng + 74.767.611 đồng = 4.672.485.281
đồng làm tròn 4.672.000.000 đồng.

* Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền cho BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh
Nga (bị đơn) trình bày:
Ngày 17/12/2010, BĐ_Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga (gọi tắt là BĐ_Linh Nga
Land) có ký Hợp đồng thuê mặt bằng số 135/BTL-HĐKT-2010 (gọi tắt là “Hợp đồng”) cho
NĐ Công ty TNHH An Khang (gọi tắt là “NĐ_An Khang”) thuê phần diện tích 81 m2 tại khu
terrace tầng trệt - thuộc khu vỉa hè ngoài trời của Tòa nhà Linh Nga Times Square để kinh doanh
cà phê terrace. Đồng thời với tinh thần thiện chí, BĐ Linh Nga Land còn thỏa thuận cho NĐ_An
Khang tạm sử dụng phần mặt bằng có diện tích 25 m2 tại khu vực tầng trệt và Khu outdoor của
Tòa nhà và sẽ thu hồi khi có nhu cầu.
Theo quy định của pháp luật xây dựng thì đối với khoảng lùi của công trình là phần diện
tích thuộc sở hữu của chủ đầu tư nên chủ đầu tư được quyền sử dụng hoặc cho thuê và khi có
nhu cầu xây dựng phải được cơ quan quản lý nhà nước cấp phép.

Tại thời điểm ký Hợp đồng BĐ Linh Nga Land đã giải thích rõ với NĐ_An Khang là
phần diện tích thuê nằm trên khoảng lùi của Công trình Tòa nhà Linh Nga Times Square nếu
NĐ_An Khang muốn xây dựng công trình thì cần phải được sự chấp thuận của cơ quan chức
năng. Do đó, trong Hợp đồng đã ký có điều khoản ràng buộc bên thuê là NĐ_An Khang tự chịu
trách nhiệm xin phép xây dựng, cải tạo công trình và BĐ Linh Nga Land hỗ trợ cho NĐ_An
Khang các thủ tục cần thiết để xin phép các cơ quan chức năng để xây dựng, cải tạo công trình
tại địa điểm thuê (mục 7.3 Điều 7). Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Hợp đồng, BĐ Linh Nga
Land không nhận được bất kỳ yêu cầu cung cấp hồ sơ nào hay đề nghị hỗ trợ gì từ NĐ_An
Khang về việc xin phép xây dựng, lắp đặp tại địa điểm thuê và khi bị các cơ quan chức năng
kiểm tra thì NĐ_An Khang đã xây dựng mà chưa có Giấy phép xây dựng công trình theo quy
định.
Mặc khác, theo quy định tại Điều 5.2 của Hợp đồng thì: “bằng chi phí của mình Bên thuê
có thể thay đổi, thêm vào hay cải thiện về mặt nội thất, trang thiết bị thêm trong khu vực thuê
nếu thấy cần thiết và phải luôn tuân thủ điều kiện là không gây phiền hà, ồn ào hoặc tổn hại cho
Bên cho thuê hay bất cứ bên thứ ba nào khác, tuân thủ các hướng dẫn về quy trình cải tạo sửa
chữa mặt bằng và bên thuê chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với những thay đổi, thêm vào hay cải
thiện này kể cả các thiệt hại phát sinh nếu có”, và quy định tại Điều 6.4 thì: “Bên thuê không
được phép làm bất cứ việc gì ảnh hưởng đến trật tự, an ninh, vệ sinh môi trương ở Tòa nhà hoặc
những việc có thể gây thiệt hại đến Bên cho thuê hoặc bất cứ bên thứ ba nào”. Tuy nhiên, trong

26
quá trình hoạt động, NĐ_An Khang đã lắp dựng khung sắt, lợp mái, ngăn vách kính, lắp đặt máy
lạnh, hình thành quán Cafe Newyork mà không xin giấy phép xây dựng (sau đây gọi tắt là “Công
trình”) để kinh doanh dịch vụ ăn uống, kê bàn ghế kinh doanh lấn chiếm vỉa hè, gây mất mỹ
quan tại khu vực hoạt động.. .và nhiều lần người dân và tổ dân phố phản ảnh gay gắt. Căn cứ các
nội dung theo hợp đồng cho thuê mặt bằng đã ký, BĐ Linh Nga Land cũng đã lập biên bản nhắc
nhở, cũng như trực tiếp trao đổi với bà Nguyễn Ngọc Trâm là Đại diện theo pháp luật của
NĐ_An Khang và các quản lý của quán cà phê Newyork nhưng vụ việc chưa được khắc phục
dẫn đến người dân tiếp tục phản ánh đến các cơ quan chức năng.
Do những sai phạm nêu trên của NĐ_An Khang, ngày 25/01/2013 Thanh tra xây dựng
Quận X tiến hành triển khai ý kiến chỉ đạo của Sở Xây dựng thành phố theo công văn số
230/SXD-TT ngày 10/01/2013 và lập biên bản yêu cầu Chủ đầu tư (Công ty CP Đầu tư Địa ốc
Bến Thành) thực hiện tháo dỡ công trình xây dựng sai phép là quán Café NewYork trong thời
hạn 24 giờ kể từ ngày lập Biên bản. Sau khi Thanh tra xây dựng lập biên bản yêu cầu tháo dỡ
công trình, BĐ Linh Nga Land đã thông báo và gửi biên bản đến NĐ_An Khang ngay trong
buổi sáng ngày 25/01/2013.
Trước những sự việc xảy ra, BĐ Linh Nga Land đã nhiều lần liên hệ với NĐ_An Khang
(Bà Nguyễn Ngọc Trâm) để phối hợp giải quyết. Tuy nhiên Bà Nguyễn Ngọc Trâm đã hẹn làm
việc rồi hoãn nhiều lần với lý do bận công việc; đi công tác nước ngoài ... không đến gặp
BĐ Linh Nga Land để giải quyết. Từ đó cho thấy NĐ_An Khang không có thiện chí hợp tác để
giải quyết vụ việc.
Qua nhiều lần bị các cơ quan chức năng nhắc nhở, yêu cầu thực hiện việc tháo dỡ công
trình, đến ngày 30/01/2013 (tức là sau 05 ngày kể từ ngày cơ quan chức năng lập biên bản yêu
cầu tháo dỡ), NĐ_An Khang vẫn không có bất kỳ hành động nào để phối hợp với BĐ Linh Nga
Land để thực hiện yêu cầu của cơ quan chức năng. Để tránh trường hợp bị cơ quan chức năng tổ
chức cưỡng chế tháo dỡ gây ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của Công ty, tránh trường hợp
các cơ quan chức năng cho rằng Công ty BĐ Linh Nga Land không chấp hành quyết định của cơ
quan nhà nước nên buộc lòng BĐ Linh Nga Land phải có văn bản thông báo về việc chấm dứt
Hợp đồng (Công văn số 06/CV-BTL) và thông báo ngưng cung cấp điện, nước kể từ thời điểm
21h30’ ngày 30/01/2013, nhưng sau đó bà Trâm vẫn thiếu thiện chí hợp tác để cùng nhau giải
quyết vấn đề, cùng với sự kiểm tra nhắc nhở của cơ quan chức năng, nên buộc lòng chúng tôi
phải tạm ngưng cung cấp điện, nước kể từ 21h30’ ngày 01/02/2013 sau khi quán cà phê
Newyork hết giờ bán trong ngày để tránh ảnh hưởng đến khách hàng. Sau khi quán cà phê
Newyoke tạm thời ngưng hoạt động, BĐ_Linh Nga Land đã mời Bà Nguyễn Ngọc Trâm (đại
diện theo pháp luật của NĐ_An Khang) đến làm việc nhưng đều bị từ chối không đến làm việc
và vụ việc kéo dài cho đến nay chưa được giải quyết.
Ngày 04/02/2013, BĐ_Linh Nga Land có nhận được văn bản phản hồi của NĐ_An
Khang về việc không đồng ý chấm dứt Hợp đồng, không đồng ý tháo dỡ phần diện tích sai phạm
theo yêu cầu với lý do chưa có quyết định buộc tháo dỡ công trình chính thức từ phía các cơ
quan chức năng. Với tinh thần hỗ trợ khách hàng và có thời gian để giải quyết các vấn đề liên
quan đến Hợp đồng đã ký, BĐ Linh Nga Land cũng đã hết sức hỗ trợ NĐ_An Khang trong quá
trình làm việc với các cơ quan chức năng, xin kéo dài thời hạn tháo dỡ để hai bên cùng giải quyết
vụ việc nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết được do thiếu sự hợp tác từ phía NĐ_An Khang.
Do thời gian giải quyết kéo dài, chưa được thực hiện được tháo dỡ công trình nên đến
ngày 28/02/2013 UBND phường NTB có thư mời Chủ Đầu tư công trình là BĐ_Công ty cổ

27
phần Đầu tư địa ốc Linh Nga đến làm việc, yêu cầu tháo dỡ Công trình vi phạm theo Công văn
số 230/SXD-TT ngày 10/01/2013 và biên bản làm việc ngày 25/01/2013. BĐ_Linh Nga Land đã
có thông báo mời NĐ An Khang đến UBND Phường NTB cùng làm việc với các cơ quan chức
năng nhưng phía NĐ_An Khang vẫn từ chối tham dự.Tại Biên bản làm việc ngày 28/02/2013 với
Thanh tra xây dựng Quận X, UBND Phường NTB, một lần nữa BĐ Linh Nga Land tiếp tục đề
xuất với các cơ quan chức năng kéo dài thời hạn tháo dỡ thêm 07 (bảy) ngày kể từ ngày lập Biên
bản.
Căn cứ Biên bản làm việc ngày 28/02/2013 giữa Thanh tra xây dựng Quận X, UBND
phường NTB và đại diện Chủ Đầu tư là BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga, BĐ Linh
Nga Land tiếp tục có văn bản yêu cầu NĐ An Khang tự thực hiện việc tháo dỡ Công trình quán
café NewYork chậm nhất là đến hết ngày 03/03/2013 để BĐ_Linh Nga Land có cơ sở báo cáo cơ
quan chức năng theo quy định. Tuy nhiên sau đó NĐ An Khang vẫn không thực hiện việc tháo
dỡ công trình sai phạm theo yêu cầu dù đã được BĐ Linh Nga Land nhiều lần nhắc nhở.
BĐ Linh Nga Land cũng không thể đơn phương tháo dỡ công trình sai phạm khi chưa có sự
đồng ý của NĐ An Khang. Nên sự việc đã được BĐ Linh Nga Land có văn bản báo cáo cho
Thanh tra Xây dựng Quận X và UBND Phường NTB.

Đối với việc nguyên đơn khởi kiện thì Công ty chúng tôi có ý kiến như sau:
BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga không đơn phương chấm dứt hợp đồng trái
pháp luật;
Việc đầu tư, xây lắp quán café Newyork là do NĐ_Công ty An Khang tự thực hiện khi
chưa có giấy phép xây dựng để kinh doanh thu lợi nhuận và đã được khấu hao trong quá trình sử
dụng hơn 02 năm qua. NĐ Công ty An Khang chưa từng gửi cho BĐ Linh Nga Land “Bảng Dự
toán đầu tư khu vực thuê” nên Bến Thành Land không có cơ sở hoàn lại giá trị các khoản đầu tư
ban đầu vào Nhà hàng Newyork là: 2.864.137.670 đồng.
BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga không đồng ý bồi thường thiệt hại cho
NĐ Công ty An Khang về tiền thu nhập thực tế từ kinh doanh nhà hàng cà phê mỗi tháng
120.000.000 đồng tính từ ngày 01/3/2012 đến ngày xét xử sở thẩm là: 120.000.000 đồng X 13
tháng = 1.320.000.000 đồng;
BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga không đồng ý bồi thường thiệt hại cho
NĐ_Công ty An Khang 01 (một) năm tiền thuê nhà là: 379.080.000 đồng;
BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga không đống ý bồi thường thiệt hại cho
NĐ_Công ty An Khang tiền phí bảo vệ nhà hàng từ ngày 01/02/2013 đến ngày 31/07/2013 mỗi
tháng 5.000.000 đồng, cụ thể là: 06 tháng X 5.000.000 đồng = 30.000.000 đồng;
BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga không đồng ý bồi thường thiệt hại cho
NĐ_Công ty An Khang tiền phí Thừa phát lại lập vi bằng về việc cúp điện, nước là: 4.500.000
đồng;
BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga đồng ý hoàn lại cho NĐ Công ty TNHH
An Khang tiền thuê mặt bằng còn dư là: 74.767.611 đồng.

XÉT THẤY:

28
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ
vào kết qủa tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Xét về tố tụng:
Ngày 17/12/2010, BĐ_Linh Nga Land và NĐ_Công ty An Khang đã ký hợp đồng thuê
mặt bằng số: 135/BTL-HĐKT-2010, theo hợp đồng này thì BĐ Linh Nga Land cho NĐ Công
ty An Khang thuê một phần diện tích của Tòa nhà tại 172-174 KC, Phường NTB, Quận X,
Thành phố HCM, để mở quán cà phê các loại và ngày 24/3/2011, hai bên tiếp tục ký kết Phụ lục
Hợp đồng số 01/PL-2011/HĐ: 135/BTL-HĐKT-2010 để sửa đổi, bổ sung một số điều khoản
theo Hợp Đồng số: 135/BTL-HĐKT-2010. Ngày 01/02/2013 Công ty BĐ_Linh Nga Land đã
cho người xuống cúp điện, nước khu vực cho thuê, nên xảy ra tranh chấp. NĐ_Công ty An
Khang đã khởi kiện yêu cầu: Tuyên bố hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà là trái
pháp luật và buộc Công ty BĐ Linh Nga Land phải thanh toán cho NĐ Công ty An Khang tiền
giá trị các khoản đầu tư ban đầu vào Nhà hàng Newyork + bồi thường tiền thu nhập thực tế từ
kinh doanh nhà hàng cà phê từ ngày 01/3/2012 đến ngày xét xử sở thẩm + bồi thường 01 (một)
năm tiền thuê nhà do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật + bồi thường tiền phí
Thừa phát lại lập vi bằng + bồi thường tiền tiền phí bảo vệ + hoàn lại tiền thuê nhà còn dư. Như
vậy, đây là “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà”, căn nhà tọa lạc tại địa chỉ 172-174 KC, Phường
NTB, Quận X, Thành phố HCM, nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân Quận X, Thành phố HCM.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Thành phố HCM phát biểu: Tòa
án thụ lý vụ án lá đúng thẩm quyền; trong quá trình chuẩn bị xét xử, việc xác định tư cách đương
sự, tống đạt, thu thập chứng cứ, hòa giải, Tòa án thực hiện đúng pháp luật; Trong phiên tòa, Hội
xét xử, thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Xét về nội dung:


* Xét về các yêu cầu: Tuyên bố hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà là trái
pháp luật và buộc Công ty BĐ Linh Nga Land phải thanh toán cho NĐ Công ty An Khang tiền
giá trị các khoản đầu tư ban đầu vào Nhà hàng Newyork là: 2.864.137.670 đồng + bồi thường
tiền thu nhập thực tế từ kinh doanh nhà hàng cà phê mỗi tháng 120.000.000 đồng tính từ ngày
01/3/2012 đến ngày xét xử sở thẩm là: 120.000.000 đồng X 13 tháng = 1.320.000.000 đồng + bồi
thường 01 (một) năm tiền thuê nhà do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là:
379.080.000 đồng + bồi thường tiền phí Thừa phát lại lập vi bằng về việc cúp điện nước là:
4.500.000 đồng + bồi thường tiền tiền phí bảo vệ nhà hàng 06 tháng X 5.000.000 đồng =
30.000.000 đồng + hoàn lại tiền thuê nhà còn dư là: 74.767.611 đồng = 4.672.000.000 đồng.
Xét thấy:
- Ngày 17/12/2010, Công ty BĐ_Linh Nga Land và NĐ_Công ty An Khang đã ký hợp
đồng thuê mặt bằng số: 135/BTL-HĐKT-2010, theo hợp đồng này thì BĐ Linh Nga Land cho
NĐ Công ty An Khang thuê một phần diện tích của Tòa nhà 172-174 KC, Phường NTB, Quận
X, để mở quán cà phê, thời gian thuê là 10 năm và ngày 24/3/2011, hai bên tiếp tục ký kết Phụ
lục Hợp đồng số 01/PL-2011/HĐ: 135/BTL-HĐKT-2010 để sửa đổi, bổ sung một số điều khoản
theo Hợp Đồng số: 135/BTL-HĐKT-2010, cụ thể như sau:
+ Thời hạn thuê là: 10 năm tính từ ngày 17/02/2011.
+ Mặt bằng thuê: thuộc tầng trệt và khu outdoor (ngoài trời) của Tòa nhà Times Square
gồm: Mặt bằng 1: 81m2 ( Tl= 65m2, T2= 16m2); Mặt bằng 2: T3= 19m2.

29
+ Giá thuê: Đối với 03 năm đầu (Từ 17/02/2011 đến 16/02/2014): 20USD/m2 X 81m2 =
1,620USD X 12 tháng = 19,440 USD/năm (Mười chín nghìn bốn trăm bốn mươi đô la Mỹ mỗi
năm); Đối với 03 năm tiếp theo (Từ 17/02/2014 đến 16/02/2017): 22USD/m2 X 81m2
=1,782USD X 12 tháng = 21.384 USD/năm (Hai mươi mốt nghìn ba trăm tám tư đô la Mỹ mỗi
năm); Đối với 04 năm cuối (Từ 17/02/2017 đến 16/02/2020) 24,2USD/m2 X 81 m2 = 1,960USD
X 12 tháng = 23.520 USD/năm (Hai mươi ba nghìn năm trăm hai mươi đô la Mỹ mỗi năm).
- Căn cứ Điều 492 Bộ luật dân sự năm 2005 thì hợp đồng thuê nhà có thời hạn thuê từ 06
(sáu) tháng trở lên phải có công chứng hoặc chứng thực, nhưng hợp đồng thuê nhà nêu trên lại
không có công chứng, chứng thực. Căn cứ khoản 2 Điều 28 Luật kinh doanh bất động sản thì tổ
chức, cá nhân kinh doanh bất động sản cho thuê nhà, công trình xây dựng phải thực hiện thông
qua sàn giao dịch bất động sản, nhưng các bên cũng không qua sàn giao dịch bất động sản, nên
hợp đồng này bị vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức và căn cứ Pháp lệnh số
28/2005/PL-BTVQH ngày 13/12/2005 về ngoại hối đã quy định trên lãnh thổ Việt Nam, mọi
giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo không được thực hiện bằng ngoại hối, cho nên hợp
đồng thuê nhà nêu trên bị vô hiệu do vi phạm điều cấm. Do đó, lỗi làm cho hợp hợp đồng thuê
nhà trên bị vô hiệu là lỗi của hai bên.
- Xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng thuê nhà vô hiệu. Căn cứ vào Điều 137 Bộ luật dân
sự năm 2005 thì hợp đồng thuê nhà trên vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Căn cứ khoản 2 Điều 137 Bộ luật dân sự
năm 2005 thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, từ đó có cơ sở giải quyết như sau:
+ Đối với giá trị các khoản đầu tư vào quá cà phê Newyork, phía nguyên đơn xác định là
2.864.137.670 đồng. Xét thấy, theo Chứng thư thẩm định giá số: 21218/13SG ngày 30/9/2013,
thì chi phí xây dựng là 742.007.083 đồng và chi phí trang thiết bị là: 625.641.400 đồng, tổng
cộng là: 1.368.000.000 đồng, do đó NĐ_Công ty An Khang hoàn trả lại mặt bằng thuê cùng toàn
bộ công trình xây dựng trên mặt bằng thuê và trang thiết bị, máy móc phục vụ kinh doanh quán
cafe tại 172-174 KC, Phường NTB, Quận X cho công ty BĐ Linh Nga Land và công ty
BĐ Linh Nga Land phải hoàn lại cho NĐ Công ty An Khang số tiền 1.368.000.000 đồng (1).
+ NĐ Công ty An Khang đã sử dụng mặt bằng để kinh doanh nên phải chịu tiền thuê
nhà, nhưng đối với số tiền thuê nhà còn dư mà hai bên đã đối chiếu là: 74.767.611 đồng (2), thì
công ty BĐ Linh Nga Land phải hoàn trả lại cho NĐ Công ty An Khang.
+ Đối với bồi thường tiền thu nhập thực tế từ kinh doanh nhà hàng cà phê mỗi tháng
120.000.000 đồng tính từ ngày 01/3/2012 đến ngày xét xử sở thẩm, là: 120.000.000 đồng X 13
tháng = 1.320.000.000 đồng và tiền bồi thường 01 (một) năm tiền thuê nhà do hành vi đơn
phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là: 379.080.000 đồng: Xét thấy, hợp đồng thuê nhà bị
vô hiệu nên không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa các bên và số tiền này cũng không phải là thiệt
hại thực tế nên không có cơ sở chấp nhận.
+ Đối với phí Thừa phát lại lập vi bằng về việc cúp điện nước là: 4.500.000 đồng và tiền
tiền phí thuê bảo vệ nhà hàng là: 30.000.000 đồng: Xét thấy, công ty BĐ_Linh Nga Land muốn
lấy lại mặt bằng thì hai bên nên thỏa thuận, nếu không được thì khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu
giải quyết, nhưng công ty BĐ Linh Nga Land lại cúp điện nước là không đúng, từ đó về phần
mình (NĐ_Công ty An Khang) phải tiến hành yêu cầu lập vi bằng ghi nhận sự việc và thuê bảo
vệ để trông coi tài sản là hành động phù hợp, do đó tiền phí lập vi bằng và phí thuê bảo vệ là

30
khoản thiệt hại thực tế và công ty BĐ Linh Nga Land có lỗi, nên có cơ sở buộc công ty
BĐ Linh Nga Land phải bồi thường toàn bộ số tiền này là 34.500.000 đồng (3).
Tổng cộng (1) + (2) + (3) = 1.368.000.000 đồng + 74.767.611 đồng + 34.500.000 đồng =
1.477.267.611 đồng
- Tại phiên tòa Luật sư NĐT và Luật sư LQH trình bày: Công ty BĐ Linh Nga Land đơn
phương chấm dứt hợp đồng thuê mặt bằng trước hạn là trái pháp luật và chính hành vi đơn
phương chấm dứt hợp đồng thuê trước hạn là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho NĐ Công ty An
Khang, nên công ty BĐ Linh Nga Land phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ. Xét thấy, hợp
đồng thuê nhà giữa hai bên bị vô hiệu, nên không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, do đó số tiền thiệt hại sẽ được xử lý hậu quả pháp
lý của hợp đồng thuê nhà vô hiệu như đã phân tích ở trên.
- Tại phiên tòa Luật sư LQH cũng cho rằng hợp đồng thuê nhà nêu trên không bị vô hiệu
vì: hai bên không thỏa thuận phải ra công chứng; theo Điều 63 Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày
23/6/2010 có hướng dẫn Luật nhà ở đã xác định bên cho thuê là doanh nghiệp khinh doanh bất
động sản thì không phải công chứng. Xét thấy, hợp đồng thuê nhà giữa các bên không cần phải
ra công chứng, nhưng khoản 2 Điều 28 Luật kinh doanh bất động sản đã quy định tổ chức, cá
nhân kinh doanh bất động sản cho thuê nhà, công trình xây dựng phải thực hiện thông qua sàn
giao dịch bất động sản và trong hợp đồng thuê nhà giữa các bên lại thỏa thuận giá thuê là ngoại
tệ, nên có cơ sở xác định hợp đồng thuê nhà giữa hai bên bị vô hiệu.
- Tại phiên tòa Luật sư PTH và Luật sư PĐL cho rằng: cần xem xét tính pháp lý của hợp
đồng thuê nhà, nếu bị vô hiệu thì xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng thuê nhà vô hiệu theo quy
định. Xét thấy, như phân tích trên thì đã có cơ sở xác định hợp đồng thuê nhà giữa hai bên bị vô
hiệu, từ đó đã giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu như đã phân tích trên.
* Xét đối với chi phí thẩm định giá:
Công ty BĐ Linh Nga Land đã tạm ứng chi phí thẩm định giá và cũng chính Công ty
BĐ Linh Nga Land là bên phải bồi thường cho NĐ Công ty An Khang, nên phải chịu chí phí
thẩm định giá.
* Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu
như sau:
- Buộc BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga phải thanh toán cho NĐ Công ty
TNHH An Khang tổng cộng là: 1.477.267.611 đồng, ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
- NĐ Công ty TNHH An Khang có trách nhiệm trả lại cho BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư
địa ốc Linh Nga toàn bộ mặt bằng thuê tại địa chỉ 172-174 KC, Phường NTB, Quận X, Thành
phố HCM, bao gồm toàn bộ công trình xây dựng trên mặt bằng thuê và trang thiết bị, máy móc
phục vụ kinh doanh quán cà phê tại 172-174 KC, Phường NTB, Quận X theo Chứng thư thẩm
định giá số: 21218/13SG do Công Ty c ổ Phần Giám Định Ngân Hà lập ngày 30/9/2013, ngay
sau khi án có hiệu lực pháp luật.
3. Xét về án phí dân sự sơ thẩm:
- NĐ_Công ty An Khang yêu cầu số tiền 4.672.000.000 đồng, nhưng Tòa án chỉ chấp
nhận số tiền 1.477.267.611 đồng, nên NĐ_Công ty An Khang phải chịu án phí trên số tiền không
được chấp nhận, cụ thể tiền án phí là: 95.894.648 đồng, nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng
án phí đã nộp.

31
- Công ty BĐ_Linh Nga Land có nghĩa vụ thanh toán số tiền 1.477.267.611 đồng, nên
phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền này, cụ thể tiền án phí là: 56.318.028 đồng.
4. Xét quyền kháng cáo:
Án xử công khai, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thì có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày được tống đạt bản sao bản án.
Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng:
- Khoản 3 Điều 25; điểm a khoản 1 Điều 33; điểm c khoản 1 Điều 35; Điều 131; khoản 1
Điều 201; Điều 210; khoản 5 Điều 236; Điều 238; Điều 239; Điều 243 và Điều 245 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004, được sửa đổi, bổ sung năm 2011;
- Điều 128; Điều 134; khoản 1 và khoản 2 Điều 137; khoản 2 Điều 305; Điều 492; Điều
608 của Bộ luật dân sự năm 2005;
- Khoản 2 Điều 28 Luật kinh doanh bất động sản;
- Điều 306 Luật thượng mại năm 2005;
- Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án của ủ y ban thường vụ Quốc hội số: 10/2009/PL-
UBTVQH 12 ngày 27/02/2009 và Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Pháp
lệnh.
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn như sau:
- Buộc BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga có trách nhiệm thanh toán cho
NĐ_Công ty TNHH An Khang tổng cộng là: 1.477.267.611 đồng (một tỷ, bốn trăm bảy mươi
bảy triệu, hai trăm sáu mươi bảy nghìn, sáu trăm mười một đồng), ngay sau khi án có hiệu lực
pháp luật.
- NĐ Công ty TNHH An Khang có trách nhiệm trả lại cho BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư
địa ốc Linh Nga toàn bộ mặt bằng thuê tại địa chỉ 172-174 KC, Phường NTB, Quận X, Thành
phố HCM, bao gồm toàn bộ công trình xây dựng trên mặt bằng thuê và trang thiết bị, máy móc
phục vụ kinh doanh quán cà phê tại 172-174 KC, Phường NTB, Quận X theo Chứng thư thẩm
định giá số: 21218/13SG do Công Ty c ổ Phần Giám Định Ngân Hà lập ngày 30/9/2013, ngay
sau khi án có hiệu lực pháp luật.
2. Kể từ ngày NĐ Công ty TNHH An Khang có đơn yêu cầu thi hành án, nếu BĐ Công
ty Cổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga không thanh toán tiền như quy định ở trên thì hàng tháng
BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga còn phải chịu thêm tiền lãi theo lãi suất nợ quá
hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
- NĐ Công ty TNHH An Khang phải chịu án phí kinh doah thương mại sơ thẩm là:
95.894.648 đồng, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là: 58.427.379 đồng, theo biên
lai số: 06723 ngày 23/4/2013 và số tiền 2.836.610 đồng theo biên lai số: 07202 ngày 08/8/2013.
NĐ Công ty TNHH An Khang còn phải nộp là: 34.630.659 đồng (ba mươi bốn triệu, sáu trăm
ba mươi nghìn, sáu trăm năm mươi chín đồng) tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

32
- BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga phải chịu án phí kinh doanh thương mại
sơ thẩm là: 56.318.028 đồng (năm mươi sáu triệu, ba trăm mười tám nghìn, không trăm hai mươi
tám đồng).
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại
các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
5. NĐ Công ty TNHH An Khang, BĐ Công ty c ổ phần Đầu tư địa ốc Linh Nga có
quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

33
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 15/2014/KDTM-ST


Ngày: 25/6/2014
v ề việc: “Tranh chấp hợp đồng dịch
vụ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X- THÀNH PHỐ HCM


Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thấm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: 1. Ông Cao Thanh H


Các Hội thẩm nhân dân: 2. Ông Trần Quang
3. Bà Đặng Mỹ H
Thư kỷ Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Phạm T hị p, cán bộ Tòa án nhân dân
QUẬN X.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Q U Ậ N X tham gia phiên tòa: Bà T ăng Tố T, Kiểm
sát viên.

Trong ngày 18/6/2014 và tuyên án ngày 25/6/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân QUẬN
X xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 90/2013/TLST-KDTM ngày 09 tháng 4 năm 2013
về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch v ụ ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
624/2014/QĐXX ngày 22 tháng 5 năm 2014, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:
NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát
Trụ sở: 2/32 CT, Phường 5, Quận Y, Thành phố HCM.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Lê Minh Ngọc là người đại diện theo
pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông NHB, Đoàn luật sư
Thành phố HCM.

Bị đơn:
BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định
Trụ sở: 34 LD, Phường BN, QUẬN X, Thành phố HCM.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Hoàng Văn Hùng là người đại diện theo ủy
quyền (Văn bản ủy quyền ngày 19/12/2013).
Các đương sự có mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY:
- Trong đơn khởi kiện ngày 25/3/2013 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án nhân dân
QU ẬNX, ông Lê M inh Ngọc là người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn là NĐ Công
ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát ừình bày:

34
NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát và BĐ Công ty TNHH
phòng khám Gia Định có ký Hợp đồng thu xếp công việc vào ngày 16/9/2008 và các phụ lục
kèm theo là Phụ lục số I ký ngày 16/10/2008; Phụ lục số II ngày 31/8/2009. Theo nội dung
của Hợp đồng thu xếp công việc ký ngày 16/9/2008, NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát
triển nhà An Phát là bên trung gian giàn xếp (môi giới) cho phía BĐ Công ty TNHH phòng
khám Gia Định trao đổi làm việc với Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh
nhà (RESCO) để có được khu đất tại khu đô thị mới An Khánh, An Phú thuộc quyền quản lý
của Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà (RESCO) để đầu tư xây
dựng bệnh viện theo hướng xã hội hoá lĩnh vực y tế; cùng với việc tư vấn, soạn thảo văn bản
cho phía BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định để đạt được sự chấp thuận chủ trương
của ủ y ban nhân dân Thành phố HCM cho phép thực hiện dự án đầu tư xây dựng bệnh viện
trên khu đất này.
Sau khi ký kết Hợp đồng, NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát
với tư cách là bên thực hiện dịch vụ thu xếp đã khẩn trương, mẫn cán thực hiện có trách
nhiệm và hiệu quả các phạm vi công việc dịch vụ thuộc nội dung thỏa thuận nêu tại Điều 2
của Hợp đồng ngày 16/9/2008 thể hiện xác nhận qua các văn bản ý kiến chủ trương của các
cơ quan chức năng chuyên môn trực thuộc ủ y ban nhân dân Thành phố HCM, cũng như ủ y
ban nhân dân Thành phố HCM, cụ thể là việc đạt được chủ trương chấp thuận dự án đầu tư
nêu tại văn bản số 5779/UBND-ĐTMT ngày 5/11/2009 của ủ y ban nhân dân Thành phố
HCM đối với dự án xây dựng Bệnh viện quốc tế tại khu đô thị mới An Khánh, An Phú, Quận
z như là công việc quan trọng then chốt và kết quả của việc thực hiện hoàn tất nghĩa vụ của
mình theo Hợp đồng ngày 16/9/2008 và phía BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định cũng
đã thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc thanh toán phí dịch vụ đợt 2 theo hợp đồng thu xếp
và phụ lục I, II.
Tiếp đến, trách nhiệm của BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định là thực hiện thủ
tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật và thực hiện thanh toán phí
dịch vụ đợt 3. Tuy nhiên, từ khi có được chủ trương của Uỷ ban nhân dân Thành phố HCM
ký ngày 05/11/2009 đến nay, BĐ_Công ty TNHH phòng khám Gia Định đã không tích cực và
kéo dài thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư; trong khi đó, với tư cách là đơn vị thực hiện
dich vụ đã hoàn tất nghĩa vụ theo hợp đồng thu xếp quy định tại Điều 2.
Nhận thấy trong quá trình xin cấp giấy chứng nhận đầu tư của BĐ Công ty TNHH
phòng khám Gia Định có vướng mắc do còn thiếu thỏa thuận đền bù khoản hổ trợ chi phí cơ
sở hạ tầng mà phía của BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định phải hỗ trợ, trả cho Công
ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà là khoản bù đắp chi phí giải toả đền bù
xây dựng cơ sở hạ tầng mà Công ty đã thực hiện trước đây; vướng mắc ở chỗ cần phải có văn
bản chỉ đạo của ủ y ban Nhân dân Thành phố để việc ký Hợp đồng thỏa thuận và thu khoản
phí hỗ trợ chi phí cơ sở hạ tầng này đúng với quy định của nhà nước. Do đó, để giải quyết khó
khăn trên ngày 18/9/2012 NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát và
BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định đã ký Phụ lục III của Hợp đồng thu xếp. Quá trình
thực hiện, nguyên đơn đã làm các thủ tục dịch vụ về khoản đền bù hỗ trợ cơ sở hạ tầng và kết
quả là được sự chấp thuận của ủ y ban nhân dân Thành phố HCM và Sở Tài chính; ngày
13/3/2013 BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định và Công ty TNHH một thành viên phát
triển và kinh doanh nhà đã đạt được thỏa thuận thu khoản hỗ trợ chi phí đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng là 2.000.000 đồng/m2 tại khu đô thị An Phú, An Khánh, Quận z, Thành phố HCM
và đến ngày 31/12/2013 BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định đã được ủ y ban nhân dân

35
Thành phố HCM cấp Giấy Chứng nhận đầu tư số 4 1 1043002xxx. Nay NĐ_Công ty cổ phần
kinh doanh và phát triển nhà An Phát yêu cầu Toà án nhân dân QUẬN X buộc BĐ Công ty
TNHH phòng khám Gia Định phải có nghĩa vụ thanh toán khoản phí dịch vụ lần 3 theo Phụ
lục III ký ngày 18/9/2012 là là 200.000 USD theo tỷ giá đô la Mỹ tại thời điểm xét xử.

Bị đơn là BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định ủy quyền cho ông H oàng Văn
H ùng đại diện ừình bày:
NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát cho rằng hiện ủ y ban
nhân dân Thành phố HCM đã có văn bản chỉ đạo, chấp thuận cho phép BĐ Công ty TNHH
phòng khám Gia Định trả cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà
khoản chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo đơn giá 2.000.000 đồng/m2. BĐ_Công ty
TNHH phòng khám Gia Định cho rằng ý kiến trên của NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và
phát triển nhà An Phát là không có cơ sở và trái với thực tế. BĐ Công ty TNHH phòng khám
Gia Định khẳng định cho tới ngày hôm nay ủ y ban nhân dân Thành phố HCM vẫn chưa có
văn bản nào về việc chấp thuận cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh
nhà thu khoản hỗ trợ 2.000.000 đồng/m2, cụ thể là ngày 05/02/2013 văn phòng ủ y ban nhân
dân Thành phố HCM gửi cho BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định Công văn số 952 đã
thể hiện rõ quan điểm “ủ y ban nhân dân Thành phố không can thiệp vào việc thỏa thuận hỗ
trợ chi phí hạ tầng này. Giao Sở Tài chính hướng dẫn các đơn vị có liên quan thực hiện theo
quy định” .
BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định cho rằng NĐ Công ty cổ phần kinh doanh
và phát triển nhà An Phát yêu cầu trả 200.000 USD tiền phí dịch vụ đợt 3 là không phù hợp
với thỏa thuận giữa hai bên. Tại Phụ lục III ngày 18/9/2013, BĐ Công ty TNHH phòng
khám Gia Định và NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát đã thỏa thuận
chỉ thanh toán tiền phí dịch vụ đợt 3 cho NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà
An Phát 200.000 USD, trong đó 100.000 USD được thanh toán trong vòng 02 ngày sau khi
có văn bản của ủ y ban nhân dân Thành phố HCM về việc chấp thuận cho Công ty TNHH
một thành viên phát triển và kinh doanh nhà thu khoản hỗ trợ 2.000.000 đồng/m2. số tiền còn
lại 100.000 USD sẽ được BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định thanh toán cho
NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát trong vòng 05 ngày kể từ ngày
được cấp giấy chứng nhận đầu tư cho phép xây dựng Bệnh viện Quốc tế trên khu đất tại Quận
z. Tuy nhiên cho đến nay ủ y ban nhân dân Thành phố HCM chưa có bất kỳ một văn bản nào
chấp thuận cho Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà thu khoản hỗ trợ
2.000.000 đồng/m2 từ BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định. Mặt khác, ngày
29/11/2013 ủ y ban nhân dân Thành phố HCM ban hành văn bản 9994/VP-ĐT nêu rõ sẽ xem
xét cấp giấy chứng nhân đầu tư thành lập Công ty TNHH Bệnh viện Quốc tế Carmel-FMP,
chứ không phải BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định.
Vì vậy từ các lý do trên, BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định không đồng ý yêu
cầu của nguyên đơn, từ chối thanh toán tiền phí dịch vụ đợt 3 theo Phụ lục III của Hợp đồng
thu xếp ký ngày 18/9/2012 là 200.000 USD cho NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát
triển nhà An Phát.

Tại phiên tòa ngày 18/6/2014, người đại diện hợp pháp của NĐ_Công ty cổ phần kinh
doanh và phát triển nhà An Phát yêu cầu Hội đồng xét xử buộc BĐ Công ty TNHH phòng
khám Gia Định phải có nghĩa vụ thanh toán khoản phí dịch vụ lần 3 theo phụ lục III ký ngày

36
18/9/2012 là 4.239.000.000 đồng (tương đương 200.000 USD theo tỷ giá đô la Mỹ ngày
18/6/2014 là 21.195 đồng/OlUSD).
Người đại diện hợp pháp của BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định không đồng
ý thanh toán khoản phí dịch vụ lần 3 theo phụ lục III ký ngày 18/9/2012 vì cho rằng chưa đến
nay ủ y ban nhân dân Thành phố HCM chưa có bất kỳ một văn bản nào chấp thuận cho Công
ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà thu khoản hỗ trợ 2.000.000 đồng/m2
từ BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát
triển nhà An Phát phát biểu quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử buộc BĐ Công ty TNHH
phòng khám Gia Định phải có nghĩa vụ thanh toán khoản phí dịch vụ lần 3 theo phụ lục III ký
ngày 18/9/2012 là 4.239.000.000 đồng (tương đương 200.000 USD theo tỷ giá đô la Mỹ ngày
18/6/2014 là 21.195 đồng/OlUSD).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Q U Ậ N X p h á t biểu ỷ kiến:


- Việc tuân theo tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử:
Thẩm phán đã thụ lý vụ án, xác định quan hệ tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản -
hợp đồng dịch vụ là đúng thẩm quyền và còn trong thời hiệu khởi kiện. Quá trình giải quyết
vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật; việc
thu thập chứng cứ được thực hiện đầy đủ; Tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử tiến
hành mở phiên tòa đúng thời gian, địa điểm thành phần đã được ghi trong quyết định đưa vụ
án ra xét xử, nguyên tắc xét xử đảm bảo đúng luật.
- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng:
Nguyên đơn, bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ theo các quy định của pháp luật.

XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- về to tụng:
Nguyên đơn là NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát khởi kiện
bị đơn là BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ. Bị
đơn có trụ sở tại QUẬN X, Thành phố HCM. Căn cứ Khoản 3, Điều 25; Điểm a, Khoản 1,
Điều 33 và Điểm a, Khoản 1, Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân QUẬN X.
- về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi được ủ y ban
nhân dân Thành phố HCM chấp nhận chủ trương đầu tư thì bị đơn có gặp khó khăn trong
việc thoả thuận đền bù khoản hỗ trợ cơ sở hạ tầng với Công ty TNHH một thành viên phát
triển và kinh doanh nhà nên ngày 18/9/2012 giữa nguyên đơn và bị đơn đã ký Phụ lục III của
Hợp đồng thu xếp. Quá trình thực hiện, nguyên đơn đã làm các thủ tục dịch vụ về khoản đền
bù hỗ trợ cơ sở hạ tầng và kết quả là được sự chấp thuận của ủ y ban nhân dân Thành phố
HCM và Sở Tài chính; ngày 13/3/2013 bị đơn và Công ty TNHH một thành viên phát triển và
kinh doanh nhà đã đạt được thỏa thuận thu khoản hỗ trợ chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng là 2.000.000 đồng/m2 tại khu đô thị An Phú, An Khánh, Quận z , Thành phố HCM và
đến ngày 31/12/2013 BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định đã được ủ y ban nhân dân

37
Thành phố HCM cấp Giấy Chứng nhận đầu tư số 4 1 1043002xxx. Như vậy nguyên đơn đã
hoàn tất các điều kiện theo Phụ lục III của Hợp đồng thu xếp, bị đơn phải có nghĩa vụ thanh
toán theo hợp đồng trên; đây là vấn đề cần xem xét.
Xét ý kiến của người đại diện của bị đơn cho rằng đến nay ủ y ban nhân dân Thành
phố HCM chưa có bất kỳ một văn bản nào chấp thuận cho Công ty TNHH một thành viên
phát triển và kinh doanh nhà thu khoản hỗ trợ 2.000.000 đồng/m2 từ BĐ Công ty TNHH
phòng khám Gia Định là không hợp lý, bởi lẽ: Dù ủ y ban nhân dân Thành phố không có văn
bản chỉ đạo trực tiếp việc thỏa thuận hỗ trợ chi phí hạ tầng, nhưng gián tiếp chỉ đạo cho Sở
Tài chính hướng dẫn các đơn vị có liên quan thực hiện theo quy định. Chính sự chỉ đạo này
(thể hiện qua Công văn số 952 ngày 05/02/2013), Công ty TNHH một thành viên phát triển
và kinh doanh nhà và BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định đã đạt được thỏa thuận thu
khoản hỗ trợ 2.000.000 đồng/m2 tại khu đô thị An Phú, An Khánh, Quận z (theo Bản Thỏa
thuận số 129/2013/PTN ngày 13/3/2013) và như vậy theo Phụ lục III ngày 18/9/2013 thì bị
đơn phải có trách nhiệm thanh toán phí dịch vụ 100.000 USD trong vòng 02 ngày sau khi có
Bản Thỏa thuận trên, nhưng đến nay, bị đơn chưa thanh toán là vi phạm nghĩa vụ. số tiền còn
lại 100.000 USD sẽ được bị đơn thanh toán cho nguyên đơn trong vòng 05 ngày làm việc kể
từ ngày được cấp giấy chứng nhận đầu tư cho phép xây dựng Bệnh viện Quốc tế trên lô đất
tại khu đô thị An Phú, An Khánh, Quận Z; mặc dù ngày 31/12/2013 BĐ Công ty TNHH
phòng khám Gia Định đã được ủ y ban nhân dân Thành phố HCM cấp Giấy Chứng nhận đầu
tư số 411043002xxx nhưng cho đến nay vẫn chưa thanh toán là vi phạm nghĩa vụ.
Theo quy định tại Luật thương mại năm 2005 thì:
Điều 74. Hình thức hợp đồng dịch vụ
1. Hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể.
2. Đổi với các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn
bản thì phải tuân theo các quy định đó.
Điều 85. Nghĩa vụ của khách hàng
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, khách hàng có các nghĩa vụ sau đây:
1. Thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thoả thuận trong hợp đồng;
Điều 87. Thời hạn thanh toán
Trường hợp không có thỏa thuận và giữa các bên không có bất kỳ thói quen nào về
việc thanh toán thì thời hạn thanh toán là thời điểm việc cung ứng dịch vụ được hoàn thành.
Căn cứ vào các quy định nêu trên của Luật Thương mại năm 2005, yêu cầu của
NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát yêu cầu BĐ Công ty TNHH
phòng khám Gia Định phải thanh toán tiền dịch vụ là có cơ sở chấp nhận.
Xét việc thỏa thuận thanh toán tiền dịch vụ của hai bên bằng ngoại tệ không phù hợp
quy định của pháp luật, nên theo quy định tại Điều 24 Pháp lệnh ngoại hối có hiệu lực ngày
01/6/2006, Điều 32 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ “Quy
định chi tiết thi hành pháp lệnh ngoại hối và Điều 128, Điều 137 Bộ luật Dân sự thì giao dịch
trên bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, nên không làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ của các bên từ thời điểm xác lập, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận. Do đó buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn tiền dịch vụ
200.000 USD được tính ra tiền đồng Việt Nam tương đương là 4.274.000.000 đồng (theo giá
bán ngoại tệ của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thành phố HCM với đôla

38
Mỹ được đăng trên Báo Sài Gòn giải phóng ngày 25/6/2014 là 01 đôla Mỹ = 21.370 đồng
Việt Nam).
Qua phân tích trên nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của NĐ Công ty cổ phần kinh doanh
và phát triển nhà An Phát. Buộc BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định phải thanh toán
tiền dịch vụ cho NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát là 4.274.000.000
đồng.
Xét trong quá trình chuẩn bị xét xử, ngày 18/4/2014 bị đơn có đơn phản tố và đã được
Toà án thông báo nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm nhưng bị đơn không nộp tiền tạm ứng án
phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Xét tại phiên toà ngày 18/6/2014 người đại diện của bị đơn có ý kiến cho rằng bị đơn
đã có sự nhầm lẫn khi ký hợp đồng với nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo quy
định của pháp luật, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước
trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất; và khu đất tại
khu đô thị mới An Phú, An Khánh, Quận z đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho Công ty
TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh nhà theo Quyết định số 783/QĐ-TTg ngày
13/8/1999 nên ý kiến của bị đơn không có cơ sở xem xét.
Xét tại phiên toà ngày 18/6/2014 người đại diện của bị đơn có yêu cầu triệu tập ủ y
ban nhân dân Thành phố HCM và Công ty TNHH một thành viên phát triển và kinh doanh
nhà tham gia phiên toà với tư cách là người làm chứng, Hội đồng xét xử nhận thấy không có
cơ sở xem xét vì ủ y ban nhân dân Thành phố HCM và Công ty TNHH một thành viên phát
triển và kinh doanh nhà không thể biết gì về thoả thuận dịch vụ cũng như các công việc dịch
vụ của nguyên đơn và bị đơn.
Xét tại phiên toà ngày 18/6/2014 người đại diện của bị đơn còn có ý kiến cho rằng
ông Lê Minh Ngọc không có tư cách đại diện cho nguyên đơn để ký hợp đồng dịch vụ với bị
đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: căn cứ Quyết định của Chủ tịch Hội đồng quản trị số: 10/Qđ
- ANP ngày 29/6/2007 của NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát; Văn
bản ủy quyền ngày 10/9/2008 thì ông Lê Minh Ngọc có đủ tư cách đại diện cho nguyên đơn
để ký hợp đồng dịch vụ với bị đơn nên ý kiến của người đại diện của bị đơn không có cơ sở
xem xét.
- về án phỉ:
BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định phải chịu án phí kinh doanh thương mại
sơ thẩm là 112.274.000 đồng.
NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát không phải chịu án phí
kinh doanh thương mại sơ thẩm nên được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
- về quyền kháng cáo:
NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát và BĐ Công ty TNHH
phòng khám Gia Định theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng:
- Khoản 3, Điều 25; Điểm a, Khoản 1, Điều 33; Điểm a, Khoản 1, Điều 35, Điều 179,
Khoản 5, Điều 236; Điều 243 và Khoản 1, Điều 245 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Các Điều 74, 85 và 87 Luật Thương mại năm 2005;
- Các Điều 128 và 137 Bộ luật Dân sự năm 2005;

39
- Điều 24 Pháp lệnh Ngoại hối có hiệu lực ngày 01/6/2006;
- Điều 32 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ về việc
“Quy định chi tiết thi hành pháp lệnh ngoại hối;
- Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 quy định về án phí, lệ phí Toà
án;
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực ngày 01/7/2009;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:
Buộc BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định phải thanh toán tiền dịch vụ cho
NĐ_Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát 4.274.000.000 (bốn tỷ hai trăm
bảy mươi bốn triệu) đồng.
Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát có đơn yêu
cầu thi hành án nếu BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định không thanh toán số tiền nêu
trên thì hàng tháng BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định còn phải trả cho NĐ Công ty
cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát tiền lãi trên số tiền còn phải thi hành theo theo
lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian
chậm trả.

2. về án phí:
BĐ Công ty TNHH phòng khám Gia Định phải chịu án phí kinh doanh thương mại
sơ thẩm là 112.274.000 đồng.
Hoàn trả lại cho NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát
56.096.000 (năm mươi sáu triệu không trăm chín mươi sáu nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí
dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 06657 ngày 09/4/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự
QUẬN X.
3. về quyền kháng cáo:
NĐ Công ty cổ phần kinh doanh và phát triển nhà An Phát và BĐ Công ty TNHH
phòng khám Gia Định có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên
án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

40
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ KINH TỂ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Quyết định giám đốc thẩm


Số: 70/2014/KDTM-GĐT
Ngày: 29/07/2014
V/v: “Tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ KINH TỂ - TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO


Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: 1. Ông Hoàng Văn H


Các Thẩm phán: 2. Ông Nguyễn Văn s
3 .Ông Nguyễn Lương T
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân toi cao: Ông Nguyễn Tá c , Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao;
Thư kỷ Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Tô Thị Kim N, Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tối cao.

Ngày 29 tháng 12 năm 2014, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa để giám
đốc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng h ó d \ giữa
các đương sự:

Nguyên đơn:
NĐ Công ty Hà Thanh;
Có trụ sở tại số 99 LD, quận HK, thành phố HN;
Do ông Nguyễn Lê Sơn - Giám đốc Công ty làm đại diện.

Bị đơn:
BĐ Công ty cổ phần Thép Thiên An;
Có trụ sở tại Km9 Quốc lộ M, phường HL, quận HM, thành phố HN;
Do ông Trần Thanh Bình - Chủ tịch Hội đồng quản trị làm đại diện.

NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện, trình bày của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án, thì:
Ngày 11/11/2009, NĐ_Công ty Hà Thanh — Bộ Quốc phòng (sau đây gọi tắt là
NĐ Công ty Hà Thanh - bên A) có ký Hợp đồng kinh tế 03-09/HT-PT với BĐ Công ty cổ
phần Thép Thiên An (sau đây gọi tắt là BĐ Công ty Thiên An - bên B) với nội dung:
NĐ_Công ty Hà Thanh bán cho Công ty Thụận Phát 816,97 tấn (+/- 10%) thép cán nóng,
dạng cuộn, xuất xứ Nhật Bản; tổng trị giá là 7.422.000.000 đồng (+/-10%) (tỷ giá tạm tính
1USD = 18.500VND); giá trên là giá tạm tính đã bao gồm thuế VAT, trong trương hợp chính

41
sách thuế thay đổi thì giá trị hợp đồng sẽ thay đổi phù hợp; thời hạn giao hàng trong tháng
11-12/2009; Bên B thanh toán cho bên A bằng tiền mặt, chuyển séc hoặc chuyển khoản theo
trình tự sau: Ngay sau khi ký hợp đồng, bên B đặt cọc cho bên A số tiền 1.114.000.000VNĐ
tương đương 15% tổng giá trị hợp đồng; số tiền này được quyết toán vào ngày thanh lý hợp
đồng. Trong vòng 145 ngày kể từ ngày bên A nhận nợ Ngân hàng, bên B phải thanh toán cho
bên A số tiền hàng còn lại tương đương 85% trị giá hợp đồng. Quá thời hạn trên, bên B phải
chịu phạt theo lãi suất phạt chậm của Ngân hàng nhưng không quá 5 ngày. Quá thời hạn 5
ngày, nếu bên B vẫn chưa thanh toán hết thì phải chịu phạt theo lãi suất 1%/ngày. Hai bên
cam kết thực hiện nghiêm túc các điều khoản đã thỏa thuận, không được đơn phương thay đổi
hoặc hủy bỏ hợp đồng. Bên nào không thực hiện hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp
đồng mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị phạt 8% trị giá hợp đồng áp dụng theo mức phạt
của Luật thương mại. Mọi thay đổi, bổ sung các điều khoản của hợp đồng này phải được lập
thành văn bản là phụ lục hợp đồng. Các bản phụ lục hợp đồng (nếu có) là một bộ phận không
thể tách rời của hợp đồng này (BL40-41).
Ngoài ra, hai bên còn ký Phụ lục số 1 (kèm theo Hợp đồng số 02-09/HT- TP) không
đề ngày tháng năm 2009, trong đó có chỉ định nhà cung cấp nước ngoài, tổng giá trị hợp đồng
tạm tính vẫn là 7.422.000.000 đ; ngay khi có yêu cầu nộp thuế của cơ quan hải quan, bên B
chuyển cho bên A toàn bộ số tiền thuế VAT và thuế nhập khẩu theo thông báo thuế của cơ
quan hải quan nơi thông quan; giá trên là giá tạm tính đã bao gồm thuế VAT, bên B sẽ chịu
thêm phần chênh lệch VAT (nếu có); bên B phải trả các chi phí sau: Chi phí giao nhận tại
cảng, bốc xếp tại cảng, chi phí giám định, chi phí lưu kho, lưu bãi...; bên A căn cứ vào các
chứng từ phát sinh chi phí như: Phí lưu kho, phí xếp dỡ hàng, phí lõng hàng, vận chuyển, bảo
hiểm, phí ngân hàng, phí giám định vv để xuất hóa đơn hợp lý cho bên B; bên B thanh toán
cho bên A bằng VNĐ; tỷ giá quy đổi là tỷ giá bán ra quy định của ngân hàng bên A (cộng
phần chênh điểm nếu có) tại thời điểm ký hậu chứng từ; trương hợp phía nước ngoài yêu cầu
ngân hàng xác nhận và/hoặc có thế xác nhận L/C do bên A mở thì chi phí xác nhận do bên B
thanh toán; trong trương hợp bên A mở L/C mà không có hàng về thì bên B phải chịu toàn bộ
chi phí L/C và các chi phí liên quan khác (ủy thác) (BL39).
Ngày 12/11/2009, BĐ_Công ty Thiên An đã đặt cọc cho NĐ_Công ty Hà Thanh
1.114.000.000 đồng. Ngày 14/11/2009, chuyển tiếp 53.000.000 đ, tổng cộng 1.167.000.000
đồng.
Ngày 08/01/2010 (khi chưa giao nhận hàng), hai bên đã ký biên bản nhận nợ, theo đó:
Tổng giá trị hàng là 386.590,20USD; phí mở L/C (386.590,20USD X 0,15%) là 579,89USD;
điện phí mở LC là 30USD; Phí thanh toán (0,2% X 386.590,20USD) là 773,18USD; điện phí
thanh toán 20USD; lãi vay ngân hàng (386.590,20USD X 9,75%/12 X 154 ngày) là
13.705,43USD; Tổng cộng 401.698,69 USD; thuế giá trị gia tăng 10% là 40.169,87 USD; Phí
ủy thác 386.590,20USD X 1,6% là 6.185,44USD;số tiền đặt cọc là 1.167.000.000/19377 là
60.226,04USD. số tiền nhận nợ gồm giá trị hàng nhập khẩu theo giá CIF và các chi phí khác
là 387.827,97USD. Kể từ ngày 08/01/2010, BĐ_Công ty Thiên An nhận nợ NĐ_Công ty Hà
Thanh số tiền là 387.827,97 USD. số tiền thực tính lãi được tính trên phần trị giá tiền hàng
theo giá CIF, các phần chi phí khác bên B không phải thanh toán lãi. Thời gian tính lãi ngân
hàng: từ ngày 08/01/2010 đến ngày 08/6/2010 trên giá trị lô hàng chưa thanh toán là
328.601,67 USD, đồng tiền thanh toán là đồng Việt Nam được quy đổi theo tỷ giá bán ra thực
tế của Ngân hàng Habubank Chi nhánh cầu Giấy (đã cộng chênh điểm nếu có) tại từng thời
điểm thanh toán, lãi suất là 9,7%/năm. Tiền lãi thanh toán vào khi quyết toán hợp đồng. Bên
B có trách nhiệm thanh toán số tiền hàng còn nợ cho bên A đúng thời hạn. BĐ Công ty thép
Thiên An cam kết thực hiện theo các điều khoản Hợp đồng kinh tế số 03- 09/HT-PT ngày
11/11/2009 ký giữa hai bên (BL44).
Cùng ngày 08/01/2010, hai bên đã ký Bản cam kết thanh toán với Ngân hàng TMCP
nhà HN (nhận nợ với Ngân hàng) (BL108-109).

42
Ngày 12/01/2010, NĐ_Công ty Hà Thanh đã giao đủ số lượng 816,97 tấn thép theo
hợp đồng, hai bên đã làm biên bản giao nhận hàng (BL38).
Theo các tài liệu có trong hồ sơ là các lệnh chuyển tiền thì từ ngày 22/02/2010 đến
05/10/2010, BĐ_Công ty Thiên An đã thanh toán cho NĐ_Công ty Hà Thanh 14 lần với tổng
số tiền là 5.693.582.000 đồng (BL01-15).
Theo trình bày của nguyên đơn thì từ ngày 14/7/2010 đến ngày 05/10/2010,
BĐ Công ty Thiên An đã thanh toán cho NĐ Công ty Hà Thanh 13 lần, tổng cộng là
5.000.000.000 đồng, tương đương 257.379,01 USD, quy đổi theo tỷ giá Ngân hàng vào từng
thời điểm thanh toán. Từ ngày 05/10/2010 đến nay.
BĐ Công ty Thiên An không thanh toán cho NĐ Công ty Hà Thanh nữa.

Tại phiên tòa sơ thẩm, NĐ Công ty Hà Thanh đề nghị Tòa án căn cứ vào Biên bản
nhận nợ ngày 08/01/2010 để giải quyết, yêu cầu BĐ_Công ty Thiên An phải thanh toán gốc
là 1.821.360.000 đồng, lãi chậm trả 504.184.000 đồng, phạt vi phạm 545.778.000 đồng, tổng
cộng: 2.871.253.702 đồng. Cụ thể:
về nợ gốc: Đen ngày 05/10/2010, BĐ_Công ty Thiên An còn nợ tiền hàng chưa thanh
toán là 76.573,66USD, tương đương 1.503.140.945 VND. Tiền nợ thuế VAT là 120.393.793
đồng; tiền phạt chậm nộp thuế là 2.080.744 đồng.
về tiền lãi: Tại Biên bản nhận nợ ngày 08/01/2010, hai bên đã thỏa thuận thời gian
tính lãi từ ngày 08/01/2010 đến 08/6/2010 trên giá trị lô hàng là 328.601,67USD. Trên cơ sở
này, NĐ Công ty Hà Thanh đã tính số lãi BĐ Công ty Thiên An còn nợ tính đến ngày
25/02/2011 là 23.226,6 USD tương đương 499.139.634 đồng.
về phạt vi phạm hợp đồng, đề nghị BĐ Công ty Thiên An phải thanh toán tiền phạt
8% giá trị hợp đồng bị vi phạm, số tiền phạt là 26.716,21 USD tương đương 574.131.352
đồng.
v ề phí ủy thác: tại Biên bản nhận nợ ngày 08/01/2010, BĐ_Công ty Thiên An đông ý
trả NĐ Công ty Hà Thanh khoản phí này. Đây là thỏa thuận bổ sung Hợp đồng mua bán
ngày 11/11/2009. Thực tế, NĐ_Công ty Hà Thanh không ký hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa với bên thứ ba, vì vậy, NĐ_Công ty Hà Thanh không có chứng từ về việc ủy thác mua
bán.
v ề tiền thuế VAT: Căn cứ vào thỏa thuận giữa hai bên tại Phụ lục hợp đông thì
BĐ Công ty Thiên An phải trả cho NĐ Công ty Hà Thanh toàn bộ tiền thuế VAT. NĐ Công
ty Hà Thanh đã phát hành hóa đon giá trị gia tăng ngày 18/01/2010 sô tiên thuế là
724.560.000 đồng nộp vào ngân sách nhà nước. Ngày 22/02/2010, B Đ C ô n g ty Thiên An đã
chuyển cho NĐ_Công ty Hà Thanh 693.582.000 đồng tiền thuế, còn thiếu 120.000.000 đồng
theo hóa đơn đã phát hành.
v ề tiền phạt chậm nộp thuế: theo thỏa thuận thì BĐ Công ty Thiên An phải chuyến
toàn bộ số tiền thuế VAT và thuế nhập khẩu theo thông báo thuế của cơ quan hải quan nơi
thông quan, nhưng do BĐ Công ty Thiên An chuyển chậm tiền nên Hải quan Hải Phòng đã
phạt NĐ_Công ty Hà Thanh 2.080.744 đồng tiền chậm nộp thuê, vì vậy yêu cầu BĐ_Công ty
Thiên An phải thành toán khoản tiền này (BL48-50, 90-93, 110-119).

Bị đơn trình bày:


Ngày 11/11/2009, BĐ_Công ty Thiên An có ký Hợp đồng kinh tế số 03- 09/HT-TP và
Phụ lục hợp đồng số 01 với NĐ Công ty Hà Thanh như nguyên đơn trình bày. Tính đến ngày
05/10/2010, BĐ_Công ty Thiên An đã trả NĐ_Công ty Hà Thanh số tiền 6.860.581.999 đồng
(như bản kê của NĐ Công ty Hà Thanh), còn nợ gốc là: 561.418.000 đồng, tiền chậm trả tính
đến ngày xét xử là 290.607.451 đồng. Tổng cộng, BĐ_Công ty Thiên An chấp nhận trả cho
NĐ_Công ty Hà Thanh 852.025.451 đồng. BĐ_Công ty Thiên An không chấp nhận yêu cầu
phạt hợp đồng của nguyên đơn vì từ ngày giao hàng bị đơn vẫn chuyển trả tiền cho nguyên

43
đơn. Bị đơn sẽ không trả tiếp vì đã yêu cầu nguyên đơn xuất hóa đơn bán hàng nên bị đơn
không vi phạm hợp đồng. Không chấp nhận nguyên đơn căn cứ vào Biên bảnnhận nợ ngày
08/01/2010 và đồng tiền thanh toán là USD là vi phạm pháp luật. Đề nghị nguyên đơn
chuyển cho bị đơn hóa đơn bán hàng để bị đơn thanh toán nốt khoản tiền còn lại (90-93; 110-
119).

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 02/2011/KDTM-ST ngày 09/4/2011,
Toà án nhân dân quận HM, thành phố HN đã quyết định:
“7. Chấp nhận một phần yêu cầu của NĐ Công ty Hà Thanh Bộ quốc phòng. Buộc
BĐ Công ty cổ phần Thép Thiên An phải thanh toán cho NĐ Công ty Hà Thanh Bộ quốc
phòng những khoản sau:
- Khoản tiền hàng còn phải thanh toán là 561.418.000 đồng;
- Khoản tiền lãi chậm trả tính đến ngày xét xử là 297.660.264 đồng;
- Khoản tiền phạt hợp đồng là 44.913.440 đồng;
- Khoản tiền phạt chậm nộp thuế: 2.080.744 đồng;
Tổng số tiền BĐ Công ty cổ phần Thép Thiên An phải thanh toán trả NĐ Công ty Hà
Thanh Bộ quốc phòng là 906.072.500 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật... hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án
của người được thỉ hành án... cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi
suất cơ bản do ngân hàng nhà nước quy định tương úng với thời gian chưa thi hành án.
về án phí:
- NĐ Công ty Hà Thanh phải chịu án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm là
70.955.500 đồng. Xác nhận NĐ Công ty Hà Thanh Bộ quốc phòng đã nộp tạm ứng án phí sơ
thẩm là 43.000.000 đồng...NĐ_Công ty Hà Thanh Bộ quốc phòng còn phải nộp tiền án phí
kinh doanh thương mại sơ thẩm là 27.955.500 đồng.
- BĐ Công ty cổ phần Thép Thiên An phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ
thẩm là 39.182.0000 đồng.

Ngày 15/4/2011, NĐ_Công ty Hà Thanh có đơn kháng cáo.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 16/2011/KDTM-PT ngày
19/7/2011, Toà án nhân dân thành phố HN đã quyết định: “Sửa Bản án kinh doanh thương
mại sơ thẩm số 02/2011/KDTM-ST ngày 06 và 09/4/2011 của Tòa án nhân dân quận HM và
xử như sau:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của NĐ Công ty Hà
Thanh.
2. Buộc BĐ Công ty cổ phần Thép Thiên An phải thanh toán cho NĐ Công ty Hà
Thanh các khoản tiền sau:
Khoản tiền hàng còn phải thanh toán: 1.690.233.428 đồng.
Tiền phạt hợp đồng 8%: 535.218.674,24 đồng.
Tiền phạt chậm nộp thuế: 2.080.744 đồng.
Tiền lãi chậm trả: 461.120.288,6 đồng
Tổng cộng: 2.688.653.135 đồng.
Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật mà bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành
án mà bên phải thi hành chưa trả tiền thì còn phải chịu lãi suất trên số tiền trả chậm trả theo
mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian
chưa thi hành án...

44
3. v ề án phí: 3.1. NĐ Công ty Hà Thanh không phải chịu án phí kinh doanh thương
mại phúc thẩm. NĐ Công ty Hà Thanh phải chịu 9.130.000 đồng (chín triệu một trăm ba
mươi nghìn đồng) án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm; được trừ vào số tiền tạm ímg án
phí kinh doanh thương mại sơ thẩm 43.000.000 đồng... và tiên tạm ứng án phí kinh doanh
thương mại phúc thẩm 200.000 đồng... được hoàn lại 34.070.000 đồng.
3.2. BĐ Công ty cổ phần Thép Thiên An phải chịu 85.773.000 đồng (tám mươi năm
triệu bảy trăm bảy mươi ba nghìn đỏng) án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm”.

Sau khi xét xử phúc thẩm, BĐ Công ty cổ phần Thép Thiên An có đơn đề nghị hoãn
thi hành án và xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định kháng nghị số 33/2014/KDTM-KN ngày 16/7/2014, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 16/2011/KDTM-PT ngày
19/7/2011 của Toà án nhân dân thành phố HN và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
02/2011/KDTM-ST ngày 09/4/2011 của Toà án nhân dân quận HM, thành phố HN; giao hồ
sơ vụ án cho Toà án nhân dân quận HM, thành phố HN xét xử sơ thẩm lại theo quy định của
pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí kháng
nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là cần thiết, tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm xem xét lại về nội dung phạt vi phạm hợp đồng theo hướng cần phải áp dụng
phạt vi hợp đồng đối với BĐ Công ty thép Thiên An.

XÉT THẤY:
Ngày 11/11/2009, NĐ_Công ty Hà Thanh - Bộ Quốc Phòng (bên A) và B Đ C ô n g ty
cổ phần Thép Thiên An (bên B - sau đây viết tắt là BĐ Công ty Thiên An) đã ký Hợp đồng
kinh tế 03-09/HT-PT về việc mua bán 816,97 tấn (+/- 10%) thép cán nóng, dạng cuộn, xuất
xứ Nhật Bản, tổng trị giá hợp đồng là 7.422.000.000 đồng, giá này là giá tạm tính, đã bao
gồm thuế giá trị gia tăng. Sau đó, hai bên còn ký Phụ lục hợp đồng số 1 (không đề ngày tháng
năm 2009) để chỉ định nhà cung cấp nước ngoài, và bên B sẽ chịu thêm phần chênh lệch
VAT (nếu có); chi phí giao nhận tại cảng, bốc xếp tại cảng, chi phí giám định, chi phí lưu
kho, lưu bãi...
Ngày 08/01/2010 (khi chưa giao nhận hàng), hai bên đã ký biên bản nhận nợ, theo đó:
Tổng trị giá hàng là 386.590,20USD; phí mở L/C (386.590,20USD X 0,15%) là 579,89USD;
điện phí mở LC là 30USD; Phí thanh toán (0,2% X 386.590,20USD) là 773,18USD; điện phí
thanh toán 20USD; lãi vay ngân hàng (328.601,67USD X 9,75%/12 X 154 ngày) là
13.705,43USD; Tổng cộng 401.698,69USD; thuế giá trị gia tăng 10% là 40.169,87USD; Phí
ủy thác (386.590,20USD X 1,6%) là 6.185,44 USD; tổng cộng la 448.054,01USD; số tiền đặt
cọc (1.167.000.000/19.377) la 60.226,04 USD. số tiền nhận nợ gồm giá trị hàng nhập khẩu
theo giá CIF và các chi phí khác là 387.827,97 USD. Kể từ ngày 08/01/2010, BĐ_Công ty
Thiên An nhận nợ NĐ Công ty Hà Thanh số tiền là 387.827,97 USD. số tiền thực tính lãi
được tính trên phần trị giá tiền hàng theo giá CIF, các phần chi phí khác bên B không phải
thanh toán lãi. Thời gian tính lãi ngân hàng: từ ngày 08/01/2010 đến ngày 08/6/2010 trên giá
trị lô hàng chưa thanh toán là 328.601,67 USD, đồng tiền thanh toán là đồng Việt Nam được
quy đổi theo tỷ giá bán ra thực tế của Ngân hàng Habubank (Ngân hàng TMCP Nhà HN) Chi
nhánh cầu Giấy (đã cộng chênh điểm nếu có) tại từng thời điểm thanh toán, lãi suất là
9,75%/năm. Tiền lãi thanh toán vào khi quyết toán hợp đồng. Bên B có trách nhiệm thanh
toán số tiền hàng còn nợ cho bên A đúng thời hạn. BĐ Công ty Thiên An cam kết thực hiện
theo các điều khoản Hợp đồng kinh tế số 03-09/HT-PT ngày 11/11/2009 ký giữa hai bên.

45
Ngày 12/01/2010, NĐ_Công ty Hà Thanh đã giao đủ số lượng 816,97 tấn thép theo
hợp đồng và hai bên đã làm biên bản giao nhận hàng.
Theo các tài liệu có trong hồ sơ thì từ ngày 12/11/2009 đến ngày 05/10/2010,
BĐ Công ty Thiên An đã phát hành các lệnh chuyển tiền thanh toán cho NĐ Công ty Hà
Thanh 16 lần (bao gồm cả tiền đặt cọc) với tổng số tiền là 6.860.582.000 đồng qua Ngân
hàng TMCP Nhà HN, chi nhánh cầu Giấy.
Xét Biên bản nhận nợ ngày 08/01/2010 thì thấy: Biên bản nhận nợ ngày 08/01/2010
được người đại diện theo pháp luật của hai bên Công ty ký kết sau Hợp đồng kinh tế 03-
09/HT-PT ngày 11/11/2009, và trước khi các bên giao nhận hàng (ngày 12/01/2010). Tại
Khoản 1.1 Điều 1 Hợp đồng số 03-09 ngày 11/11/2009 quy định thì tổng trị giá lô hàng là
7.422.000.000 đ (+/-10%), tỷ giá tạm tính 1 USD = 18.5000VNĐ; “giá trên là giá tạm tính”,
nên sau đó vào ngày 08/01/2010, các bên kỷ Biên bản nhận nợ xác định lại trị giá lô hàng là
có căn cứ chấp nhận. Như vậy, mặc dù Biên bản có tiêu đề là nhận nợ nhưng thực chất là thỏa
thuận mới của các bên về giá trị hợp đồng, các khoản thuế, phí đều được thỏa thuận tính bằng
đồng đô la Mỹ làm đồng tiền định giá (để bảo đảm ổn định giá trị của hợp đồng) nhưng việc
thanh toán là đồng tiền Việt Nam được quy đổi theo tỷ giá bán ra thực tế của Ngân hàng
TMCP Nhà HN... tại từng thời điểm thanh toán. Trên thực tế, BĐ Công ty Thiên An cũng
thanh toán cho NĐ Công ty Hà Thanh bằng tiền đồng Việt Nam thông qua chuyển khoản tại
Ngân hàng TMCP Nhà HN, chi nhánh cầu Giấy nên thỏa thuận của các bên không bị coi là
vô hiệu và cũng không vi phạm Pháp lệnh về quản lý ngoại hối.
Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Biên bản nhận nợ vô hiệu do các bên thỏa thuận giá trị
hợp đồng bằng ngoại tệ, từ đó không căn cứ vào Biên bản nhận nợ để giải quyết vụ án là
không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng Biên bản nhận nợ không vô hiệu là có căn cứ.
* về giá trị của Hợp đồng:
Do Biên bản nhận nợ ngày 08/01/2010 được coi là thỏa thuận mới về giá trị hợp đồng
nên các khoản mà NĐ Công ty Hà Thanh và BĐ Công ty Thiên An đã thỏa thuận như: Tổng
giá trị lô hàng; phí mở L/C; điện phí mở L/C; phí thanh toán; điện phí thanh toán được Tòa
án cấp phúc thẩm chấp nhận là có căn cứ. Tuy nhiên, trong thỏa thuận này có nội dung tính
lãi ngân hàng và ngày tính lãi thì chưa được Tòa án cấp phúc thẩm làm rõ xem tính lãi bắt
đầu từ ngày nào, mặc dù tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn khai tính lãi từ ngày 08/01/2010
(ngày ký Biên bản nhận nợ) và số ngày tính lãi tại sao lại là 154 ngày, chưa được làm rõ.
Riêng về phí ủy thác: quá trình giải quyết vụ án, NĐ Công ty Hà Thanh thừa nhận
không có việc ủy thác nên Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận phần này là có căn cứ.
* v ề tiền phạt chậm nộp thuế: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn - BĐ Công ty Thiên An
chấp nhận trả NĐ Công ty Hà Thanh số tiền phạt chậm nộp thuế là 2.080.744 đồng, nên tòa
án chấp nhận là có căn cứ.
* về tiền lãi do chậm thanh toán:
Tại Điều 3.2 của Hợp đồng các bên có thỏa thuận: trong vòng 145 ngày kể từ ngày
NĐ_Công ty Hà Thanh nhận nợ Ngân hàng (08/01/2010), BĐ_Công ty Thiên An phải thanh
toán cho NĐ Công ty Hà Thanh số tiền hàng còn lại tương đương 85% trị giá hợp đồng. Quá
thời hạn trên, bên B phải chịu phạt theo lãi suất phạt chậm của Ngân hàng nhưng không quá 5
ngày. Quá thời hạn 05 ngày, nếu vẫn chưa thanh toán hết thì phải chịu phạt theo lãi suất 1
%/ngày.
Thực chất đây là thỏa thuận của các bên về nghĩa vụ thanh toán tiền lãi do chậm thanh
toán. Theo thỏa thuận nói trên thì trong vòng 145 ngày kể từ ngày 08/1/2010, BĐ_Công ty
Thiên An phải thanh toán nốt 85% giá trị hợp đồng cho NĐ_Hà Thanh, nhưng cũng không
được quá 5 ngày. Vì vậy, thời diêm xác định BĐ Công ty Thiên An vi phạm nghĩa vụ thanh
toán là 03/6/2010 (sau 145 ngày). Tại phiên tòa sơ thẩm (BL114), bị đơn cũng thừa nhận thời
điểm vi phạm hợp đồng là ngày 03/6/2010. Việc các bên thỏa thuận sau 150 ngày (145 ngày
+ 5 ngày) mà BĐ Công ty Thiên An vẫn không thanh toán thì phải chịu mức lãi suât là
1%/ngày (30%/tháng) là mức lãi suất quá cao, không đúng quy định của pháp luật nên phải

46
tính lại cho đúng. Trong trường hợp này phải tính mức lãi suất theo quy định tại Điều 306
Luật thương mại đó là lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại tìmg thời điểm thanh
toán.
* v ề tiền phạt vi phạm hợp đồng:
Theo thỏa thuận của các bên tại Điều 5 Hợp đồng kinh tế số 03 ngày 11/11/2009 thì:
“Hai bên cam kết thực hiện nghiêm túc các điều khoản đã thỏa thuận, không được đơn
phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng. Bên nào không thực hiện hoặc đơn phương đình chỉ
thực hiện hợp đồng mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị phạt 8% trị giá hợp đồng áp dụng
theo mức phạt của Luật thương mại”. Như vậy, các bên thỏa thuận “bên nào không thực
hiện” hoặc “đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng” thì mới bị phạt vi phạm hợp đồng. Ở
đây, BĐ Công ty Thiên An vẫn thực hiện hợp đồng cũng không đơn phương đình chỉ hợp
đồng mà chỉ chậm thanh toán thì đã phải chịu tiền lãi do chậm thanh toán. Do đó, không thể
phạt vi phạm đối với BĐ Công ty Thiên An. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng tại Tòa án,
NĐ Công ty Hà Thanh thay đổi yêu cầu chỉ yêu cầu Tòa án phạt 8% giá trị hợp đồng bị vi
phạm nên phù hợp với mức phạt vi phạm theo quy định tại Điều 301 Luật thương mại năm
2005 nên Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu này và buộc BĐ Công ty Thiên
An phải chịu phạt vi phạm hợp đồng với số tiền là 535.218.674,24 đồng là không đúng.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định: “Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật
mà bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành chưa trả tiền thì
còn phải chịu lãi suất trên số tiền trả chậm trả theo mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà
nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án” là không đúng mà phải
tuyên theo mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán theo quy
định tại Điều 306 Luật thương mại 2005.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào Khoản 2 Điều 296; Khoản 3 Điều 297; Điều 299 của Bộ
luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011),

QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 16/2011/KDTM-PT ngày
19/7/2011 của Toà án nhân dân thành phố HN và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
02/2011/KDTM-ST ngày 09/4/2011 của Toà án nhân dân quận HM, thành phố HN;
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận HM, thành phố HN xét xử lại theo quy
định của pháp luật.

47
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 138/2014/DSST


Ngày 10/07/2014
V/v: Hợp đồng đặt cọc

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X


THÀNH PHỐ HCM
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thấm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: 1. Bà Hoàng Thị Bích T


Các Hội thẩm nhân dân: 2. Ông Nguyễn Hoàng Đ
3. Ông Lê Trung D
Thư kỷ Tòa án ghi biên bản phiên tòa: bà Trần Thị Hoài T - Cán bộ Tòa án nhân dân
Quận X- Thành phố HCM.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X thành phổ HCM tham gia phiên tòa: bà
Nguyễn Thị Diễm K - kiểm sát viên.

Ngày 10 tháng 7 năm 2014 tại phòng xử án Tòa án nhân dân Quận X mở phiên tòa xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 315/2012/TLST - DS ngày 14/12/2012 về tranh chấp
“Hợp đồng đặt cọc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2014/QĐST-DS ngày 30
tháng 6 năm 2014 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:
Bà NĐ Nguyễn Thị Minh Đào, sinh năm 1958
Địa chỉ: 05A/2, 25 LH -TC - BĐ - HN
Người đại diện hợp pháp của bà NĐ Đào: Bà Hà Thị Hải Yến, sinh năm 1975 (có
mặt)
Địa chỉ: 221 lô u , cư xá TĐ, Phường 27, Quận BT, TP HCM
Địa chỉ liên hệ: D7-10 Hoàng Anh Gia Lai 3- NHT, xã PK, NB, TP HCM là người đại
diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 30/01/2013)
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn có ông NDN là luật sư của Công ty
Luật TNHH HG thuộc Đoàn Luật sư Thành phố HN (có mặt)

Bị đơn:
BĐ Công ty cổ phần Thương mại Địa ốc An Phú (AP-world)
Địa chỉ: D2-12 Lô R19, Khu phố Mỹ Toàn 3, PMH, phường TP, Quận X, Thành phố
HCM.

48
Người đại diện hợp pháp của BĐ Công ty cổ phần Thương mại Địa ốc An Phú: ông
Lê Hữu Vân, sinh năm 1977 (có mặt)
Địa chỉ: 11 Gl LVB, phường TTT, Quận X, TP HCM là người đại diện theo ủy quyền
(Văn bản ủy quyền ngày 20/3/2013)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:


1. LQ Công ty c ổ phần Đầu tư Đô Thị Thành Lan.
Địa chỉ: phòng A15, tầng 3, Khách sạn Horison - số 40 CL, phường CL, quận ĐĐ,
Thành phố HN
Đại diện theo pháp luật: ông Vũ Văn Phú (yêu cầu xử vắng mặt)
2. LQ Công ty cổ phần Lan Ý
Địa chỉ: 243A ĐLT, phường LT, quận ĐĐ, Thành phố HN.
Địa chỉ liên hệ: Tầng 7, Tháp Tâỵ, Tòa 28 tầng, làng Quốc Tế Thăng Long, phường
DV, quận CG, Thành phố HN
Đại diện theo pháp luật: ông Hoàng Văn Châu (yêu cầu xử vắng mặt)
3. Bà LQ Nguyễn Thị Bích Thy, sinh năm 1957
Địa chỉ: 3B ngõ Tràng An - Thành phố HN (yêu cầu xử vắng mặt)

NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện ngày 20/11/2012, đơn bổ sung ngày 17/4/2014, bản tự khai ngày
11/01/2013, 23/4/2014 và tại phiên toà, đại diện nguyên đơn bà Hà Thị Hải Yến xác định yêu
cầu khởi kiện như sau:
Ngày 20/9/2010, bà NĐ_Nguyễn Thị Minh Đào và BĐ_Công ty cổ phần Thương mại
Địa ốc An Phú (viết tắt BĐ Công ty An Phú) ký “Thỏa thuận đặt cọc” số 0410/TTĐCHKT
để mua một căn hộ C2 Block A tầng 18 của dự án khu căn hộ cao cấp và văn phòng
Hongkong Tower tại 243A ĐLT- ĐĐ- HN. Tổng giá trị chuyển nhượng 198.750 USD.
BĐ Công ty An Phú cam kết sẽ sắp xếp thời gian để bà NĐ Đào được ký hợp đồng mua bán
nhà ở hình thành trong tương lai với chủ đầu tư là LQ Công ty c ổ phần Đầu tư Đô Thị
Thành Lan (viết tắt LQ Công ty Thành Lan). Sau khi ký thỏa thuận đặt cọc bà NĐ Đào đã
chuyển tiền 04 lần cụ thể:
- Lần 1 ngày 20/9/2010 đặt cọc 10.000 USD (mười ngàn đô la Mỹ)
- Lần 2 ngày 15/10/2010: 9.143 USD (chín ngàn một trăm bốn mươi ba đô la Mỹ)
- Lần 3 ngày 02/11/2010: 36.570 USD (ba mươi sáu ngàn năm trăm bảy mươi đô la
Mỹ)
- Lần 4 ngày 30/01/2011: 35.713 USD (ba mươi lăm ngàn bảy trăm mười ba đô la
Mỹ).
Tổng số tiền bà NĐ Đào đã đặt cọc và thanh toán cho BĐ Công ty An Phú 91.426
USD (chín mươi mốt ngàn bốn trăm hai mươi sáu đô la Mỹ).
Do bà NĐ Đào và BĐ Công ty An Phú thống nhất không tiếp tục thực hiện việc mua
bán nhà nữa nên bà NĐ Đào đã nhận lại tiền cọc từ BĐ Công ty An Phú là 32.400 USD (ba
mươi hai ngàn bốn trăm đô la Mỹ), còn lại 59.026 USD (Năm mươi chín ngàn không trăm
hai mươi sáu đô la Mỹ) BĐ Công ty An Phú chưa trả.

49
Tại phiên tòa bà xác định yêu câu:
Tuyên Thỏa thuận đặt cọc số 0410/TTĐC.HKT ngày 20/9/2010 ký giữa BĐ Công
ty An Phú và bà NĐ_Đào vô hiệu;
- BĐ_Công ty An Phú trả lại số tiền đặt cọc là: 1.244.268.080 đồng (Một tỷ hai
trăm bốn mươi bốn triệu hai trăm sáu mươi tám ngàn không trăm tám mươi đồng) tương ứng
59.026 USD (Năm mươi chín ngàn không trăm hai mươi sáu đô la Mỹ);
- Rút yêu cầu đòi tiền lãi.

Tại bản tự khai trình bày nội dung thông báo thụ lý của BĐ Công ty An Phú và tại
phiên tòa Lê Hữu Vân đại diện bị đơn trình bày:
Ngày 20/9/2010, bà NĐ_Đào và BĐ_Công ty An Phú có ký Thỏa thuận đặt cọc số
0410. Mục đích của việc đặt cọc này bà NĐ_Đào đồng ý mua một căn hộ C2 Block A của dự
án khu căn hộ cao cấp và văn phòng Hongkong Tower tại 243A ĐLT- ĐĐ- HN. Tổng giá trị
chuyển nhượng 198.750 USD. BĐ Công ty An Phú xác nhận tổng số tiền bà NĐ Đào đã đặt
cọc và thanh toán là 91.426 USD. Sau đó bà NĐ Đào đòi lại tiền đã thanh toán. Thực tế
BĐ Công ty An Phú đã chuyển trả tiền cho bà NĐ Đào thông qua bà LQ Thy (là bạn bà
NĐ_Đào và BĐ_Công ty An Phú) là 32.400 USD, hiện còn lại 59.026 USD chưa trả.
Nay bà NĐ_Đào kiện BĐ_Công ty An Phú, công ty đồng ý sẽ trả bà NĐ_Đào số tiền
tương ứng với 59.026 USD bằng cách thực hiện theo đúng thỏa thuận trước đây giữa hai bên
khi nào khách hàng thanh toán tiếp tiền mua nhà thì BĐ Công ty An Phú sẽ trả tiền ngay cho
bà N Đ Đ ào.

Tại công văn số 270/CV-KL ngày 18/4/2013 ông Vũ Văn Phú đại diện theo pháp luật
của LQ Công ty c ổ phần Đầu tư Đô Thị Thành Lan trình bày:
BĐ Công ty An Phú có ký hợp đồng tham gia góp vốn với LQ Công ty Thành Lan
nhưng đến nay BĐ Công ty An Phú vẫn chưa góp đủ vốn theo nghĩa vụ cổ đông như cam
kết. Việc BĐ Công ty An Phú tự ký kết chuyển nhượng căn hộ của Dự án Hongkong Tower
với một số người trong đó có bà NĐ Đào, đồng thời tự huy động và sử dụng nguồn vốn huy
động từ dự án Hongkong Tower (không thông báo hay nộp tiền lại cho LQ Công ty Thành
Lan) là vi phạm pháp luật và vi phạm các điều Khoản hợp đồng đã ký giữa hai bên. LQ Công
ty Thành Lan không biết và không chịu trách nhiệm về các vấn đề phát sinh.

Tại công văn số 660/PTXD ngày 02/10/2013 ông Hoàng Văn Châu đại diện theo pháp
luật của LQ Công ty cổ phần Lan Ý (viết tắt LQ Công ty TDC) trình bày:
LQ Công ty TDC không có bất kỳ mối liên hệ nào với bà NĐ Đào và BĐ Công ty
An Phú. Đối với LQ Công ty Thành Lan, từ năm 2007 LQ Công ty TDC không tiếp tục
thương thảo ký hợp đồng hợp tác thực hiện dự án với LQ Công ty Thành Lan. Vì vậy
LQ Công ty TDC đề nghị tòa cho phép công ty không tham gia các phiên hòa giải và xét xử
vụ kiện.

Tại bản tự khai ngày 25/3/2014 bà LQ_Nguyễn Thị Bích Thy trình bày:
Bà NĐ Đào và BĐ Công ty An Phú có ký thỏa thuận đặt cọc số 0410 để mua một
cán hộ C2 Block A của dự án Hongkong Tower. Sau khi ký kết, bà NĐ Đào nhờ bà nộp tiền

50
đặt cọc đợt 1 là 10.000 USD, các đợt tiếp theo bà NĐ Đào nộp. Do không có căn hộ để bàn
giao cho bà NĐ Đào theo đúng thỏa thuận nên bà NĐ Đào yêu cầu BĐ Công ty An Phú
hoàn trả lại tổng số tiền đặt cọc đã nộp, BĐ Công ty An Phú đồng ý hoàn trả cho bà NĐ Đào
nên ngày 31/8/2011 bà có nhận lại số tiền 32.400 USD do BĐ_Công ty An Phú trả và bà đã
hoàn trả tiền này cho bà NĐ Đào. Bà chỉ là người nộp tiền và nhận tiền thay bà NĐ Đào. Bà
làm đơn yêu cầu hòa giải, xét xử vắng mặt.

Luật sư NDN bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Thỏa thuận
đặt cọc số 410 là giao dịch dân sự giả tạo nhằm che dấu hợp đồng huy động vốn, tại thời
điểm ký kết hợp đồng dự án chưa được triển khai, chưa xây xong phần móng. Hợp đồng đặt
cọc, bản chất là hợp đồng mua bán nhà chung cư đến thời điểm ngày 02/10/2013. Theo văn
bản của Sở Kế hoạch đầu tư trả lời Tòa án nhân dân Quận X thì dự án thi công được 95%
khối lượng cọc móng và tường vây, dự kiến tiến độ thực hiện dự án sẽ hoàn thành vào quý IV
năm 2015. Vậy thỏa thuận này đã vi phạm Luật nhà ở. Căn cứ Điều 129 Bộ luật dân sự thì
thỏa thuận đặt cọc 410 là hợp đồng giả tạo bị vô hiệu. Mặt khác thỏa thuận giữa hai bên bằng
đô la Mỹ, thanh toán bằng đô la Mỹ là vi phạm pháp lệnh ngoại hối, vi phạm điều cấm pháp
luật. Hành vi huy động vốn của bà Tâm đại diện BĐ Công ty An Phú có dấu hiệu lừa đảo
(không có nhà vẫn bán). Đề nghị hội đồng xét xử nếu là án dân sự thì tuyên Hợp đồng vô
hiệu, xử lý hậu quả của Hợp đồng vô hiệu là trả tiền. Nếu có dấu hiệu hình sự thì đình chỉ,
chuyển hồ sơ sang Công an làm rõ hành vi vi phạm.

Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Quận X phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp
luật của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời Điểm hội đồng xét
xử nghị án.

XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
về thẩm quyền:
Tại Khoản 4.2 Điều 4 “Thỏa thuận đặt cọc” số 0410/TTĐCHKT ngày 20/9/2010 hai
bên có thỏa thuận nếu xảy ra tranh chấp các bên có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân Thành
phố HCM giải quyết, tuy nhiên thỏa thuận này không phù hợp với quy định tại Điều 33 Bộ
luật tố tụng Dân sự năm 2004 nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần mã số doanh nghiệp
030417xxxx ngày 20/11/2012 thì BĐ_Công ty cổ phần Thương mại Địa ốc An Phú được
thành lập và hoạt động tại D2-12 Lô R19, Khu phố Mỹ Toàn 3, phường TP, Quận X, Thành
phố HCM.
Yêu cầu khởi kiện nguyên đơn tranh chấp hợp đồng đặt cọc là hợp đồng dân sự, nên
vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân Quận X - TPHCM theo Khoản 3
Điều 25; Khoản 1 Điều 33; Điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng Dân sự đã được sửa đổi
bổ sung năm 2011.

51
về thời hiệu khởi kiện: Nguyên đơn tranh chấp với bị đơn về số tiền đặt cọc,
BĐ_Công ty An Phú đã đồng ý trả lại vào ngày 20/11/2011. Ngày 20/11/2012, nguyên đơn
nộp đơn khởi kiện thì việc khởi kiện của nguyên đơn còn trong thời hiệu khởi kiện.
Ông Nguyễn Đại Dương và bà NĐ_Đào là vợ chồng. Ngày 07/3/2013, ông Dương
làm “Văn bản cam kết” do Phòng Công chứng Lạc Việt (HN) chứng nhận toàn bộ số tiền bà
NĐ_Đào đặt cọc trong “Thỏa thuận đặt cọc” số 0410/TTĐCHKT ngày 20/9/2010 là tài sản
riêng của bà NĐ Đào nên Tòa án không đưa ông Dương vào tham gia tố tụng với tư cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
LQ Công ty TDC, LQ Công ty Thành Lan, bà LQ Thy có đơn yêu cầu hòa giải, xét
xử vắng mặt nên hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 199 Bộ
luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.

về nội dung:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ như “Thỏa thuận đặt cọc” số
0410/TTĐCHKT ngày 20/9/2010, các phiếu thu, giấy nhận tiền ngày 31/8/2011, Thông báo
tiến độ thanh toán ngày 22/8/2011 đã có đủ cơ sở kết luận bà NĐ_Đào ký “Thỏa thuận đặt
cọc” với BĐ Công ty An Phú để mua một căn hộ C2 Block A, tầng 18, của dự án Hongkong
Tower, diện tích 132,5m2, đơn giá 1.500 USD/m2, tổng trị giá hợp đồng là 198.750 USD. Bà
NĐ Đào đã trả tiền theo tiến độ thanh toán của thỏa thuận đặt cọc nhiều lần tổng cộng
91.426 USD.

Hội đồng xét xử xét thấy thỏa thuận giữa bà NĐ Đào vói BĐ Công ty An Phú là giao
dịch dân sự, do vậy để giao dịch dân sự phát sinh hiệu lực thì phải thỏa mãn các điều kiện
theo quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự:
a/ Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự.
b/ Mục đích và nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội.
c/ Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Dự án Hongkong Tower do LQ Công ty TDC làm chủ đầu tư theo Giấy chứng nhận
đầu tư số 01121000156 ngày 20/5/2008 và Giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh ngày
13/4/2010.
Theo công văn số 660/PTXD ngày 02/10/2013 của LQ_Công ty TDC: LQ_Công ty
TDC không có bất kỳ mối liên hệ nào với bà NĐ Đào và BĐ Công ty An Phú. Đối với
LQ Công ty Thành Lan từ năm 2007, LQ Công ty TDC không tiếp tục thương thảo ký hợp
đồng hợp tác thực hiện dự án với LQ Công ty Thành Lan.
Theo công văn số 270/CV-KL ngày 18/4/2013 của LQ_Công ty Thành Lan:
BĐ Công ty An Phú chỉ ký hợp đồng tham gia góp vốn với LQ Công ty Thành Lan nhưng
đến nay BĐ Công ty An Phú vẫn chưa góp đủ vốn theo nghĩa vụ cổ đông như cam kết, vì
vậy, việc góp vốn chưa có hiệu lực.
Theo công văn số 4319/KH&ĐT-ĐT ngày 04/11/2013 của Sở Kế hoạch Đầu Tư HN
cho biết: Dự án “Tòa nhà dịch vụ công cộng và căn hộ để bán Hongkong Tower” đầu tư xây
dựng công trình tại 243A ĐLT - ĐĐ - HN được UBND thành phố HN cấp Giấy chứng nhận
đầu tư, dự án đã thi công được 95% khối lượng cọc móng và tường vây; dự kiến tiến độ thực
hiện dự án sẽ hoàn thành Quý IV năm 2015.

52
Xét tại thời Điểm hai bên ký kết “Thỏa thuận đặt cọc” thì BĐ Công ty An Phú không
phải là chủ đầu tư hay chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản hai bên giao dịch. Việc này bà
NĐ Đào có biết vì đã được thể hiện tại Điều 3 “Thỏa thuận đặt cọc” số 0410/TTĐCHKT
ngày 20/9/2010. Mặt khác theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần mã
số doanh nghiệp 030417xxxx ngày 20/11/2012 thì BĐ_Công ty An Phú không có chức năng
kinh doanh ngoại tệ nhưng “Thỏa thuận đặt cọc” số 0410/TTĐCHKT ngày 20/9/2010 và các
phiếu thu do BĐ Công ty An Phú lập thể hiện giao dịch giữa hai bên bằng đô la Mỹ là vi
phạm Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005, vi phạm Điều 127, 128 Bộ luật dân sự. Vì vậy
cả bà NĐ Đào và BĐ Công ty An Phú đều có lỗi trong việc làm cho giao dịch đặt cọc vô
hiệu. Do “Thỏa thuận đặt cọc” số 0410/TTĐCHKT ngày 20/9/2010 vô hiệu ngay từ thời điểm
ký kết nên yêu cầu của nguyên đơn tuyên Thỏa thụận đặt cọc số 0410/TTĐC.HKT ngày
20/9/2010 ký giữa BĐ_Công ty An Phú và bà NĐ_Đào vô hiệu và BĐ_Công ty An Phú trả
lại số tiền đặt cọc là phù hợp với quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự: “các bên khôi phục lại
tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.”

Tại phiên tòa các bên đương sự xác nhận tổng số tiền bà NĐ Đào đã thanh toán cho
BĐ_Công ty An Phú 91.426 USD, ngày 31/8/2011 BĐ_Công ty An Phú đã trả cho bà
NĐ Đào 32.400 USD, hiện còn 59.026 USD chưa trả, theo Báo Sài Gòn Giải phóng ngày
09/7/2014 thì tỷ giá hối đoái 1USD = 21.210 đồng Việt Nam nhưng tại phiên tòa đại diện
nguyên đơn đồng ý tính theo tỷ giá đơn khởi kiện bổ sung là 1USD = 21.080 đồng Việt Nam,
xét đây là sự tự nguyện của nguyên đơn, có lợi cho bị đơn nên chấp nhận. Vì vậy BĐ Công
ty An Phú phải hoàn trả lại cho bà NĐ_Đào số tiền: 1.244.268.080 đồng (Một tỷ hai trăm bốn
mươi bốn triệu hai trăm sáu mươi tám ngàn không trăm tám mươi đồng) tương ứng 59.026
USD (Năm mươi chín ngàn không trăm hai mươi sáu đô la Mỹ).
Tại phiên tòa, BĐ Công ty An Phú cho rằng giữa BĐ Công ty An Phú và bà
NĐ Đào là nợ, không còn là đặt cọc. Hai bên không thực hiện “Thỏa thuận đăt Cọc” nữa mà
chỉ là trả tiền và xác nhận “Thỏa thuận đăt cọc” hai bên chưa thanh lý, chỉ “tự bỏ” và hiện
nay còn nợ thì phải trả. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn cho rằng hai bên có thỏa thuận
không thực hiện và rút tiền lại nhưng “Thỏa thuận đặt cọc” hai bên vẫn chưa thanh lý. Hội
đồng xét xử xét thấy số tiền bà NĐ Đào giao cho BĐ Công ty An Phú bắt nguồn từ “Thỏa
thuận đặt cọc”, do hai bên chưa thanh lý và trong Thỏa thuận đặt cọc có quy định “Thỏa
thuận đặt cọc” chấm dứt khi ký kết với LQ Công ty Thành Lan, vì vậy hợp đồng đặt cọc
chưa chấm dứt nên với yêu cầu tuyên bố Thỏa thuận đặt Cọc vô hiệu là có cơ sở.
Xét tại phiên tòa luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng
hành vi của bà Tâm đại diện BĐ Công ty An Phú có dấu hiện lừa đảo là không có cơ sở bởi
lẽ hợp đồng đặt cọc là giao dịch dân sự, các bên đương sự tham gia ký kết là tự nguyện, bản
thân bà NĐ Đào khi ký kết biết rõ dự án không thuộc về BĐ Công ty An Phú nhưng vẫn ký
kết và tự nguyện giao tiền nên BĐ Công ty An Phú không có dấu hiệu lừa đảo bà NĐ Đào
như luật sư trình bày.

Tại đơn khởi kiện ngày 20/11/2012, bà NĐ_Đào yêu cầu bị đơn phải trả tiền lãi từ
ngày 22/8/2011 đến ngày được nhận lại số tiền đã giao theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà
nước quy định. Ngày 17/4/2014, trong đơn khởi kiện bổ sung và tại phiên tòa đại diện bà
NĐ_Đào xác nhận rút yêu cầu đòi tiền lãi, xét đây là sự tự nguyện của nguyên đơn, phù hợp

53
với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận việc thay đối yêu cầu của nguyên

Thời hạn trả tiền:


Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả làm một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Bị đơn
cho rằng trước đây bà NĐ Đào và BĐ Công ty An Phú thống nhất khi nào khách hàng thanh
toán tiếp tiền mua nhà thì BĐ Công ty An Phú sẽ trả tiền ngay cho bà NĐ Đào. Vì vậy, ông
đề nghị thực hiện theo đúng thỏa thuận trên nhưng không đưa ra được chứng cứ nào chứng
minh. Tại phiên tòa đại diện của bà NĐ Đào không công nhận hai bên có thỏa thuận như bị
đơn trình bày nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bị đơn. Xét yêu cầu
của nguyên đơn không trái đường lối, chính sách pháp luật của nhà nước nên có cơ sở chấp
nhận.
v ề án phí dân sự sơ thẩm:
BĐ Công ty An Phú phải hoàn trả lại cho bà NĐ Đào số tiền: 1.244.268.080 đồng
(Một tỷ hai trăm bốn mươi bốn triệu hai trăm sáu mươi tám ngàn không trăm tám mươi đồng)
tương ứng 59.026 USD (Năm mươi chín ngàn không trăm hai mươi sáu đô la Mỹ) nên
BĐ Công ty An Phú phải có nghĩa vụ nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định
tại Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án.
Nguyên đơn được hoàn trả tạm ứng án phí theo quy định.

Bởi những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 25, Khoản 1 Điều 33, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1
Điều 131, Điều 159, Điều 199 Bộ luật tố tụng Dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2011.
Căn cứ vào các Điều 121, 122, 128, 137, Khoản 2 Điều 305, Điều 358 Bộ luật dân sự
năm 2005
Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí toà án
Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án Dân sự

Xử:
về hình thức xử vắng mặt: LQ Công ty cổ phần Đầu tư Đô Thị Thành Lan;
LQ Công ty cổ phần Lan Ý; bà LQ Nguyễn Thị Bích Thy.
về nội dung: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn
- Tuyên bố “Thỏa thuận đặt cọc” số 0410/TTĐC.HKT ngày 20/9/2010 ký giữa
BĐ Công ty cổ phần Thương mại Địa ốc An Phú và bà NĐ Nguyễn Thị Minh Đào vô hiệu;
+ Buộc BĐ Công ty cổ phần Thương mại Địa ốc An Phú có nghĩa vụ hoàn trả cho bà
NĐ_Nguyễn Thị Minh Đào số tiền đã nhận 1.244.268.080 đồng (Một tỷ hai trăm bốn mươi
bốn triệu hai trăm sáu mươi tám ngàn không trăm tám mươi đồng) tương ứng 59.026 USD
(Năm mươi chín ngàn không trăm hai mươi sáu đô la Mỹ), tất cả trả làm một lần ngay khi án
có hiệu lực pháp luật.
Trong trương hợp BĐ Công ty cổ phần Thương mại Địa ốc An Phú chậm thi hành
Khoản tiền trên thì BĐ Công ty cổ phần Thương mại Địa ốc An Phú phải trả lãi đối với số

54
tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian
chậm trả tại thời Điểm thanh toán.
về án phỉ dân sự sơ thẩm:
BĐ Công ty cổ phần Thương mại Địa ốc An Phú có nghĩa vụ chịu 49.328.042 đồng
(Bốn mươi chín triệu ba trăm hai mươi tám ngàn không trăm bốn mươi hai đồng).
Bà NĐ Nguyễn Thị Minh Đào không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại bà
NĐ Nguyễn Thị Minh Đào 26.100.500 đồng (Hai mươi sáu triệu một trăm ngàn năm trăm
đồng) theo biên lai thu số 07580 ngày 14/12/2012 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận X,
TP.HCM.
Báo cho các bên đương sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân thành phố
HCM trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt được quyền
kháng cáo trong hạn 15 ngày kế từ ngày nhận được bản sao bản án hoác kể từ ngày toà niêm
yết bản sao bản án tại địa phương.
Trương hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

55
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 20/2015/KDTM-ST


Ngày: 15/04/2015
V/v: “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T- THÀNH PHỐ HCM


Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: 1. Bà Hoàng Thị Bích T


Các Hội thẩm nhân dân: 2. Ông Lê Trung D
3. Bà Lê Thị Kim E
Thư kỷ Tòa án ghi biên bản phiên tòa: bà Lê Phương T- Cán bộ Tòa án nhân dân Quận
T - thành phố HCM.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận T thành phổ HCM tham gia phiên tòa: bà Nguyễn
Thị Diễm K - kiểm sát viên.

Ngày 15 tháng 4 năm 2015 tại phòng xử án Tòa án nhân dân Quận T xét xử sơ thẩm công
khai vụ án thụ lý số 144/2014/TLST - DS ngày 25/7/2014 về tranh chấp “//ọ/; đồng thuê nhà”
theo Quyết định đứa vụ án ra xét xử số 27/2015/QĐXX- DSST ngày 26 tháng 02 năm 2015 và
Quyết định hoấn phiên tòa số 23/2015/QĐST-HPT ngày 18/3/2015 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:
NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Phú Hà
Địa chỉ: 266-268 NKKN, Phường 8, Quận X, Thành phố HCM
ủ y quyền hợp pháp cho ông: Nguyễn Quốc Huy - trương phòng giao dịch
Văn bản ủy quyền số: 3936/2014/GUQ-PL&TT ngày 25/12/2014
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông NVT là luật sư của Văn
phòng luật sư NVT thuộc Đoàn Luât sư Thành phố HCM

Bị đơn:
1. Bà BĐ Nguyễn Thị Thu Thanh, sinh năm 1965
Địa chỉ: 160 HB, Phường 12, Quận Y, TP HCM

56
2. Ông BĐ Nguyễn Thành Đại, sinh năm 1953
Địa chỉ: 27/15 ÂDL, Phường 3, Quận z, TPHCM
Cùng tạm trú: 116 MH, khu phố 1, phường TP, Quận T, Thành phố HCM
Bà BĐ Thanh ủy quyền hợp pháp cho ông BĐ Nguyễn Thành Đại Văn bản ủy quyền
ngày 17/9/2014.

NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện ngày 30/6/2014, bản tự khai ngày 06/8/2014 và tại phiên tòa đại diện
nguyên đơn NĐ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà là ông Nguyễn Quốc Huy trình bày:
NĐ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà và ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh có ký kết thỏa
thuận thuê nhà ngày 22/4/2009 nội dung NĐ_Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà thuê của ông
BĐ Đại, bà BĐ Thanh hai căn nhà số 954 và 956 Mỹ Toàn 3, phường TP, Quận T, Thành phố
HCM, bên thuê được sửa chữa sử dụng theo công năng dùng làm văn phòng hoạt động kinh
doanh lĩnh vực ngân hàng với sự đồng ý của ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh. Giá thuê bằng tiền
Việt Nam đồng tương ứng 9.000USD/ tháng và tăng dần theo hàng năm theo phụ lục sửa đổi
thỏa thuận thuê nhà. Thời hạn thuê nhà 05 tháng và sẽ được tái tục không hủy ngang với tổng
thời gian thuê không quá 05 năm (tính từ ngày 01/6/2009 đến hết 31/5/2014).
Ngày 22/4/2009 NĐ_Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà có giao cho ông BĐ_Đại, bà
BĐ Thanh 480.141.000 đồng tương đương 27.000USD tiền đặt cọc thuê nhà. Thực hiện thỏa
thuận thuê nhà nguyên đơn và bị đơn đã giao nhà và trả tiền thuê nhẩ đến 28/02/2014.
Ngày 06/12/2013, hai bên có lập biên bản làm việc dự kiến hoàn trả mặt bằng cho ông
BĐ Đại, bà BĐ Thanh ngày 30/01/2014. Trong trường hợp bên Ngân hàng hoàn trả mặt băng
cho bên ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh, trước hoặc ngay thời điểm 30/01/2014 thì bên ông
BĐ Đại, bà BĐ Thanh sẽ hoàn trả lại cho Ngân hàng 01 tháng tiền nhà đã thanh toán trước (tiền
nhà tháng 02/2014 nhưng ngân hàng chịu tiền thuế ông BĐ Đại đã đóng).
Thực hiện Biên bản làm việc nói trên, Ngân hàng đã hoàn tất việc tái lập hiện trạng căn
nhà và bàn giao căn nhà cho bà BĐ Nguyễn Thị Thu Thanh, ông BĐ Nguyễn Thành Đại vào
ngày 04/3/2014.
Nay, nguyên đơn yêu cầu ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh hoàn trả lại tiền đặt cọc thuê nhà
480.141.000 đồng và tiền thuê nhà tháng 02/2014 là 232.375.000 đồng, tổng cộng 712.516.000
đồng trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Tại bản tự khai ngày 04/9/2014; 27/11/2014 và tại phiên tòa bị đơn ông BĐ_Nguyễn
Thành Đại đại diện cả bà BĐ Nguyễn Thị Thu Thanh trình bày:
Ông bà xác nhận có cho nguyên đơn thuê nhà nội dung thỏa thuận thuê nhà đúng như
nguyên đơn trình bày. Trong quá trình thực hiện hợp đồng hai bên thanh toán với nhau toàn bộ
bằng tiền Việt Nam đồng, ồng bà có nhận tiền đặt cọc thuê nhà 480.141.000 đồng và đã nhận
tiền thuê nhà đến hết tháng 02/2014 thì ngân hàng giao trả nhà cho ông bà. Tuy nhiên ngân hàng
đã vi phạm thỏa thuận thuê nhà chấm dứt trước thời hạn nên ông bà không thể hoàn trả tiền cọc
theo yêu cầu của nguyên đơn.

57
Theo biên bản làm việc ngày 06/12/2013 giữa ông BĐ_Đại, bà BĐ_Thanh và NĐ_Ngân
hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà sẽ hoàn trả mặt bằng cho ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh vào ngày
30/01/2014, nhưng NĐ_Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà đã vi phạm thời hạn hoàn trả mặt
bằng nhà trước ngày 30/01/2014 nên ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh không đồng ý trả lại tiền cọc
thuê nhà và tiền thuê nhà tháng 02/2014 sau khi trừ đi thuế. Ngày 04/3/2014 ngân hàng có giao
chìa khóa nhà cho ông nhưng không phải là bàn giao nhà mà là giao chìa khóa cho ông để ông tự
kiểm tra việc ngân hàng đã hoàn tất việc tái lập hiện trạng căn nhà như văn bản thỏa thuận ban
đầu hay chưa, giữa Ngân hàng và ông không có văn bản nào bàn giao chính thức. Ngân hàng
chưa hoàn chỉnh 100% việc tái lập hiện trạng nhà cho ông nhưng do ông không có căn cứ nộp
tòa để yêu cầu nên ông tự nguyện không đề nghị tòa tính toán đến thiệt hại của ông.

Luật sư bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Căn cứ vào biên bản
làm việc ngày 06/12/2013 hai bên thống nhất giao nhà vào ngày 30/01/2014. Xét biên bản thỏa
thuận ngày 22/4/2009 ông BĐ_Đại, bà BĐ_Thanh giao cho Ngân hàng thuê nhà từ ngày
22/4/2009, hợp đồng có hiệu lực và chỉ tính'tiền thuê bắt đầu từ ngày 01/6/2009 do các bên dành
cho nhau 01 tháng để sửa chữa nhà. Đối chiếu lại biên bản làm việc ngày 06/12/2013 thì hai bên
thống nhất trả lại tiền tháng 2/2014 sau khi trừ thuế và giao nhà ngày 30/01/2014. Thực tế việc
giao nhận nhà ngày 04/3/2014 và phải hiểu là tháng 02/2014 hai bên giành cho nhau thời gian để
sửa chữa nhà tái lập hiện trạng ban đầu, không bên nào sử dụng nên không phải đóng tiền như
lúc giao nhà, do đó, tiền thuê nhà tháng 02/2014 bị đơn không lý do gì là không trả.
Biên bản thỏa thuận ngày 22/4/2009, cả hai bên đều vi phạm ngay từ khi ký kết do ông
BĐ Đại chưa có chủ quyền, vi phạnm tại Điều 492 Bộ luật dân sự. Mặt khác hợp đồng tính bằng
đô la Mỹ là vi phạm Điều 22 Pháp lệnh Ngoại hối. Vì vây giải quyết tranh chấp cần áp dụng
Điều 137 Bộ luật dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Quận T phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố
tụng trong quả trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật
của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị
án.

XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Xét “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 NĐ_Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà thuê
hai căn nhà số 954 và 956 Mỹ Toàn 3, phường TP, Quận T, Thành phố HCM mục đích dùng làm
văn phòng hoạt động, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Tại phiên tòa ông BĐ Đại đại diện
cả bà BĐ Thanh xác nhận vợ chồng ông kinh doanh nhà có đóng thuế thu nhập, thuế môn bài
đầy đủ theo quy định của pháp luật, cho thuê nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Tại Khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011
quy định: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức
có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận”.

58
Do đó, căn cứ Khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung
năm 2011 thì xác định đây là vụ án kinh doanh thương mại. Việc Tòa án thụ lý tranh chấp giữa
các bên đương sự là vụ án dân sự là có sự nhầm lẫn nên cần điều chỉnh lại cho chính xác. Đồng
thời, án phí sơ thẩm và nghĩa vụ thanh toán do chậm thi hành cũng được điều chỉnh cho phù hợp
với quy định của pháp luật.

Xét tại Khoản 3 Điều 4 Luật thương mại năm 2005 quy định: Áp dụng Luật thương mại
và pháp luật có liên quan: “3. Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương
mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự”. Việc cho thuê nhà của ông
BĐ Đại bà BĐ Thanh cũng như thuê nhà của NĐ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà không
được quy định cụ thể trong luật thương mại 2005 nên Hội đồng xét xử áp dụng quy định Bộ luật
dân sự để xem xét hình thức, nội dung của các chứng cứ liên quan.

Xét về thẩm quyền, thời hiệu khởi kiện:


“Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 nguyên đơn và bị đơn ký kết và thực hiện đến
04/3/2014 trả nhà vì vậy đây là loại vụ kiện kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng thuê,
cho thuê” theo quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng Dân sự đã được sửa đổi bổ
sung năm 2011 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2012. Ngày 30/6/2014 nguyên đơn nộp đơn khởi
kiện thì việc khởi kiện của nguyên đơn còn trong thời hiệu khởi kiện.
Tại thời điểm thụ lý cũng như hiện nay bị đơn có nơi cư trú tại Quận T nên vụ kiện thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân Quận T - TP HCM theo Khoản 1 Điều 33 và Điểm a
Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng Dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2011 có hiệu lực thi hành
ngày 01/01/2012.
Tại thời điểm các bên thực hiện thỏa thuận thuê nhà ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh chưa có
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của hai
căn nhà số 954 và 956 Mỹ Toàn 3, phường TP, Quận T, Thành phố HCM nhưng tại thời điểm
tranh chấp giải quyết tại Tòa án nhân dân Quận T ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh đã có đủ hai Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của hai căn
nhà. Tại thời điểm nguyên đơn khởi kiện hai căn nhà đã được ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh cho
Ngân hàng Thương mại c ổ phân Quân Đội thuê, tại các buổi hòa giải cũng như tại tòa các bên
đương sự xác nhận không tranh chấp nhà cũng như việc chưa hoàn thiện đầy đủ hiện trạng 100%
như ban đầu vì không cần thiết chỉ tranh chấp tiền cọc và tiền thuê nhà tháng 02/2014 nên Hội
đồng xét xử không đưa Công ty TNHH Phát triển Phú Mỹ Hưng và Ngân hàng Thương mại cổ
phần Quân Đội vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

về yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:
Căn cứ vào lời khai của các bên đương sự và các tài liệu có trong hồ sơ như: “Thỏa thuận
thuê nhà” ngày 22/4/2009; Các phụ lục sửa đổi thỏa thuận thuê nhà; các Giấy nộp tiền vào ngân
sách nhà nước; Biên lai thu thuế, phí và lệ phí; Hóa đơn bán hàng thông thường; Phiếu chuyển
khoản; bảng kê tiền; giấy lĩnh tiền; Biên bản làm việc 06/12/2013 đã đủ cơ sở xác định:
NĐ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà và ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh có ký kết Thỏa thuận

59
thuê nhà ngày 22/4/2009 nội dung NĐ_Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà thuê của ông
BĐ Đại, Bà BĐ Thanh hai căn nhà số 954 và 956 Mỹ Toàn 3, phường TP, Quận T, Thành phố
HCM để làm văn phòng hoạt động kinh doanh lĩnh vực ngân hàng. Giá thuê bằng tiền Việt Nam
đồng tương ứng 9.000USD/ tháng và tăng dần theo hàng năm theo phụ lục sửa đổi thỏa thuận
thuê nhà.
Xét thời hạn thuê nhà trong “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 ghi: “Thời gian thuê
nhà là 05 (năm) tháng và sẽ được tự động tái tục không hủy ngang với tổng thời gian thuê không
quá 05 năm (không quá 12 lần tái tục), được tính từ ngày 01/6/2009 đến hết 31/5/2014.
Tại phiên tòa các bên đương sự đều thống nhất do tại thời điểm cho thuê ông BĐ Đại bà
BĐ Thanh chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất của hai căn nhà số 954 và 956 Mỹ Toàn 3, phường TP, Quận T, Thành phố HCM
nên không thể ra công chứng theo quy định vì vậy “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 ghi:
Thời gian thuê nhà là 05 (năm) tháng để không vi phạm về hình thức của hợp đồng. Tuy nhiên
tại tòa hai bên đương sự đều xác nhận hết thời hạn thuê nhà như Điều 4 của Thỏa thuận là 5 năm
không phải 5 tháng như “Thỏa thuận thuê nhà” đã ghi, mặt khác trong “Thỏa thuận thuê nhà” tuy
Điều 2 ghi thời gian thuê nhà là 5 tháng nhưng Điều 3 giá thuê nhà và phương thức thanh toán
quy định cho 5 năm. Do đó có đủ cơ sở để xác định thời hạn thuê nhà trong “Thỏa thuận thuê
nhà” ngày 22/4/2009 là 5 năm.
Xét “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 về nội dung quy định đủ các nội dung của
hợp đồng dân sự theo quy định tại Điều 402 Bộ luật dân sự nên tuy tên gọi là “Thỏa thuận thuê
nhà” nhưng đủ cơ sở để xác định đây là Hợp đồng thuê nhà để căn cứ vào các quy định của pháp
luật để xác định tính hiệu lực của hợp đồng.
Xét về hình thức của “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 tuy có làm bằng văn bản tuy
nhiên như đã phân tích ở trên thời hạn thuê nhà giữa hai bên đương sự thỏa thuận là 5 năm không
phải 5 tháng như đã thể hiện nên theo quy định tại Điều 492 Bộ luật dân sự năm 2005 thì phải có
công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký. Do “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 vi
phạm Điều 492 Bộ luật dân sự nên “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 vô hiệu về mặt hình
thức.
Xét về nội dung của “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009:
v ề chủ thể tham gia ký kết hợp đồng: tại thời điểm ký kết năm 2009 ông BĐ Đại, bà
BĐ Thanh chỉ có Hợp đồng mua bán nhà với Công ty liên doanh Phú Mỹ Hưng chưa có Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của hai căn
nhà số 954 và 956 Mỹ Toàn 3, phường TP, Quận T, Thành phố HCM. Mặt khác trong “Thỏa
thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 bên thuê nhà là NĐ_Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà - Chi
nhánh Quận 4 - Thành phố HCM là không phù hợp, đúng ra bên thuê nhà phải là NĐ Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Phú Hà, ông Liên Thanh vẫn đủ tư cách để đại diện NĐ Ngân hàng TMCP Sài
Gòn Phú Hà ký kết theo Giấy ủy quyền số 2846/2008/QĐ-CS ngày 16/7/2008 của Tổng giám
đốc NĐ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà. Vì các lẽ trên nên “Thỏa thuận thuê nhà” ngày
22/4/2009 vô hiệu về nội dung.
Giữa các bên đương sự đã thỏa thuận chấm dứt việc thuê, cho thuê nhà bằng Biên bản
làm việc ngày 06/12/2013 nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét yêu cầu nguyên đơn theo đơn khởi

60
kiện đã nhận ngày 30/6/2014. Ông BĐ Đại đại diện cả bà BĐ Thanh xác nhận Ngân hàng tuy
chưa hoàn chỉnh 100% việc tái lập hiện trạng nhà cho ông bà nhưng ông tự nguyện không đề
nghị tòa tính toán đến thiệt hại của ông nên Hội đồng xét xử không xét.
Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi tiền tháng 2/2014.
Tại phiên tòa hai bên đương sự thống nhất ngày 06/12/2013 các bên có tiến hành làm
biên bản làm việc với nhau và thống nhất, NĐ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà hoàn trả mặt
bằng cho ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh dự kiến chậm nhất vào ngày 30/01/2014. Thực tế do phải
sửa lại nhà theo hiện trạng ban đầu theo đúng thỏa thuận nên đến ngày 04/3/2014 Ngân hàng mới
giao chìa khóa cho ông BĐ Đại và do còn chưa thống nhất tiền cọc nên hai bên không làm biên
bản bàn giao. Tại Tòa Ngân hàng cho rằng Ngân hàng không giao nhà được cho bên ông
BĐ Đại do bên ông BĐ Đại không hợp tác nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh và
căn cứ vào biên bản làm việc ngày 06/12/2013 để xác định ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh có nghĩa
vụ trả tiền thuê nhà tháng 02/2014. Phía ông BĐ Đại không công nhận sự trình bày của ngân
Xét trình bày của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích Hợp pháp của nguyên đơn: về khoản
tiền tháng 02/2014 luật sư căn cứ vào biên bản làm việc ngày 06/12/2013 cho rằng hai bên
đương sự thỏa thuận giao nhà vào ngày 30/01/2014 và đối chiếu thỏa thuận thuê nhà ngày
22/4/2009 để xác định nhà hai bên không ai sử dụng thì không phải thanh toán tiền thuê nhà như
thỏa thuận thuê nhà. Hội đồng xét xử xét thấy thỏa thuận thuê nhà ngày 22/4/2009 đã ghi rất rõ
thời điểm ban đầu tính tiền thuê nhà là ngày 01/6/2009 còn biên bản làm việc ngày 06/12/2013
ghi “Bên B sẽ hoàn trả mặt bằng dự kiến chậm nhất ngày 30/01/2014” không thể hiểu theo nghĩa
giữa hai bên thỏa thuận cho nhau 01 tháng để hoàn tất hiện trạng như ban đầu do đó trình bày
của luật sư không có cơ sở chấp nhận.

Hội đồng xét xử xét thấy tại phiên tòa hai bên thống nhất ngày 04/3/2014 mới giao nhà
nên yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi lại tiền nhà tháng 02/2014 là không có cơ sở, bị đơn
không đồng ý trả tiền nhà tháng 02/2014 là phù hợp với thực tế khách quan.

Xét về yêu cầu đòi lại tiền cọc của nguyên đơn.
Xét trình bày của nguyên đơn và bị đơn đều cho rằng hợp đồng vô hiệu toàn bộ do lỗi của
hai bên. Xét trình bày của luật sư tại thời điểm ký kết ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh chưa có chủ
quyền nhà. Hội đồng xét xử xét thấy như đã phân tích trên thỏa thuận thuê nhà ngày 22/4/2009
vô hiệu về hình thức và nội dung nên căn cứ vào Điều 137 Bộ luật Dân sự để giải quyết hậu quả
của hợp đồng vô hiệu. Do tiền cọc hai bên đã giao nhận là tiền bảo đảm giao kết hoặc thực hiện
hợp đồng, không phải tiền thuê nhà, hợp đồng thuê nhà đã ký vô hiệu toàn bộ nên việc giao trả
lại tiền cọc là có cơ sở chấp nhận. Vì vậy ông BĐ Đại, bà BĐ Thanh có nghĩa vụ liên đới hoàn
trả tiền cọc 480.141.000 đồng cho nguyên đơn.
Xét trình bày của luật sư cho rằng hợp đồng vi phạm Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối là
không chính xác bởi lẽ hai bên đương sự xác nhận trong hợp đồng cũng như quá trình thực hiện
thanh toán (chứng cứ nguyên đơn, bị đơn nộp) hoàn toàn bằng tiền Việt Nam đồng. Căn cứ Điểm
b Khoản 3 Mục I Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 quy định: “Nếu trong nội dung
của hợp đồng kinh tế các bên có thoả thuận giá cả, thanh toán bằng ngoại tệ trong khi đó một

61
hoặc các bên không được phép thanh toán bằng ngoại tệ, nhưng sau đó các bên có thoả thuận
thanh toán bằng Đồng Việt Nam hoặc trong nội dung của hợp đồng kinh tế các bên thoả thuận sử
dụng ngoại tệ làm đồng tiền định giá (để bảo đảm ổn định giá trị của hợp đồng) nhưng việc thanh
toán là bằng đồng Việt Nam, thì hợp đồng kinh tế không thuộc trương hợp quy định tại Điểm a
Khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và do đó không bị coi là vô hiệu toàn bộ” nên trình bày của
luật sư về việc vi phạm pháp lệnh ngoại hối là không có cơ sở.
Xét thời gian trả: do sự việc đã lâu, nguyên đơn yêu cầu hoàn trả một lần ngay khi án có
hiệu lực pháp luật, xét yêu cầu này của nguyên đơn không trái đường lối, chính sách pháp luật
của Nhà nước nên có cơ sở để chấp thuận.
Trong trường hợp bà BĐ Thanh, ông BĐ Đại chậm thi hành khoản tiền trên thì bà
BĐ Thanh, ông BĐ Đại phải liên đới trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn
trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thòi gian chậm trả

v ề án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:


Do bà BĐ Thanh, ông BĐ Đại phải có nghĩa vụ liên đới trả tiền cọc cho nguyên đơn nên
bà BĐ Thanh, ông BĐ Đại phải có nghĩa vụ nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm trên số
tiền phải trả theo quy định tại Pháp lệnh án phí, lệ phí toà án.
NĐ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà không được chấp nhận một phần yêu cầu nên
cũng phải có nghĩa vụ nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm trên số tiền không được chấp
nhận yêu cầu.
Bởi những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 29, Điểm a Khoản 1 Điều 33, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điều
159, Khoản 1 Điều 131 Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011;
- Căn cứ Điều 4, Điều 306 Luật Thương mại;
- Căn cứ vào các Điều 402; 492; Điều 137 Bộ Luật Dân Sự
- Căn cứ quy định tại Pháp lệnh án phí, lệ phí toà án
- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.
Xử:
v ề nội dung:
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu của NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Phú
Hà về việc yêu cầu bà BĐ Nguyễn Thị Thu Thanh và ông BĐ Nguyễn Thành Đại trả lại tiền
cọc là 480.141.000 đồng (Bốn trăm tám mươi triệu một trăm bốn mươi mốt nghìn đồng).
2/ Không chấp nhận một phần yêu cầu của NĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn
Phú Hà về việc yêu cầu bà BĐ Nguyễn Thị Thu Thanh và ông BĐ Nguyễn Thành Đại trả lại
tiền thuê nhà tháng 02/2014 là 232.375.000 đồng (Hai trăm ba mươi hai triệu ba trăm bảy mươi
lăm nghìn đồng)
3/ Buộc bà BĐ Nguyễn Thị Thu Thanh và ông BĐ Nguyễn Thành Đại có nghĩa vụ liên
đới trả cho NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Phú Hà số tiền cọc là 480.141.000

62
đồng (Bốn trăm tám mươi triệu một trăm bốn mươi mốt nghìn đồng), tất cả trả làm một lần ngay
khi án có hiệu lực thi hành.
4/ Trong trương hợp bà BĐ Nguyễn Thị Thu Thanh và ông BĐ Nguyễn Thành Đại
chậm thi hành khoản tiền trên thì bà BĐ Nguyễn Thị Thu Thanh và ông BĐ Nguyễn Thành Đại
phải liên đới trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trương tại
thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả..
5/ về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: bà BĐ Nguyễn Thị Thu Thanh và ông
BĐ Nguyễn Thành Đại liên đới chịu 23.205.640 đồng (Hai mươi ba triệu hai trăm lẻ năm nghìn
sáu trăm bốn mươi đồng).
NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Phú Hà phải chịu án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm là 11.618.750 đồng (Mười một triệu sáu trăm mười tám nghìn bảy trăm năm
mươi đồng), cấn trừ vào số tiền đã nộp 16.250.000 (Mười sáu triệu hai trăm năm mươi nghìn
đồng). Hoàn lại cho NĐ Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Phú Hà là 4.571.250 đồng
(Bốn triệu năm trăm bảy mươi mốt nghìn hai trăm năm mươi đồng) theo biên lai thu số 09481
ngày 25/7/2014 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận T, Thành phố HCM.
6/ Báo cho các đương sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân thành phố HCM
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trương hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

63
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GV CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 207/2015/DS-ST


Ngày: 14/5/2015
V/v: “Tranh chấp dân sự về đòi lại
tài sản ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GV - THÀNH PHỐ HCM


Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Chủ tọa phiên tòa - Thẩm phán \ 1. Bà Nguyễn Thị Thanh T


Hội thẩm nhân dân'. 2. Bà Trần Thị Thanh V
3 Ông Vỗ Thành V
Thư kỷ ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị p - Cán bộ Tòa án nhân dân quận GV,
thành phố HCM.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận GV: Bà Nguyễn Thị T - Kiểm sát Viên

Ngày 14 tháng 5 năm 2015 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận GV, xét xử sơ thẩm công khai vụ
án thụ lý số: 814/2012/TLST-DS ngày 18 tháng 12 năm 2012 về việc: “Đòi lại tài sản” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2015/QĐST-DS ngày 20 tháng 04 năm 2015 giữa các
đương sự:

Nguyên đơn:
Bà NĐ_Ngô Thị Hòa - Sinh năm 1977 (Có mặt)
Địa chỉ: 30/46 ĐVB, phường X, quận Y, Tp.HCM.
Đại diện theo ủy quyền:
Ông Lưu Ngọc Sang - Sinh năm 1990 (Vắng mặt)
Địa chỉ: 6/13 QT, phường 10, quận GV, Tp.HCM (theo giấy ủy quyền sổ 005359
quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17/4/2014 tại Văn phòng công chứng NTT, địa chỉ:
41/4 NgO, phường 10, quận GV, Tp.HCM)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư LD - Văn phòng
luật sư VQT thuộc Đoàn Luật sư TP.HCM
Địa chỉ: 6/13 QT, phường 10, quận GV, TP.HCM.
Bị đơn:

64
Bà BĐ_Lê Thị Hoàng Linh - Sinh năm 1969 (Có mặt).
Địa chỉ: 491/83 LQĐ, phường ỉ, quận GV, Tp.HCM.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Thái Văn Chương - Sinh năm 1979 (Có mặt).
Địa chỉ: 320/9 GD, phường LMT, quận z, Tp.HCM (theo giấy ủy quyền sổ 00002999
quyển số 2 TP/CC-SCC-HĐGD ngày 22/4/2014 tại Văn phòng công chứng ĐT, địa chỉ: 967
LBI, phường TT, quận TP)

NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện ngày 26/11/2012 và bản tự khai đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn bà NĐ Ngô Thị Hòa có ông LD trình bày:
Vào năm 2011 bà NĐ Ngô Thị Hòa có giao cho bà BĐ_Lê Thị Hoàng Linh số tiền
45.000 USD (đô la Mỹ). Theo đó bà BĐ Linh sẽ cung cấp cho bà NĐ Hòa lô hàng sữa
Ensure. Bà BĐ Linh có giao cho bà NĐ Hòa một lượng hàng sữa với giá trị là 12.150 USD,
sau đó bà BĐ Linh ngừng cung cấp hàng và bà BĐ Linh đã chuyển trả lại cho bà NĐ Hòa
số tiền 18.850 USD. số tiền đặt hàng còn lại từ đó đến nay bà BĐ Linh không giao hàng và
cũng không hoàn trả lại cho bà NĐ Hòa sau nhiều lần gặp gỡ trao đổi bà BĐ Linh viện đủ lý
do không trả tiền vì vậy, bà NĐ Hòa khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà BĐ Linh trả số tiền
còn lại 14.000 USD quy đổi bằng đồng Việt nam là 291.000.000đ (Hai trăm chỉn mươi mot
triệu đồng). Trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngày 17/4/2014 bà NĐ_Hòa chấm dứt hợp đồng ủy quyền với ông LD, bà NĐ_Hòa
ủy quyền cho ông Lưu Ngọc Sang tham gia tố tụng. Tại phiên tòa hôm nay, ông Sang có đơn
xin vắng mặt, bà NĐ Hòa trực tiếp tham gia tố tụng, tại phiên tòa bà NĐ Hòa yêu cầu bà
BĐ Linh trả số tiền 14.000USD (tương đương 303.590.000 đồng).

Bị đơn bà BĐ_Lê Thị Hoàng Linh tại bản tự khai ngày 29/3/2013 trình bày: Bà không
quen biết bà NĐ Hòa, không có làm ăn mua bán theo như đơn khởi kiện của bà NĐ Hòa. Bà
chỉ đến nhận tiền giùm hai lần với tổng số tiền 45.000 USD. Bà đề nghị Tòa án xem xét và
xác minh về việc bà NĐ Hòa khởi kiện.
Ngày 22/4/2014 bà BĐ_Linh ủy quyền cho ông Thái Văn Chương tham gia tố tụng,
tại bản tự khai ngày 11/6/2014 ông Chương trình bày: Bà BĐ Linh không có bất kỳ một bản
giao dịch, thỏa thuận hay hợp đồng mua bán hàng hóa với bà NĐ Hòa mà thực chất bà
NĐ Hòa có thỏa thuận làm ăn buôn bán với ông Lê Hoàng Anh Đức (hiện cư trú tại Hoa
Kỳ). Bà NĐ Hòa và ông Đức đã mua bán hàng hóa với nhau nhiều lần theo cách thức là bà
NĐ Hòa đặt hàng rồi chuyển tiền cho ông Đức, ông Đức căn cứ số hàng đặt, số tiền đã nhận
của bà NĐ Hòa, ông Đức mua hàng chuyển về Việt Nam. Bà NĐ Hòa có chuyển tiền cho
ông Đức nhiều cách trong đó có việc đưa cho bà BĐ Linh để bà BĐ Linh chuyển qua cho
ông Đức. Bà NĐ Hòa có quan hệ làm ăn lâu năm với ông Đức là đại diện cho Công ty Milk
Trade tại Hoa Kỳ, có địa chỉ số: 14401 SL St, WM, CA 9268. Hai bên nhiều lần giao dịch
mua bán hàng hóa mặt hàng sữa mang nhãn hiệu Ensure chai, sữa Ensure Bot, Glucerna ...
do Hoa Kỳ sản xuất với nhau. Hai bên thỏa thuận cụ thể phương thức giao nhận tiền thông
qua nhiều hình thức khác nhau: thông qua Ngân hàng, thông qua người thân qua lại từ Việt
Nam và Hoa Kỳ. Khi nhận được tiền của bà NĐ Hòa, ông Đức đã chuyển hàng từ Mỹ về
Việt Nam cho bà NĐ_Hòa thông qua dịch vụ của Công ty vận chuyển hàng Liên Kết Vina,

65
LLC có trụ sở tại 14901 MR, WM, CA 92683 USA giao tận nhà bà NĐ_Hòa. Những giao
dịch giữa bà NĐ Hòa với ông Đức hoàn toàn độc lập, không liên quan gì đến bà BĐ Linh.
Tháng 5/2011 bà NĐ_Hòa đặt mua hàng sữa Ensure với ông Đức với trị giá 45.000 USD.
Theo thỏa thuận giữa ông Đức và bà NĐ Hòa thì bà NĐ Hòa có trách nhiệm chuyển tiền
mua hàng cho ông Đức thông qua bà BĐ Linh. Thực hiện thỏa thuận này, ngày 27/05/2011
bà NĐ Hòa giao cho bà BĐ Linh số tiền 15.000 USD; ngày 08/06/2011 bà NĐ Hòa tiếp tục
giao cho bà BĐ Linh 30.000 USD để chuyển cho ông Đức. Nhưng do bà NĐ Hòa đơn
phương hủy bỏ hợp đồng nên ông Đức không thể chuyển hàng cho bà NĐ Hòa được sau đó
hai bên có thương lượng giải quyết nhưng chưa xong. Nên đề nghị Tòa án xác minh đưa ông
Đức vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không chấp
nhận yêu cầu của của bà NĐ Hòa.
Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn căn cứ quy định của pháp luật và các chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Buộc bị
đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 14.000USD (tương đương 303.590.000 đồng).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận GV tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc
tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm xác
định:
về thẩm quyền: Bà NĐ Ngô Thị Hòa khởi kiện yêu cầu bà BĐ Linh trả tiền. Theo
quy định tại Khoản 3 Điều 25 và Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2011 thì tranh chấp trên là tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án.
Đối với thu thập chứng cứ: Đúng quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự.
về thời hạn chuẩn bị xét xử: vi phạm quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử tại Điều
179 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa hôm nay, thành phần Hội đồng xét xử gồm những thành viên như đã
công bố trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, phù hợp tại Điều 52 Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc chấp hành của người tham gia tố tụng: Đã tuân thủ đúng các quy định tại Điều
58, Điều 59, 60, và Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự.

XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

về quyền khởi kiện, quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Căn cứ giấy nhận tiền ngày 27/5/2011 và ngày 08/6/2011 giữa bà NĐ_Ngô Thị Hòa
với bà BĐ_Lê Thị Hoàng Linh và lời trình bày cũng như các tài liệu, chứng cứ của đương sự
thì giữa bà NĐ Hòa và bà BĐ Linh phát sinh quan hệ hợp đồng dân sự về đòi lại tài sản. Bị
đơn bà BĐ Linh hiện đang cư trú tại quận GV căn cứ Khoản 3 Điều 25, Điểm a Khoản 1
Điều 33, Điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2011 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận GV.

66
về nội dung tranh chấp:
Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả số tiền 14.000USD (tương
đương 303.590.000 đồng).
Căn cứ biên nhận tiền ngày 27/5/2011 và ngày 08/6/2011, lời khai của nguyên đơn, bị
đơn và tại phiên tòa hôm nay, bị đơn thừa nhận có nhận 45.000USD của nguyên đơn.
Tuy nhiên, bị đơn và đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng bà BĐ Linh chỉ
nhận giùm cho ông Lê Hoàng Anh Đức (là em ruột của bà BĐ Linh) vì theo thỏa thuận giữa
bà NĐ Hòa với ông Lê Hoàng Anh Đức thì bà NĐ Hòa có trách nhiệm chuyển tiền mua
hàng cho ông Đức thông qua bà BĐ Linh. Bà BĐ Linh đã chuyển toàn bộ số tiền này cho
ông Đức thông qua Ngân hàng A nhưng do bà BĐ Linh đơn phương hủy bỏ hợp đồng nên
ông Đức không thể chuyển hàng cho bà NĐ Hòa nên bà NĐ Hòa còn vướng mắc gì thì làm
việc với ông Đức hoặc khởi kiện ông Đức chứ bà BĐ Linh không vay mượn hoặc thiếu tiền
của bà NĐ Hòa.
Mặc dù bị đơn cung cấp bản xác nhận ngày 09/5/2015 của ông Lê Hoàng Anh Đức
(em trai bà BĐ Linh) đã nhận 45.000USD của bà NĐ Hòa để chứng minh giữa bà NĐ Hòa
với ông Đức có giao dịch làm ăn với nhau bà BĐ Linh chỉ là người nhận tiền chuyển giùm
cho ông Đức.

Xét các tài liệu chứng cứ do phía bị đơn cung cấp không được phía nguyên đơn thừa
nhận đồng thời việc trao đổi mua bán giữa bà NĐ Hòa với ông Đức qua một Công ty trung
gian do một người đứng tên Lương Thị Châu ở địa chỉ: 6/16A BTX, Phường 2, quận TB,
TP.HCM.
Tòa án đã xác minh Bà Lương Thị Châu, bà Châu chỉ là người cho Công ty vận
chuyển Liên Kết Vina mượn tên và địa chỉ để giao nhận hàng, bà không tham gia vận chuyển
sữa Ensure, hàng thực phẩm chức năng... của Công ty Liên Kết Vina. Hiện bà không biết
Công ty Liên Kết Vina ở đâu, không biết ông Sơn, ông Lê Hoàng Anh Đức, bà BĐ_Lê Thị
Hoàng Linh, bà NĐ Ngô Thị Hòa là ai, làm gì và bà không có liên quan trong vụ kiện này
nên bà không tham gia tố tụng. Như vậy, chứng cứ phía bị đơn cung cấp không đúng sự thật
nên nó không được coi là chứng cứ của vụ án. Do đó Tòa án không đưa ông Đức tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tại phiên tòa hôm nay, bà BĐ Linh cũng thừa nhận do bà có sơ suất là nhận giùm.
Xét, việc bà BĐ Linh nhận tiền giùm cho ông Đức nhưng trên giấy nhận tiền do bà BĐ Linh
viết và ký tên không thể hiện nội dung nhận theo yêu cầu của ông Đức điều này chứng tỏ các
bên chưa chuyển giao quyền yêu cầu theo quy định tại Điều 310 Bộ luật dân sự năm 2005.
Như vậy, bà BĐ Linh phải có trách nhiệm đối với giao dịch dân sự này.

Xét thấy, giấy nhận tiền ngày 27/5/2011 và ngày 08/6/2011 giữa bà NĐ_Hòa và bà
BĐ Linh thỏa thuận giao dịch với nhau bằng ngoại tệ là không đúng quy định tại Điều 22
Pháp lệnh ngoại hối.
Như vậy, giao dịch giữa bà NĐ Hòa và bà BĐ Linh được giải quyết theo quy định tại
Điều 137 Bộ luật dân sự khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.... Từ quy định trên, xét lời trình bày của luật sư bảo

67
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là có cơ sở. Bị đơn đã nhận của nguyên đơn
45.000USD lẽ ra cần buộc bị đơn trả số tiền trên cho nguyên đơn nhưng nguyên đơn chỉ yêu
cầu bị đơn hoàn trả số tien 14.000USD (tương đương 303.590.000đ) là có lợi cho bị đơn, do
đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (Thông tin giá USD tại Ngân hàng
Ngoại thương TP.HCM ừên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 14/5/2015 là 21.685 đong/USD).
Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 303.590.000 đồng.

v ề án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 15.179.500 đồng theo quy định tại Khoản 1 Điều 131 Bộ
luật tố tụng dân sự và tại Khoản 2 Điều 27 Pháp lệ án phí, lệ phí Tòa án. Hoàn lại toàn bộ tiền
tạm ứng án phí đã nộp là 7.297.500 đồng cho nguyên đơn theo biên lai thu số
AA/2011/05319 ngày 18/12/2012 của Chi cục thi hành án dân sự quận GV.

Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Khoản 3 Điều 25, Điểm a Khoản 1 Điều 33, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điều
243, Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 137, Điều 256, khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự;
Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự;
Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.


- Giao dịch dân sự giữa bà NĐ Ngô Thị Hòa với bà BĐ_Lê Thị Hoàng Linh theo
giấy nhận tiền ngày ký 27/5/2011 và 08/6/2011 là vô hiệu.
- Buộc bà BĐ_Lê Thị Hoàng Linh có trách nhiệm trả cho bà NĐ Ngô Thị Hòa số tiền
303.590.000đ (Ba ừăm lẻ ba triệu năm trăm chỉn mươi ngàn đồng). Trả một lần ngay khi bản
án có hiệu lực pháp luật.
Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày bà NĐ Hòa có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà BĐ Linh chưa thực hiện
nghĩa vụ trả nợ thì hàng tháng bà BĐ Linh còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành.

2. về án phí dân sự sơ thẩm: Bà BĐ Linh phải chịu 15.179.500đ (Murri lăm triệu
một trăm bảy mươi chỉn ngàn năm trăm đồng). Hoàn lại 7.297.500đ (Bảy triệu hai trăm chỉn
mươi bảy ngàn năm trăm đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm cho bà NĐ Ngô Thị Hòa
theo biên lai thu số: AA/2011/05319 ngày 18/12/2012 của Chi cục thi hành án dân sự quận
GV, TP.HCM.

3. về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

68
Trương hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực
hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

69
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TB CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHÔ HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 389/2015/ST-DS


Ngày: 20/08/2015
Vụ án: “Tranh chấp đòi tiền cọc”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TBà - THÀNH PHỐ HCM


Với thành phần Hội đồng xét xử gồm có:

Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn T


Các Hội thẩm nhân dân'. 1/ Ông Nguyễn Minh T
2/ Bà Phan Thị Thy N
Thư kỷ Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mai H - Cán bộ Tòa án nhân
dân quận TB.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận TB, thành phổ HCM tham gia phiên tòa: ông
Trần Ngọc T - Kiểm sát viên.

Trong các ngày 17 và 20 tháng 08 năm 2015 tại trụ sở tòa án nhân dân quận TBà xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 373/2012/TLST- DS ngày 25 tháng 12 năm 2012 về
việc “Đòi tiền cọc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2015/QĐST-DS ngày
22/07/2015 (Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2015/QĐST-DS ngày 17/08/2015 thay
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2015/QĐST-DS ngày 22/07/2015) giữa các đương sự:

Nguyên đơn:
Ông NĐ Nguyễn Thanh Hưng - sinh năm 1954
Địa chỉ: 506/20 Ấp 2, xã TĐ, huyện BC, tỉnh BD
Người đại diện theo ủy quyền: Bà LQ_Nguyễn Thị Diện - sinh năm 1978
Địa chỉ: 506/20 Ấp 2, xã TĐ, huyện BC, tỉnh BD
(Có mặt)

Bị đơn:
Bà BĐ_Nguyễn Thị Thư - sinh năm 1978
Địa chỉ: 91/11 PVH, Phường 3, quận TB, Thành phố HCM
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trọng Hào - sinh năm 1971
Địa chỉ: 8/23A LTK, Phường 9, quận TB, Thành phố HCM
(Có mặt)

70
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông LQ_Đinh Văn Hưng - sinh năm 1977
Địa chỉ: 91/11 PVH, Phường 3, quận TB, Thành phố HCM
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trọng Hào - sinh năm 1971
Địa chỉ: 8/23A LTK, Phường 9, quận TB, Thành phố HCM
(Có mặt)
2. Ông LQ_HỒ Mạnh cầ n - sinh năm 1967
Địa chỉ: 259/3 PĐP, Phường 2, thành phố ĐL, tỉnh LĐ
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Vũ Thị Thảo - sinh năm 1953
Địa chỉ: 188 NQ, Phường 8, Quận X, Thành phố HCM
3. Bà LQ_Nguyễn Thị Diện - sinh năm 1978
Địa chỉ: 506/20 Ấp 2, xã TĐ, huyện BC, tỉnh BD
(Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông LQ_HỒ Mạnh cần: Luật sư PMH -
Văn phòng luật sư PMH, Đoàn luật sư thành phố HCM.
(Có mặt)

Người làm chứng:


1.Bà Ngô Thị Vóc - sinh năm 1979
Địa chỉ: Ấp 3, xã TĐ, huyện BC, tỉnh BD
(Có mặt)
2. Bà Đặng Ngọc Giàu - sinh năm 1981
Địa chỉ: 47 Đường N, khu 1 PH,thnh phố TDM, tỉnh BD
(Có mặt)

NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện ngày 24/12/2012 và trình bày của bà LQ_Nguyễn Thị Diện là
người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn đồng thời là người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan trong vụ án thì giữa bố bà với bà và vợ chồng bà BĐ Nguyễn Thị Thư ông LQ Đinh
Văn Hưng đã thỏa thuận với nhau về việc sang nhượng quyền kinh doanh khách sạn Phương
Lan địa chỉ tại số 678 SVH, Phường 12, Quận X, thành phố HCM với giá 600.000.000đ, tiền
thuê nhà hàng tháng 1.900 USD, tiền đặt cọc 23.000 USD. Sau khi thỏa thuận, ngày
17/09/2011 hai bên đã tiến hnh làm giấy nhận cọc theo đó phía bà đã giao cho bà BĐ Thư
600.000.000 đồng và bà BĐ Thư đã giao khách sạn Phương Lan tại địa chỉ số 678 SVH,
Phường 12, Quận X, thành phố HCM cho bà quản lý, kinh doanh. Theo như thỏa thuận ghi
trong giấy nhận cọc thì sau khi nhận đủ toàn bộ số tiền (600.000.000 đồng và 23.000USD) thì
bà BĐ Thư sẽ làm hợp đồng chuyển quyền kinh doanh khách sạn cho phía bà nên để thuận
lợi cho việc quản lý khách sạn trong qus trình kinh doanh, ngày 19/11/2011 bà tiếp tục
chuyển vào tài khoản của ông NĐ_Hưng 250.000.000 đồng và lần thứ 3 không nhớ ngày bà
đã giao cho bà BĐ_Thư 230.000.000 đồng cho đủ số tiền 480.000.000 đồng tương đương
23.000 USD là tiền đặt cọc. Tuy đã nhận đủ tiền sang nhượng và tiền đặt cọc thuê nhà theo
thỏa thuận nhưng bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng không chịu làm các thủ tục sang nhượng khách

71
sạn lại cho phía bà theo như thỏa thuận mặc dù phía bà đã yêu cầu nhiều lần, nên làm cho
việc kinh doanh của phía bà gặp rất nhiều khó khăn, đỉnh điểm là ngày 14/5/2012 Công ty
Điện lực đã kiểm tra khách sạn phát hiện vi phạm về sử dụng điện nên đã mời chủ nhà là ông
LQ_HỒ Mạnh cần đến làm việc, tại buổi làm việc ông LQ Cần cho biết không cho bà thuê
nhà, nên việc bà kinh doanh tại nhà ông là không đúng nên ông LQ Cần đã báo Công an
Quận X đến lập biên bản và sau khi lập biên bản thì ông LQ Cần và Công an Quận X đã yêu
cầu phía bà rời khỏi khách sạn.... Sau khi sự việc xảy ra phía bà đã báo cho bà BĐ Thư, ông
NĐ Hưng biết đồng thời yêu cầu bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng trả lại cho phía bà số tiền tổng
cộng 1.080.000.000 đồng nhưng bà BĐ Thư ông NĐ Hưng không trả nên bố của bà đã làm
đơn khởi kiện yêu cầu bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng trả lại cho phía bà số tiền 1.080.000.OOOđ.

Trong quá trình tham gia tố tụng, ông Nguyễn Trọng Hào là người đại diện theo ủy
quyền của Bị đơn bà BĐ Nguyễn Thị Thư và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
LQ_Đinh Văn Hưng trình bày: Ngày 26/11/2009 bà BĐ_Thư ký hợp đồng thuê nhà 678
SVH, Phường 12, Quận X, thành phố HCM của ông LQ_HỒ Mạnh cần để kinh doanh khách
sạn. Do phải quản lý nhiều cơ sở nên khoảng tháng 9/2011 bà BĐ Thư đã thỏa thuận sang
nhượng lại quyền kinh doanh khách sạn Phương Lan tại 678 SVH, Phường 12, Quận X,
thành phố HCM cho bà LQ Diện với gi 600.000.000 đồng ngoài ra bà LQ Diện phải trả tiền
thuê nhà hàng tháng 1.900 USD, trả lại cho bà BĐ Thư số tiền 23.000 USD là khoản tiền mà
bà BĐ Thư đã đặt cọc cho ông LQ Cần khi thuê nhà. Sau khi thỏa thuận xong, ngày
17/09/2011 giữa 2 bên đã làm giấy nhận cọc theo đó bà BĐ Thư đã nhận của bà LQ Diện
600.000.000đ, đồng thời đã giao khách sạn cho bà LQ Diện kinh doanh, tiếp theo ngày
19/11/2011 bà LQ Diện đã chuyển vào tài khoản của chồng bà BĐ Thư là ông NĐ Hưng
250.000.000đ. Như đã thỏa thuận sau khi nhận đủ tiền 600.000.000 đồng và 23.000 USD thì
bà BĐ Thư sẽ làm hợp đồng sang nhượng quyền kinh doanh khách sạn cho bà LQ Diện,
nhưng do bà LQ Diện chưa trả đủ tiền nên bà BĐ Thư chưa làm. Việc bà LQ Diện nói sau
khi chuyển vào tài khoản 250.000.000 đồng thì tiếp tục trực tiếp giao cho bà BĐ Thư một lần
số tiền 230.000.000 đồng là không đúng.
Việc bà LQ Diện kinh doanh khách sạn, để xảy ra sự cố về điện và bị Công ty điện
lực lập Biên bản, Công an Quận Quận X lập biên bản và buộc rời khỏi nhà, không phải lỗi
của bà BĐ Thư nên bà BĐ Thư không vi phạm thỏa thuận ghi trong giấy nhận cọc nên
không đồng ý trả lại số tiền đã nhận như yêu cầu của bà LQ Diện, ông NĐ Hưng. Ngược lại
bà LQ Diện thuê lại nhà của bà BĐ Thư nhưng lại tự ý giao lại nhà cho ông LQ Cần khi
chưa có sự đồng ý của bà BĐ Thư nên bà BĐ Thư yêu cầu bà LQ Diện có trách nhiệm trả
tiền thu nhà cho bà BĐ_Thư từ tháng 6/2011 đến tháng 01/2012 tổng cộng là 316.640.000
đồng theo như Đơn yêu cầu phản tố ngày 11/01/2013. Đồng thời ngày 28/08/2013 bà
BĐ Nguyễn Thị Thư cũng có Đơn yêu cầu phản tố đối với ông LQ Cần, theo đó bà BĐ Thư
yêu cầu hủy hợp đồng thuê nhà với ông LQ Cần, yêu cầu ông LQ Cần trả lại 23.000 USD
tiền cọc và bồi thường 23.000 USD tiền cọc, tính ra tiền Việt Nam tổng cộng là
957.720.000đ.
Bà Vũ Thị Thảo là người đại diện theo ủy quyền của Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông LQ_HỒ Mạnh cần trình bày: Việc tranh chấp hợp đồng đặc cọc sang nhượng
khách sạn giữa Nguyên đơn và Bị đơn ông LQ Cần không có ý kiến, ông LQ Cần chỉ biết
rằng do bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng đã không thực hiện đúng thỏa thuận ghi trong hợp đồng
ngày 26/11/2009 khi thu nhà của ông LQ Cần, cụ thể bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng đã cho thu

72
lại nhà mà không có ý kiến của ông LQ Cần nên khi được cơ quan chức năng mời đến làm
việc ông LQ Cần đã yêu cầu người không được ông LQ Cần cho thu nhà phải rời khỏi nhà
và hiện nay nhà 678 SVH, Phường 12, Quận X, thành phố HCM đang quản lý. Việc Bị đơn
có đơn yêu cầu phản tố đòi hủy hợp đồng thuê nhà và trả lại tiền cọc, bồi thường tiền cọc,
ông LQ Cần thấy không có căn cứ vì theo quy định của pháp luật thì Bị đơn không có quyền
yêu cầu phản tố đối với Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, còn nếu muốn kiện thì phải
kiện nơi ông LQ Cần có hộ khẩu thường trú hay nơi có tài sản cho thuê chứ không phải tại
Tòa án nhân dân quận TB. Từ lý do trên ông LQ Cần đề nghị giải quyết vụ kiện theo quy
định của pháp luật.

Người làm chứng bà Ngô Thị Vóc trình bày: Bà có thấy việc chị LQ_Diện đưa tiền
cho chị BĐ Thư, anh NĐ Hưng và nghe hai bn trao đổi về số tiền là 230.000.000đ, nhưng bà
không chứng kiến việc đếm số tiền 230.000.000 đồng và không biết nội dung của giao dịch là
gì-

Người làm chứng bà Đặng Thị Giàu trình bày: Bà là người được chị LQ Diện nhờ
đếm tiền để giao cho chị BĐ_Thư, anh NĐ_Hưng, trong 230.000.000 đồng có 100.000.000
đồng là loại tiền có mệnh giá 500.000 đồng và 130.000.000 đồng là loại tiền có mệnh gi
100.000 đồng và 50.000đ, bà có nghe chị LQ Diện nói là trả tiền sang nhượng khách sạn.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Nguyên đơn đồng thời là người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng phải trả ngay
600.000.000 đồng tiền đặt cọc sang nhượng khách sạn và 480.000.000 đã tiền cọc thu nh.
Đại diện theo ủy quyền của Bị đơn và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông
LQ_Đinh Văn Hưng) vẫn giữ nguyn ý kiến là không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về
việc trả lại số tiền đã nhận, đồng thời yêu cầu Tịa n buộc Nguyên đơn và bà LQ Diện trả tiền
thu nhà từ 6/2011 đến tháng 01/2012 tổng cộng là 316.640.000đ.
v ề yêu cầu phản tố đối với ông LQ Cần, Bị đơn vẫn giữ nguyên, cụ thể yêu cầu Hủy
hợp đồng thuê nhà, yêu cầu ông LQ Cần phải trả lại tiền cọc và bồi thường tiền cọc tổng
cộng 957.720.000 đã theo đúng thỏa thuận trong Hợp đồng thuê nhà mà hai bên đã ký ngày
26/11/2009, yêu cầu này của bà BĐ Thư là có căn cứ vì bà BĐ Thư chỉ chuyển nhượng cho
Nguyên đơn quyền kinh doanh khách sạn chứ không cho thu nhà nên việc ông LQ Cần tự ý
nhận lại nhà là vi phạm thỏa thuận với bà BĐ Thư nên ông LQ Cần phải bồi thường theo
như bà BĐ Thư yêu cầu.

Bà Vũ Thị Thảo là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan - ông LQ_HỒ Mạnh cần cho rằng Bị đơn không có quyền yêu cầu phản tố đối với
ông LQ Cần nên đề nghị Hội đồng xem xét quyết định.
Luật sư PMH là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông LQ_HỒ Mạnh cần
phát biểu quan điểm: Ông LQ Cần là chủ sở hữu của căn nhà 678 SVH, Phường 12, Quận X.
Ông LQ Cần cho bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng thuê nhà để kinh doanh khách sạn với thời hạn
4 năm. Trong Điều 4.2 của Hợp đồng quy định rất rõ bên thuê không được chuyển nhượng
hợp đồng hoặc cho thuê lại ... Ngày 17/09/2011 bà BĐ_Thư đã cho ông Nguyễn Thanh
NĐ Hưng sang nhượng lại khách sạn là vi phạm hợp đồng. Theo quy định tại Điểm d Khoản

73
1 Điều 498 Bộ luật dân sự ông LQ Cần có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và theo
quy định tại Điều 60 Bộ luật tố tụng dân sự thì Bị đơn không có quyền yêu cầu phản tố đối
với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên đề nghị Hội đồng xem xét quyết định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận TB, thành phố HCM phát biểu: Trong quá trình
thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố
tụng theo quy định, xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, ra quyết định và đưa vụ án
ra xét xử đúng thời gian, giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố
tụng. Không có vấn đề cần khắc phục.

XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại
phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định:
v ề sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa: Các đương sự có mặt tại phiên tịa đầy
đủ theo quy định.
v ề thẩm quyền giải quyết vụ án:
ông Nguyễn Thanh NĐ Hưng khởi kiện đối với bà BĐ Nguyễn Thị Thư có địa chỉ
tại 91/11 PVH, Phường 3, Quận TB, thành phố HCM là phù hợp với quy định tại Khoản 2
Điều 27, Điểm a Khoản 1 Điều 33, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điều 161 Bộ luật tố tụng Dân
sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận TB.
v ề nội dung vụ án:
Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn phải trả ngay số tiền 1.080.000.000 đồng là tiền đặt cọc
sang nhượng khách sạn và tiền đặt cọc thêu nhà. HĐXX xét thấy:
Căn cứ vào Giấy nhận tiền cọc ngày 17/09/2011 giữa Đại diện bên A: Bà BĐ_Nguyễn
Thị Thư và Đại diện bên B: Ông NĐ Nguyễn Thanh Hưng thì hai bên thỏa thuận bên Bà đặt
cọc cho bên A số tiền 600.000.000đ; bên A đồng ý sang nhượng lại cho bên Bà khách sạn
Phương Lan số 678 SVH, Phường 12, Quận X, Thành phố HCM để bên Bà hoạt động kinh
doanh khách sạn; Thời hạn thuê: Theo hợp đồng cũ của bên A với chủ nhà; Giá thuê: 1.900
USD/tháng cộng 1.000.000 thuế (nếu bên chủ nhà đòi), sau khi hết hạn hợp đồng với chủ nhà
bên A nhượng lại cho bên Bà ký tiếp hợp đồng (nếu có)...
Theo trình bày của bà LQ Nguyễn Thị Diện là người đại diện theo ủy quyền của
Nguyên đơn đồng thời là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì ngay sau khi thỏa thuận
việc sang nhượng lại quyền kinh doanh khách sạn, vào ngày 17/09/2011 hai bên đã làm Giấy
nhận tiền cọc và phía bà đã giao cho bà BĐ Thư 600.000.000đ, tiếp theo ngày 19/11/2011 bà
chuyển vào tài khoản của ông LQ Đinh Văn Hưng 250.000.000 đồng và sau đó đã giao trực
tiếp cho bà BĐ_Thư 230.000.000đ, việc giao nhận số tiền 230.000.000 đồng có bà Ngô Thị
Vóc, bà Đặng Ngọc Giàu làm chứng.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà BĐ Nguyễn Thị Thư và người đại diện
theo ủy quyền của bà BĐ Thư chỉ thừa nhận đã nhận của Nguyên đơn 600.000.000 đồng tiền
tiền mặt và 250.000.000 đồng thông qua chuyển khoản, không thừa nhận khoản tiền
230.000.000 đồng m bà LQ Diện trình bày đã giao trực tiếp cho bà BĐ Thư.
Xét thấy, tuy lời khai, trình bày của Nguyên đơn, Bị đơn, Người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan, Người làm chứng không thống nhất. Nhưng căn cứ vào các tài liệu chứng cứ
cho thấy bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng thuê nhà của ông LQ Cần và Hợp đồng thể hiện không
được cho thuê lại khi chưa có sự đồng ý của ông LQ Cần; Giấy phép kinh doanh khách sạn

74
do ông Hồ Mạnh Thắng đăng ký và ông Thắng chỉ ủy quyền cho bà BĐ Thư ông NĐ Hưng
trong coi, quản lý... Trong qu trình tham gia tố tụng bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng không
chứng minh được việc bà bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng sang nhượng lại quyền thuê nhà và
quyền kinh doanh khách sạn cho ông Nguyễn Thanh NĐ Hưng và bà LQ Nguyễn Thị Diện
là đã được sự đồng ý của ông LQ Cần và ông Thắng do đó việc thỏa thuận sang nhượng của
bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng với ông Nguyễn Thanh NĐ Hưng và bà LQ Nguyễn Thị Diện
là trái pháp luật, vượt quá quyền hạn đã thỏa thuận với bên cho thu nhà và bên ủy quyền kinh
doanh, mặt khc giấy nhận cọc ngày 17/9/2011 thể hiện việc giao dịch bằng tiền ngoại tệ
(USD) là trái với quy định của pháp luật về quản lý giao dịch ngoại hối, nên Hợp đồng thoả
thuận sang nhượng khách số 678 SVH, Phường 12, Quận X, Thành phố HCM thể hiện bằng
giấy nhận tiền cọc ngày 17/9/201 lgiữa bà BĐ_Thư ông NĐ_Nguyễn Thanh Hưng bà
LQ Nguyễn Thị Diện là vơ hiệu. Do hợp đồng vô hiệu nên các bên phải trả lại cho nhau
những gì đã nhận.
Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự thì có căn cứ bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng
đã nhận của ông Nguyễn Thanh NĐ_Hưng, bà LQ_Nguyễn Thị Diện số tiền tổng cộng
850.000.000 đã (01 lần 600.000.000đ, 01 lần 250.000.000 đ), do Hợp đồng vô hiệu nên bà
BĐ Thư, ông NĐ Hưng phải trả lại cho ông Nguyễn Thanh NĐ Hưng, bà LQ Nguyễn Thị
Diện số tiền ny.
Đối với số tiền 230.000.000 đồng bà LQ Diện khai đã trả trực tiếp cho bà BĐ Thư,
nhưng không nhớ ngày và không làm giấy tờ, nhưng có người làm chứng. Xét thấy ngoài lời
khai trình bày của bà LQ Diện và người làm chứng thì bà LQ Diện không có tài liệu chứng
cứ nào khác, trong khi bà BĐ Thư không thừa nhận do đó chưa đủ căn cứ để xác định bà
BĐ Thư đã nhận của bà LQ Diện, ông Nguyễn Thanh NĐ Hưng số tiền 230.000.000 đồng
nên chưa đủ căn cứ để buộc bà BĐ Thư, ông NĐ Hưng trả lại số tiền nay theo yêu cầu của
Nguyên đơn.
Đối với yêu cầu phản tố ngày 11/01/2013, bà BĐ_Nguyễn Thị Thư yêu cầu ông
NĐ_Nguyễn Thanh Hưng phải trả tiền thuê nhà từ tháng 6/2011 đến tháng 01/2012 tổng cộng
là 316.640.000 đ.
HĐXX xét thấy: Như đã phn tích ở tm thì thỏa thuận giữa bà BĐ Nguyễn Thị Thư và
ông Nguyễn Thanh NĐ_Hưng bà LQ_Nguyễn Thị Diện trong giấy nhận tiền cọc ngày
17/09/2011 về việc sang nhượng lại khách sạn Phương Lan tại số 678 SVH, Phường 12,
Quận X, Thành phố HCM là vô hiệu nên căn cứ theo Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu thì yêu cầu phản tố của Bị đơn không
có cơ sở nên HĐXX không chấp nhận
về yêu cầu phản tố của Bị đơn đối với ông LQ_HỒ Mạnh cần theo Đơn đề ngày
28/08/2013.
HĐXX xét thấy: Căn cứ Điều 60 Bộ luật tố tụng dn sự thì Bị đơn không có quyền có
yêu cầu phản tố đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên Hội đồng xét xử đình chỉ
giải quyết vụ kiện trả lại đơn và tiền tạm ứng án phí cho Bị đơn.
về án phí: Các đương sự phải chịu n phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:

75
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Khoản 1 Điều 27, Điểm a Khoản 1 Điều 33, Điểm a Khoản 1 Điều 35,
Khoản 4 Điều 131, Điều 60, Khoản 1 Điều 245, Điều 252 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều từ 121 đến 137; Khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005 ;
- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự;
- Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn.
Buộc bà BĐ Nguyễn Thị Thư và ông LQ Đinh Văn Hưng trả cho ông Nguyễn Thanh
NĐ Hưng số tiền 850.000.000 đồng (Tám trăm năm mươi triệu đồng), làm một lần ngay sau
khi án có hiệu lực php luật.
Địa điểm thanh toán: Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Trương hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm
trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại
thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Không chấp nhập yêu cầu sau đây của Nguyên đơn
Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Thanh NĐ_Hưng về việc buộc bà
BĐ Nguyễn Thị Thư, ông LQ Đinh Văn Hưng trả lại số tiền 230.000.000 đồng (Hai trăm ba
mươi triệu đồng).
3. Không chấp nhận yêu cầu sau đây của Bị đơn
Không chấp nhận yêu cầu của bà BĐ_Nguyễn Thị Thư về việc yêu cầu ông Nguyễn
Thanh NĐ_Hưng phải trả tiền thu nhà từ tháng 6/2011 đến tháng 01/2012 tổng cộng là
316.640.000 đồng (Ba trăm mười sáu triệu sáu trăm bốn mươi ngàn đồng).
4. Đình chỉ yêu cầu phản tố sau đây của Bị đơn
Đình chỉ việc giải quyết vụ kiện, trả lại đơn kiện cùng các tài liệu liên quan và tiền
tạm ứng án phí đối với việc bà BĐ Nguyễn Thị Thư yêu cầu ông LQ_HỒ Mạnh cần phải trả
tổng cộng 957.720.000 đồng (Chín trăm năm mươi bảy triệu bảy trăm hai mươi ngàn đồng) là
khoản tiền cọc và phạt cọc của Hợp đồng thuê nhà mà ông LQ_HỒ Mạnh cần và bà
BĐ_Nguyễn Thị Thư, ông LQ_Đinh Văn Hưng đã ký ngày 26/11/2009.
5. v ề án phí:
- Bà BĐ Nguyễn Thị Thư, ông LQ Đinh Văn Hưng phải chịu 37.500.000 đồng (đối
với nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Thanh NĐ_Hưng).
- Bà BĐ Nguyễn Thị Thư phải chịu 15.832.000 đồng (Mười lăm triệu tám trăm ba
mươi hai ngàn đồng) tiền n phí dân sự sơ thẩm (đối với yêu cầu phản tố không được chấp
nhận) trừ vào 8.900.550đ (Tám triệu chín trăm năm trăm năm mươi đồng) tiền tạm ứng án
phí đã nộp theo biên lai thu số 01877 ngày 18/03/2013 của Chi cục Thi hnh án Dân sự quận
TB thì bà BĐ Nguyễn Thị Thư còn phải nộp 6.931.450đ (Sáu triệu chín trăm ba mươi mốt
ngàn bốn trăm năm mươi đồng).
- Ông Nguyễn Thanh NĐ_Hưng phải chịu 11.500.000 đồng (Mười một triệu năm
trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được cấn trừ vào số tiền 22.200.000 đồng (Hai mươi
hai triệu hai trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí ông NĐ Nguyễn Thanh Hưng đã nộp theo
biên lai thu số 01403 ngày 24/12/2012 của Chi cục thi hành án Dân sự quận TB. ông
NĐ_Nguyễn Thanh Hưng được nhận lại 10.700.000 đồng (Mười triệu bảy trăm ngàn đồng).

76
- Hoàn trả lại cho bà BĐ Nguyễn Thị Thư số tiền 20.365.800 đồng (Hai mươi triệu ba
trăm sáu mươi lăm ngàn tám trăm đồng) tiền tạm ứng án phí bà BĐ Nguyễn Thị Thư đã nộp
theo biên lai thu số 05399 ngày 10/09/2013 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận TB.
6. về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn, Bị đơn, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

77
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TB CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 49/2013/KDTM-ST


Ngày: 04/01/2016
V/v: “ Tranh chấp hợp đồng thuê ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TB - THÀNH PHỐ HCM


Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa : Ông Đỗ Việt H


Hội thẩm nhân dân'. 1. Ông Nguyễn Văn N
2. Ông Đặng Văn Q
Thư kỷ Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Hoàng Chí T - Cán bộ Tòa án nhân dân quận
TB, Thành phố HCM.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận TB tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn H -
Kiểm sát viên.

Trong ngày 25/9/2013 và ngày 26/9/2013 Tòa án nhân dân quận TB, xét xử sơ thẩm công
khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 42/2013/TLST-KDTM ngày 25/02/2013 về “Tranh
chấp hợp đồng thuế’ theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 175A/2013/QĐST-KDTM ngày
30.8.2013 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:
NĐ Công ty TNHH Schonden Việt Nam
Địa chỉ: 60 TS, phường 2, quận TB, Tp HCM
Đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Dư là đại diện theo ủy quyền (GUQ
ngày 29.7.2013)

Bị đơn:
BĐ Công ty cổ phần quốc tế T & A
Địa chỉ: 60A TS, phường 2, quận TB, Tp HCM
Đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Nhật Tuấn là đại diện theo ủy quyền (GUQ
số 16/UQ-HĐQT ngày 08/03/2013).

78
NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 15.01.2013, bản tự khai và các biên bản hòa giải, nguyên
đơn NĐ_Công ty TNHH Schonden Việt Nam trình bày: Ngày 20/12/2007 theo hợp đồng thuê và
bản sửa đổi hợp đồng thuê mặt bằng thuộc tòa nhà CT Plaza giữa NĐ Công ty Schonden Việt
Nam (từ đây gọi tắt là NĐ_Công ty Schonden) và BĐ_Công ty cổ phần quốc tế T & A (từ đây
gọi tắt là BĐ Công ty T & A) đã ký kết, chúng tôi đã chuyển số tiền đặt cọc cho BĐ Công ty T
& A nhằm thuê mặt bằng phòng 601-Tòa nhà C.T Plaza với số tiền như sau: Đợt 1: 27.597USD;
đợt 2: 814.342.620đ
Ngày 06.09.2012 NĐ_Công ty Schonden Việt Nam tiến hành bàn giao mặt bằng lại cho
Ban quản lý tòa nhà C.T Plaza, chấm dứt hợp đồng thuê mặt bằng số 601-Tòa nhà C.T Plaza.
Theo đúng qui định của hợp đồng thuê, trong trường hợp này, NĐ_Công ty Schonden Việt Nam
được hoàn lại toàn bộ tiền đặt cọc.Do không nhận được số tiền đặt cọc nên ngày 12.09.2012
NĐ Công ty Schonden gửi văn bản yêu cầu BĐ Công ty T & A thanh toán lại khoản tiền đặt
cọc cho Công ty Shenher. Tiếp đó vào các ngày 04.10.2010, ngày 08.10.2010 và ngày
10.10.2010 NĐ_Công ty Schonden Việt Nam liên tục có thư nhắc nợ gửi tới BĐ_Công ty T & A,
đồng thời cũng thông báo sẽ tiến hành việc tính tiền lãi thanh toán chậm với mức lãi suất 0,
05%/ngày kể từ ngày 12/10/2010.Đến ngày 25/10/2010 BĐ_Công ty T & A mới đơn phương ký
biên bản thanh lý hợp đồng thuê và tự đặt ra thời hạn hoàn trả tiền cọc cho NĐ Công ty
Schonden Việt Nam sao 30 ngày kể từ ngày hai bên cùng ký biên bản thanh lý hợp đồng thuê
(tức ngày 25/11/2012). Và ngày 06/11/2012 BĐ_Công ty T & A lại gửi đến nguyên đơn văn bản
số 06/11-BQLTN, trong đó BĐ_Công ty T & A xác nhận sẽ chuyển trả cho NĐ_Công ty
Schonden số tiền đã đặt cọc là 27, 597USD và 714.688.758đ sau khi đã cấn trừ tiền thuê mặt
bằng từ ngày 01/9/2012 đến ngày 06/9/2012), BĐ_Công ty T & A cũng xác nhận sẽ chuyển trả
số tiền trên vào ngày 15/11/2012.
Do BĐ Công ty T & A không thực hiện đúng cam kết, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích
hợp pháp của NĐ Công ty Schonden nên NĐ Công ty Schonden khởi kiện yêu cầu BĐ Công ty
T & A phải trả số tiền là 27.597USD và 714.688.758đ.

Bị đơn: BĐ_Công ty T & A (Từ đây gọi tắt là BĐ_Công ty T & A) do ông Nguyễn Nhật
Tuấn là đại diện theo ủy quyền trình bày: BĐ_Công ty T & A và NĐ_Công ty Schonden có ký
hợp đồng thuê mặt bằng tòa nhà văn phòng tại số 60A TS, phường 2, quận TB. Theo thỏa thuận
giữa hai bên thì hợp đồng thuê sẽ kết thúc vào ngày 06/9/2012.Sau khi NĐ_Công ty Schonden
bàn giao mặt bằng lại cho BĐ Công ty T & A thì ngày 06.11.2012 BĐ Công ty T & A có văn
bản số 06/ll.BQLTN gửi cho NĐ_Công ty Schonden về việc sẽ thanh toán cho NĐ_Công ty
Schonden số tiền là 27, 597USD và 714.688.758đ. Ngày 25/10/2012 BĐ_Công ty T & A đã gửi
biên bản thanh lý cho NĐ Công ty Schonden để ký kết nhằm thanh lý hợp đồng thuê và
BĐ Công ty T & A sẽ thanh toán tiền đặt cọc cho nguyên đơn sau 30 ngày kể từ ngày ký thanh
lý hợp đồng; Tuy nhiên, NĐ Công ty Schonden đã nhận biên bản thanh lý nhưng chưa ký biên
bản nên BĐ Công ty T & A chưa làm thủ tục trả tiền đặt cọc cho NĐ Công ty Schonden theo
văn bản số 06/1 l.BQLTN ngày 06/11/2011.

79
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành

Ngày 26/7/2013 BĐ_Công ty T & A có đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu NĐ_Công ty
Schonden phải trả sơ tiền thuê còn thiếu của các tháng 4/2009, tháng 6/2009, tháng 7/2009, tháng
8/2009, tháng 9/2009 và tháng 11/2009 với số tiền là: 24.281, 90USD.

Tại phiên tòa hôm nay:


Nguyên đơn NĐ_Công ty Schonden do bà Nguyễn Thị Dư là đại diện theo ủy quyền
trình bày: Sau khi kết thúc hợp đồng thuê và bàn gia mặt bằng lại cho BĐ Công ty T & A,
NĐ_Công ty Schonden yêu cầu BĐ_Công ty T & A phải trả số tiền đặt cọc cho NĐ_Công ty
Schonden theo thỏa thuận trong hợp đồng.Tại văn bản số 06/11/BQLTN ngày 06.11.2012,
BĐ_Công ty T & A đã xác nhận còn nợ NĐ_Công ty Schondentiền đặt cọc là 27.27.597USD và
714.688.758đ, theo văn bản trên thì BĐ_Công ty T & A sẽ trả số tiền trên cho NĐ_Công ty
Schonden vào ngày 15.11.2012 nhưng BĐ_Công ty T & A đã không thực hiện. Nay NĐ_Công
ty Schonden yêu cầu BĐ Công ty T & A phải có trách nhiệm trả cho NĐ Công ty Schonden số
tiền là 27.597USD và 714.688.758đ cùng tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với
khoản tiền 714.688.758đ tính từ ngày 15.11.2012 đến ngày xét xử sơ thẩm 25.9.2013 là:
714.688.758đ X 0.75% X 10 tháng 10 ngày = 55.388.320đ (theo mức lãi suất 9%/năm).Như vậy,
số tiền BĐ_Công ty T & A phải trả cho NĐ_Công ty Schonden là 27.597USD và 770.007.078đ.
Trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thi hành.

Bị đơn do ông Nguyễn Nhật Tuấn là đại diện theo ủy quyền trình bày: BĐ_Công ty T &
A xác nhận hiện nay chưa trả cho NĐ_Công ty Schonden tiền đặt cọc là 714.688.758đ, riêng đối
với khoản tiền đặt cọc là 27.597USD tuy đã được xác nhận trong văn bản gửi cho NĐ_Công ty
Schonden ngày 06.11.2012; tuy nhiên trong quá trình hòa giải, BĐ Công ty T & A đã tiến hành
kiểm tra lại sổ sách chứng từ kế toán thì được biết trong quá trình thanh toán tiền thuê, phía
NĐ Công ty Schonden chưa thanh toán đủ tiền thuê của một số tháng, cụ thể:
- Tiền thuê tháng 04/2009 còn thiếu 1.000USD
- Tiền thuê tháng 06/2009 còn thiếu 5.020, 40USD
- Tiền thuê tháng 07/2009 còn thiếu là 4.844, 40USD
- Tiền thuê tháng 08/2009 còn thiếu là 4.844, 40USD
- Tiền thuê tháng 09/2009 còn thiếu là 6.055, 50USD
- Tiền thuê tháng 11/2009 còn thiếu là 2.517, 20USD
Nên ngày 26/7/2013 BĐ_Công ty T & A có đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu NĐ_Công ty
Schonden phải trả số tiền thuê còn thiếu của các tháng 4/2009, tháng 6/2009, tháng 7/2009, tháng
8/2009, tháng 9/2009 và tháng 11/2009 với số tiền là: 24.281, 90USD, số tiền này sẽ được cấn
trừ vào số tiền mà BĐ Công ty T & A phải trả là 27.597USD thì BĐ Công ty T & A chỉ còn
phải trả cho NĐ_Công ty Schonden số tiền là 3.315, 10USD. Như vậy, tổng số tiền mà
BĐ Công ty T & A có trách nhiệm phải trả cho NĐ Công ty Schonden là 3.315, 10USD và
714.688.758đ. Không chấp nhận yêu cầu tính lãi của NĐ Công ty Schonden vì theo qui định của
hợp đồng không tính lãi đối với tiền đặt cọc.

80
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận TB phát biểu ý kiến: Tòa án nhân dân quận TB đã
thực hiện đúng và đầy đủ các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2011 ).

XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
- về thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/1/2013, nguyên đơn
NĐ_Công ty Schonden Việt Nam khởi kiện Công ty cổ phấn quốc tế C&T về việc “Đòi tiền đặt
cọc”. Căn cứ vào đơn khởi kiện, Tòa án nhận dân quận TB đã thụ lý với quan hệ tranh chấp là
“Đòi tiền cọc”.Qua lời khai của các đương sự, xét thấy cần xác định lại quan hệ tranh chấp trong
vụ án này là quan hệ tranh chấp “Hợp đồng thuê mặt bằng”. Xét việc khởi kiện của NĐ Công ty
Schonden phù hợp với qui định tại Điểm e Khoản 1 Điều 29; Điểm a Khoản 1 Điều 33; Điểm a
Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011) thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân quận TB.
+ Xét yêu cầu của các đương sự:
- Xét yêu cầu của nguyên đơn là NĐ_Công ty Schonden về việc yêu cầu BĐ_Công ty T
& A phải trả số tiền là 25.597USD và 714.688.758đ; Hội đồng xét xử nhận định: Ngày
20/12/2007 NĐ_Công ty Schonden và BĐ_Công ty T & A ký hợp đồng thuê mặt bằng tại Tòa
nhà C.T Plaza, số 60A TS, phường 2, quận TB với thời hạn thuê là 03 năm bắt đầu từ ngày
01/5/2008 đến ngày 30/4/2011, tiền thuê bắt đầu tính từ ngày 01/5/2008; ngày 11.7.2008 hai bên
ký phụ lục hợp đồng sửa đổi một số điều khoản của hợp đồng thuê ngày 20/12/2007, theo đó tiền
thuê nhà bắt đầu được tính từ ngày 01.9.2008 và thời hạn thuê 03 năm tính từ ngày 01.9.2008
đến ngày 31/8/2011.
NĐ Công ty Schonden đã đặt cọc tiền thuê cho BĐ Công ty T & A 02 đợt, cụ thể: đợt 1
chuyển 27.597USD và đợt 2 chuyển: 814.342.620đ. Ngày 06/9/2012 NĐ_Công ty Schonden đã
bàn giao trả lại mặt bằng cho BĐ Công ty T & A và chính thức chấm dứt hợp đồng thuê với
NĐ_Công ty Schonden. Ngày 06.11.2012 BĐ_Công ty T & A có văn bản số 06/11-BLLTN gửi
cho NĐ_Công ty Schonden xác nhận sẽ trả cho NĐ_Công ty Schonden tiền đặt cọc là
27.597USD và 714.688.758đ (sau khi đã trừ tiền thuê từ ngày 01.9.2012 đến ngày 12.9.2012) và
xác nhận số tiền trên sẽ chuyển trả vào ngày 15/11/2012. Do không thực hiện đúng cam kết nên
NĐ Công ty Schonden khởi kiện yêu cầu BĐ Công ty T & A phải trả số tiền. Đây là nội dung
cần xem xét
- Xét yêu cầu phản tố của BĐ_Công ty T & A về việc yêu cầu NĐ_Công ty Schonden
phải trả tiền thuê nhà còn thiếu là 24.281, 90USD; Hội đồng xét xử nhận định: Tại phiên tòa hôm
nay, NĐ_Công ty Schonden và Công ty &T đều cho biết việc thanh toán tiền thuê hàng tháng chỉ
được thực hiện khi NĐ Công ty Schonden nhận được văn bản đề nghị thanh toán từ phía
BĐ Công ty T & A.NĐ Công ty Schonden xác nhận đã thanh toán các khoản tiền thuê của các
tháng 4/2009, tháng 6/2009, tháng 7/2009, tháng 8/2009, tháng 9/2009 và tháng 11/2009 sau khi
đã cấn trừ các chi phí liên quan đến dịch vụ do BĐ Công ty T & A cung cấp không bảo đảm
chất lượng và trước khi cấn trừ có thông báo bằng văn bản cho BĐ Công ty T & A nhưng

81
BĐ Công ty T & A không có ý kiến gì và BĐ Công ty T & A cũng đã xuất hóa đơn cho
NĐ_Công ty Schonden trên số tiền thực nhận.
Trong trường hợp BĐ Công ty T & A cho rằng NĐ Công ty Schonden đã không thực
hiện đúng nghĩa vụ của mình theo hợp đồng mà cụ thể trong trường hợp này là trả tiền thuê
không đủ theo văn bản đề nghị thanh toán thì BĐ Công ty T & A có quyền khiếu nại theo qui
định tại Khoản 3 Điều 318 Luật thương mại, nhưng BĐ Công ty T & A không thực hiện. Căn cứ
Điều 319 Luật thương mại thì yêu cầu này của BĐ Công ty T & A tính đến thời điểm hiện nay
đã hết thời hiệu khởi kiện nên không có cơ sở để xem xét.
Khi ký kết hợp đồng thuê ngày 20/12/2007 NĐ_Công ty Schonden và BĐ_Công ty T &
A đã thỏa thuận việc đặt cọc tiền thuê là USD (phần VII phụ lục số 1 của hợp đồng thuê) và bên
cho thuê sẽ hoàn trả cho bên thuê tiền đặt cọc bằng cùng loại tiền đã nhận từ bên thuê (Khoản 2
Điều IX của hợp đồng thuê) và NĐ Công ty Schonden đã đặt cọc đợt 1 cho BĐ Công ty T & A
đợt 1 số tiền là 27.597USD.Căn cứ vào Phiếu báo có ngày 04/12/2007 của Ngân hàng TMCP Kỹ
thương Việt Nam -Chi nhánh Chợ Lớn (Techcombank) và sự xác nhận của NĐ Công ty
Schonden, BĐ Công ty T & A tại phiên tòa thì việc chuyển và nhận tiền cọc đợt 1 là nhoại tệ
(USD). Việc NĐ_Công ty Schonden và BĐ_Công ty T & A thỏa thuận dùng ngoại tệ trong việc
giao dịch (Đặt cọc và trả cọc) là vi phạm pháp luật theo qui định tại Điều 128 Bộ luật Dân sự và
Pháp lệnh về ngoại hối nên phần giao dịch này vô hiệu và cần áp dụng Điều 137 Bộ luật dân sự
để giải quyết hậu quả của phần giao dịch dân sự vô hiệu này mặc dù hợp đồng thuê giữa
NĐ_Công ty Schonden và BĐ_Công ty T & A đã chấm dứt từ ngày 06/9/2012.
Từ những phân tích trên; Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của NĐ Công ty Schonden là
có căn cứ được chấp nhận.Buộc BĐ Công ty T & A phải có trách nhiệm trả cho NĐ Công ty
Schonden số tiền là:
- 27.597USD được qui đổi thành tiền đồng Việt Nam là 581.192.820đ (theo tỷ giá của
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thành phố HCM ngày 25/9/2013 là
21.060đ/USD) (1)
- 714.688.758đ cùng tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tính từ ngày
15.11.2012 đến ngày 25.9.2013 là 55.388.320đ.(Theo mức lãi suất 9%/năm). Tổng cộng là:
(714.688.758đ + 55.388.320đ) = 770.077.078đồng
Tổng cộng 02 (hai) khoản là: (581.192.820đ + 770.077.078đ) = 1.351.269.898đ.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của BĐ Công ty T & A do hết thời hiệu khởi
kiện.
về án phí:
- BĐ Công ty T & A phải chịu án phí sơ thẩm là: 52.538.096đ. Do yêu cầu phản tố của
BĐ Công ty T & A hết thời hiệu nên hoàn trả lại cho BĐ Công ty T & A tiền tạm ứng án phí đã
nộp là 12.271.243đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 05264 ngày 09.8.2013 của Chi cục
Thi hành án dân sự quận TB.SỐ tiền được hoàn trả này được cấn trừ vào tiền án phí BĐ Công ty
T & A phải chịu là 52.538.096đ nên BĐ Công ty T & A chỉ còn phải nộp thêm số tiền là
(52.538.0 9 6 đ - 12.271.243đ) = 40.266.853đ.

82
- Hoàn lại cho NĐ Công ty Schonden tiền tạm ứng án phí đã nộp là 25.793.016đ theo
biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 01710 ngày 31.01.2013 của Chi cục Thi hành án dân sự quận
TB.
Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điểm e Khoản 1 Điều 29; Điểm a Khoản 1 Điều 33; Điểm a Khoản 1 Điều 35;
Điều 131; Điều 192; Điều 193 và Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2011)
Căn cứ Điều 128; Điều 137; Điều 480 Bộ luật dân sự;
Căn cứ Điều 306; Khoản 3 Điều 318; Điều 319 Luật Thương mại;
Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự;
Căn cứ Khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án

Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn NĐ_Công ty TNHH Schonden Việt Nam
- Buộc BĐ Công ty T & A có trách nhiệm trả cho nguyên đơn NĐ Công ty TNHH
Schonden Việt Nam số tiền là 1.351.269.898đ (Một tỷ ba trăm năm mươi mốt triệu hai trăm sáu
mươi chín ngàn tám trăm chín mươi tám đồng) ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thi
hành.
Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó còn phải trả lãi đối với số tiền
chậm trả theo lãi suát quá hạn trung bình trên thị trường tương ứng với số tiền và thời gian chậm
trả tại thời điểm thanh toán.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của BĐ_Công ty T & A về việc yêu cầu
NĐ_Công ty TNHH Schonden Việt Nam phải trả số tiền là 24.281,90USD
Trương hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
qui định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
2. v ề án phí sơ thẩm:
- BĐ Công ty T & A phải chịu án phí sơ thẩm là: 52.538.096đ.Do yêu cầu phản tố của
BĐ Công ty T & A hết thời hiệu nên hoàn trả lại cho BĐ Công ty T & A tiền tạm ứng án phí đã
nộp là 12.271.243đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 05264 ngày 09/8/2013 của Chi cục
Thi hành án dân sự quận TB. số tiền được hoàn trả này được cấn trừ vào tiền án phí BĐ Công ty
T & A phải chịu là 52.538.096đ nên BĐ Công ty T & A chỉ còn phải nộp thêm số tiền là
(52.538.0 9 6 đ - 12.271.243đ) = 40.266.853đ.

83
- Hoàn lại cho NĐ Công ty Schonden Việt Nam tiền tạm ứng án phí đã nộp là
25.793.016đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 01710 ngày 31/01/2013 của Chi cục Thi
hành án dân sự quận TB.
3. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án.

84
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 697/2017/KDTM-PT


Ngày: 03/8/2017
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Khắc Tuấn.
Các Thẩm phán: 1. Bà Lê Thị Thuận
2. Bà Lê Hồng Phượng
Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Linh Sương – Thư ký Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên
tòa: Bà Trần Thị Rân - Kiểm sát viên.
Ngày 03/8/2017 tại trụ sở tòa án đã tiến hành xét xử phúc thẩm công khai
vụ án dân sự thụ lý số 50/KDTMPT ngày 25/5/2017 về “Tranh chấp hợp đồng
tín dụng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2017/KDTM-ST ngày 21/4/2017 của
Tòa án nhân dân huyện C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1315/2017/QĐ-PT ngày 23/
6/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 3897/2017/QĐ-PT ngày 13/7/2017,
giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần C
(Chi nhánh M, Thành phố Hồ Chí Minh)
Địa chỉ: 111-121 NGT, Phường H, Quận M, Thành phố Hồ
Chí Minh
Đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Hồng T và ông Lâm Minh Đ
- Văn bản ủy quyền số 478/UQ-HĐQT-NHCT 18 ngày
15/5/2017;
Bị đơn: Công ty Cổ phần Nhựa T
Địa chỉ: 85A Quốc lộ 22, ấp TB, xã TPT, huyện C, Thành
phố Hồ Chí Minh
Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Tiến Th
- Giấy ủy quyền số 02-2017/UQ-HĐQT ngày 16/6/2017;

85
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1) Ông Trần Tiến Th, sinh năm 1956;
Địa chỉ ĐKTT: 483 NK, Phường C, quận P, Thành phố Hồ
Chí Minh
Tạm trú: 485/4 NK, Phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh
Có Luật sư Trần Việt C bảo vệ quyền lợi.
2) Bà Nguyễn Thị Mai H, sinh năm 1957;
3) Ông Trần Nguyễn Hoàng Q, sinh năm 1989;
4) Ông Trần Nguyễn Vân T, sinh năm 1981;
Cùng ở địa chỉ: 483 NK, Phường C, quận P, Thành phố Hồ
Chí Minh
5) Công ty Cổ phần Đầu tư và Sản xuất K
Địa chỉ: 930-C6 đường C, Khu công nghiệp C, phường
TML, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh
Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Nguyễn Vân T - Chủ
tịch Hội đồng quản trị;
6) Công ty Cổ phần Hóa chất và Vật liệu xây dựng Q
Địa chỉ: 18 LQĐ, Phường S, Quận B, Thành phố Hồ Chí
Minh
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hoàng H – Giám đốc.
Người kháng cáo: Ngân hàng Thương mại Cổ phần C.

NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (Chi nhánh M, Thành phố Hồ Chí
Minh- gọi tắt là V- Chi nhánh M) có cho Công ty Cổ phần Nhựa T (gọi tắt là
Công ty T) vay tiền theo các hợp đồng tín dụng số 10.09.1082/HĐTD ngày
27/4/2010; số 10.09.1136/HĐTD ngày 03/8/2010; số 11.09.1063/HĐTD ngày
06/5/2011; các hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng và các phụ lục kèm
theo. Tài sản bảo đảm cho các khoản vay gồm có:
1) Hợp đồng thế chấp số 01/10.09.1082/HĐTC giữa V - Chi nhánh M và
Công ty T ngày 21/6/2010, với tài sản thế chấp là 2 máy nối đầu tự động để bảo
đảm cho Hợp đồng tín dụng số 10.09.1082/HĐTD ngày 27/4/2010;
2) Hợp đồng thế chấp số 10.09.1136/HĐTC giữa V- Chi nhánh M và
Công ty T ngày 03/8/2010, với tài sản thế chấp là 3 xe ô tô (Toyota Hiace số
53S-8448; County HD số 53S-8363 và County HD số 53S-8434) để bảo đảm
cho Hợp đồng tín dụng số 10.09.1136/HĐTD ngày 03/8/2010;
3) Hợp đồng thế chấp số 01/11.09.1063/HĐTC giữa V- Chi nhánh M,
Công ty T, ông Trần Tiến Th và bà Nguyễn Thị Mai H lập ngày 20/5/2011, công

86
chứng số 021258, tại Phòng Công chứng B, Thành phố Hồ Chí Minh với tài sản
thế chấp là căn nhà số 485/4 NK, Phường C, quận P và một phần của ½ căn nhà
số 483 NK, Phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc sở hữu của ông
Trần Tiến Th và bà Nguyễn Thị Mai H để bảo đảm cho Hợp đồng tín dụng số
11.09.1063/HĐTD ngày 06/5/2011;
4) Hợp đồng thế chấp số 02/11.09.1063/HĐTC giữa V- Chi nhánh M và
Công ty T ngày 30/6/2011, với tài sản thế chấp là các máy móc, thiết bị để bảo
đảm cho Hợp đồng tín dụng số 11.09.1063/HĐTD ngày 06/5/2011.
Do Công ty T không thực hiện việc trả nợ theo cam kết, ngày 28/10/2012
V- Chi nhánh M đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty T phải
thanh toán:
1) Số nợ vay bằng tiền Việt Nam: Gốc: 37.485.780.642đ; Lãi trong hạn và
quá hạn: 4.340.424.451đ (tạm tính đến ngày 24/9/2012).
2) Số nợ vay bằng ngoại tệ: Gốc: 601.310 USD, tương đương
12.524.084.680đ; Lãi trong hạn và quá hạn: 39.818,16USD, tương đương
829.332.636đ (tạm tính đến ngày 24/9/2012).
Trường hợp Công ty T không thanh toán thì đề nghị Tòa án cho bán tài
sản thế chấp để thu hồi nợ.
Ngày 19/11/2012, Tòa án nhân dân huyện C có Quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự số 64/2012/QĐST-KDTM, công nhận sự thỏa
thuận: Công ty T phải thanh toán cho V- Chi nhánh M số nợ gốc và lãi tính đến
ngày 24/9/2012 là 55.179.622.409đ trong thời hạn 4,5 tháng tính từ ngày
09/11/2012. Lãi suất phát sinh sau ngày 24/9/2012 được tính tiếp theo hợp đồng.
Trường hợp Công ty T không thanh toán thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ
quan thi hành án xử lý tài sản thế chấp theo quy định. Ngoài ra quyết định còn
có phần quyết định về án phí, hoàn tiền tạm ứng án phí và việc thi hành án.
Ngày 13/8/2013, Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh có Quyết định giám đốc thẩm số 51/2013/QĐKDTM-GĐT, hủy
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 64/2012/QĐST-
KDTM để xét xử sơ thẩm lại do tính sai tiền án phí và thu thập chứng cứ chưa
đầy đủ.
Trong quá trình Tòa án giải quyết lại vụ án, V- Chi nhánh M và Công ty T
đã thỏa thuận bán đấu giá 5 xe ô tô của Công ty T (trong đó có 3 xe là tài sản
bảo đảm cho Hợp đồng tín dụng số 10.09.1136/HĐTD) thu được
1.660.072.500đ. Số tiền này V- Chi nhánh M đã trừ vào nợ gốc. Do đó V- Chi
nhánh M yêu cầu Tòa án buộc Công ty T phải thanh toán số tiền còn nợ (bao
gồm cả nợ bằng ngoại tệ được quy đổi ra tiền Việt) tính đến ngày 19/4/2017 là
97.825.335.349đ, gồm: Nợ gốc: 48.948.835.992đ; Lãi trong hạn:
34.083.316.481đ; Lãi quá hạn: 14.793.182.876đ (Lãi suất trong hạn được xác
định bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 6 tháng cộng biên độ. Kỳ tính lãi gần
nhất lãi suất tiền Việt Nam là 15% một năm, ngoại tệ là 6,5% một năm. Lãi suất
quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn).

87
Trường hợp Công ty T không thanh toán thì đề nghị Tòa án cho bán tài
sản thế chấp còn lại để thu hồi nợ.
Theo trình bày của Công ty T: Số tiền mà bị đơn còn nợ đúng như trình
bày của nguyên đơn. Hiện nay Công ty T đang gặp khó khăn, đề nghị V- Chi
nhánh M tạo điều kiện giảm bớt phần tiền lãi cho công ty để công ty vượt qua
giai đoạn khó khăn này. Đối với căn nhà số 485/4 NK, Phường C, quận P và một
phần của ½ căn nhà số 483 NK, Phường C, quận PN, đây là tài sản thuộc sở hữu
của ông Th, bà H, ông Trần Nguyễn Hoàng Q và ông Trần Nguyễn Vân T. Theo
thỏa thuận tại hợp đồng thế chấp thì thời gian thế chấp là 3 năm, bắt đầu từ ngày
29/5/2011. Đến nay thời hạn thế chấp đã hết, Công ty T đồng ý với đề nghị của
chủ tài sản này là trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Số tài sản đã thế chấp còn lại là
các máy móc hiện nay công ty đang để tại kho của Công ty Cổ phần Hóa chất và
Vật liệu xây dựng Q (gọi tắt là Công ty Q). Trường hợp công ty không trả được
nợ thì xử lý các tài sản thế chấp này để thu hồi nợ.
Theo trình bày của ông Trần Tiến Th, bà Nguyễn Thị Mai H, ông Trần
Nguyễn Hoàng Q và ông Trần Nguyễn Vân T: Để đáp ứng nhu cầu vốn cho
công ty, Hội đồng quản trị Công ty T có họp và thống nhất các ông (bà) Th, H,
Q, T sẽ thế chấp căn nhà số ông (bà) Thịnh, Hoa, Quân, Trường và một phần
của ½ căn nhà số 483 NK để bảo lãnh cho Công ty T trong thời hạn 3 năm bắt
đầu từ ngày 29/5/2011. Công ty T có tổng số vốn điều lệ là 52.000.000.000đ,
trước đây phần vốn góp của ông Th, bà H trong công ty là 15.000.0000.000đ,
sau đó ông Th, bà H đã chuyển nhượng cho Công ty Mua bán nợ
10.000.0000.000đ để Công ty Mua bán nợ cơ cấu lại Công ty T và giải quyết với
các chủ nợ, trong đó có V- Chi nhánh M nên số vốn góp hiện nay của ông Th, bà
H chỉ còn 5.000.000.000đ. Các ông (bà) đề nghị V- Chi nhánh M trả lại các ông
(bà) giấy tờ nhà số 485/4 NK và một phần của ½ căn nhà số 483 NK. Ông Th sẽ
trả cho V- Chi nhánh M một phần nợ tương ứng với số vốn góp còn lại của ông
Th, bà H trong Công ty T.
Theo trình bày của Công ty Cổ phần Đầu tư và Sản xuất K (gọi tắt là
Công ty K) thì Công ty K có ký Hợp đồng số 03.2016/QHA thuê nhà xưởng của
Công ty Q và để các máy móc mà Công ty T đã thế chấp cho V- Chi nhánh M
tại nhà xưởng này. Công ty K đồng ý cho xử lý số máy móc này theo đúng hợp
đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp giữa Công ty T với V- Chi nhánh M. Nếu
có tranh chấp về giao dịch giữa Công ty K và Công ty T, công ty sẽ kiện bằng
một vụ kiện khác.
Theo trình bày của Công ty Q thì Công ty K có để số máy móc mà Công
ty T đã thế chấp cho V- Chi nhánh M tại nhà xưởng mà Công ty K đã thuê của
Công ty Q. Công ty Q không có yêu cầu giải quyết tranh chấp về hợp đồng cho
thuê nhà xưởng giữa Công ty Q với Công ty K trong vụ kiện này nhưng đề nghị
Công ty K phải di dời số máy móc này ra khỏi nhà xưởng để trả lại nhà xưởng
cho Công ty Q.
Ông Phan Thanh H là người được Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập tham gia
tố tụng với tư cách người làm chứng cho rằng ông là cổ đông đồng thời là thành

88
viên hội đồng quản trị của Công ty T nhưng việc Công ty T mượn căn nhà số
485/4 NK và một phần của ½ căn nhà số 483 NK của ông Th để thế chấp vay
vốn của V- Chi nhánh M ông không hề biểu hiện sự đồng ý bằng bất cứ hình
thức nào.
Ông Trần Quốc T là người được Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập tham gia tố
tụng với tư cách người làm chứng cho rằng trước đây ông có góp số vốn là
840.000.000đ vào Công ty T. Ngày 26/11/2008 ông đã chuyển nhượng toàn bộ
số vốn này cho bà H nhưng vẫn làm việc tại Công ty T với chức danh quản lý kỹ
thuật đến năm 2011 mới nghỉ việc. Ông không hề biết việc vay tiền và thế chấp
tài sản của Công ty T và V- Chi nhánh M.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2017/KDTM-ST ngày 21/4/2017, Tòa án
nhân dân huyện C đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của V- Chi nhánh M; buộc Công
ty T phải thanh toán trả V- Chi nhánh M:
- Số tiền còn nợ tính đến ngày 19/4/2017 là 97.825.335.349đ, trong đó nợ
gốc là 48.948.835.992đ, lãi trong hạn là 34.083.316.481đ, lãi quá hạn là
14.793.182.876đ.
- Số tiền lãi phát sinh tương ứng với số nợ gốc chưa thanh toán từ ngày
20/4/2017 theo thỏa thuận tại các hợp đồng tín dụng số 10.09.1082/HĐTD ngày
27/4/2010; số 10.09.1136/HĐTD ngày 03/8/2010; số 11.09.1063/HĐTD ngày
06/5/2011; các hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng và các phụ lục cho
đến khi thanh toán xong số nợ gốc.
Quá hạn mà Công ty T chưa thanh toán xong số nợ gốc và tiền lãi phát
sinh thì V- Chi nhánh M có quyền yêu cầu chi cục thi hành án có thẩm quyền
phát mãi các tài sản đã thế chấp sau đây để thu hồi nợ:
- Máy móc, thiết bị đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp số
02/11.09.1063/HĐTC giữa V- Chi nhánh M và Công ty T ngày 30/6/2011;
- 2 máy nối đầu tự động theo Hợp đồng thế chấp số 01/10.09.1082/HĐTC
giữa V- Chi nhánh M và Công ty T ngày 21/6/2010.
Buộc Công ty K và Công ty Q phải thực hiện theo quy định của pháp luật
việc phát mãi các tài sản thế chấp của Công ty T cho V- Chi nhánh M.
Tuyên bố hợp đồng vô hiệu và hủy Hợp đồng thế chấp số
01/11.09.1063/HĐTC giữa V- Chi nhánh M, Công ty T, ông Trần Tiến Th và bà
Nguyễn Thị Mai H lập ngày 20/5/2011, công chứng số 021258, tại Phòng Công
chứng B, Thành phố Hồ Chí Minh với tài sản thế chấp là căn nhà số 485/4 NK,
Phường C, quận P và một phần của ½ căn nhà số 483 NK, Phường C, quận P,
Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc V- Chi nhánh M phải trả lại ông Th và bà H bản
chính các giấy tờ:
- Giấy phép mua bán, chuyển dịch nhà cửa số 2072/GP-UBDV do Ủy ban
nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 09/10/1991 đối với căn nhà

89
số 485/4 NK, Phường C, quận P; Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước bạ
ngày 29/10/1991 và họa đồ vị trí;
- Giấy phép mua bán, chuyển dịch nhà cửa số 1538/GP-MB7 do Sở Nhà
đất Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 26/3/1990 đối với một phần của ½ căn
nhà số 483 NK, Phường C, quận PN; Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước
bạ ngày 27/02/1992 và bản đồ hiện trạng vị trí.
Ngoài ra, bản án còn có phần quyết định về việc chịu án phí, hoàn trả tạm
ứng án phí, việc thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 04/5/2017, V- Chi nhánh M đã nộp đơn kháng cáo phần xử lý tài
sản thế chấp là căn nhà số 485/4 NK, Phường C, quận P và một phần của ½ căn
nhà số 483 NK, Phường C, quận PN của bản án sơ thẩm. Đồng thời cho rằng do
chưa nhận được bản án nên ngân hàng bảo lưu việc kháng cáo đối với những nội
dung khác của bản án khác với án đã tuyên tại phiên tòa, không đúng với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 28/6/2017, V- Chi nhánh M có văn bản bổ sung kháng cáo đề
nghị Tòa án sửa lại phần quyết định của bản án sơ thẩm, tách phần tiền mà bị
đơn phải thanh toán thành hai khoản tiền đồng Việt Nam và đô la Mỹ cho phù
hợp với các khoản cho vay và yêu cầu của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm
vì số tiền bị đơn nợ nguyên đơn gồm 2 khoản là tiền đồng Việt Nam và đô la
Mỹ.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
và nội dung kháng cáo, đồng thời cho rằng đối với khoản vay ngoại tệ hai bên
chỉ xác định số nợ và tiền lãi phát sinh bằng ngoại tệ nhưng khi thanh toán thì
thực hiện bằng tiền đồng Việt Nam theo tỷ giá do Ngân hàng TMCP C công bố
thời điểm vào thanh toán. Bản án sơ thẩm ghi số tiền phải thanh toán bằng tiền
Việt là đúng nhưng không ghi số nợ gốc và lãi bằng ngoại tệ là chưa cụ thể nên
nguyên đơn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm bổ sung nội dung này vào bản án.
Đối với việc thế chấp nhà của ông Th, bà H cho Ngân hàng thì việc Hội đồng
quản trị của Công ty T có đồng ý hay không không hưởng đến giá trị pháp lý của
hợp đồng vì đây là sự thỏa thuận hợp pháp giữa người thế chấp và người nhận
thế chấp. Tại thỏa thuận về bảo lãnh bằng tài sản thế chấp, giữa ngân hàng và
ông Th, bà H không hề có thỏa thuận việc thế chấp này chỉ có giá trị trong thời
hạn 3 năm. Việc Công ty T vay tiền của Ngân hàng có được sự đồng ý của Hội
đồng quản trị hay không là việc nội bộ của công ty, việc này không ảnh hưởng
gì đến hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh, thế chấp. Các đương sự khác không
kháng cáo bản án sơ thẩm.
Đại diện Công ty T xác nhận khoản vay bằng ngoại tệ đúng như trình bày
của nguyên đơn nhưng cho rằng việc bảo lãnh, thế chấp bằng nhà của ông Th, bà
H chỉ có giá trị trong thời hạn 3 năm. Khi thế chấp bảo lãnh ông Th bà H có yêu
cầu việc bảo lãnh thế chấp này phải được sự đồng ý của hội đồng quản trị nhưng
những người ký tên trong biên bản họp hội đồng quản trị của công ty không phải
là thành viên của hội đồng quản trị.

90
Người bảo vệ quyền lợi cho ông Th cho rằng theo quy định của pháp luật
việc công ty cổ phần muốn vay tiền thì phải có sự đồng ý của hội đồng quản trị.
Ông Th, bà H cũng chỉ đồng ý bảo lãnh, thế chấp tài sản cho ngân hàng khi hợp
đồng vay có sự đồng ý của hội đồng quản trị nhưng việc bị đơn vay tiền của
nguyên đơn không có sự đồng ý của hội đồng quản trị. Do đó việc Tòa án cấp sơ
thẩm tuyên bố hợp đồng thế chấp nhà của ông Th, bà H cho ngân hàng là vô
hiệu là đúng pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan
điểm cho rằng trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, Tòa án
đã thực hiện đúng các quy định của thủ tục tố tụng. Việc bảo lãnh, thế chấp bằng
tài sản là nhà ở của ông Th, bà H cho nguyên đơn là đúng pháp luật, bản án sơ
thẩm tuyên bố hợp đồng thế chấp này vô hiệu là không đúng, đề nghị Tòa án
chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn về việc xử lý tài sản thế chấp này để thu
hồi nợ.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và kết quả tranh luận của các đương sự, của những người bảo vệ
quyền lợi cho đương sự;
Sau khi nghe phát biểu của đại diện Viện kiểm sát;
Sau khi nghị án,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Ngày 04/5/2017, V- Chi nhánh M đã nộp đơn kháng cáo phần xử lý tài
sản thế chấp là căn nhà số 485/4 NK, Phường C, quận P và một phần của ½ căn
nhà số 483 NK, Phường C, quận PN của bản án sơ thẩm. Đồng thời cho rằng do
chưa nhận được bản án nên ngân hàng bảo lưu việc kháng cáo đối với những nội
dung khác của bản án khác với án đã tuyên tại phiên tòa, không đúng với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngày 28/6/2017, V- Chi nhánh M có văn bản bổ
sung kháng cáo đề nghị Tòa án sửa lại phần quyết định của bản án sơ thẩm, tách
phần tiền mà bị đơn còn nợ thành hai khoản tiền đồng Việt Nam và đô la Mỹ
cho phù hợp với các khoản cho vay và yêu cầu của nguyên đơn tại phiên tòa sơ
thẩm vì số tiền bị đơn nợ nguyên đơn gồm 2 khoản là tiền đồng Việt Nam và đô
la Mỹ. Theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đơn
kháng cáo của V- Chi nhánh M là hợp lệ, đúng quy định của thủ tục tố tụng.
Sau khi xét xử sơ thẩm chỉ có nguyên đơn kháng cáo một phần bản án sơ
thẩm, các đương sự khác không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị.
Theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án cấp
phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm có kháng cáo hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo.
Xét: Vào thời điểm xét xử sơ thẩm, tổng số tiền bị đơn còn nợ đến ngày
19/4/2017 gồm khoản vay bằng tiền đồng Việt Nam và khoản vay bằng đô la
Mỹ được quy đổi thành tiền Việt Nam với tỷ giá 22.235đ/USD. Cụ thể số nợ
gốc là: 48.948.835.992đ; Lãi trong hạn: 34.083.316.481đ; Lãi quá hạn:
14.793.182.876đ; Tổng cộng là: 97.825.335.349đ, trong đó:

91
Khoản nợ bằng tiền đồng Việt Nam là: 77.529.895.724đ, gồm nợ gốc
35.578.708.142đ ; Lãi trong hạn: 29.441.907.642đ ; Lãi quá hạn:
12.509.279.939đ.
Khoản nợ bằng USD là: 912.769,94 USD, gồm nợ gốc: 601.310 USD; Lãi
trong hạn: 208.743,37USD; Lãi quá hạn: 102.716,57USD.
Không có căn cứ để cho rằng các hợp đồng tín dụng giữa hai bên có vi
phạm pháp luật, trái với đạo đức xã hội hoặc thuộc trường hợp phải được Hội
đồng quản trị của Công ty T đồng ý. Việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải
trả nợ là đúng nhưng phần quyết định về số nợ phải thanh toán không ghi rõ
trong tổng số nợ có khoản nợ bằng ngoại tệ được quy đổi thành tiền Việt Nam là
chưa đầy đủ, kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu xác định cụ thể trong bản án số
nợ bằng tiền đồng Việt Nam và số nợ bằng ngoại tệ cho phù hợp với thỏa thuận
và giao dịch của hai bên là có căn cứ.
Xét: Để bảo đảm việc thanh toán số tiền đã vay và tiền lãi phát sinh của
Hợp đồng tín dụng số 11.09.1063/HĐTD ngày 06/5/2011, ngày 20/5/2011 V-
Chi nhánh M, Công ty T, ông Trần Tiến Th và bà Nguyễn Thị Mai H đã ký Hợp
đồng thế chấp số 01/11.09.1063/HĐTC thế chấp cho V- Chi nhánh M căn nhà số
485/4 NK và một phần của ½ căn nhà số 483 NK thuộc sở hữu của ông Th và bà
H. Giao dịch bảo đảm này đã được đăng ký tại Phòng Tài nguyên và Môi trường
quận P ngày 27/5/2011 đúng với quy định tại Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài
Nguyên và Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền
sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Theo quy định tại Tiểu mục 8.1 Mục 8
Phần II của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT thì “Hợp đồng
thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký”.
Không có căn cứ để cho rằng Hợp đồng thế chấp số 01/11.09.1063/HĐTC thuộc
trường hợp bị vô hiệu hoặc phải bị hủy bỏ.
Vào thời điểm các bên giao kết hợp đồng, theo Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh và đăng ký thuế số 0301952274 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành
phố Hồ Chí Minh cấp thì đại diện theo pháp luật của Công ty T là bà Nguyễn
Thị Mai H. Việc bà Nguyễn Thụy Minh Tâm đại diện cho Công ty T ký Hợp
đồng thế chấp số 01/11.09.1063/HĐTC bà H biết, cùng ký và có đóng dấu của
Công ty T vào phần chữ ký của người đại diện công ty trong hợp đồng, điều này
chứng minh được việc bà Tâm đại diện Công ty T để ký hợp đồng là có sự đồng
ý của người đại diện theo pháp luật của Công ty T. Đồng thời theo quy định tại
Điều 1 Nghị định số 58/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 của Chính phủ về quản lý
và sử dụng con dấu thì “Con dấu thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị
pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức”. Việc Tòa án cấp
sơ thẩm cho rằng việc ông Th, bà H dùng các tài sản nêu trên của mình thế chấp
cho V- Chi nhánh M để bảo lãnh cho việc vay tiền của Công ty T chưa được sự
thống nhất của Hội đồng quản trị của Công ty T là chưa đúng quy định, trình tự,
thủ tục cho vay, từ đó tuyên bố vô hiệu và hủy bỏ Hợp đồng thế chấp số

92
01/11.09.1063/HĐTC là không đúng với quy định của pháp luật nên cần sửa lại
cho chính xác.
Xét: Trong tổng số tiền mà Công ty T còn nợ V- Chi nhánh M tính đến
ngày 19/4/2017 gồm tiền Việt Nam và USD đã quy đổi thành tiền Việt Nam là
97.825.335.349đ, thì số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số
11.09.1063/HĐTD là 80.216.211.922đ, trong đó số nợ gốc là 40.351.110.992đ,
số còn lại là tiền lãi. Tuy nhiên, theo thỏa thuận của các bên tại Hợp đồng thế
chấp số 01/11.09.1063/HĐTC giới hạn bảo lãnh bằng 2 tài sản nêu trên của ông
Th, bà H không vượt quá giá trị tối đa của tài sản và nằm trong hạn mức cho vay
tối đa là 11.300.000.000đ. Do đó, giới hạn bảo lãnh bằng 2 tài sản nêu trên của
ông Th, bà H không thể vượt quá số nợ gốc là 11.300.000.000đ và tiền lãi phát
sinh của số nợ gốc này.
Trong tổng số nợ gốc của Hợp đồng tín dụng số 11.09.1063/HĐTD gồm
tiền Việt Nam và USD đã quy đổi ra tiền Việt Nam là 40.351.110.992đ, thì số
tiền lãi phát sinh tương ứng đến ngày 19/4/2017 là 39.945.100.932đ. Do vậy,
với số nợ gốc là 11.300.000.000đ thì số tiền lãi phát sinh tương ứng đến ngày
19/4/2017 là:
11.300.000.000đ x 39.945.100.932đ : 40.351.110.992đ
=11.186.300.190đ
Tổng số nợ gốc và lãi thuộc phạm vi bảo lãnh theo hợp đồng thế chấp đến
ngày 19/4/2017 là:
11.300.000.000đ + 11.186.300.190đ = 22.486.300.190đ
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 309; Điều 313 và Khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015;
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 29 Nghị quyết số 326 /2016/NQ-UBTVQH14
của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án,
Chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (Chi nhánh
M, Thành phố Hồ Chí Minh), xử:
Sửa một phần bản án sơ thẩm phần xác định số tiền Công ty Cổ phần
Nhựa T phải thanh toán trả Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (Chi nhánh M,
Thành phố Hồ Chí Minh) và phần xử lý đối với tài sản thế chấp là căn nhà số
485/4 NK và một phần của ½ căn nhà số 483 NK, Phường C, quận P, Thành phố
Hồ Chí Minh như sau:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần C
(Chi nhánh M, Thành phố Hồ Chí Minh); buộc Công ty Cổ phần Nhựa T
phải thanh toán trả Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (Chi nhánh M, Thành

93
phố Hồ Chí Minh) các khoản tiền sau bằng tiền đồng Việt Nam theo tỷ giá
của Ngân hàng Thương mại Cổ phần C công bố tại thời điểm thanh toán:
1) Khoản nợ bằng tiền đồng Việt Nam là: 77.529.895.724đ (bảy mươi bảy
tỷ năm trăm hai mươi chín triệu tám trăm chín mươi lăm nghìn bảy trăm hai
mươi tư đồng), gồm:
- Nợ gốc 35.578.708.142đ (ba mươi lăm tỷ năm trăm bảy mươi tám triệu
bảy trăm lẻ tám nghìn một trăm bốn mươi hai đồng);
- Lãi trong hạn và quá hạn đến ngày 19/4/2017: 41.951.187.581đ (bốn
mươi mốt tỷ chín trăm năm mươi mốt triệu một trăm tám mươi bảy nghìn năm
trăm tám mươi mốt đồng).
2) Khoản nợ bằng USD là: 912.769,94USD, gồm:
- Nợ gốc: 601.310 USD (sáu trăm lẻ một nghìn ba trăm mười đô la Mỹ);
- Lãi trong hạn và quá hạn đến ngày 19/4/2017: 311.459,94USD
Tổng số tiền Việt Nam và đô la Mỹ quy đổi theo tỷ giá thời điểm xét xử
sơ thẩm là 97.825.335.349đ (chín mươi bảy tỷ tám trăm hai mươi lăm triệu ba
trăm ba mươi lăm nghìn ba trăm bốn mươi chín đồng), trong đó nợ gốc là
48.948.835.992đ, lãi trong hạn là 34.083.316.481đ, lãi quá hạn là
14.793.182.876đ.
3) Khoản tiền lãi phát sinh tương ứng với số nợ gốc chưa thanh toán từ
ngày 20/4/2017 theo thỏa thuận tại các hợp đồng tín dụng số 10.09.1082/HĐTD
ngày 27/4/2010; số 10.09.1136/HĐTD ngày 03/8/2010; số 11.09.1063/HĐTD
ngày 06/5/2011; các hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng và các phụ
lục cho đến khi thanh toán xong số nợ gốc.
Quá hạn mà Công ty Cổ phần Nhựa T chưa thanh toán xong số nợ gốc và
tiền lãi nêu trên thì ngoài quyền yêu cầu phát mãi các tài sản thế chấp như quyết
định tại bản án sơ thẩm, Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (Chi nhánh M,
Thành phố Hồ Chí Minh) còn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm
quyền phát mãi căn nhà số 485/4 NK và một phần của ½ căn nhà số 483 NK,
Phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh để thu hồi số nợ gốc và lãi trong
phạm vi bảo lãnh đối với khoản vay của Hợp đồng tín dụng số
11.09.1063/HĐTD ngày 06/5/2011 tính đến ngày 19/4/2017 là 22.486.300.190đ
(gồm 11.300.000.000đ nợ gốc và 11.186.300.190đ lãi) và tiền lãi phát sinh theo
thỏa thuận của hợp đồng trên số nợ gốc 11.300.000.000đ tương ứng với thời
gian chậm thanh toán số nợ gốc này từ ngày 20/4/2017 đến ngày thực thanh
toán.
Trường hợp không cần phát mãi căn nhà số 485/4 NK và một phần của ½
căn nhà số 483 NK, Phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh mà vẫn thu hồi
hết số tiền thuộc phạm vi bảo lãnh, Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (Chi
nhánh M, Thành phố Hồ Chí Minh) có trách nhiệm trả lại ông Trần Tiến Th và
bà Nguyễn Thị Mai H bản chính các giấy tờ:

94
- Giấy phép mua bán, chuyển dịch nhà cửa số 2072/GP-UBDV do Ủy ban
nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 09/10/1991 đối với căn nhà
số 485/4 NK, Phường C, quận P; Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước bạ
ngày 29/10/1991 và họa đồ vị trí;
- Giấy phép mua bán, chuyển dịch nhà cửa số 1538/GP-MB7 do Sở Nhà
đất Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 26/3/1990 đối với một phần của ½ căn
nhà số 483 NK, Phường C, quận PN; Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước
bạ ngày 27/02/1992 và bản đồ hiện trạng vị trí.
Hoàn trả Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (Chi nhánh M, Thành phố
Hồ Chí Minh) số tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số
0006553 ngày 08/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C là 2.000.000đ
(hai triệu đồng).
Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có
hiệu lực pháp luật và không thuộc phạm vi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm.
Người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận về
thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời
hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Bản án này có hiệu lực pháp luật ngay.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Tòa án nhân dân Cấp cao tại Tp.HCM;
- Viện kiểm sát nhân dân Tp.HCM;
- Tòa án nhân dân huyện C
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện C
- Các đương sự (để thi hành);
- Lưu.
Đỗ Khắc Tuấn

95
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN N Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH NINH BÌNH
Bản án số: 02/2017/DS-ST
Ngày 11/8/2017
“V/v: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Ngọc Bình.
Các Hội thẩm nhân dân: 1/ Ông Tạ Khắc Nghĩa
2/ Ông Lưu Danh Sử
- Thư ký phiên toà: Ông Bùi Quang Trung, Thư ký Toà án nhân dân
huyện N, tỉnh Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình tham gia
phiên tòa: Bà Bùi Thị Thu Mùi, Kiểm sát viên.
Hôm nay, ngày 11 tháng 8 năm 2017 tại Phân trại số 2, Trại giam N, Tổng
cục VIII - Bộ Công an; Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số
18/2017/TLST-DS ngày 09 tháng 5 năm 2017 về việc "Tranh chấp về hợp đồng
vay tài sản" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2017/QĐXX-ST ngày 10
tháng 7 năm 2017 và quyết định hoãn phiên tòa số 03/2017/QĐST-DS ngày
25/7/2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: anh Nguyễn Đức N, sinh năm 1964; Địa chỉ: phố T, thị
trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Đức N: chị Nguyễn Thị
Bích H, sinh năm 1974; Địa chỉ: phố B, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình,
(Văn bản ủy quyền ngày 28/6/2017).
2. Bị đơn: chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1972; Địa chỉ: thôn P, xã Đ
huyện N, tỉnh Ninh Bình; (Hiện chị H1 đang chấp hành án tại phân trại số 3,
Trại giam N, Tổng cục VIII - Bộ Công an).
Tại phiên tòa: Chị H, chị H1 có mặt; Anh N vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện đề ngày 24/4/2017, bản tự khai ngày 08/6/2017 của
nguyên đơn anh Nguyễn Đức N và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền
của anh N là chị Nguyễn Thị Bích H trình bày: Ngày 15/7/2015 anh Nguyễn
Đức N và chị Nguyễn Thị H1 có ký hợp đồng vay nợ với nội dụng anh N cho
chị H1 vay số tiền 29.200 USD (Hai mươi chín nghìn hai trăm đô la Mỹ) và
270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu Việt nam đồng), thời hạn thanh toán

1
96
ngày 30/12/2015, lãi suất theo thỏa thuận là 1%. Hết thời hạn thanh toán, anh N
đã nhiều lần yêu cầu chị H1 thanh toán số tiền trên nhưng chị H1 chưa trả nợ
cho anh.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh N, người đại diện theo ủy
quyền của anh N là chị H không yêu cầu chị H1 phải trả lãi đối với số tiền
29.200 USD vì các đương sự không biết giao dịch này là trái pháp luật và vẫn
giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết buộc chị H1 phải trả cho anh N số
tiền là: 29.200 USD qui đổi ra tiền Việt nam đồng là 642.400.000đ và
270.000.000đ. Tổng cộng là (642.400.000đ + 270.000.000đ) = 912.400.000đ; và
tiền lãi suất của số tiền 270.000.000đ (Việt nam đồng) theo thỏa thuận là 1% từ
ngày 15/7/2015 đến nay, được trừ đi 43.000.000đ (Việt nam đồng) tiền lãi chị H1
đã thanh toán.
- Tại biên bản lấy lời khai ngày 22/6/2017 và tại phiên toà bị đơn chị
Nguyễn Thị H1 trình bày: Chị thừa nhận ngày 15/7/2015, chị có ký hợp đồng
vay tài sản với anh Nguyên Đức N; vay của anh N số tiền 29.200 USD (Hai
mươi chín nghìn hai trăm đô la Mỹ) và 270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu
Việt nam đồng), thời hạn thanh toán ngày 30/12/2015 thỏa thuận lãi suất là 1%.
Nhưng thực tế số tiền tôi vay anh N chỉ có 24.500 USD (Hai mươi bốn nghìn
năm trăm đô la Mỹ) trước thời điểm đó; nhưng do làm ăn thua lỗ tôi không trả
được cho anh N; vì vậy đến ngày 15/7/2015 anh N đã cộng dồn cả gốc và lãi vào
mới thành số tiền trên; nay quan điểm của tôi xin trả cho anh N số tiền thực là
29.200 USD còn số tiền 270.000.000đ tôi xin anh N, đề nghị Tòa án nhân dân
huyện N xem xét.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N có quan điểm:
+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án,
Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Thẩm quyền thụ lý đúng qui định tại khoản 3 Điề u 26; Điều 35; Điều 39
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS).
Việc xác định tư cách tham gia tố tụng đúng qui định tại Điều 68
BLTTDS.
Việc xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ đúng qui định tại
các điều từ 93 đến 97 BLTTDS.
Trình tự thụ lý, giao nhận thông báo thụ lý cho VKS và cho các đương sự
đúng qui định tại Điều 195, Điều 196 BLTTDS.
Thời hạn xét xử thực hiện đúng qui định tại Điều 203 BLTTDS.
Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các qui định của BLTTDS về việc xét
xử sơ thẩm vụ án.

2
97
+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự
trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án.
Đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo
qui định của pháp luật.
+ Về đường lối giải quyết: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố một phần
hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm đối với số tiền 29.200 USD đồng thời
giải quyết hậu quả pháp lý của phần giao dịch bị vô hiệu; chấp nhận một phần
yều cầu khởi kiện của anh N buộc chị H1 phải trả cho anh N số tiền
270.000.000đ và lãi suất theo thỏa thuận là 1% từ ngày 15/7/2015 đến nay.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà và kết quả tranh luận tại phiên toà, xét thấy:
1. Về tố tụng:
- Về người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Đức N: Theo văn bản
ủy quyền của anh N lập ngày 28/6/2017 là phù hợp.
- Về sự vắng mặt của các đương sự: Anh N vắng mặt nhưng có người đại
diện theo ủy quyền có mặt, vì vậy căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự
Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt Anh N.
- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vu ̣ án “Tranh chấ p về hợp đồng
dân sự” theo khoản 3 Điề u 26 của Bộ luật tố tụng dân sự vu ̣ án thuô ̣c thẩ m
quyề n giải quyế t của Tòa án.
2. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: căn cứ điểm c khoản 1 Điều
688 Điều khoản chuyển tiếp của Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 (BLDS năm
2015), vì vậy cần áp dụng qui định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 (BLDS
năm 2005) và các văn bản qui phạm pháp luật qui định chi tiết BLDS năm 2005
để giải quyết.
3. Về nội dung:
- Xét thấy, quá trình thu thập tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa các đương
sự đều thừa nhận ngày 15/7/2015, giữa anh N và chị H1 có ký hợp đồng vay tài
sản với nội dung chị H1 vay của anh N số tiền 29.200 USD (Hai mươi chín
nghìn hai trăm đô la Mỹ) và 270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu Việt nam
đồng) và có thỏa thuận về lãi suất theo lãi suất Ngân hàng tại thời điểm đó là
1%/tháng; Chị H1 cho rằng thực tế số tiền chị vay anh N chỉ có 24.500 USD
(Hai mươi bốn nghìn năm trăm đô la Mỹ) trước thời điểm đó; nhưng do làm ăn
thua lỗ chị không trả được cho anh N; vì vậy đến ngày 15/7/2015 anh N đã cộng
dồn cả gốc và lãi vào mới thành số tiền trên; Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa chị H1 không đưa ra được tài liệu chứng cứ nào để chứng
minh về số tiền chị vay anh N là 24.500 USD; do đo, đề nghị của chị H1 không
được chấp nhận.
3
98
- Về nội dung hợp đồng:
+ Đối với khoản tiền 29.200 USD (Hai mươi chín nghìn hai trăm đô la
Mỹ) là giao dịch bằng ngoại tệ: Do đó, các giao dịch giữa các cá nhân về việc
vay ngoại tệ trên lãnh thổ Việt nam là trái với quy định tại Điều 22 pháp lệnh
ngoại hối vì hai bên không thuộc đối tượng được phép sử dụng ngoại tệ trong
giao dịch dân sự. Vì vậy, giao dịch ngày 15/7/2015 giữa anh N và chị H1 bị vô
hiệu một phần do vi phạm điều cấm của pháp luật được quy định tại Điều 128 và
Điều 135 của BLDS năm 2005.
Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu theo qui định tại Điều
137 của BLDS năm 2005; Cần buộc chị H1 phải hoàn trả cho anh N số tiền
29.200 USD (Hai mươi chín nghìn hai trăm đô la Mỹ) được quy đổi thành tiền
đồng Việt nam theo tỉ giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời
điểm thi hành án.
Về lỗi làm cho giao dịch dân sự bị vô hiệu một phần: anh N là người cho chị
H1 vay số tiền 29.200 USD mặc dù các đương sự không biết qui định giữa các cá
nhân về việc vay ngoại tệ trên lãnh thổ Việt nam là trái; Tuy nhiện, anh N là
người có tiền ngoại tệ cho vay vì vậy buộc anh N phải biết các qui định về việc
vay ngoại tệ trên lãnh thổ Việt nam. Do đó, cần xác định lỗi hoàn toàn thuộc về anh
N.
+ Đối với khoản tiền 270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu Việt nam
đồng) đây là hợp đồng vay có kỳ hạn và có thỏa thuận lãi theo qui định tại Điều
478 BLDS năm 2005; trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự không đưa
ra được tài liệu chứng minh về việc thanh toán tiền gốc; do đó cần chấp nhận
yêu cầu của anh N buộc chị H1 phải có nghĩa vụ trả cho anh N số tiền gốc là
270.000.000đ.
+ Về lãi suất: mặc dù trong hợp đồng ngày 15/7/2015 các đương sự không
qui định về lãi suất nhưng có thỏa thuận về lãi suất là 1%; từ ngày 01/01/2016
hết kỳ hạn bên vay vẫn chưa trả được số tiền theo hợp đồng, các đương sự
không có tranh chấp về lãi; anh N đề nghị tính lãi là 1% là phù hợp với qui định
tại Điều 476 của BLDS năm 2005 cần được chấp nhận; tại giấy xác nhận ngày
22/6/2017 anh N và chị Hạnh xác nhận, trong năm 2016 chị H1 đã trả được cho
anh N số tiền lãi là 43.000.000đ (Việt nam đồng).
Số tiền lãi cụ thể như sau: Số tiền 270.000.000đ từ ngày 15/7/2015 đến
ngày xét xử 11/8/2017 là 24 tháng 26 ngày (270.000.000đ x 24 tháng 26 ngày x
1%) = 67.140.000đ. Chị H1 đã trả được cho anh N số tiền lãi là 43.000.000đ
(Việt nam đồng); vì vậy số tiền lãi chị H1 còn phải thanh toán cho anh N là
(67.140.000đ - 43.000.000đ) = 24.140.000đ;
Tổng cộng số tiền gốc và lãi cần buộc chị H1 phải trả cho anh N là
(270.000.000đ + 24.140.000đ) = 294.140.000đ (Hai trăm chín mươi bốn triệu một
trăm bốn mươi nghìn đồng).
4
99
- Về án phí dân sự:
+ Phần giao dịch dân sự bị Hội đồng xét xử tuyên vô hiệu anh N phải chịu
án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch là 300.000đ.
+ Chị H1 phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho anh N được Tòa án chấp
nhận là 294.140.000đ x 5% = 14.707.000đ.
- Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo qui định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ các điề u 26, 147 và 227 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng các điều 128, 135, 137, 476, 478 và 305 của Bộ luật dân sự 2005;
Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối; Điều 27 của nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
qui định về mức thu án phí Tòa án.
1. Tuyên bố một phần giao dịch ngày 15/7/2015 giữa anh Nguyễn Đức N
và chị Nguyễn Thị H1 bị vô hiệu, buộc chị H1 phải hoàn trả cho anh N số tiền
29.200 USD (Hai mươi chín nghìn hai trăm đô la Mỹ) được quy đổi thành tiền
đồng Việt nam theo tỉ giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời
điểm thi hành án.
2. Chấp nhận một phần một phần yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Đức
N; Buộc chị Nguyễn Thị H1 phải có nghĩa vụ trả nợ cho anh N số tiền gốc và lãi
tính đến ngày 11/8/2017 là 294.140.000đ (Hai trăm chín mươi bốn triệu một
trăm bốn mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền mà chị H1 phải
thi hành cho đến khi thi hành xong hàng tháng chị H1 còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
3.1. Anh Nguyễn Đức N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng); được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 12.240.000đ (Mười hai triệu hai trăm bốn mươi
nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2013/0000475 ngày
05/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện N. Anh N được hoàn lại số tiền là
11.940.000đ (Mười một triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng) theo biên lai trên.
3.2. Chị Nguyễn Thị H1 phải chịu 14.707.000đ (Mười bốn triệu bảy trăm
linh bảy nghìn đồng).
Anh N, chị H1 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi

5
100
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận: Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
- Các đương sự; (Đã ký)
- TAND tỉnh Ninh Bình;
- VKSND huyện N; Nguyễn Ngọc Bình
- THADS huyện N;
- Lưu hồ sơ vụ án.

6
101
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số:19/2017/KDTM-PT
Ngày 17-8-2017
V/v tranh chấp hợp đồng tín dung

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Hữu Chế
Các Thẩm phán : Bà Vũ Thị Thu Hà
Ông Nguyễn Văn Dương
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Ông Lương Khánh Sơn - Thẩm tra
viên Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa:
Bà Ngô Kiều Dâng - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng,
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số số 02/2017/TLPT-KDTM ngày 16
tháng 02 năm 2017 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Do Bản án số 03/2016/KDTM-ST ngày 25/11/2016 của Tòa án nhân dân
quận Hải An, Hải Phòng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 289/2017/QĐ - PT ngày 09 tháng 5 năm
2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng;
Địa chỉ: Số 191 Bà Triệu, phường Lê Đại Hành, Quận Hai Bà Trưng, Thành
phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hồ Hùng Anh - Chủ tịch Hội đồng quản
trị. Vắng mặt
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Việt Phương - Chuyên viên phòng xử
lý nợ; có mặt
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần XD A.
Địa chỉ: Số 8 ngõ 76 đường Ngô Gia Tự, phường Cát Bi, quận Hải An,
thành phố Hải Phòng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Mạnh Hùng - Giám đốc.
Trú tại: Số 42/280 Lê Lợi, Phường Lê Lợi, Quận Ngô Quyền, thành phố Hải
Phòng. Vắng mặt
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Vân, sinh năm 1985. Chức
vụ: Kế toán công ty; vắng mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn Hoàng, sinh
năm 1954 (đã chết) và bà Phạm Thị Mùi, sinh năm 1955; anh Nguyễn Văn Hoài,
sinh năm 1975 (đại diện ủy quyền cho ông Hoàng, bà Mùi); anh Nguyễn Hoài
Giang, sinh năm 1980; chị Nguyễn Hoài Hương, sinh năm 1978.

102
Cùng trú tại: Số 343 Tô Hiệu, Phường Trần Nguyên Hãn, Quận Lê Chân,
thành phố Hải Phòng;
Bà Mùi, anh Hoài, anh Giang, chị Hương đều vắng mặt tại phiên tòa
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm
1951 và bà Trần D, sinh năm 1952. Trú tại: Số nhà 95 ngõ 5 tổ 1, Văn Quán,
phường Hà Đông, Thành phố Hà Nội. Ông H và bà D đều vắng mặt tại phiên tòa
Người đại diện theo ủy quyền của ông H và bà D: Ông Bùi An, sinh năm
1975. Trú tại: Tổ 19, phường Ngọc Thụy, quận Long Biên, thành phố Hà Nội; Có
mặt
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thúy Anh, sinh năm
1970 và ông Nguyễn Hữu Hùng, sinh năm 1970. Trú tại: Số 36B, tổ 79 Bạch
Đằng, phường Chương Dương, Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; Bà Anh, ông
Hùng đều vắng mặt tại phiên tòa
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Long, sinh năm
1976. Trú tại: Số 24 tổ 34, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, thành phố
Hà Nội. vắng mặt
3. Do có kháng cáo của ông Nguyễn Văn H và bà Trần D
NHẬN THẤY:
Trong đơn khởi kiện ngày 23 tháng 9 năm 2013 và các văn bản khác trong
quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngân hàng (sau đây gọi là Ngân hàng Techcombank) và Công ty Cổ phần XD
A (sau đây gọi là Công ty Đức Phát) đã ký Hợp đồng tín dụng số
504/HDDHMTD/TCB-SGO ngày 05 tháng 03 năm 2012 về việc cung cấp hạn
mức tín dụng. Theo đó, Ngân hàng Techcombank đồng ý cung cấp hạn mức tín
dụng cho bên vay Công ty Đức Phát với số tiền là 50,000,000,000 VNĐ; Cấp hạn
mức bảo lãnh với số tiền là 25,000,000,000 VNĐ với thời hạn cung cấp hạn mức
tín dụng, hạn mức bảo lãnh là 12 tháng (từ 05/3/2012 đến ngày 05/3/2013). Thời
hạn thanh toán tối đa cho các khoản vay trong hạn mức không vượt quá 08 tháng,
mức lãi xuất được tính theo từng lần giải ngân. Trên cơ sở đó, Ngân hàng
Techcombank đã tiến hành giải ngân cho Công ty Đức Phát vay theo các khế ước
nhận nợ và cam kết trả nợ cụ thể như sau:
Lãi
STT KUNN Ngày giải ngân Ngày đến hạn Số tiền giải ngân ĐVT
xuất
1 79655 06/03/2012 06/10/2012 8.2 198,050 USD
2 79838 06/04/2012 06/12/2012 8.2 110,500 USD
3 79891 14/04/2012 14/12/2012 8.2 199,750 EUR
4 80021 09/05/2012 09/01/2013 8.2 118, 800 USD
5 80136 24/05/2012 24/11/2012 8.2 251,370,000 VNĐ
6 80157 04/06/2012 04/12/2012 8.2 251,370,000 VNĐ
7 80197 06/06/2012 06/12/2012 17.8 1,508,220,000 VNĐ
8 80332 06/07/2012 07/11/2012 17 2,010, 960,000 VNĐ
9 80529 25/07/2012 25/11/2012 16 6,032, 880,000 VNĐ
10 80586 13/08/2012 13/12/2012 16 2,010, 960,000 VNĐ
11 80596 27/09/2012 27/5/2013 15 2, 902,515,000 VNĐ

103
Như vậy, Ngân hàng Techcombank đã giải ngân cho công ty Đức Phát vay
với tổng số tiền là:
1.Tiền ngoại tệ: 412,611 USD và 199,750 EUR;
2.Tiền Việt Nam: 12,957,315,000 VNĐ;
(Quy đổi theo tỷ giá tính đến ngày 19/8/2013 tại thời điểm ngân hàng khởi
kiện nợ gốc là 27,335,045,390 VNĐ; nợ lãi là 2,711,208,242 VNĐ; Tổng nợ gốc
và lãi là 29,929,006,450 VNĐ);
Để bảo đảm cho khoản vay nói trên, Công ty Đức Phát đã thực hiện việc thế
chấp các tài sản là động sản và bất động sản như sau:
-Xe ô tô THACO loại Huyndai HB 120s (số khung: RNHB47SAKCC092734,
số máy: D6CAC225456) theo hợp đồng thế chấp tài sản hàng hóa số 11082012-
ĐP/HĐTC-DS/TCB và kèm phụ lục số 01 về việc thay đổi thế chấp là hàng hóa
ngày 11/08/2012 có giá trị bảo đảm nợ vay là 2,394,000,000 VNĐ;
- Tài sản hình thành trong tương lai là 01 xe ô tô Mercedes Benz GL550 4
Matic; số khung: 4JGBF8GE9CA777987, sản xuất năm 2011 nhập khẩu từ Mỹ
theo hợp đồng ngoại thương số 2802.2012/DUCPHAT ngày 28/02/2012, theo hợp
đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai số 79388/HĐTC-TSTL/TCB ngày
06/4/2012 có giá trị có giá trị bảo đảm nợ vay là 2,650,000,000 VNĐ;
- Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi ích phát
sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 1276, tờ bản đồ số 04 tại thôn My Sơn, xã Ngũ
Lão, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo GCNQSDĐ số BG 298024,
vào sổ cấp GCNQSDĐ số CH 00381, do UBND huyện Thủy Nguyên, thành phố
Hải Phòng cấp ngày 19/01/2012 mang tên chủ sử dụng ông Phạm Mạnh Hùng theo
Hợp đồng thế chấp tài sản số 1678/HĐTC-BĐS/TCB-SGO ngày 20/5/2013 thể
hiện Ngân hàng đồng ý cấp tín dụng cho bên được bảo đảm với số tiền là
633,225,000 VNĐ; đăng ký thế chấp tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất một cấp huyện Thủy Nguyên;
- Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi ích phát
sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 663B, tờ bản đồ số 04 tại thôn My Sơn, xã Ngũ
Lão, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo GCNQSDĐ số BL 355396,
vào sổ cấp GCNQSDĐ số CH00496, do UBND huyện Thủy Nguyên, thành phố
Hải Phòng cấp ngày 26/12/2012 mang tên chủ sử dụng bà Hoàng Thị Bích Nga
theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 2535/HĐTC-BĐS/TCB-SGO ngày 17/7/2013
thể hiện Ngân hàng đồng ý cấp tín dụng cho bên được bảo đảm với số tiền là
383,400,000 VNĐ; đăng ký thế chấp tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất một cấp huyện Thủy Nguyên;
- Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi ích phát
sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 470, tờ bản đồ số 05 tại Yên Văn, Đồng Hà, tỉnh
Hà Tây(nay là quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) theo GCNQSDĐ số A 945165,
vào sổ cấp GCNQSDĐ số 01620QSĐ/HĐ, do UBND Đồng Hà, tỉnh Hà Tâycũ
(nay là quận Hà Đông , thành phố Hà Nội) cấp ngày 01/7/1993 mang tên chủ sử
dụng ông Nguyễn Văn H và bà Trần D theo Hợp đồng thế chấp tài sản số công
chứng 973.2012/HĐTC-TCB ngày 17/7/2013 tại Văn phòng Công chứng Thăng
Long, thành phố Hà Nội thể hiện Ngân hàng đồng ý cấp tín dụng cho bên được bảo

104
đảm với số tiền là 14,112,000,000 VNĐ; đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất quận Hà Đông, thành phố Hà Nội;
- Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi ích phát
sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 45 tại địa chỉ số 115 Nguyễn Tuân, phường
Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; tài sản gắn liền với đất
là nhà ở mái bê tông; 03 tầng theo GCNQSDĐ số BĐ 668774, số vào sổ cấp GCN:
CH00237 do UBND quận Thanh Xuân cấp ngày 01/02/2011 mang tên chủ sử dụng
ông Nguyễn Hữu Hùng và bà Trần Thúy Anh theo Hợp đồng thế chấp tài sản số
công chứng 226.2012/HĐTC-TCB ngày 17/7/2013 tại Văn phòng Công chứng
Thăng Long, thành phố Hà Nội thể hiện Ngân hàng đồng ý cấp tín dụng cho bên
được bảo đảm với số tiền là 5,290,200,000 VNĐ; đăng ký thế chấp tại Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội;
- Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi ích phát
sinh từ quyền sử dụng đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số C17; BK228P Sông Lấp
tại số nhà 434 Tô Hiệu, phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải
Phòng; tài sản gắn liền với đất là nhà ở mái bê tông; 02 tầng theo GCNQSDĐ số
030205NONO, hồ sơ gốc số 2665 do UBND thành phố Hải Phòng cấp ngày
21/11/2000 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Văn Hoàng (đã chết) và bà Nguyễn
Thị Mùi theo Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng 252/TC.2012 ngày
02/02/2013 tại Văn phòng Công chứng Đất Cảng, Hải Phòng thể hiện Ngân hàng
đồng ý cấp tín dụng cho bên được bảo đảm với số tiền là 2,231,600,000 VNĐ;
đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Lê Chân, thành
phố Hải Phòng;
Trong quá trình Tòa án tiến hành giải quyết vụ án, ngày 07 tháng 10 năm
2015, Tòa án nhân dân quận Hải An thành phố Hải Phòng nhận được Công văn số
7589/2015/TCB-XLN của Ngân hàng (là nguyên đơn) có nội dung Ngân hàng rút
một phần yêu cầu khởi kiện đối với Công ty Đức Phát, trong đó cụ thể không yêu
cầu Tòa án xử lý tài sản bảo đảm và rút phần nghĩa vụ bảo đảm nợ gốc, lãi tương
ứng với các khế ước nhận nợ và cam kết trả nợ cụ thể như sau:
1. Không yêu cầu Tòa án xử lý đối với tài sản bảo đảm là:
- Xe ô tô THACO loại Huyndai HB 120s (số khung:
RNHB47SAKCC092734, số máy: D6CAC225456) theo hợp đồng thế chấp tài sản
hàng hóa số 11082012, phụ lục số 01 về việc thay đổi thế chấp là hàng hóa;
- Tài sản hình thành trong tương lai là 01 xe ô tô Mercedes Benz GL550 4
Matic (số khung: 4JGBF8GE9CA777987, sản xuất năm 2011 nhập khẩu từ Mỹ
theo hợp đồng ngoại thương số 2802.2012/DUCPHAT ngày 28/02/2012, theo hợp
đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai số 79388);
- Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi ích phát
sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 663B, tờ bản đồ số 04 tại thôn My Sơn, xã Ngũ
Lão, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo GCNQSDĐ số BL 355396,
vào sổ cấp GCNQSDĐ số CH00496, do UBND huyện Thủy Nguyên, thành phố
Hải Phòng cấp ngày 26/12/2012 mang tên chủ sử dụng bà Hoàng Thị Bích Nga;
- Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi ích phát
sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 1276, tờ bản đồ số 04 tại thôn My Sơn, xã Ngũ
Lão, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo GCNQSDĐ số BG 298024,

105
vào sổ cấp GCNQSDĐ số CH 00381, do UBND huyện Thủy Nguyên, thành phố
Hải Phòng cấp ngày 19/01/2012 mang tên chủ sử dụng ông Phạm Mạnh Hùng
2. Rút nghĩa vụ bảo đảm tương ứng và toàn bộ nghĩa vụ gốc và lãi phát sinh
của các khế ước đối với các động sản, bất động sản nêu trên cụ thể:
Lãi
STT KUNN Ngày giải ngân Ngày đến hạn Số tiền giải ngân ĐVT
xuất
1 79838 06/04/2012 06/12/2012 8.2 110,500 USD
2 80136 24/05/2012 24/11/2012 8.2 251,370,000 VNĐ
3 80157 04/06/2012 04/12/2012 8.2 251,370,000 VNĐ
4 80586 13/08/2012 13/12/2012 16 2,010, 960,000 VNĐ
Sau khi rút một phần yêu cầu khởi kiện và đã giải chấp khoản nợ gốc, lãi đối
với các tài sản nêu trên. Tại phiên tòa hôm nay, quan điểm của Ngân hàng còn có
yêu cầu khởi kiện tại Tòa án cụ thể là:
1. Buộc Công ty Đức Phát phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền dư nợ theo
các khế ước và cam kết trả nợ còn lại là: 36,036,408, 860 VNĐ (trong đó bao
gồm: 21,782,638,500 VNĐ tiền nợ gốc và 14.253. 770.360 VNĐ nợ lãi trong hạn,
lãi quá hạn - tiền lãi tính đến ngày 25/11/2016 đã được quy đổi theo tỷ giá ngày
23/11/2016 là 1USD=22.550 VNĐ; 1EUR=23.536 VNĐ). Công ty Đức Phát phải
tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng tiền lãi phát sinh theo quy định tại Hợp đồng
cung cấp hạn mức tín dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO kể từ ngày 26/11/2016
cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc đã nêu.
- Rút yêu cầu Công ty Đức Phát phải trả cho Ngân hàng tiền phạt do vi phạm
Hợp đồng cung cấp hạn mức tín dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO số tiền là
434,965,875 VNĐ.
- Rút yêu cầu Công ty Đức Phát thực hiện theo đúng thỏa thuận tại Hợp
đồng tín dụng đã ký, theo đó Công ty Đức Phát phải bồi thường thiệt hại cho Ngân
hàng về chi phí luật sư, chi phí đi lại, thông tin liên lạc, sao, chụp, công chứng,
dịch thuật tài liệu, chuẩn bị tài liệu tố tụng, phí thi hành án, số tiền là 30.000.000
VNĐ.
2. Đề nghị Tòa án chấp thuận yêu cầu của Ngân hàng về việc xử lý tài sản
thế chấp để thu hồi nợ
2.1. Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án có thẩm quyền tiến hành
kê biên, phát mại toàn bộ tài sản bảo đảm cho khoản nợ nêu trên của công ty Đức Phát
để thu hồi toàn bộ khoản nợ cho Ngân hàng bao gồm:
- Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi ích phát
sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 470, tờ bản đồ số 05 tại Yên Văn, Đồng Hà, tỉnh
Hà Tây(nay là quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) theo GCNQSDĐ số A 945165,
vào sổ cấp GCNQSDĐ số 01620QSĐ/HĐ, do UBND Đồng Hà, tỉnh Hà Tâycũ
(nay là quận Hà Đông , thành phố Hà Nội) cấp ngày 01/7/1993 mang tên chủ sử
dụng ông Nguyễn Văn H và bà Trần D theo Hợp đồng thế chấp tài sản số công
chứng 973.2012/HĐTC-TCB ngày 17/7/2013 tại Văn phòng Công chứng Thăng
Long, thành phố Hà Nội thể hiện Ngân hàng đồng ý cấp tín dụng cho bên được bảo
đảm với số tiền là 14,112,000,000 VNĐ; đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất quận Hà Đông, thành phố Hà Nội;
- Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi ích phát
sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 45 ạt i địa chỉ số 115 Nguyễn Tuân, phường

106
Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; tài sản gắn liền với đất
là nhà ở mái bê tông; 03 tầng theo GCNQSDĐ số BĐ 668774, số vào sổ cấp GCN:
CH00237 do UBND quận Thanh Xuân cấp ngày 01/02/2011 mang tên chủ sử dụng
ông Nguyễn Hữu Hùng và bà Trần Thúy Anh theo Hợp đồng thế chấp tài sản số
công chứng 226.2012/HĐTC-TCB ngày 17/7/2013 tại Văn phòng Công chứng
Thăng Long, thành phố Hà Nội thể hiện Ngân hàng đồng ý cấp tín dụng cho bên
được bảo đảm với số tiền là 5,290,200,000 VNĐ; đăng ký thế chấp tại Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội;
- Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng quyền và lợi ích phát
sinh từ quyền sử dụng đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số C17; BK228P Sông Lấp
tại số nhà 434 Tô Hiệu, phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải
Phòng; tài sản gắn liền với đất là nhà ở mái bê tông; 02 tầng theo GCNQSDĐ số
030205NONO, hồ sơ gốc số 2665 do UBND thành phố Hải Phòng cấp ngày
21/11/2000 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Văn Hoàng (đã chết) và bà Nguyễn
Thị Mùi theo Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng 252/TC.2012 ngày
02/02/2013 tại Văn phòng Công chứng Đất Cảng, thành phố Hải Phòng thể hiện
Ngân hàng đồng ý cấp tín dụng cho bên được bảo đảm với số tiền là 2,231,
600,000 VNĐ; đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận
Lê Chân, thành phố Hải Phòng;
2.2. Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm được dùng
để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của công ty Đức Phát đối với Ngân hàng. Nếu số tiền
thu được từ bán/xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì công
ty Đức Phát vẫn phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ gốc, lãi cho Ngân hàng.
Trong bản tự khai ngày 05 tháng 12 năm 2013 và và các văn bản khác trong
quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay, người đại diện theo ủy
quyền của bị đơn trình bày:
Bị đơn Công ty Đức Phát xác nhận có ký Hợp đồng cung cấp hạn mức tín
dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO ngày 05/3/2012 với Ngân hàng
Techcombank. Bị đơn cũng thừa nhận hiện nay bị đơn còn nợ nguyên đơn số
tiền là 36,036,408,860 VNĐ (trong đó bao gồm: 21,782,638,500 VNĐ tiền nợ gốc
và 14,253,770,360 VNĐ nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn - tiền lãi tính đến ngày
25/11/2016 đã được quy đổi theo tỷ giá ngày 23/11/2016 là 1USD=22,550 VNĐ;
1EUR=23,536 VNĐ).
Do tình trạng hiện nay, Công ty Đức Phát đang gặp khó khăn về tài chính nên
không thể thanh toán ngay toàn bộ số tiền trên cho Ngân hàng Techcombank, tuy
nhiên Công ty Đức Phát có trách nhiệm, nghĩa vụ thanh toán thanh toán số tiền
trên. Trong trường hợp Công ty Đức Phát không thể thanh toán được toàn bộ số
tiền trên, đề nghị những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có tài sản bảo đảm
sẽ có trách nhiệm cùng thanh toán nợ gốc, lãi cho Ngân hàng Techcombank theo
các Hợp đồng bảo đảm mà họ đã ký kết.
Tại phiên tòa, quan điểm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác nhận
đúng nội dung đã trình bày trong các văn bản tại Tòa án và giữ nguyên quan điểm
đã nêu.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền cho ông Nguyễn Văn H và bà
Trần D trình bày ý kiến: Xác nhận hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm khoản nợ

107
vay cho Công ty Đức Phát là tự nguyện, đúng với thực tế, đúng chữ ký của ông H,
bà D đã thể hiện trong hợp đồng. Tuy nhiên, đề nghị Công ty Đức Phát phải có
trách nhiệm thanh toán các khoản vay cho Ngân hàng Techcombank theo quy định
của pháp luật. Đồng thời, đề nghị Tòa án xử lý trước các tài sản bảo đảm của chính
Công ty Đức Phát và các tài sản bảo đảm khác có đầy đủ hồ sơ hợp lệ theo quy
định của pháp luật. Trường hợp Công ty Đức Phát và Ngân hàng Techcombank
thiện chí hòa giải, gia đình ông Nguyễn Văn H và bà Trần D đồng ý thanh toán
một phần nghĩa vụ bảo đảm cho việc trả nợ đối với Ngân hàng Techcombank với
số tiền là 3,000,000,000 VNĐ và kèm điều kiện Ngân hàng Techcombank phải
đảm bảo trách nhiệm tiến hành làm thủ tục giải chấp tài sản cho gia đình ông H và
bà D. Trường hợp Công ty Đức Phát và Ngân hàng Techcombank không nhất trí
với thỏa thuận trên, thì gia đình ông H và bà D sẽ không đồng ý phát mại tài sản để
thực hiện nghĩa vụ bảo đảm của mình và có quan điểm yêu cầu Tòa án hủy bỏ Hợp
đồng thế chấp tài sản đã ký giữa Ngân hàng Techcombank và ông H, bà D.
Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn
Hoàng (đã chết), bà Nguyễn Thị Mùi cùng anh Nguyễn Văn Hoài, anh Nguyễn
Hoài Giang, chị Nguyễn Hoài Hương (cùng trú tại: Số 343 Tô Hiệu, phường Trần
Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng là người đại diện theo ủy quyền
và thừa kế theo pháp luật đã được Tòa án tống đạt các thủ tục tố tụng hợp lệ) vắng
mặt tại Tòa án, nhưng có quan điểm thể hiện tại các biên bản tự khai, biên bản hòa
giải thừa nhận có ký kết giao dịch bảo đảm thế chấp tài sản cho khoản vay của
Công ty Đức Phát và đã được ngân hàng Techcombank giải ngân. Nay do Công ty
Đức Phát vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên ngân hàng Techcombank khởi kiện đòi
nợ. Quan điểm người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đề nghị phía Công ty Đức
Phát có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số nợ gốc và lãi cho ngân hàng và xử lý tài
sản bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thúy Anh và ông Nguyễn
Hữu Hùng (cùng trú tại: Số 36B, tổ 79 Bạch Đằng, phường Chương Dương, quận
Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội) vắng mặt, nhưng có quan điểm thể hiện tại các
biên bản tự khai, biên bản hòa giải đều thừa nhận có ký kết giao dịch bảo đảm thế
chấp tài sản thửa đất số 45, tờ bản đồ số 05 tại địa chỉ số 115 Nguyễn Tuân,
phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; tài sản gắn liền
với đất là nhà ở mái bê tông; 03 tầng theo GCNQSDĐ số BĐ 668774, số vào sổ
cấp GCN: CH00237 do UBND quận Thanh Xuân cấp ngày 01/02/2011 mang tên
chủ sử dụng ông Nguyễn Hữu Hùng và bà Trần Thúy Anh cho khoản vay của
Công ty Đức Phát và được ngân hàng Techcombank giải ngân. Nay do Công ty
Đức Phát vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên ngân hàng Techcombank khởi kiện đòi
nợ. Quan điểm người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đề nghị phía Công ty Đức
Phát có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số nợ gốc và lãi cho ngân hàng và xử lý tài
sản bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Hoàng Long trình bày: Ông có mua diện tích đất tại thửa đất số 45, tờ bản đồ số 05
tại địa chỉ số 115 Nguyễn Tuân, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội; tài sản gắn liền với đất là nhà ở mái bê tông; 03 tầng theo
GCNQSDĐ số BĐ 668774, số vào sổ cấp GCN: CH00237 do UBND quận Thanh

108
Xuân cấp ngày 01/02/2011 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Hữu Hùng và bà
Trần Thúy Anh với giá trị 10,500,000,000 VNĐ, việc mua bán ông Long thừa
nhận chỉ được lập bằng văn bản Hợp đồng chuyển nhượng viết tay, không qua
công chứng, thời điểm mua tài sản chưa được thế chấp tại Ngân hàng Kỹ thương.
Vì vậy, ông Hoàng Long đề nghị ông Nguyễn Hữu Hùng và bà Trần Thúy Anh có
trách nhiệm làm việc với Ngân hàng Kỹ thương để giải chấp giấy tờ chuyển sang
tên cho ông. Đồng thời ông Hoàng Long cũng trình bày đã có đơn gửi các cơ quan
liên quan để giải quyết vụ việc.
Tại Quyết định của bản án số 03/2016/KDTM-ST ngày 25/11/2016 của Tòa
án nhân dân quận Hải An, Hải Phòng xử:
- Căn cứ các Điều 30, Điều 35, Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố
tụng Dân sự;
- Căn cứ các Điều 121, Điều 122, Điều 342, Điều 348, Điều 355, Điều 471,
Điều 474, Khoản 1 Điều 476 Bộ luật Dân sự;
- Căn cứ Khoản 2 Điều 91 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010;
- Căn cứ Khoản 12 Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTV-QH12 ngày
27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc án phí, lệ phí Tòa án; Tuyên
xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn:
Buộc Công ty Cổ phần XD A có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền dư nợ
theo các khế ước và cam kết trả nợ còn lại là: 36,036,408,860 VNĐ (trong đó
bao gồm: 21,782,638,500 VNĐ tiền nợ gốc và 14.253.770.360 VNĐ nợ lãi trong
hạn, lãi quá hạn - tiền lãi tính đến ngày 25/11/2016 đã được quy đổi theo tỷ giá
ngày 23/11/2016 là 1USD=22.550 VNĐ; 1EUR=23.536 VNĐ) theo Hợp đồng
cung cấp hạn mức tín dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO ngày 05/3/2012 và các
khế ước nhận nợ, kèm các cam kết trả nợ:
STT KUNN Ngày giải ngân Ngày đến hạn Lãi xuất Số tiền giải ngân ĐVT
1 79655 06/03/2012 06/10/2012 8.2 198,050 USD
2 80021 09/05/2012 09/01/2013 8.2 118, 800 USD
3 79891 14/04/2012 14/12/2012 8.2 199,750 EUR
4 80197 06/06/2012 06/12/2012 17.8 1,508,220,000 VNĐ
5 80332 06/07/2012 07/11/2012 17 2,010, 960,000 VNĐ
6 80529 25/07/2012 25/11/2012 16 6,032, 880,000 VNĐ
7 80596 27/09/2012 27/5/2013 Linh hoạt 2, 902,515,000 VNĐ
316,850 USD
Tổng nợ vay 199,750 EUR
12.454.575.000 VNĐ
Công ty Đức Phát phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng tiền lãi phát sinh
kể từ ngày 26/11/2016.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Công ty Cổ phần XD A không trả đủ
các khoản gốc, lãi trên. Ngân hàng có quyền yêu cầu các người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan thực hiện trách nhiệm tương ứng với phần bảo đảm của mình
và yêu cầu Chi cục thi hành án Dân sự có thẩm quyền kê biên, phát mại các tài sản
đã thế chấp, cụ thể là:

109
- Ông Nguyễn Văn H và bà Trần D đảm bảo cho Công ty Cổ phần XD A
phần nghĩa vụ trả nợ gốc là 14,112,000,000 VNĐ, lãi xuất là 9,053,784,814 VNĐ,
theo Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 17/7/2012 bằng quyền sử dụng đất, các tài
sản cùng quyền và lợi ích phát sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 470, tờ bản đồ số
05 tại Yên Văn, Đồng Hà, tỉnh Hà Tây(nay là quận Hà Đông, thành phố Hà Nội)
theo GCNQSDĐ số A 945165, vào sổ cấp GCNQSDĐ số 01620QSĐ/HĐ, do
UBND Đồng Hà, tỉnh Hà Tâycũ (nay là quận Hà Đông , thành phố Hà Nội) cấp
ngày 01/7/1993 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Văn H và bà Trần D.
- Ông Nguyễn Hữu Hùng và bà Trần Thúy Anh đảm bảo cho Công ty Cổ
phần XD A phần nghĩa vụ trả nợ gốc là 5,290,000,000 VNĐ, lãi xuất là
3,342,935,931 VNĐ, theo Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 15/02/2012 bằng quyền
sử dụng đất, các tài sản cùng quyền và lợi ích phát sinh từ quyền sử dụng thửa đất
số 45 tại địa chỉ số 115 Nguyễn Tuân, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội; tài sản gắn liền với đất là nhà ở mái bê tông; 03 tầng
theo GCNQSDĐ số BĐ 668774, số vào sổ cấp GCN: CH00237 do UBND quận
Thanh Xuân cấp ngày 01/02/2011 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Hữu Hùng
và bà Trần Thúy Anh.
- Ông Nguyễn Văn Hoàng (đã chết), người thừa kế nghĩa vụ là anh Nguyễn
Văn Hoài, anh Nguyễn Hoài Giang, chị Nguyễn Hoài Hương (cùng trú tại: Số 343
Tô Hiệu, phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng) và bà
Nguyễn Thị Mùi đảm bảo cho Công ty Cổ phần XD A phần nghĩa vụ trả nợ gốc là
2,231,600,000 VNĐ, lãi xuất là 1,392,889,971 VNĐ, theo Hợp đồng thế chấp tài
sản ngày 02/02/2012 bằng quyền sử dụng đất, các tài sản cùng quyền và lợi ích
phát sinh từ quyền sử dụng đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số C17; BK228P Sông
Lấp tại số nhà 434 Tô Hiệu, phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố
Hải Phòng; tài sản gắn liền với đất là nhà ở mái bê tông; 02 tầng theo GCNQSDĐ
số 030205NONO, hồ sơ gốc số 2665 do UBND thành phố Hải Phòng cấp ngày
21/11/2000 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Văn Hoàng (đã chết) và bà Nguyễn
Thị Mùi.
Kể từ ngày Ngân hàng có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty Cổ phần XD
A không tự nguyện trả số tiền trên thì hàng tháng Công ty Cổ phần XD A còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền trên số tiền gốc chưa thi hành án theo mức lãi xuất
được ghi trong hợp đồng tín dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO ngày 05/3/2012
và các khế ước nhận nợ, kèm các cam kết trả nợ quy định tương ứng với thời
gian chưa thi hành án.
Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo và phần án phí của các
đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm Ông Nguyễn Văn H và bà Trần D kháng cáo 1 phần
bản án sơ thẩm
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn Ngân hàng vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H, bà D là ông Bùi An tại phiên tòa
vẫn giữ nguyên nội dung trong đơn kháng cáo về việc thu thập chứng cứ và chứng
minh của Tòa án sơ thẩm, về áp dụng pháp luật, về vi phạm tố tụng bao gồm việc
thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, về thành phần hội đồng xét

110
xử sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm căn cứ khoản 3 Điều 308 của
Bộ luật tố tụng dân sự hủy bản án sơ thẩm số 03/2016/KDTM-ST ngày 25/11/2016
của Tòa án nhân dân quận Hải An, Hải Phòng giao hồ sơ về Tòa án sơ thẩm xét xử
lại theo thẩm quyền
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm
phán, Hội đồng xét xử, người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Về việc thu thập chứng cứ và chứng minh của Tòa án
cấp sơ thẩm: Người kháng cáo cho rằng thửa đất số 470, tờ bản đồ số 05 tại địa chỉ
Yên Văn, Đồng Hà, tỉnh Hà Tây(nay là quận Hà Đông, Hà Nội) là taì sản chung
của tất cả các thành viên trong gia đình, và việc định đoạt tài sản chung này phải
được sự đồng ý của tất cả các thành viên trong hộ gia đình. Tuy nhiên, theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số A945165, vào sổ cấp GCN QSDĐ số
01620QSDĐ/HĐ do UBND Đồng Hà, tỉnh Hà Tây(cũ) cấp ngày 01/7/1993 đã ghi
rõ đây là quyền sử dụng đất của bà Trần D chứ không phải của hộ nhà bà Trần D.
Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba ngày 07/7/2012 giữa Ngân hàng và ông
H, bà D được xác lập đúng theo quy định của pháp luật. Vì vậy, ý kiến kháng cáo
này của ông H, bà D là không có căn cứ để chấp nhận.
Về việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm: Điều 2.3 Hợp đồng thế
chấp chấp tài sản của bên thứ ba ngày 07/7/2012 giữa Ngân hàng và ông H, bà D
có quy định: “Các nghĩa vụ được bảo đảm bằng Tài sản thế chấp là nghĩa vụ trả nợ
gốc, lãi, chi phí, phạt, bồi thường thiệt hại và các nghĩa vụ khác... được ký kết giữa
Bên Được Bảo Đảm với Techcombank: - Các Hợp đồng cấp tín dụng được ký kết
trước, trong và sau ngày ký kết Hợp đồng này và các Phụ lục, văn bản, thỏa thuận
sửa đổi, bổ sung kèm theo;...”.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì: “Nghĩa vụ được bảo đảm là
một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ dân sự, có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong
tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện mà việc thực hiện nghĩa vụ đó được bảo đảm
bằng một hoặc nhiều giao dịch bảo đảm.”. Các hợp đồng cấp tín dụng đã được ký
kết trước đó nhưng Bên Được Bảo Đảm vẫn đang thực hiện nghĩa vụ thì vẫn được
coi là nghĩa vụ hiện tại nên Hợp đồng tín dụng trên hoàn toàn đúng quy định của
pháp luật. Vì vậy không có căn cứ để tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản ông H, bà
D ký kết với Techcombank là vô hiệu, ý kiến kháng cáo này của người kháng cáo
không có căn cứ để chấp nhận.
Về việc vi phạm thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm: Việc thay đổi nội
dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngày 13/7/2016, Tòa án nhân dân quận
Hải An đã ra Thông báo số 01/TB-TA về việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu
khởi kiện, theo đó nguyên đơn không yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm đối với thửa
đất số 470, tờ bản đồ số 05 tại địa chỉ Văn Quán, Văn Yên, thị xã Hà Đông, tỉnh
Hà Tây. Tổng cộng nguyên đơn đã có 04 lần nguyên đơn rút một phần yêu cầu
khởi kiện và bổ sung yêu cầu khởi kiện (Công văn số 6113/2015/TCB-XLN ngày
11/8/2015; Công văn số 7589/2015/TCB-XLN ngày 07/10/2015; Đơn xin rút một
phần yêu cầu khởi kiện lập ngày 09/6/2016; Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày

111
18/8/2016). Tuy nhiên, tại Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 18/8/2016 nguyên
đơn đã bổ sung tài sản là QSDĐ tại thửa đất trên của ông H, bà D để thu hồi nợ. Vì
vậy việc người kháng cáo cho rằng Thông báo số 01/TB-TA ngày 13/7/3016 của
TAND quận Hải An đã vi phạm thủ tục tố tụng là không có căn cứ để chấp nhận.
Về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm: Tại phiên tòa 26/10/2016, người đại
diện theo ủy quyền của ông H, bà D- ông Bùi An có yêu cầu thay đổi Thẩm phán
chủa tọa phiên tòa với lý do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã là người tiến hành tố
tụng trong vụ án này với tư cách là thư ký. Tuy nhiên vụ án được xét xử lần đầu
tiên, ông Đỗ Đức Hoàng là thư ký nhưng trong cùng một vụ án được thụ lý
19/2013/TLST-KDTM ngày 25/11/2013 chứ không phải một vụ án đã được xét xử
lại nên người kháng cáo cho rằng thẩm phán đã vi phạm quy định tại khoản 4, Điều
53 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 là không có căn cứ.
Ngoài ra, việc thay đổi Hội thẩm nhân dân đã được Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa thông báo với các đương sự và các đương sự không có ý kiến gì về việc này
nên việc thay đổi Hội thẩm nhân dân không vi phạm thủ tục tố tụng.
Vì các lẽ trên, Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS 2015 đề nghị Hội đồng xét
xử giữ nguyên bản án sơ thẩm số 03/2016/KDTM-ST ngày 25/11/2016 của Tòa án
nhân dân quận Hải An.
Trên đây là quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án KDTM
phúc thẩm thụ lý số 02/2017/TLPT-KDTM ngày 16/2/2017; đề nghị hội đồng xét
xử xem xét quyết định.
XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, quan điểm của Viện kiểm sát,
Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về quan hệ pháp luật và sự vắng mặt của đương sự: Vụ án tranh chấp về
hợp đồng tín dụng theo Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án.
Về sự vắng mặt của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Công ty Cổ phần XD A, ông Nguyễn Văn Hoàng (đã chết); bà Phạm Thị Mùi; anh
Nguyễn Văn Hoài (đại diện ủy quyền cho ông Hoàng, bà Mùi); anh Nguyễn Hoài
Giang; chị Nguyễn Hoài Hương. Bà Trần Thúy Anh và ông Nguyễn Hữu Hùng;
Ông Hoàng Long đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do.
Đối với sự vắng mặt của ông Nguyễn Văn H và bà Trần D là người kháng
cáo đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Nhưng tại phiên tòa hôm nay
có người đại diện theo ủy quyền là ông Bùi An.
Do đó Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan sẽ không ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự.
2. Xét nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Văn H và bà Trần D:
Về tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất, các tài sản gắn liền trên đất cùng
quyền và lợi ích phát sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 470, tờ bản đồ số 05 tại
Yên Văn, Đồng Hà, tỉnh Hà Tây(nay là quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) theo
GCNQSDĐ số A 945165, vào sổ cấp GCNQSDĐ số 01620QSĐ/HĐ, do UBND
Đồng Hà, tỉnh Hà Tâycũ (nay là quận Hà Đông , thành phố Hà Nội) cấp ngày
01/7/1993 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Văn H và bà Trần D theo Hợp đồng

112
thế chấp tài sản số công chứng 973.2012/HĐTC-TCB ngày 17/7/2013 tại Văn
phòng Công chứng Thăng Long, thành phố Hà Nội thể hiện Ngân hàng đồng ý cấp
tín dụng cho bên được bảo đảm với số tiền là 14,112,000,000 VNĐ; đăng ký thế
chấp tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
để bảo đảm cho bên thứ ba là Công ty Đức Phát vay vốn ngân hàng, đều đảm bảo
các điều khoản chi tiết về việc vay và cho vay, về việc mở hạn mức tín dụng, cung
cấp hạn mức tín dụng, cung cấp hạn mức bảo đảm tín dụng và đúng quy định tại
khoản 2.3 Điều 2 của các Hợp đồng thế chấp tài sản nêu trên “…..”. Mặt khác, tại
thời điểm giao kết hợp đồng, thì các Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất trên đều được thực hiện theo đúng quy định tại điểm a Khoản
1 Điều 130 Luật Đất đai năm 2003; tại điểm a mục 1 Điều 12 Nghị định 163/NĐ-
CP ngày 29/12/2006 của Chính Phủ và tại tiểu mục 2.4 mục 2 Thông tư liên tịch số
03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì: “Nghĩa vụ được bảo đảm là
một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ dân sự, có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong
tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện mà việc thực hiện nghĩa vụ đó được bảo đảm
bằng một hoặc nhiều giao dịch bảo đảm.”. Các hợp đồng cấp tín dụng đã được ký
kết trước đó nhưng Bên Được Bảo Đảm vẫn đang thực hiện nghĩa vụ thì vẫn được
coi là nghĩa vụ hiện tại nên Hợp đồng tín dụng trên hoàn toàn đúng quy định của
pháp luật. Vì vậy không có căn cứ để tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản ông H, bà
D ký kết với Techcombank là vô hiệu, ý kiến kháng cáo này của người kháng cáo
không có căn cứ để chấp nhận.
Đối với nội dung kháng cáo liên quan đến tố tụng của ông H, bà D trong quá
trình giải quyết vụ án tại Tòa án sơ thẩm.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy quyền sử dụng thửa đất số 470, tờ bản đồ
số 05 tại Yên Văn, Đồng Hà, tỉnh Hà Tây(nay là quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội) theo GCNQSDĐ số A 945165, vào sổ cấp GCNQSDĐ số 01620QSĐ/HĐ, do
UBND Đồng Hà, tỉnh Hà Tâycũ (nay là quận Hà Đông , thành phố Hà Nội) cấp
ngày 01/7/1993 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Văn H và bà Trần D do đó Tòa
án cấp sơ thẩm không đưa các con của ông H và bà D tham gia tố tụng là hoàn toàn
có căn cứ.
Đối với nội dung ông H, bà D nêu ngày 01/8/2016 Ngân hàng đã có đơn xin
rút 1 phần yêu cầu khởi kiện liên quan đến quyền sử dụng đất thửa đất số 470, tờ
bản đồ số 05 tại Yên Văn, Đồng Hà, tỉnh Hà Tây(nay là quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội) của ông H, bà D. Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy phía Ngân hàng đã có
đơn xin rút 1 phần yêu cầu khởi kiện đối với 1 số hợp đồng thế chấp khác nhưng
không rút phần yêu cầu khởi kiện đối với tài sản thế chấp của ông H, bà D trong vụ
án này. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm đưa ông, bà tham gia tố tụng với tư cách người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là hoàn toàn đúng quy định pháp luật.
Về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm có sự thay đổi người tiến hành tố
tụng tại phiên tòa không như trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa án cấp
phúc thẩm nhận thấy tại biên bản phiên tòa thể hiện Thẩm phán đã giải thích
quyền, nghĩa vụ và giới thiệu Hội đồng xét xử có sự thay đổi nhưng các bên đương

113
sự không thay đổi ai do đó Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo đúng quy định
pháp luật
Đối với người đại diện theo ủy quyền của ông H, bà D về việc áp dụng tố
tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm về việc tạm ngừng phiên tòa và việc tranh tụng
tại phiên tòa. Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ áp
dụng Điều luật tố tụng dân sự và phạm vi tranh tụng của Tòa án cấp sơ thẩm có sai
sót nhưng không làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các đương sự.
Từ phân tích trên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn
Văn H và bà Trần D đề nghị hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Hải
An. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 03/2016/KDTM-ST ngày 25/11/2016 của Tòa
án nhân dân quận Hải An, Hải Phòng.
Đối với những phần của bản án sơ thẩm, quyết định của bản án sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể
từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Về án phí: Ông Nguyễn Văn H, bà Trần D phải nộp án phí dân sự phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự:
QUYẾT ĐỊNH:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người có quyền lơi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Văn H, bà Trần D. Giữ nguyên bản án sơ thẩm 03/2016/KDTM-
ST ngày 25/11/2016 của Tòa án nhân dân quận Hải An, Hải Phòng.
Căn cứ các Điều 30, Điều 35, Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng
Dân sự; Căn cứ các Điều 121, Điều 122, Điều 342, Điều 348, Điều 355, Điều 471,
Điều 474, Khoản 1 Điều 476 Bộ luật Dân sự; Căn cứ Khoản 2 Điều 91 Luật Tổ
chức tín dụng năm 2010; Căn cứ Khoản 12 Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTV-
QH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc án phí, lệ phí Tòa
án;
Xử: Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn:
Buộc Công ty Cổ phần XD A có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền dư nợ
theo các khế ước và cam kết trả nợ còn lại là: 36,036,408,860 VNĐ (trong đó bao
gồm: 21,782,638,500 VNĐ tiền nợ gốc và 14.253.770.360 VNĐ nợ lãi trong hạn,
lãi quá hạn - tiền lãi tính đến ngày 25/11/2016 đã được quy đổi theo tỷ giá ngày
23/11/2016 là 1USD=22.550 VNĐ; 1EUR=23.536 VNĐ) theo Hợp đồng cung cấp
hạn mức tín dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO ngày 05/3/2012 và các khế ước
nhận nợ, kèm các cam kết trả nợ:
STT KUNN Ngày giải ngân Ngày đến hạn Lãi xuất Số tiền giải ngân ĐVT
1 79655 06/03/2012 06/10/2012 8.2 198,050 USD
2 80021 09/05/2012 09/01/2013 8.2 118, 800 USD
3 79891 14/04/2012 14/12/2012 8.2 199,750 EUR
4 80197 06/06/2012 06/12/2012 17.8 1,508,220,000 VNĐ
5 80332 06/07/2012 07/11/2012 17 2,010, 960,000 VNĐ
6 80529 25/07/2012 25/11/2012 16 6,032, 880,000 VNĐ
7 80596 27/09/2012 27/5/2013 Linh hoạt 2, 902,515,000 VNĐ

114
316,850 USD
Tổng nợ vay 199,750 EUR
12.454.575.000 VNĐ
Công ty Đức Phát phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng tiền lãi phát sinh
kể từ ngày 26/11/2016.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Công ty Cổ phần XD A không trả đủ
các khoản gốc, lãi trên. Ngân hàng có quyền yêu cầu các người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan thực hiện trách nhiệm tương ứng với phần bảo đảm của mình và yêu
cầu Chi cục thi hành án Dân sự có thẩm quyền kê biên, phát mại các tài sản đã thế
chấp, cụ thể là:
- Ông Nguyễn Văn H và bà Trần D đảm bảo cho Công ty Cổ phần XD A
phần nghĩa vụ trả nợ gốc là 14,112,000,000 VNĐ, lãi là 9,053,784,814 VNĐ, theo
Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 17/7/2012 bằng quyền sử dụng đất, các tài sản
cùng quyền và lợi ích phát sinh từ quyền sử dụng thửa đất số 470, tờ bản đồ số 05
tại Yên Văn, Đồng Hà, tỉnh Hà Tây(nay là quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) theo
GCNQSDĐ số A 945165, vào sổ cấp GCNQSDĐ số 01620QSĐ/HĐ, do UBND
Đồng Hà, tỉnh Hà Tâycũ (nay là quận Hà Đông , thành phố Hà Nội) cấp ngày
01/7/1993 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Văn H và bà Trần D.
- Ông Nguyễn Hữu Hùng và bà Trần Thúy Anh đảm bảo cho Công ty Cổ
phần XD A phần nghĩa vụ trả nợ gốc là 5,290,000,000 VNĐ, lãi xuất là
3,342,935,931 VNĐ, theo Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 15/02/2012 bằng quyền
sử dụng đất, các tài sản cùng quyền và lợi ích phát sinh từ quyền sử dụng thửa đất
số 45 tại địa chỉ số 115 Nguyễn Tuân, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội; tài sản gắn liền với đất là nhà ở mái bê tông; 03 tầng theo
GCNQSDĐ số BĐ 668774, số vào sổ cấp GCN: CH00237 do UBND quận Thanh
Xuân cấp ngày 01/02/2011 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Hữu Hùng và bà
Trần Thúy Anh.
- Ông Nguyễn Văn Hoàng (đã chết), người thừa kế nghĩa vụ là anh Nguyễn
Văn Hoài, anh Nguyễn Hoài Giang, chị Nguyễn Hoài Hương (cùng trú tại: Số 343
Tô Hiệu, phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng) và bà
Nguyễn Thị Mùi đảm bảo cho Công ty Cổ phần XD A phần nghĩa vụ trả nợ gốc là
2,231,600,000 VNĐ, lãi xuất là 1,392,889,971 VNĐ, theo Hợp đồng thế chấp tài
sản ngày 02/02/2012 bằng quyền sử dụng đất, các tài sản cùng quyền và lợi ích
phát sinh từ quyền sử dụng đất tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số C17; BK228P Sông
Lấp tại số nhà 434 Tô Hiệu, phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố
Hải Phòng; tài sản gắn liền với đất là nhà ở mái bê tông; 02 tầng theo GCNQSDĐ
số 030205NONO, hồ sơ gốc số 2665 do UBND thành phố Hải Phòng cấp ngày
21/11/2000 mang tên chủ sử dụng ông Nguyễn Văn Hoàng (đã chết) và bà Nguyễn
Thị Mùi.
Kể từ ngày Ngân hàng có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty Cổ phần XD
A không tự nguyện trả số tiền trên thì hàng tháng Công ty Cổ phần XD A còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền trên số tiền gốc chưa thi hành án theo mức lãi xuất
được ghi trong hợp đồng tín dụng số 504/HĐHMTD/TCB-SGO ngày 05/3/2012
và các khế ước nhận nợ, kèm các cam kết trả nợ quy định tương ứng với thời
gian chưa thi hành án.

115
- Về án phí sơ thẩm và phúc thẩm:
Ngân hàng không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
- Trả lại Ngân hàng số tiền 70.000.000 VNĐ (Bẩy mươi triệu) là tạm ứng án
phí sơ thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí ký hiệu AA/2012 số 0004027
của Chi cục thi hành án dân sự quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Công ty Cổ phần XD A phải nộp 144,036,408,860 VNĐ tiền án phí Kinh
doanh thương mại sơ thẩm.
- Ông Nguyễn Văn H và bà Trần D phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự
phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp
theo biên lai thu tiền số 0006277 ngày 29/12/2016 tại Chi cục thi hành án dân sự
quận Hải An, Hải Phòng. Ông H, bà D đã nộp đủ.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

CÁC THẨM PHÁN THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Vũ Thị Thu Hà Nguyễn Văn Dương Nguyễn Hữu Chế

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- VKSND TP Hải Phòng; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Đương sự;
- TAND quận Hải An;
- Chi cục THADS quận Hải An;
- Lưu HSVA, HCTP.

Nguyễn Hữu Chế

116
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - hạnh phúc
Bản án số: 75/2018/DS-PT
Ngày 24-4-2018
V/v “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Hoàng Tấn
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hữu Ba
Ông Phan Đức Phương
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Dung - Thư ký Toà án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên toà: Bà Phạm Thị Hồng Đào - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
18/2018/TLPT-DS ngày 31 tháng 01 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng
dịch vụ”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 1091/2017/DSST ngày 24/8/2017 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 406/2018/QĐPT-DS
ngày26 tháng 3 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Văn N, sinh năm 1963 (có mặt).
Địa chỉ: 40/8B8 TBH, Phường 11, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của ông N: Luật sư Lê Bình A, thuộc
Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Ông Võ Đại Hoài A1, sinh năm 1977
Địa chỉ: 229/23 LQĐ, phường 7, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh
Người đại diện theo ủy quyền của ông A1: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm
1993 (có mặt).
Địa chỉ: 55 LTT, phường PL, thành phố TDM, tỉnh Bình Dương.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Hoàng D (vắng mặt).
Địa chỉ: 104 Carmichael Court, Hopkinsuille, KY240, USA (Hoa Kỳ).
- Người kháng cáo: Bị đơn – Ông Võ Đại Hoài A1
117
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai của phía nguyên đơn ông Lê Văn N
trình bày:
Vào năm 2012, do có nhu cầu muốn con trai là Lê Hoàng D trở thành ca sĩ,
qua giới thiệu của bạn bè ông gặp ông Võ Đại Hoài A1 là nhạc sĩ, hai bên có ký
hợp đồng ghi là hợp đồng kinh tế năm 2012 (nhưng không ghi ngày tháng), với nội
dung:
Ông A1 thực hiện cho ông D một Album gồm 9 bài ca với nhiều thể loại,
phải đảm bảo chất lượng và quảng bá Album này trên các phương tiện thông tin
đại chúng như: Internet, báo giấy, đài phát thanh v.v.. Thời gian thực hiện là 6
tháng.
Ông N được sở hữu độc quyền liên quan đến toàn bộ Album này theo Luật
sở hữu trí tuệ, ông N có trách nhiệm bảo đảm lịch thu âm, luyện tập cho cho việc
làm album, cung cấp đầy đủ thông tin của ông Lê Hoàng D cho ông A1; ông N
phải chi trả cho ông A1 các khoản tiền sau:
Chi phí sáng tác: 1.000USD/bài x 9 bài = 9.000USD;
Chi phí hòa âm: 100USD – 150US/bài;
Thu âm và Mix: 50USD/bài;
Thực hiện in bìa, làm đĩa: 3.000 – 4.000USD/đĩa;
Chi phí quảng bá, quảng cáo.
Chi phí quản lý thực hiện: 2.000USD/tháng x 6 tháng = 12.000USD
Ông N đã giao 2 lần tiền:
Lần thứ 1: ngày 28/5/2012 số tiền 166.640.000đồng.
Lần thứ 2: 10.000USD
Tổng cộng được quy ra thành tiền Việt Nam là 396.920.000đồng
Nhận tiền xong ông A1 không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết, mà né
tránh không gặp ông N, nay ông khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng đã ký nêu trên và
buộc ông A1 trả lại cho ông số tiền đã nhận.
Tại phiên tòa sơ thẩm ông N không yêu cầu đòi số tiền 166.640.000đồng
tương đương 9.000 USD chi phí sáng tác 9 bài hát, mà chỉ đòi số tiền còn lại tương
đương 10.000USD đã giao cho ông A1 (396.920.000đồng – 166.640.000đồng =
230.280.000đồng).
Theo đơn và các văn bản của phía bị đơn ông Võ Đại Hoài A1 do bà
Nguyễn Thị Th đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ông A1 có ký hợp đồng và nhận số tiền dịch vụ như ông N trình bày,
nhưng quá trình thực hiện hợp đồng ông A1 đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của
mình theo thỏa thuận như: Sáng tác 9 bài hát các thể loại cho ông D trình bày, tổ
chức thu âm để ra Album độc quyền cho ông D, tư vấn chiến dịch phát hành
Album và xây dựng thương hiệu, quảng bá trên phương tiện truyền thông, viết bài
giới thiệu ông Lê Hoàng D trên báo âm nhạc Việt Nam số 26/2012, cử người làm

118
trợ lý cho ông D trong hoạt động âm nhạc, ngoài ra còn giới thiệu ông D đến các
đơn vị để in bìa, in đĩa, nhưng ông D chưa thực hiện vì muốn chỉnh sửa để hoàn
thiện thêm đĩa thu âm.
Đối với việc xin giấy phép phát hành ông A1 chỉ tư vấn, hỗ trợ chứ không
có trách nhiệm thực hiện thủ tục xin giấy phép vì trong hợp đồng không quy định.
Khi thực hiện Hợp đồng ông D không bảo đảm lịch trình thu âm, tự ý bỏ
về Hoa Kỳ 4 tháng khiến việc thu âm bị kéo dài gây thiệt hại cho ông A1 trong chi
phí phòng thu, nhưng ông A1 vẫn cố thực hiện nghĩa vụ của mình, ngược lại phía
ông N không hợp tác, tự ý chấm dứt hợp đồng, nên hợp đồng giữa hai bên không
thể thực hiện tiếp được, lỗi hoàn toàn thuộc phía ông N, nên bị đơn không chấp
nhận yêu cầu của ông N.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1091/2017/DS-ST ngày 24/8/2017 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã tuyên xử:
Căn cứ Điều 26; khoản 3 Điều 35; Điều 37, Điều 147, Điều 273; khoản 5
Điều 477, Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Căn cứ Điều 122, 127, 128, 137 Bộ luật dân sự 2005.
Căn cứ Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005.
Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án và Danh mục mức án phí, lệ phí
Tòa án ban hành kèm theo Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009
của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn N.
Tuyên bố hợp đồng kinh tế giữa ông Lê Văn N, ông Lê Hoàng D với ông
Võ Đại Hoài A1 (Hợp đồng ghi không ghi ngày tháng - năm 2012) là vô hiệu.
Ông Võ Đại Hoài A1 phải hoàn trả cho ông Lê Văn N số tiền
226.950.000đồng (tương đương với 10.000USD đã nhận theo tỷ giá tại thời
điểm xét xử).
2/ Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Võ Đại Hoài A1 phải nộp 19.679.500 đồng.
Ông Lê Văn N chịu số tiền 8.332.000đồng, được khấu trừ số tiền
9.923.000đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số AH/2011/04645 ngày
26/02/2013 của Chi cục Thi hành dân sự quận Bình Thạnh, nên ông N được
hoàn lại số tiền 1.591.000đồng.
Ngoài ra, bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án,
trách nhiệm thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 01/9/2017, bà Nguyễn Thị Th là đại diện theo ủy quyền của Võ Đại
Hoài A1 có làm đơn kháng cáo nêu lý do: Bản án sơ thẩm không thỏa đáng, gây
thiệt hại quyền lợi của ông A1, đề nghị phúc xử lại bác yêu cầu khởi kiện của ông
Lê Văn N.
Ngày 08/9/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh có Quyết định kháng nghị số 49/QĐKNPT-P9, nội dung: Đề nghị phúc xử
lại theo hướng sửa án sơ thẩm để xét công sức quản lý, tư vấn của ông A1 trong

119
quá trình thực hiện hợp đồng, đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông N do
ông không yêu cầu giải quyết đối với phần tiền 166.640.000đồng tương đương
9.000USD chi phí sáng tác 9 bài hát.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Phía nguyên đơn đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Luật sư Lê Bình A bảo vệ cho ông N cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên
hợp đồng vô hiệu, buộc ông A1 trả lại số tiền đã nhận cho ông N là có cơ sở, để
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Phía bị đơn đề nghị bác đơn kiện của ông N vì theo hợp đồng thì ông A1
đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét
là chưa bảo đảm quyền lợi của ông A1, đề nghị chấp nhận kháng cáo của ông A1.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa cho rằng:
Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm, Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý giải quyết đúng trình tự,
thủ tục theo luật định, tại phiên tòa những người tham gia tố tụng cũng đã được
thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, hủy bản án sơ để
xem xét lại công sức quản lý, tư vấn của ông A1 trong quá trình thực hiện hợp
đồng, đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thủ tục kháng cáo, kháng nghị: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn
Thị Th và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh làm trong hạn luật định nên thủ tục kháng cáo, kháng
nghị hợp lệ.
[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi
kiện của phía nguyên đơn thì vụ án có quan hệ tranh chấp về “Hợp đồng dịch vụ”,
mà cụ thể là phía nguyên đơn đòi bị đơn trả lại số tiền 230.280.000đồng (tương
đương 10.000USD) chi phí quản lý, tư vấn để thực hiện Album ca nhạc theo hợp
đồng dịch vụ ghi năm 2012 (không ghi ngày tháng). Quan hệ tranh chấp trên được
pháp luật quy định tại Điều 518 Bộ luật dân sự năm 2005. Tòa án cấp sơ thẩm đã
xác định đúng quan hệ tranh chấp, giải quyết đúng thẩm quyền được pháp luật quy
định tại Điều 26, Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo của đương sự:
[3.1] Theo hợp đồng giao dịch hai bên đương sự đã ký kết có nội dung thỏa
thuận gồm 2 phần: Phần sáng tác Album 9 bài hát giá trị số tiền 166.640.000đồng
120
tương đương 9.000USD. Phần tư vấn và thực hiện chiến dịch phát hành quảng bá
Album trị giá tương đương 12.000USD.
[3.2] Đối với phần sáng tác Album 9 bài hát, tại phiên tòa sơ thẩm ông N
không yêu cầu đòi ông A1 trả lại số tiền 166.640.000đồng (tương đương
9.000USD) chi phí sáng tác 9 bài hát. Tòa án cấp sơ thẩm đã không đình chỉ giải
quyết yêu cầu này của đương sự là chưa phù hợp được pháp luật quy định tại Điều
217 Bộ luật tố tụng dân sự.
Do đó, có cơ chấp nhận phần kháng nghị này của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của
ông Lê Văn N.
[3.3] Đối với phần tư vấn và thực hiện chiến dịch phát hành quảng bá
Album, ông N đòi ông A1 trả lại số tiền 230.280.000 đồng (tương đương
10.000USD) đã nhận.
Phần này các bên đương sự đều thừa nhận ông A1 đã thực hiện gồm: Tư
vấn hướng dẫn ông D (con trai ông N) các vấn đề về phân loại ca sĩ; Vai trò và các
mối quan hệ ca sĩ, nhạc sĩ hòa âm, nhạc sĩ sáng tác, bầu show, các kênh truyền
thông; Các bước để có bản thu âm chất lượng cao, hướng dẫn trực tiếp thu âm 9
bài hát; Soạn chi tiết kế hoạch quảng bá cho ông D trên các kênh truyền thông;
Thực hiện nhiều bài viết quảng cáo, phỏng vấn, giới thiệu ông D trên Tạp chí âm
nhạc; Phân công nhân viên là ông Đoàn Mạnh T làm trợ lý cho ông D trong hoạt
động âm nhạc.
Các công đoạn đã thực hiện xong, ông N đã nhận được đĩa Maste đúng như
hợp đồng, khi chuẩn bị phát hành lên Karaohe và Đài phát thanh thì ông N yêu cầu
dừng lại, theo ông N do chưa yên tâm vì sợ có một số lỗi trong quá trình thu âm,
nên công việc phải tạm dừng không thực hiện tiếp nữa.
Như vậy có cơ sở xác định quá trình thực hiện các thỏa thuận, ông A1 có
thực hiện nghĩa vụ để hoàn thành dịch vụ đến công đoạn hoàn tất bàn giao xong
đĩa nhạc Master và chuẩn bị phát hành, việc không phát hành được là do ông N
không đồng ý tiếp tục thực hiện chứ không phải do phía ông A1 đơn phương chấm
dứt hợp đồng.
Trong nội dung thỏa thuận của hợp đồng có quy định việc thanh toán bằng
ngoại tệ USD là vi phạm pháp luật về quản lý ngoại hối, nhưng thực tế trong việc
thực hiện thỏa thuận thì các bên đã thanh toán bằng việc quy đổi ra tiền đồng Việt
Nam, nên giao dịch dân sự trên của các bên phù hợp với pháp luật, tại phiên tòa
các bên đương sự cũng không có yêu cầu đòi hủy hợp đồng do vi phạm về phương
thức thanh toán, mà chỉ tranh chấp về quá trình thực hiện.
[3.4] Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy hợp đồng và buộc ông A1 trả lại số
tiền quy đổi tại thời điểm xét xử (tương đương 10.000USD) cho ông N là chưa
xem xét đến thực tế trong việc thanh toán bằng tiền đồng Việt Nam mà các bên đã
giao dịch trước đây và chưa xem xét đến quá trình tạo ra các sản phẩm dịch vụ mà
ông A1 đã thực hiện theo thỏa thuận như các bên đã thừa nhận.
[3.5] Điều cần lưu ý là giao dịch mà các bên thỏa thuận là những sản phẩm
đặc biệt nhằm đáp ứng các nhu cầu về tinh thần, khi ký kết hợp đồng các bên đã

121
không đặt ra yêu cầu về mức độ chuẩn mực để có thể cân đong, đo đếm hoặc thẩm
định được mà chỉ thỏa thuận bằng các đầu việc theo hợp đồng; do đó có cơ sở xác
định hầu hết các danh mục công việc theo thỏa thuận ông A1 đều đã thực hiện,
việc Album không phát hành được là do lỗi của ông D bỏ về nước và ông N không
đồng ý tiếp tục thực hiện nữa.
Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
phía bị đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh, sửa án sơ thẩm; không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
[3.6] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Do vụ án dân sự thụ lý trước 01/01/2017 nên án phí được áp dụng theo
Pháp lệnh về lệ phí, án phí Tòa án năm 2009.
Do yêu cầu của ông Lê Văn N đòi lại số tiền 230.280.000đồng (tương
đương với 10.000USD) x 5% = 11.514.000đồng.
Ông Võ Đại Hoài A1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm:
Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên phía bị đơn không phải chịu án
phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng các Điều 26, 37, 147, 157, 165, 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015;
Áp dụng các Điều 122, 388, 417, 518 Bộ luật dân sự năm 2005.
Áp dụng Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án.
Áp dụng Luật Thi hành án dân sự.
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Th đại diện theo ủy
quyền của bị đơn và chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số
1091/2017/DS-ST ngày 24/8/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuyên xử:
1/ Đình chỉ yêu cầu của ông Lê Văn N về việc đòi ông Võ Hoài An trả
lại số tiền 166.640.000đồng (tương đương 9.000USD) chi phí sáng tác 9 bài hát,
theo hợp đồng dịch vụ năm 2012 (không ghi ngày tháng) ký kết giữa ông Lê Văn
N và ông Võ Đại Hoài A1.
2/ Bác yêu cầu của ông Lê Văn N về việc đòi ông Võ Đại Hoài A1 trả lại
số tiền 230.280.000đồng (tương đương 10.000USD) chi phí tư vấn và thực hiện

122
chiến dịch phát hành quảng bá Abum, theo theo hợp đồng dịch vụ năm 2012
(không ghi ngày tháng) ký kết giữa ông Lê Văn N và ông Võ Đại Hoài A1.
3/ Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Lê Văn N chịu số tiền 11.514.000đồng, được khấu trừ số tiền
9.923.000đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai thu số
AH/2011/04645 ngày 26/02/2013 của Chi cục Thi hành dân sự quận Bình
Thạnh, như vậy ông N còn phải nộp tiếp số tiền 1.591.000đồng.
4/ Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Võ Đại Hoài A1 không phải chịu, hoàn
lại cho ông Võ Đại Hoài A1 số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí kháng cáo theo
biên lai thu số AA/2017/0047689 ngày 18/9/2017 của Cục Thi hành án dân sự
Thành phố Hồ Chí Minh.
5/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSNDCC tại thành phố Hồ Chí Minh;
- TAND TP. HCM;
- VKSND TP. HCM;
- Cục THADS TP. HCM;
- Các đương sự (3);
- Lưu: VP (3), HS (2), 13b. (ÁN 09)

Lê Hoàng Tấn

123
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 22/2018/KDTM-PT
Ngày: 27 - 6 - 2018.
V/v “Tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa và đòi tiền đặt cọc”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Đức Phương;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hữu Ba;
Ông Lê Hoàng Tấn.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Dung - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Kim Đoạn - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ
lý số: 52/2017/KDTM-PT ngày 18 tháng 12 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp
đồng mua bán hàng hóa và đòi tiền đặt cọc”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 1031/2017/KDTM-ST ngày
31 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 404/2018/QĐ-PT
ngày 26 tháng 3 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hour Ch, sinh năm 1975 (vắng mặt).
Hộ chiếu: số S0005995 cấp ngày 11/4/2011
Cư trú tại: B24.St199.Sangkat, TumnubTuek.Khan-Chamkamon, Phnom
Penh, Cambodia.
Địa chỉ liên lạc: Số 15/11 đường KV, phường PT, quận TP, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Thúy V (vắng mặt).
Cư trú tại: 528/51 ĐBP, phường 11, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh
(theo hợp đồng ủy quyền số 016357 ngày 24/11/2015).

124
- Bị đơn: Ông Giang Quốc H, sinh năm 1967 (có mặt).
Cư trú tại: Số 158/B42 đường PA, phường TTH, quận TP, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Thanh Tr, sinh năm 1978 (có mặt).
Địa chỉ liên lạc: Phòng 601A Lầu 6, Tòa nhà VCCI, số 171 đường VTS,
phường 7, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh (theo văn bản ủy quyền số 06682
ngày 14/4/2016).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan: Bà Vòng Mỹ K, sinh năm
1957 (vắng mặt).
Cư trú tại: Số 158/B42 PA, phường TTH, quận TP, Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Người kháng cáo: Bị đơn, ông Giang Quốc H.

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Nguyên đơn, ông Hour Ch và người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 27/10/2014, ông Hour Ch đặt cọc 50.000USD cho ông Giang Quốc H để
mua 600 tấn muối hạt công nghiệp, tổng trị giá hợp đồng là 400.000USD. Theo
hợp đồng đặt cọc thì trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày đặt cọc, ông H phải có
hàng giao cho ông Hour Ch. Nếu không có hàng, ông H phải bồi thường số tiền
là 110.000USD. Quá thời hạn theo thỏa thuận, ông H không giao hàng, cũng
không trả lại tiền đặt cọc mặc dù ông Hour Ch đã nhiều lần yêu cầu. Vì vậy, ông
Hour Ch yêu cầu Tòa án tuyên bố giấy đặt cọc vô hiệu, buộc ông H phải trả lại
tiền đặt cọc là 50.000USD tương đương 1.130.000.000 đồng.
Bị đơn, ông Giang Quốc H và người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Năm 2014, ông và ông Hour Ch có thỏa thuận mua 600 tấn muối hạt công
nghiệp với giá 400.000USD. Ông H có nhận tiền đặt cọc của ông Hour Ch là
50.000USD. Giấy nhận cọc chỉ ghi năm 2014 (không ghi ngày tháng), có nội
dung: Trong vòng 60 ngày, ông H phải có muối hạt công nghiệp cho ông Hour
Ch, nếu không ông H phải bồi thường 100.000USD và 10.000USD tiền giấy
phép cho ông Hour Ch. Trường hợp ông H lấy biêu hàng (vận đơn) muối hạt
công nghiệp thì ông Hour Ch phải thanh toán sồ tiền mua hàng còn lại là
350.000USD. Hai bên thỏa thuận hàng hóa được nhập về Cảng Thailand nhưng
không lập thành văn bản hoặc qua email, tin nhắn, điện tín. Thực hiện hợp đồng,
ông H đã nhập về Cảng Thailand 01 container 20 feet muối hạt công nghiệp,
tương đương 25 tấn muối để chứng minh năng lực của ông H. Ngày 04/12/2014,
vận đơn hàng hóa mang số hiệu ZNZLCH140000001 về đến Cảng thành phố
Laem Chabang City, Thailand mang tên người nhận là Hour Ch. Sau khi có đơn
hàng, ông H thông báo cho ông Hour Ch biết và yêu cầu ông Hour Ch chuyển
hết số tiền còn lại là 350.000 USD cho ông H. Tuy nhiên, ông Hour Ch yêu cầu
giao vận đơn để nhận hàng trước, sau đó mới thanh toán tiền sau. Vì vậy, hai bên
phát sinh tranh chấp.

125 2
Trong quá trình thương lượng, ông H yêu cầu ông Hour Ch mở L/C (thư
tín dụng) để đảm bảo việc thanh toán và ông H sẽ tiếp tục chuyển hàng về Cảng
Thailand nhưng ông Hour Ch không đồng ý. Việc nhập khẩu một container để
chứng minh năng lực nhập khẩu là cần thiết, điều này mặc dù không thể hiện
trong giấy nhận tiền cọc, nhưng tập quán thương mại đều phải thực hiện theo
quy trình này nhằm tránh thiệt hại cho bên còn lại. Ngoài ra, việc nhận cọc để
mua hàng nhưng không thỏa thuận địa điểm và phương thức giao hàng, không
chọn lựa cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, không có địa điểm ký
hợp đồng. Trên thực tế, địa điểm nhận hàng hai bên thỏa thuận bằng lời nói là
Cảng Thailand. Vì vậy, cần xem xét thẩm quyền giải quyết tranh chấp có thuộc
Tòa án Việt Nam hay không. Ông Hour Ch không thanh toán là vi phạm nghĩa
vụ thanh toán theo thỏa thuận giữa các bên nên ông H không đồng ý yêu cầu trả
lại tiền cọc của ông Hour Ch.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Vòng Mỹ K trình bày: Bà là vợ
của ông H. Trước khi ông H đi làm ăn xa có đưa cho bà 02 giấy nhận cọc và dặn
chừng nào có người qua đặt cọc thì đưa tờ giấy này cho người đó, ông H ký vào
các giấy này hay chưa thì bà không để ý. Ông Hour Ch trước khi đến có điện
thoại cho bà hỏi địa chỉ và nói đặt cọc tiền cho ông H. Ông Hour Ch nói đưa 1 tỷ
tiền Việt Nam, gồm 2 cọc mới lấy từ ngân hàng ra, nên bà không đếm lại. Ông H
không dặn bà lấy tiền gì, chỉ nói bà nhận dùm, không nói tiền này là tiền gì. Ông
Hour Ch đưa 1 tỷ đồng tiền Việt Nam và hỏi ông H có để lại giấy gì không, bà
mới đưa 2 tờ giấy thì ông Hour Ch xem và giữ luôn 02 tờ không đưa lại 1 tờ cho
bà. Nhà số 158/B42 PA là của vợ chồng bà mua hồi nào không nhớ, nhưng là sở
hữu chung của vợ chồng. Căn nhà này trước đây có thế chấp cho Ngân hàng
TMCP Nam Á, nay đã giải chấp. Hiện nay ông H và bà chưa thế chấp căn nhà
này ở chỗ nào khác.
Ngân hàng TMCP Nam Á – Phòng giao dịch Gò Vấp trình bày: Ông H và
bà K đã thế chấp căn nhà số 158/B42 Phan Anh, phường TTH, quận TP, Thành
phố Hồ Chí Minh cho Ngân hàng TMCP Nam Á để vay 2.000.000.000 đồng
theo Hợp đồng tín dụng số 0016/2017/920 ngày 02/3/2016. Ngày 10/3/2017, ông
H đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng TMCP Nam Á-Phòng giao dịch
Gò Vấp đã trả lại toàn bộ giấy tờ tài sản bảo đảm (bản chính) cùng giấy tờ giải
chấp cho ông H.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 1031/2017/KDTM-ST ngày
31/7/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Căn cứ khoản 1, khoản 6 Điều 1 Nghị quyết 103/2015/QH13 của Quốc
hội; khoản 1 Điều 30; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều
95; Điều 108; khoản 1 điều 227; khoản 1 Điều 232; Điều 235; Điều 259; Điều
263; Điều 264; Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều
27 và Điều 306 Luật Thương mại năm 2005; Điều 1, Điều 2, Điều 6 và Điều 7
của Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005; khoản 1 Điều 6 của Nghị định
160/2006/NĐ-CP ngày 18/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh Ngoại hối; Điều 128; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2005;

126 3
Điều 48 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ quốc hội; khoản 2 Điều 27; điểm d, Mục 3,Phần I Danh mục mức án
phí, lệ phí Tòa án kèm Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án ngày 27/02.2009,
1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hour Ch:
1.1/ Tuyên bố hợp đồng mua bán muối hạt công nghiệp và nhận tiền cọc
năm 2014 giữa ông Hour Ch và ông Giang Quốc H là vô hiệu.
1.2/ Ông Giang Quốc H có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Hour Ch tiền cọc
đã nhận là 50.000USD; khi thanh toán bằng tiền đồng Việt Nam, quy đổi từ
USD ra tiền đồng Việt Nam theo tỷ giá bán ra của Vietcombank tại thời điểm
thanh toán. Thanh toán ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định lãi suất chậm thi hành án, trách
nhiệm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/8/2017, bị đơn, ông Giang Quốc H kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm.
Tại phiên tòa, ông H xác nhận có nhận 50.000USD tiền đặt cọc của ông
Hour Ch nhưng cho rằng hàng đã về cảng của Thái Lan nhưng ông Hour Ch
không nhận là có lỗi. Ông H xác nhận không cung cấp được bản chính vận đơn
chuyển muối hạt công nghiệp cho ông Hour Ch, cũng không cung cấp được
chứng cứ chứng minh ông H đã mua muối hạt để bán cho ông Hour Ch có nguồn
gốc từ Tazania. Đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Hour Ch. Đối với Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số:
153/2017/QĐ-APBPKCTT, đại diện ủy quyền của bị đơn xác nhận Hội đồng xét
xử sơ thẩm đã áp dụng quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên,
ông H đã khiếu nại và được Hội đồng xét xử giải quyết tại phiên tòa sơ thẩm.
Tuy nhiên, bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, đề nghị Tòa án
hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 153/2017/QĐ-
APBPKCTT.
Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến:
Giấy đặt cọc giữa ông H và ông Hour Ch ghi năm 2014 là có thật, nội dung thể
hiện ông H nhận 50.000USD của ông Hour Ch để mua 600 tấn muối hạt công
nghiệp, với giá 400.000USD. Các bên là cá nhân nhưng giao dịch bằng ngoại tệ,
việc thỏa thuận vi phạm nội dung và hình thức của hợp đồng nên Tòa án xác
định giao dịch trên vô hiệu là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo
của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

127 4
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng
tại phiên tòa và ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn, ông Hour Ch có quốc tịch
Campuchia yêu cầu ông Giang Quốc H, cư trú tại 158/B42 đường PA, phường
TTH, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh trả lại tiền đặt cọc theo hợp đồng mua
bán muối năm 2014 giữa các bên. Vì vậy, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh có thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 37; khoản
1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại thời điểm giao kết hợp đồng, ông Hour Ch và ông H đều thực hiện với
tư cách cá nhân và không có đăng ký kinh doanh nên đây là tranh chấp dân sự,
quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Cấp sơ thẩm xác định đây
là tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật
Tố tụng dân sự là không chính xác. Tuy nhiên, việc này không ảnh hưởng đến
quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch dân sự.
[2] Xét kháng cáo của ông Giang Quốc H, Hội đồng xét xử nhận định:
[2.1] Về giấy đặt cọc: Tại giấy đặt cọc năm 2014 (không ghi ngày, tháng),
có chữ ký của ông H và ông Hour Ch (bút lục 40) có nội dung: Ông H bán cho
ông Hour Ch 600 tấn muối hạt công nghiệp, với giá 400.000USD. Ông H đã
nhận 50.000USD tiền đặt cọc của ông Hour Ch. Tại Biên bản phiên họp công
khai chứng cứ và hòa giải ngày 04/5/2017 (bút lục 242) và Biên bản phiên tòa
ngày 16/6/2017 (bút lục 227c), đại diện ủy quyền của ông H thừa nhận: Hai bên
có ký nhận tiền cọc năm 2014, do phía nguyên đơn đã nộp trong hồ sơ. Bà Vòng
Mỹ Kín nhận 50.000USD. Ông H ký giấy trước rồi đưa cho vợ. Khi ông Hour
Ch đưa tiền thì bà K đưa giấy cho ông Hour Ch. Giấy ký tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Lời trình bày của ông H phù hợp với trình bày của bà K tại Biên bản lời
khai ngày 22/6/2017 (bút lục 243): Trước khi đi làm ăn xa, ông H có đưa cho bà
K 2 giấy nhận cọc và dặn chứng nào có người qua đặt cọc thì đưa giấy tờ này
cho người ta. Ông H ký rồi đưa giấy cho bà K. Như vậy, có căn cứ xác định ông
H đã nhận tiền đặt cọc 50.000USD của ông Hour Ch, địa điểm nhận tại Thành
phố Hồ Chí Minh, thông qua bà K.
[2.2] Hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa, ông H cho rằng để thực hiện hợp
đồng giữa các bên, ông H đã vận chuyển muối hạt công nghiệp đến Cảng Laem
Chabang City, Thái Lan, theo vận đơn số ZNZLCH140000001 ngày 04/12/2014,
đứng tên người nhận là ông Hour Ch. Tuy nhiên, ông H không có căn cứ chứng
minh, còn ông Hour Ch thì không thừa nhận. Hội đồng xét xử thấy rằng: Vận
đơn số ZNZLCH140000001 nêu trên là bản photo, không được cơ quan có thẩm
quyền xác nhận sao y bản chính, được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của
pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, tại Biên bản làm việc ngày 23/12/2017 (bút lục
239) và Biên bản phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải ngày 04/5/2017 (bút
lục 242), đại diện ủy quyền của ông H xác nhận: Vận đơn trong hồ sơ do phía bị
đơn nộp cho Tòa, không giao cho nguyên đơn; bị đơn không cung cấp cho Tòa
án hợp đồng mua bán muối với Công ty ở Tazania, không có bản chính vận đơn,

128
không có văn bản chứng từ gì về số hàng được chuyển đến cảng Thái Lan. Như
vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận chứng cứ do ông H đưa ra để giải
quyết vụ án là có căn cứ.
[2.3] Do các đương sự giao dịch bằng ngoại tệ (USD) thuộc trường hợp
cấm được quy định tại các điều 1, 2, 6 và 7 Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 và
khoản 1 Điều 6 Nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 18/12/2006 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng
quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 xác định giao dịch giữa các bên vô hiệu
và buộc trả lại cho nhau những gì đã nhận là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về kháng cáo yêu cầu hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời (BPKCTT) số 153/2017/QĐ-APBPKCTT ngày 24/7/2017 của Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh:
[3.1] Hồ sơ vụ án thể hiện: Ngày 04/5/2017, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa
ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 262/2017/QĐXXST-KDTM (bút lục
208), ấn định thời gian mở phiên tòa lúc 14 giờ 00, ngày 30/5/2017. Tuy nhiên,
phiên tòa đã bị hoãn theo Thông báo ngày 30/5/2017 (bút lục 215), thời gian mở
lại phiên tòa lúc 8 giờ ngày 16/6/2017. Phiên tòa ngày 16/6/2017 được tạm
ngừng theo Quyết định số 303/2017/QĐST-KDTM ngày 16/6/2017 (bút lục
219), thời gian tiếp tục phiên tòa lúc 8 giờ ngày 06/7/2017. Tại phiên tòa ngày
06/7/2017, Hội đồng xét xử nghị án kéo dài và thông báo tuyên án lúc 8 giờ
ngày 13/7/2017. Phiên tòa ngày 13/7/2017 được tạm ngừng, theo Quyết định số
363/2017/QĐST-KDTM ngày 13/7/2017 (bút lục 223), thời gian tiếp tục phiên
tòa lúc 14 giờ ngày 24/7/2017. Phiên tòa ngày 24/7/2017, Hội đồng xét xử ban
hành Quyết định áp dụng BPKCTT số 153/2017/QĐ-APBPKCTT (bút lục 205)
và thông báo cho ông H được quyền khiếu nại trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày
thông báo. Ngày 26/7/2017, ông H khiếu nại Quyết định áp dụng BPKCTT số
153/2017/QĐ-APBPKCTT. Tại bản án sơ thẩm số 1031/2017/KDTM-ST ngày
31/7/2017, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận khiếu nại
của ông H đối với Quyết định áp dụng BPKCTT số 153/2017/QĐ-APBPKCTT.
[3.2] Khoản 3 Điều 141 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “Tại phiên
tòa, việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử.
Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội đồng xét xử là quyết định
cuối cùng. Hiện tại, Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày ngày 27/4/2005 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy
định tại chương VIII "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời" của Bộ luật Tố tụng dân
sự chưa bị thay thế nên còn hiệu lực pháp luật. Tại mục 12.2 quy định: Nếu
đương sự có khiếu nại, Viện kiểm sát có kiến nghị về quyết định áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ BPKCTT của Hội đồng xét xử hoặc việc Hội đồng xét xử không ra
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT tại phiên tòa, thì Hội đồng xét xử
xem xét, thảo luận và thông qua tại phòng xử án. Mục 12.3. quy định: Trong
trường hợp Hội đồng xét xử không chấp nhận khiếu nại, kiến nghị, thì không
phải ra quyết định bằng văn bản, nhưng phải thông báo công khai tại phiên tòa
việc không chấp nhận, nêu rõ lý do và phải ghi vào biên bản phiên tòa. Biên bản

129
phiên tòa ngày 31/7/2018 có thể hiện nội dung trên. Như vậy, khiếu nại của ông
H đối với Quyết định áp dụng BPHCTT số 153/2017/QĐ-APBPKCTT đã được
Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm giải quyết và là quyết định cuối cùng.
Vì vậy, kháng cáo của ông H không có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận
đề nghị của Viện kiểm sát, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Do kháng cáo không
được chấp nhận nên ông H phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308; khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 37, khoản 1
Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 128, khoản 2 Điều 136 Bộ luật
Dân sự năm 2005; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Giang Quốc H.
2. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm 1031/2017/KDTM-ST ngày 31/7/2017 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Hour Ch:
3.1 Tuyên bố hợp đồng mua bán muối hạt công nghiệp và nhận tiền cọc
năm 2014 giữa ông Hour Ch và ông Giang Quốc H vô hiệu.
3.2 Ông Giang Quốc H có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Hour Ch tiền nhận
cọc là 50.000 (Năm mươi ngàn) USD; khi thanh toán bằng Đồng Việt Nam, quy
đổi từ USD ra tiền Đồng Việt Nam theo tỷ giá bán ra của Ngân hàng
Vietcombank tại thời điểm thanh toán. Thanh toán ngay sau khi án có hiệu lực
pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án
còn phải chịu tiền lãi theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời
điểm thanh toán, tính trên số tiền chưa thanh toán, tương ứng với thời gian chậm
trả.
4. Án phí:
- Án phí sơ thẩm:
Ông Giang Quốc H phải chịu 46.147.500 (Bốn mươi sáu triệu một trăm
bốn mươi bảy ngàn năm trăm) đồng.
Ông Hour Ch không phải chịu và được hoàn lại 22.950.000 (Hai mươi hai
triệu chín trăm năm mươi ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai
thu số 09736 ngày 11/12/2015 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Án phí phúc thẩm: Ông Giang Quốc H phải chịu 2.000.000 đồng (Hai
triệu) đồng, được khấu trừ 2.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên

130
lai thu số 0047419 ngày 14/8/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ
Chí Minh, ông H đã nộp đủ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày tuyên án là ngày 27 tháng 6 năm 2018./.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND TP. Hồ Chí Minh;
- Cục THADS TP. Hồ Chí Minh;
- Các đương sự (3);
- Lưu: VP (3), HS (2) 13b (án 09)
Phan Đức Phương

131
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆTNAM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 96/2018/KDTM- PT.


Ngày 27/7/2018.
“V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Ngọc Thành
Các Thẩm phán: ông Nguyễn Đình Tiến và bà Nguyễn Thị Thúy Hạnh
Thư ký phiên tòa: bà Nguyễn Thị Thu Huyền- Thư ký Toà án nhân dân
thành phố Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội: bà Trần Văn Lừng-
Kiểm sát viên.

Trong ngày 27/7/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét
xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 58/2018/TLPT-
KDTM ngày 09/5/2018 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng do Bản án kinh doanh
thương mại sơ thẩm số 04/2018/KDTM- ST ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân
dân quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 247/2018/QĐXX- PT ngày 20/06/2018, giữa:
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP SGHN
Trụ sở: số 77 phố THĐ, quận HK, TPHN; Người đại diện theo pháp luật:
ông Nguyễn Văn L, chức vụ- Tổng Giám đốc; Người đại diện theo uỷ quyền:
ông Nguyễn Huy T, ông Trần K, bà Nguyễn Quỳnh H, ông Nguyễn Phú C, bà
Thiều Thị L (theo Giấy uỷ quyền số 259/TGĐ- UQ ngày 15/9/2017) (ông K, bà
H, ông C có mặt tại phiên tòa, bà L, ông T vắng mặt tại phiên tòa).
Bị đơn: Công ty cổ phần XNKTH1 VN
Trụ sở: số 46 phố NQ, phường HB, quận HK, TP HN; Người đại diện
theo pháp luật: bà Nguyễn Thị Thu H, Chức vụ- Tổng giám đốc; Người đại diện
theo uỷ quyền: bà Lê Thị H (theo Giấy uỷ quyền ngày 11/6/2018) (bà H có mặt
tại phiên tòa).

132
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2018/KDTM- ST ngày
31/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm thì vụ án có nội dung như
sau:
Theo nguyên đơn trình bày: ngày 23/07/2015, Ngân hàng TMCP
SGHN(sau đây gọi tắt là nguyên đơn) chi nhánh Hà Nội và Công ty cổ phần
XNK TH1 VN (sau đây gọi tắt là bị đơn) ký Hợp đồng cấp hạn mức tín dụng số
300/2014/HĐHM-PN/SHB.110219 ngày 23/07/2014 (sau đây gọi tắt là Hợp
đồng tín dụng số 300) với các nội dung chủ yếu sau:
- Điều 1 quy định về giá trị, thời hạn, mục đích sử dụng hạn mức tín dụng:
Giá trị về hạn mức tín dụng là 150.000.000.000 đồng; Mục đích để phục vụ hoạt
động kinh doanh; Thời hạn là 12 tháng (từ ngày 23/07/2014 đến ngày
23/07/2015); Trong thời hạn này, bên vay có thể vay vốn, trả nợ nhiều lần (mỗi
lần vay vốn sẽ lập thành một khế ước nhận nợ); Lãi suất vay trong hạn là tùy
thuộc thời điểm giải ngân vốn vay và phương án sử dụng vốn cụ thể của bên
vay, lãi suất vay được áp dụng theo quy định của bên cho vay tùy từng thời kỳ.
Lãi suất vay được quy định cụ thể trên Khế ước nhận nợ được lập cho mỗi lần
rút vốn vay theo Hạn mức tín dụng; Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất vay
trong hạn áp dụng tại kỳ tính lãi gần nhất so với thời điểm quá hạn.
Cách tính lãi vay: tiền lãi vay được tính hàng tháng, trên cơ sở một tháng
30 ngày, một năm 360 ngày, theo công thức: số tiền lãi phải trả = dư nợ thực tế
x lãi suất vay (%tháng) x số ngày vay thực tế trong tháng chia : 30 ngày.
Chuyển nợ quá hạn: bên cho vay chuyển các khoản nợ gốc/lãi sang nợ
quá hạn khi bên vay không thanh toán các khoản nợ gốc/lãi đúng hạn, kỳ hạn
(lịch trả nợ gốc, lãi) quy định tại Hợp đồng này hoặc theo đúng thời hạn bên cho
vay thông báo theo yêu cầu trả nợ trước hạn; Thời điểm chuyển nợ quá hạn là
ngày liền sau ngày đến hạn thanh toán nợ gốc và lãi vay; hoặc ngày đến hạn của
kỳ hạn thanh toán nợ gốc và (hoặc) lãi vay; hoặc ngày bên vay phải thanh toán
theo thông báo yêu cầu trả nợ trước hạn của bên cho vay mà bên vay không thực
hiện thanh toán.
Bên vay phải trả lãi theo lãi suất quá hạn cho các khoản nợ gốc bị chuyển
sang nợ quá hạn và trả lãi phạt chậm trả theo lãi suất phạt chậm trả lãi cho các
khoản nợ lãi bị chuyển sang nợ lãi quá hạn, kể từ thời điểm bị chuyển nợ quá
hạn.
Thứ tự thanh toán khi có nợ quá hạn các khoản bồi thường thiệt hại, các
khoản phí, lãi phạt chậm trả lãi, nợ lãi quá hạn, nợ gốc quá hạn, lãi vay trong
hạn, nợ gốc trong hạn hoặc thứ tự khác do bên cho vay quyết định trên cơ sở
phù hợp với quy định pháp luật. Trường hợp bên cho vay thu nợ từ tiền xử lý tài
sản bảo đảm (nếu có), bên cho vay sẽ thực hiện thu theo thứ tự sau: chi phí xử lý

133
tài sản bảo đảm, nợ gốc, các khoản nợ lãi (trong hạn, quá hạn), lãi phạt chậm trả
lãi, tiền phạt, các khoản phí khác và tiền bồi thường thiệt hại (nếu có).
Ngoài ra, trong hợp đồng còn quy định về thu hồi nợ trước hạn; Xử lý trong
trường hợp thu hồi nợ trước hạn; Biện pháp bảo đảm cho các khoản cấp tín dụng
theo hạn mức; Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay, quyền và nghĩa vụ của bên
vay, thẩm quyền thực hiện Hợp đồng, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng, thu hồi nợ
trước hạn, trao đổi thông tin; tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp; các thỏa
thuận khác; hiệu lực của Hợp đồng.
Tài sản đảm bảo: ngày 16/11/2015, bị đơn thế chấp cho nguyên đơn
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số BB947977, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH00189/QDD do
UBND huyện Cẩm Mỹ cấp cho ông Nguyễn Viết Khả ngày 27/10/2010 và
chuyển nhượng cho bị đơn theo hồ sơ số 26353.962971.CN.VS do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai xác nhận ngày 02/02/2015. Hợp đồng đã
được công chứng tại Phòng công chứng số 1 tỉnh Đồng Nai và được đăng ký thế
chấp quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai ngày
16/11/2015.
Sau khi Hợp đồng tín dụng trên có hiệu lực kể từ ngày ký, nguyên đơn đã
giải ngân cho bị đơn theo các khế ước nhận nợ sau:

1 Khế ước nhận nợ số 215-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 21/08/2014


2 Khế ước nhận nợ số 216-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 22/08/2014
3 Khế ước nhận nợ số 217-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 22/08/2014
4 Khế ước nhận nợ số 218-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 26/08/2014
5 Khế ước nhận nợ số 219-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 27/08/2014
6 Khế ước nhận nợ số 220-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 28/08/2014
7 Khế ước nhận nợ số 221-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 29/08/2014
8 Khế ước nhận nợ số 223-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 04/09/2014
9 Khế ước nhận nợ số 224-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 05/09/2014
10 Khế ước nhận nợ số 225-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 05/09/2014
11 Khế ước nhận nợ số 226-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 08/09/2014
12 Khế ước nhận nợ số 227-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 08/09/2014
13 Khế ước nhận nợ số 228-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 10/09/2014
14 Khế ước nhận nợ số 229-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 10/09/2014
15 Khế ước nhận nợ số 230-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 10/09/2014
16 Khế ước nhận nợ số 231-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 10/09/2014
17 Khế ước nhận nợ số 232-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 15/09/2014
18 Khế ước nhận nợ số 233-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 15/09/2014

134
19 Khế ước nhận nợ số 234-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 15/09/2014
20 Khế ước nhận nợ số 235-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 17/09/2014
21 Khế ước nhận nợ số 236-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 17/09/2014
22 Khế ước nhận nợ số 239-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 18/09/2014
23 Khế ước nhận nợ số 240-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 19/09/2014
24 Khế ước nhận nợ số 241-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 19/09/2014
25 Khế ước nhận nợ số 242-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 24/09/2014
26 Khế ước nhận nợ số 244-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 25/09/2014
27 Khế ước nhận nợ số 245-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 26/09/2014
28 Khế ước nhận nợ số 246-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 26/09/2014
29 Khế ước nhận nợ số 247-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 26/09/2014
30 Khế ước nhận nợ số 251-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 01/10/2014
31 Khế ước nhận nợ số 251.1-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 01/10/2014
32 Khế ước nhận nợ số 252-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 06/10/2014
33 Khế ước nhận nợ số 255-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 16/10/2014
34 Khế ước nhận nợ số 256-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 16/10/2014
35 Khế ước nhận nợ số 257-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 16/10/2014
36 Khế ước nhận nợ số 263-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 24/10/2014
37 Khế ước nhận nợ số 264-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 29/10/2014
38 Khế ước nhận nợ số 265-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 31/10/2014
39 Khế ước nhận nợ số 267-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 04/11/2014
40 Khế ước nhận nợ số 268-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 07/11/2014
41 Khế ước nhận nợ số 269-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 10/11/2014
42 Khế ước nhận nợ số 271-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 20/11/2014
43 Khế ước nhận nợ số 272-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 24/11/2014
44 Khế ước nhận nợ số 273-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 25/11/2014
45 Khế ước nhận nợ số 274-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 28/11/2014
46 Khế ước nhận nợ số 275-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 08/12/2014
47 Khế ước nhận nợ số 276-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 09/12/2014
48 Khế ước nhận nợ số 278-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 12/12/2014
49 Khế ước nhận nợ số 280-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 24/12/2014
50 Khế ước nhận nợ số 281-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 25/12/2014
51 Khế ước nhận nợ số 284-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 06/01/2015
52 Khế ước nhận nợ số 285-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 06/01/2015
53 Khế ước nhận nợ số 286-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 06/01/2015
54 Khế ước nhận nợ số 287-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 06/01/2015
55 Khế ước nhận nợ số 288-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 07/01/2015
56 Khế ước nhận nợ số 289-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 09/01/2015

135
57 Khế ước nhận nợ số 291-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 13/01/2015
58 Khế ước nhận nợ số 292-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 15/01/2015
59 Khế ước nhận nợ số 293-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 16/01/2015
60 Khế ước nhận nợ số 294-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 16/01/2015
61 Khế ước nhận nợ số 297-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 22/01/2015
62 Khế ước nhận nợ số 298-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 22/01/2015
63 Khế ước nhận nợ số 299-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 23/01/2015
64 Khế ước nhận nợ số 300-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 23/01/2015
65 Khế ước nhận nợ số 302-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 23/01/2015
66 Khế ước nhận nợ số 305-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 29/01/2015
67 Khế ước nhận nợ số 306-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 29/01/2015
68 Khế ước nhận nợ số 307-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 02/02/2015
69 Khế ước nhận nợ số 309-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 06/02/2015
70 Khế ước nhận nợ số 310-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 09/02/2015
71 Khế ước nhận nợ số 311-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 10/02/2015
72 Khế ước nhận nợ số 312-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 13/02/2015
73 Khế ước nhận nợ số 313-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 14/02/2015
74 Khế ước nhận nợ số 314-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 27/03/2015
75 Khế ước nhận nợ số 314.1-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 03/04/2015
76 Khế ước nhận nợ số 315-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 06/04/2015
77 Khế ước nhận nợ số 316-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 07/04/2015
78 Khế ước nhận nợ số 319-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 27/04/2015
79 Khế ước nhận nợ số 320-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 27/04/2015
80 Khế ước nhận nợ số 321-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 04/05/2015
81 Khế ước nhận nợ số 322-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 05/05/2015
82 Khế ước nhận nợ số 323-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 05/05/2015
83 Khế ước nhận nợ số 324-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 07/05/2015
84 Khế ước nhận nợ số 325-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 08/05/2015
85 Khế ước nhận nợ số 326-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 08/05/2015
86 Khế ước nhận nợ số 327-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 08/05/2015
87 Khế ước nhận nợ số 329-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 15/05/2015
88 Khế ước nhận nợ số 330-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 19/05/2015
89 Khế ước nhận nợ số 331-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 20/05/2015
90 Khế ước nhận nợ số 332-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 25/05/2015
91 Khế ước nhận nợ số 333-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 28/05/2015
92 Khế ước nhận nợ số 334-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 29/05/2015
93 Khế ước nhận nợ số 335-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 01/06/2015
94 Khế ước nhận nợ số 336-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 02/06/2015

136
95 Khế ước nhận nợ số 337-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 03/06/2015
96 Khế ước nhận nợ số 338-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 04/06/2015
97 Khế ước nhận nợ số 339-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 08/06/2015
98 Khế ước nhận nợ số 340-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 10/06/2015
99 Khế ước nhận nợ số 341-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 10/06/2015
100 Khế ước nhận nợ số 342-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 15/06/2015
101 Khế ước nhận nợ số 343-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 17/06/2015
102 Khế ước nhận nợ số 344-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 18/06/2015
103 Khế ước nhận nợ số 345-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 23/06/2015
104 Khế ước nhận nợ số 346-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 24/06/2015
105 Khế ước nhận nợ số 347-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 25/06/2015
106 Khế ước nhận nợ số 348-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 29/06/2015
107 Khế ước nhận nợ số 349-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 30/06/2015
108 Khế ước nhận nợ số 350-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 02/07/2015
109 Khế ước nhận nợ số 351-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 03/07/2015
110 Khế ước nhận nợ số 352-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 07/07/2015
111 Khế ước nhận nợ số 353-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 08/07/2015
112 Khế ước nhận nợ số 355-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 13/07/2015
113 Khế ước nhận nợ số 356-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 16/07/2015
114 Khế ước nhận nợ số 357-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 16/07/2015
115 Khế ước nhận nợ số 358-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 17/07/2015
116 Khế ước nhận nợ số 359-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 21/07/2015
117 Khế ước nhận nợ số 364-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 06/08/2015
118 Khế ước nhận nợ số 365-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 06/08/2015
119 Khế ước nhận nợ số 366-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 10/08/2015
120 Khế ước nhận nợ số 367-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 12/08/2015
121 Khế ước nhận nợ số 368-300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 ngày 17/08/2015

Trên cơ sở Hợp đồng tín dụng số 300 giữa nguyên đơn và bị đơn, từng khế
ước nhận nợ có quy định riêng về số tiền ngoại tệ được vay, lãi suất và thời hạn
trả nợ.
Tổng số tiền nguyên đơn đã giải ngân cho bị đơn là 15,624,063.00 USD và
6.019.742.334 đồng tương đương 361.779.656.844 đồng.
Quá trình thực hiện các khế ước nhận nợ, bị đơn đã thanh toán được 74 khế
ước, sau đó đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi của các khế ước còn nợ, nguyên
đơn đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở và tạo điều kiện cho bị đơn thanh toán nợ, tuy
nhiên kể từ ngày 05/9/2015 nguyên đơn chuyển toàn bộ số nợ chưa trả sang nợ
quá hạn cho đến ngày 11/9/2017, bị đơn mới chỉ thanh toán thêm được cho
nguyên đơn 884.667.882 đồng và 6,028.70 USD. Số tiền này nguyên đơn đã
137
thanh toán vào số nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn của các khế ước bị quá hạn, sau
đó mới thanh toán vào nợ gốc.
Do đã tạo điều kiện nhiều lần bị đơn không trả được nợ nên nguyên đơn
đã khởi kiện bị đơn ra Tòa án theo Điều 11 Hợp đồng tín dụng và Điều 10 Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất được ký kết giữa hai bên.
Cho đến ngày 11/9/2017, các khế ước mà bị đơn chưa thanh toán cho
nguyên đơn, gồm các khế ước và số nợ như sau:

NGÀY Lãi Lãi TỔNG SỐ TIỀN


KHẾ ƯỚC SỐ TIỀN suất suất CÒN PHẢI TRẢ (USD)
ST KHẾ ƯỚC NGÀY
( NGÀY GIẢI NGÂN trong quá
T NHẬN NỢ QUÁ HẠN
GIẢI (USD) hạn hạn Tiền nợ lãi Tiền nợ lãi Tổng số tiền
NGÂN) (%) (%) Tiền nợ gốc
trong hạn quá hạn còn phải trả

1 323/300/2014/H
DHM-
05/05/2015 05/09/2015 59,961.04 4.7 7.05 54,992.03 - 7,080.73 62,072.76
PN/SHB.11021
9

2 315/300/2014/H
DHM-
06/04/2015 07/09/2015 172,921.98 5.5 8.25 172,921.98 - 26,723.83 199,645.81
PN/SHB.11021
9

3 316/300/2014/H
DHM-
07/04/2015 07/09/2015 119,203.53 4.7 7.05 119,203.53 - 15,738.94 134,942.47
PN/SHB.11021
9

4 339/300/2014/H
DHM-
08/06/2015 08/09/2015 268,244.62 4.7 7.05 268,244.62 - 35,370.20 303,614.82
PN/SHB.11021
9

5 342/300/2014/H
DHM-
15/06/2015 15/09/2015 54,102.29 5.5 8.25 54,102.29 - 8,262.23 62,364.52
PN/SHB.11021
9

6 330/300/2014/H
DHM-
19/05/2015 19/09/2015 200,991.74 4.7 7.05 200,991.74 - 26,069.44 227,061.18
PN/SHB.11021
9

7 332/300/2014/H
DHM-
25/05/2015 25/09/2015 37,131.20 4.7 7.05 37,131.20 - 5,188.34 42,319.54
PN/SHB.11021
9

8 320/300/2014/H
DHM-
27/04/2015 28/09/2015 18,681.48 4.7 8.25 18,681.48 - 3,050.22 21,731.70
PN/SHB.11021
9

9 314.1/300/2014/
HDHM-
03/04/2015 03/10/2015 70,964.75 5.2 7.80 70,964.75 - 10,873.66 81,838.41
PN/SHB.11021
9

10 321/300/2014/H
DHM- 04/05/2015 05/10/2015 64,270.98 5.5 8.25 64,270.98 402.62 10,414.11 75,087.71
PN/SHB.11021

138
9

11 322/300/2014/H
DHM-
05/05/2015 05/10/2015 174,692.96 5.5 8.25 174,692.96 - 25,845.73 200,538.69
PN/SHB.11021
9

12 324/300/2014/H
DHM-
07/05/2015 07/10/2015 215,820.00 5.5 8.25 215,820.00 395.64 34,869.30 251,084.94
PN/SHB.11021
9

13 326/300/2014/H
DHM-
08/05/2015 08/10/2015 6,021.00 5.5 8.25 6,021.00 11.96 971.52 7,004.48
PN/SHB.11021
9

14 327/300/2014/H
DHM-
08/05/2015 08/10/2015 31,443.02 5.5 8.25 31,443.02 62.40 5,075.84 36,581.26
PN/SHB.11021
9

15 325/300/2014/H
DHM-
08/05/2015 08/10/2015 291,396.85 4.7 7.05 191,396.85 494.52 27,443.78 219,335.15
PN/SHB.11021
9

16 329/300/2014/H
DHM-
15/05/2015 15/10/2015 35,190.00 5.5 8.25 35,190.00 107.60 5,617.82 40,915.42
PN/SHB.11021
9

17 331/300/2014/H
DHM-
20/05/2015 20/10/2015 57,893.40 5.5 8.25 57,893.40 221.00 9,182.84 67,297.24
PN/SHB.11021
9

18 319/300/2014/H
DHM-
27/04/2015 27/10/2015 697,286.01 4.7 7.05 597,286.01 2,912.96 80,535.63 680,734.60
PN/SHB.11021
9

19 335/300/2014/H
DHM-
01/06/2015 01/11/2015 73,966.94 4.7 7.05 73,966.94 357.42 9,853.20 84,177.56
PN/SHB.11021
9

20 336/300/2014/H
DHM-
02/06/2015 02/11/2015 121,222.17 4.7 7.05 121,222.17 601.54 16,119.46 137,943.17
PN/SHB.11021
9

21 350/300/2014/H
DHM-
02/07/2015 02/11/2015 189,299.65 4.7 7.05 189,299.65 172.97 25,170.53 214,643.15
PN/SHB.11021
9

22 338/300/2014/H
DHM-
04/06/2015 04/11/2015 154,616.44 4.7 7.05 154,616.44 - 19,267.97 173,884.41
PN/SHB.11021
9

23 340/300/2014/H
DHM-
10/06/2015 10/11/2015 69,917.36 4.7 7.05 69,917.36 136.95 9,185.99 79,240.30
PN/SHB.11021
9

139
24 341/300/2014/H
DHM-
10/06/2015 10/11/2015 16,688.66 4.7 7.05 16,688.66 32.70 2,194.17 18,915.53
PN/SHB.11021
9

25 357/300/2014/H
DHM-
16/07/2015 16/11/2015 91,523.52 5.5 8.25 91,523.52 293.58 13,945.05 105,762.15
PN/SHB.11021
9

26 343/300/2014/H
DHM-
17/06/2015 17/11/2015 179,100.00 5.5 8.25 179,100.00 601.92 27,250.56 206,952.48
PN/SHB.11021
9

27 344/300/2014/H
DHM-
18/06/2015 18/11/2015 204,120.00 5.5 8.25 204,120.00 717.37 31,015.14 235,852.51
PN/SHB.11021
9

359/300/2014/H
DHM-
21/07/2015 21/11/2015 60,641.10 5.5 8.25 60,641.10 240.76 9,174.00 70,055.86
28 PN/SHB.11021
9

29 345/300/2014/H
DHM-
23/06/2015 23/11/2015 119,542.50 5.5 8.25 119,542.50 511.28 18,029.20 138,082.98
PN/SHB.11021
9

30 346/300/2014/H
DHM-
24/06/2015 24/11/2015 110,831.40 4.7 7.05 110,831.40 419.63 14,256.90 125,507.93
PN/SHB.11021
9

31 347/300/2014/H
DHM-
25/06/2015 25/11/2015 46,881.00 5.5 8.25 46,881.00 214.80 7,045.44 54,141.24
PN/SHB.11021
9

32 333/300/2014/H
DHM-
28/05/2015 28/11/2015 44,486.87 4.7 7.05 44,486.87 191.73 5,687.63 50,366.23
PN/SHB.11021
9

33 334/300/2014/H
DHM-
29/05/2015 30/11/2015 50,061.97 4.7 7.05 50,061.97 228.90 6,379.80 56,670.67
PN/SHB.11021
9

34 348/300/2014/H
DHM-
29/06/2015 30/11/2015 196,649.06 4.7 7.05 196,649.06 898.45 25,070.01 222,617.52
PN/SHB.11021
9

35 349/300/2014/H
DHM-
30/06/2015 30/11/2015 186,733.99 4.7 7.05 186,733.99 853.30 23,807.07 211,394.36
PN/SHB.11021
9

36 337/300/2014/H
DHM-
03/06/2015 03/12/2015 156,952.72 4.7 7.05 156,952.72 778.62 19,919.52 177,650.86
PN/SHB.11021
9

37 351/300/2014/H
DHM-
03/07/2015 03/12/2015 78,530.42 4.7 7.05 78,530.42 389.50 9,966.24 88,886.16
PN/SHB.11021
9

140
38 364/300/2014/H
DHM-
06/08/2015 07/12/2015 153,099.72 5.5 8.25 153,099.72 982.38 22,597.96 176,680.06
PN/SHB.11021
9

39 365/300/2014/H
DHM-
06/08/2015 07/12/2015 191,856.60 5.5 8.25 191,856.60 1,231.02 28,316.68 221,404.30
PN/SHB.11021
9

40 352/300/2014/H
DHM-
07/07/2015 07/12/2015 144,661.30 4.7 7.05 144,661.30 793.38 18,244.52 163,699.20
PN/SHB.11021
9

41 353/300/2014/H
DHM-
08/07/2015 08/12/2015 282,013.20 5.5 8.25 282,013.20 1,852.87 41,557.09 325,423.16
PN/SHB.11021
9

42 355/300/2014/H
DHM-
13/07/2015 14/12/2015 17,338.50 5.5 8.25 17,338.50 129.85 2,528.89 19,997.24
PN/SHB.11021
9

356/300/2014/H
DHM-
16/07/2015 16/12/2015 59,931.11 4.7 7.05 59,931.11 398.82 7,454.90 67,784.83
43 PN/SHB.11021
9

44 358/300/2014/H
DHM-
17/07/2015 17/12/2015 180,672.00 5.5 8.25 180,672.00 1,435.20 26,247.60 208,354.80
PN/SHB.11021
9

45 368/300/2014/H
DHM-
17/08/2015 17/12/2015 73,791.00 5.5 8.25 73,791.00 586.04 10,720.94 85,097.98
PN/SHB.11021
9

46 366/300/2014/H
DHM-
10/08/2015 11/01/2016 103,950.00 5.5 8.25 103,950.00 1,222.76 14,506.38 119,679.14
PN/SHB.11021
9

47 367/300/2014/H
DHM-
12/08/2015 12/01/2016 36,000.00 5.5 8.25 36,000.00 429.00 5,016.00 41,445.00
PN/SHB.11021
9

TỔNG CỘNG 5,971,296.05 5,766,327.04 21,311.44 808,843.00 6,596,481.48

Nguyên đơn đề nghị Tòa án giải quyết cụ thể:


1. Buộc bị đơn trả cho nguyên đơn nợ gốc, nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn
của 47 khế ước nhận nợ nêu trên tính đến ngày 11/9/2017, bao gồm: nợ gốc
5,766,327.04 USD tương đương 131.270.435.066 đồng; Lãi chậm trả 21,311.44
USD tương đương 485.154.932 đồng; Lãi quá hạn: 808,843.00 USD tương
đương 18.413.310.895 đồng. Tổng cộng là 6,596,481.48 USD tương đương
150.168.900.892 đồng.

141
2. Trong trường hợp bị đơn không trả được nợ thì nguyên đơn có quyền
đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế để thu hồi
nợ.
Kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong thì bị đơn còn
phải tiếp tục thanh toán lãi suất nợ quá hạn theo mức lãi suất được quy định
trong Hợp đồng tín dụng trên số dư nợ gốc chậm trả.
Về số tiền 884.667.882 đồng và 6,028.70 USD mà bị đơn trả nợ sau khi
các khế ước nhận nợ bị quá hạn từ ngày 05/9/2015 thì phải được trừ vào nợ gốc
các khế ước chưa thanh toán, chứ không phải theo cách tính của nguyên đơn là
trừ vào lãi trong hạn và lãi quá hạn nên bị đơn không chấp nhận số liệu về nợ
gốc mà nguyên đơn đã tính toán, về vấn đề này nguyên đơn có quan điểm không
chấp nhận quan điểm của bị đơn vì theo thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng kể
từ ngày quá hạn thì số tiền thanh toán được ưu tiên thanh toán cho nợ lãi trong
hạn và quá hạn trước, sau đó mới thanh toán tiền nợ gốc.
Về quan điểm bị đơn cho rằng số tiền 4,912.13 USD, bị đơn thanh toán
cho nguyên đơn vào ngày 12/8/2015, bị đơn cho rằng nguyên đơn trừ vào tiền
nợ gốc của khế ước nhận nợ số 313/300/2014/HDHM-PN/SHB.110219 chỉ có
3,350.33 USD, đáng nhẽ phải trừ tất cả số tiền 4,912.13 USD vào gốc, nguyên
đơn không chấp nhận quan điểm này vì khế ước này có thời hạn cho vay từ ngày
14/02/2015 đến ngày 14/8/2015 chưa quá hạn; ngày 12/8/2015 bị đơn thanh toán
cho nguyên đơn nên nguyên đơn thu nợ theo thứ tự ưu tiên thu lãi trong hạn
trước 1,561.80 USD rồi mới thu số tiền còn lại vào gốc 3,350.33 USD.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn có ý kiến trình bày như sau:
Bị đơn xác nhận giữa bị đơn và nguyên đơn có ký Hợp đồng tín dụng số
300 và sau khi Hợp đồng tín dụng có hiệu lực, hai bên có ký 121 khế ước nhận
nợ. Mục đích bị đơn vay vốn của nguyên đơn để phục vụ hoạt động kinh doanh.
Sau khi ký Hợp đồng tín dụng, bị đơn đã nhận đủ số tiền nguyên đơn giải ngân
qua từng khế ước nhận nợ.
Để thực hiện đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bị đơn đã thế
chấp cho nguyên đơn quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số BB947977 tại ấp Tân Mỹ, xã Xuân Bảo, huyện Cẩm
Mỹ, tỉnh Đồng Nai đúng như nguyên đơn đã trình bày.
Quá trình thực hiện hợp đồng, bị đơn đã trả nợ được 74 khế ước, còn 47
khế ước chưa trả được nợ gốc, nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn do việc kinh doanh
của bị đơn gặp nhiều khó khăn. Bị đơn thừa nhận danh sách 47 khế ước chưa trả
đươc nợ mà nguyên đơn cung cấp cho đến ngày 11/9/2017 là đúng. Tuy nhiên,
bị đơn không thừa nhận số liệu về nợ gốc, nợ lãi trong hạn và nợ lãi quá hạn tính
đến ngày 11/9/2017 mà nguyên đơn tính, vì bị đơn cho rằng ngày quá hạn các
khế ước nhận nợ phải là ngày 15/8/2015 (là ngày quá hạn của khế ước số 313
142
ngày 14/02/2015), sau ngày quá hạn này, bị đơn đã trả được thêm cho nguyên
đơn 884.667.882 đồng và 6,028.70 USD, căn cứ theo mục d khoản 2 Điều 3
Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước về việc ban hành quy định phương pháp tính và hạch toán thu, trả lãi
của các tổ chức tín dụng trên có quy định là trong trường hợp khách hàng vay
còn số dư nợ quá hạn thì các tổ chức tín dụng sẽ thu gốc trước và tận thu lãi khi
khách hàng có tiền. Trên thực tế nguyên đơn đã trừ số tiền này vào nợ lãi trong
hạn và lãi quá hạn trước, sau đó mới trừ vào gốc là không đảm bảo quyền lợi
cho bị đơn.
Theo cách tính số tiền đã trả được trừ vào nợ gốc trước (sau ngày quá
hạn) thì số nợ gốc, nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn của bị đơn là nợ gốc
5,679,739.07 USD, nợ lãi trong hạn 86,039. 45 USD, nợ lãi quá hạn 816,458.47
USD. Tổng cộng 6,582,263.99 USD.
Ngoài ra, sau khi rà soát số liệu bị đơn nhận thấy ngày 12/8/2015 nguyên
đơn đã trừ số tiền 4,912.13 USD vào khế ước nhận nợ số 313/300/2014/HDHM-
PN/SHB.110219 chỉ có 3,350.33 USD, đáng nhẽ phải trừ tất cả số tiền 4,912.13
USD vào gốc mới đúng nên đề nguyên đơn rà soát lại số liệu còn nợ của bị đơn.
Bị đơn có quan điểm là chỉ chấp nhận trả nợ tiền nợ gốc, nợ lãi trong hạn
và lãi quá hạn các khế ước còn thiếu theo số liệu do bị đơn tính toán như trên.
Về xử lý tài sản đảm bảo, thì nếu bị đơn không trả được nợ thì đề nghị Tòa án
giải quyết tài sản đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn sau khi xem
xét chứng cứ là bảng tính nợ gốc, lãi vay; bảng tổng hợp gốc lãi do bị đơn xuất
trình tại phiên tòa có quan điểm:
Đối với số tiền 884.667.882 đồng và 6,028.70 USD phải được trừ vào nợ
gốc của các khế ước quá hạn trước, sau đó mới được trừ vào nợ lãi trong hạn và
quá hạn, nếu theo cách tính này thì có 02 khế ước số 313 ngày 14/02/2015 và số
314 ngày 27/8/2015 chưa trả được nợ lãi trong hạn và quá hạn, nên số khế ước
quá hạn mà bị đơn chưa thanh toán cho nguyên đơn là 49 khế ước.
Chấp nhận số liệu nợ gốc, nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn tính đến ngày
25/01/2018 theo bảng tính nợ gốc, lãi vay và bảng tổng hợp gốc lãi của 49 khế
ước mà bị đơn nộp tại phiên tòa.
Như vậy, yêu cầu bị đơn phải trả một lần cho nguyên đơn tiền nợ gốc, nợ
lãi trong hạn, lãi quá hạn tính đến ngày 25/01/2018 bao gồm nợ gốc
5,679,739.07 USD, nợ lãi trong hạn 87,601.25 USD, nợ lãi quá hạn 979,444.95
USD. Tổng cộng 6,746,785.27 USD. Bị đơn phải tiếp tục chịu lãi suất quá hạn
trên số tiền nợ gốc chưa trả của từng khế ước nhận nợ. Nếu bị đơn không trả
được nợ thì nguyên đơn được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án phát mại tài
sản thế chấp.

143
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn nộp chứng cứ là bảng tính nợ gốc, lãi
vay; bảng tổng hợp gốc lãi của 49 khế ước mà bị đơn còn phải nợ, tính đến ngày
25/01/2018 có nội dung như sau:
Tổng số tiền bị đơn còn phải trả nguyên đơn bao gồm: nợ gốc
5,679,739.07 USD, lãi trong hạn 87,601.25 USD, lãi quá hạn 979,444.95 USD.
Tổng cộng 6,746,785.27 USD. Ngoài ra, bị đơn có quan điểm giải quyết vụ án
như sau:
Bị đơn thừa nhận còn nợ gốc, lãi trong hạn và lãi quá hạn của các khế ước
(49 khế ước) nhận nợ theo Hợp đồng tín dụng số 300 giữa nguyên đơn và bị đơn
theo bảng tính số liệu nợ gốc, lãi vay; bảng tổng hợp gốc lãi mà bị đơn đã nộp
cho Hội đồng xét xử tại phiên tòa và chỉ chấp nhận số nợ theo số liệu trên.
Đề nghị Tòa án chấp nhận cách tính số liệu: trừ số tiền 884.667.882 đồng
và 6,028.70 USD bị đơn đã trả được thêm cho nguyên đơn sau ngày các khế ước
bị quá hạn (ngày 15/8/2015) vào nợ gốc theo quy định tại mục d khoản 2 Điều 3
Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước để đảm bảo quyền lợi cho bị đơn. Bị đơn đề nghị nguyên đơn tạo điều
kiện cho bị đơn được trả dần số nợ còn thiếu. Bị đơn sẽ tiếp tục chịu lãi suất quá
hạn trên số tiền nợ gốc chưa trả của từng khế ước nhận nợ. Nếu bị đơn không trả
được nợ thì đề nghi xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2018/KDTM- ST ngày
31/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp Hợp đồng
tín dụng số 300 đối với bị đơn.
2. Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc, nợ lãi trong hạn,
nợ lãi quá hạn theo từng khế ước nhận nợ thuộc Hợp đồng tín dụng số 300 bao
gồm: nợ gốc 5,679,739.07 USD, nợ lãi trong hạn 87,601.25 USD, nợ lãi quá hạn
979,444.95 USD. Tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi là 6,746,785.27 USD. Quy đổi
ra tiền Việt Nam đồng theo tỷ giá quy đổi ngày 25/01/2018 là 22.740 đồng/USD
là 153.421.897.039 đồng.
3. Bị đơn tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi quá hạn trên số nợ gốc chưa trả
của từng khế ước kể từ sau ngày 25/01/2018 cho đến khi trả được hết số nợ gốc
theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong từng khế ước.
4. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, bị đơn không trả được nợ
hoặc trả không đủ số tiền trên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành
án phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ là Quyền sử dụng đất tại thửa đất số
30, tờ bản đồ số 3, ấp Tân Mỹ, xã XB, huyện CM, tỉnh ĐN theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
BB 947977, số vào sổ cấp GCN CH00189/QDD do UBND huyện CM, tỉnh ĐN
cấp ngày 27/10/2010 cho ông Nguyễn Viết K và chuyển nhượng cho bị đơn theo

144
hồ sơ số 26353.962971.CN.VS do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh ĐN xác
nhận ngày 02/02/2015.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo, quyền thi hành
án của các bên đương sự.
Không đồng ý với Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm nêu trên, bị
đơn đã làm đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm sửa một phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm, về việc tuyên số tiền
bị đơn phải trả cho nguyên đơn quy đổi từ USD sang tiền đồng tại thời điểm xét
xử sơ thẩm là không đúng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: trong Hợp đồng tín
dụng số 300 ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn tại điểm 2.4.1.2 Điều 2 Hợp đồng
đúng như bị đơn đã trình bày, hai bên đã thỏa thuận việc quy đổi tỷ giá sẽ được
thực hiện vào thời điểm bị đơn trả nợ cho nguyên đơn. Nên nguyên đơn đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
Ngoài ra, tại cấp sơ thẩm nguyên đơn chỉ cung cấp cho Tòa án bảng tính
lãi tính đến ngày 25/01/2018 mà ngày xét xử sơ thẩm là ngày 31/01/2018, tại
phiên tòa phúc thẩm hôm nay nguyên đơn đồng ý chỉ yêu cầu bị đơn tiếp tục
chịu lãi trên số tiền gốc còn nợ từ ngày 01/02/2018 là có lợi cho bị đơn, đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: bị đơn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo và cho rằng Bản án sơ thẩm chưa xem xét đầy đủ các thỏa thuận của
nguyên đơn và bị đơn tại Hợp đồng tín dụng số 300 và buộc bị đơn phải trả cho
nguyên đơn số tiền 6,746,785.27 USD và quy đổi ra tiền Việt Nam đồng theo tỷ
giá quy đổi ngày 25/01/2018 là 153.421.897.039 đồng là chưa chính xác, vì số
tiền này khi nào bị đơn trả nợ thì mới được quy đổi (điều này được thỏa thuận
tại điểm 2.4.1.2 Điều 2 Hợp đồng tín dụng số 300). Bị đơn đề nghị Hội đồng xét
xử sửa lại Bản án sơ thẩm với nội dung quy đổi số tiền nợ từ USD sang Việt
Nam đồng theo tỷ giá ngày 25/1/2018.
Bị đơn đồng ý với ngày tiếp tục tính lãi sau phiên tòa sơ thẩm của nguyên
đơn tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP Hà Nội phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: bị đơn kháng cáo trong thời hạn luật định và đã nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên kháng cáo của bị đơn là hợp lệ.
Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án từ thủ tục thụ lý vụ án, thời hạn chuẩn bị xét
xử và tiến hành phiên tòa. Thư ký đã làm đầy đủ nhiệm vụ và phổ biến nội quy
phiên tòa. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm hôm nay, các đương sự đã thực hiện

145
đúng các quy định của pháp luật, đã được tranh luận và trình bày căn cứ để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Về nội dung kháng cáo của bị đơn: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào
các thỏa thuận của nguyên đơn và bị đơn tại tại điểm 2.4.1.2 Điều 2 Hợp đồng
tín dụng số 300 để xem xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn theo hướng chấp nhận
kháng cáo của bị đơn về cách tính quy đổi từ tiền USD sang tiền Việt Nam
đồng.
Nhất trí tính lại thời gian tiếp tục chịu lãi kể từ ngày kế tiếp theo ngày xét
xử sơ thẩm theo ý kiến của nguyên đơn tại phiên tòa hôm nay.
Bị đơn không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe ý kiến của
Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng: bị đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định và
đã nộp tiền án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Do vậy, kháng cáo
của bị đơn là hợp lệ.
Về nội dung kháng cáo của bị đơn:
Bị đơn kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các thỏa thuận của
nguyên đơn và bị đơn tại điểm 2.4.1.2 Điều 2 Hợp đồng tín dụng số 300 để xem
xét bỏ quy đổi khoản tiền nợ gốc, lãi bằng tiền USD sang tiền Việt Nam đồng
trong phần Quyết định của Bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy bị đơn vay
nguyên đơn bằng tiền USD, theo Hợp đồng tín dụng thì bị đơn có nghĩa vụ trả
lại cho nguyên đơn bằng tiền USD, nếu bị đơn không có tiền USD để trả cho
nguyên đơn, thì khi đó mới quy đổi ra tiền Việt Nam đồng và tỷ giá sẽ được tính
vào ngày bị đơn trả tiền cho nguyên đơn. Việc Bản án sơ thẩm quy đổi từ tiền
USD sang Việt Nam đồng chỉ có ý nghĩa trong việc tính án phí mà bị đơn phải
chịu. Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm tính quy đổi tiền USD sang tiền Việt Nam đồng
ngay trong phần Quyết định dễ gây hiểu nhầm là bị đơn phải thanh toán cho
nguyên đơn toàn bộ khoản nợ bằng tiền Việt Nam đồng. Do đó, cần sửa lại phần
Quyết định của Bản án sơ thẩm như bị đơn kháng cáo.
Xác định số tiền bị đơn còn nợ nguyên đơn (hai bên đã thống nhất số liệu)
bao gồm nợ gốc 5,679,739.07 USD, nợ lãi trong hạn 87,601.25 USD, nợ lãi quá
hạn 979,444.95 USD. Tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi là 6,746,785.27 USD. Quy
đổi ra tiền Việt Nam đồng theo tỷ giá quy đổi ngày 25/01/2018 là 22.740
đồng/USD là 153.421.897.039 đồng.
Về thời gian tiếp tục tính lãi, tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn đồng ý
tính lãi từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm trên số tiền nợ gốc (từ ngày

146
01/02/2018), thay cho ngày 25/01/2018 trong Bản án sơ thẩm đây là sự tự
nguyện của nguyên đơn và có lợi cho bị đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Do Bản án sơ thẩm bị sửa nên bị đơn không phải chịu án phí kinh doanh
thương mại phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Các điều 293, 294, 308 và 309 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Các điều 355 Bộ luật dân sự năm 2005;
- Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
- Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số
điều của Pháp lệnh ngoại hối năm 2013;
- Nghị quyết số 326/2016/UBNVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xö:
1. Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2018/KDTM- ST
ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP SGHN về tranh
chấp Hợp đồng tín dụng số 300/2014/HĐHM-PN/SHB.110219 ngày 23/07/2014
đối với Công ty cổ phần XNK TH1 VN.
3. Buộc Công ty cổ phần XNK TH1 VN trả cho Ngân hàng TMCP SGHN
tiền nợ gốc, nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn theo từng khế ước nhận nợ thuộc
Hợp đồng tín dụng số 300/2014/HĐHM-PN/SHB.110219 ngày 23/07/2014 tính
đến ngày 25/01/2018, bao gồm nợ gốc 5,679,739.07 USD (năm triệu sáu trăm
bảy mươi chín nghìn bảy trăm ba mươi chín Đô la Mỹ và không phảy bảy cent),
nợ lãi trong hạn 87,601.25 USD (tám mươi bảy nghìn sáu trăm linh một Đô la
Mỹ và hai mươi lăm cent), nợ lãi quá hạn 979,444.95 USD (chín trăm bảy mươi
chín nghìn bốn trăm bốn mươi bốn Đô la Mỹ và chín mươi lăm cent). Tổng số
tiền nợ gốc và nợ lãi là 6,746,785.27 USD (sáu triệu bảy trăm bốn mươi sáu
nghìn bảy trăm tám mươi lăm Đô la Mỹ và hai mươi bảy cent).
4. Bị đơn tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi quá hạn trên số nợ gốc chưa trả
của từng khế ước kể từ ngày 01/02/2018 cho đến khi trả được hết số nợ gốc theo
mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong từng khế ước.
5. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, bị đơn không trả được nợ
hoặc trả không đủ số tiền trên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành
án phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ là Quyền sử dụng đất tại thửa đất số
30, tờ bản đồ số 3 ấp Tân Mỹ, xã XB, huyện CM, tỉnh ĐN theo Giấy chứng

147
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
BB 947977, số vào sổ cấp GCN CH00189/QDD do UBND huyện CM, tỉnh ĐN
cấp ngày 27/10/2010 cho ông Nguyễn Viết K và chuyển nhượng cho bị đơn theo
hồ sơ số 26353.962971.CN.VS do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh ĐN xác
nhận ngày 02/02/2015.
6. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty cổ phần XNK TH 1
VN phảỉ chịu 242.537.445 (hai trăm bốn mươi hai triệu năm trăm ba mươi bảy
nghìn bốn trăm bốn mươi năm) đồng; Ngân hàng TMCP SGHN được trả lại
62.500.000 (sáu mươi hai triệu năm trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã
nộp theo biên lai số AB/2014/01498 ngày 03/10/2016 tại Chi cục thi hành án
dân sự quận Hoàn Kiếm.
Trả lại cho Công ty cổ phần XNK TH1 VN số tiền tạm ứng án phí kinh
doanh thương mại phúc thẩm 2.000.000 (hai triệu) đồng theo Biên lai thu tiền
tạm ứng án phí số 0002139 ngày 13/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận
Hoàn Kiếm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm xử công khai và có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- Các đương sự; Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa
- VKSND TP Hà Nội;
- TAND quận Hoàn Kiếm;
- Chi cục THA dân sự quận Hoàn Kiếm;
- Lưu HS, VP, HCTP, TKT.

Hoàng Ngọc Thành

148
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN GÒ DẦU Độc lập – Tự do - Hạnh phúc
TỈNH TÂY NINH

Bản án số: 43/2018/DS-ST


Ngày: 24-7-2018
V/v : Tranh chấp hợp đồng
góp hụi, hợp đồng vay tài
sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Lê Minh Hiếu
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Văn Trọn
2. Ông Nguyễn Tuyễn
- Thư ký phiên tòa: Bà Hồ Thị Ngọc Dung – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu,
tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu tham gia phiên tòa :
Ông Lê Văn Hoàng - Kiểm sát viên
Ngày 24 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây
Ninh, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số : 96/2018/TLST-DS ngày 03
tháng 5 năm 2018 về việc: “Tranh chấp dân sự về hợp đồng góp hụi, hợp đồng vay tài
sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2018/QĐST-DS ngày 29/6/2018 giữa
các đương sự:
+ Nguyên đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm: 1954, có mặt,
Địa chỉ: Tổ 37, ấp CA, xã CG, huyện GD, Tây Ninh.
+ Bị đơn: Bà Võ Thị Ngọc O, sinh năm: 1964, có mặt,
Trú tại: Tổ 22, ấp CB, xã CG, huyện GD, Tây Ninh.
+ Người làm chứng:
1/ Bà Trần Thị H, sinh năm: 1960, yêu cầu giải quyết vắng mặt
Địa chỉ: Ấp CT, xã CG, huyện GD, tỉnh Tây Ninh
2/ Bà Lương Thị T, sinh năm: 1955, yêu cầu giải quyết vắng mặt
Địa chỉ: Ấp CA, xã CG, huyện GD, tỉnh Tây Ninh

149
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 23-4-2018, trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Trần Thị H trình bày:

Bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Võ Thị Ngọc O trả số tiền hụi là
216.000.000 đồng và 8.000.000 đồng tiền vay.
Bà là hàng xóm của bà O, bà và chị của bà O là bạn bè với nhau. Bà O có nhờ bà
tham gia hụi của người khác dùm là hụi của bà Trần Thị H và bà Lương Thị T cụ thể
như sau:
+ Hụi 5.000.000 đồng/tháng, khui ngày 08/11/2017 âm lịch, do bà Trần Thị H
làm chủ hụi, gồm 24 phần, bà tham gia 01 phần. Hụi này chưa mãn, bà vẫn góp hụi
đầy đủ cho chủ hụi nhưng bà O không giao tiền đóng hụi, nên bà O còn nợ bà tính đến
mãn hụi 23 kỳ là 115.000.000 đồng.
+ Hụi 3.000.000 đồng/tháng, khui ngày 20/10/2017 âm lịch, do bà Trần Thị H
làm chủ hụi, bà tham gia dùm 01 phần hụi, gồm 24 phần. Hụi này đến nay chưa mãn,
bà vẫn đóng hụi đầy đủ cho chủ hụi nhưng bà O không giao tiền cho bà nên bà O nợ bà
tính đến mãn hụi là 23 kỳ hụi, tổng cộng là 69.000.000 đồng.
+ Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 20/10/2017 âm lịch, do bà Lương Thị T
làm chủ hụi, bà tham gia dùm cho bà O 02 phần hụi, gồm 24 phần. Hụi này đến nay
chưa mãn, bà vẫn đóng hụi đầy đủ cho chủ hụi nhưng bà O không giao tiền góp hụi
nên bà O nợ bà tính đến mãn hụi là 23 kỳ hụi, tổng cộng là 46.000.000 đồng.
Vào tháng 11 và 12/2017 (âm lịch) bà O có giao cho bà tiền góp hụi được
14.000.000 đồng nên bà O còn nợ lại là 216.000.000 đồng. Ngoài ra, bà yêu cầu bà O
trả số tiền vay 8.000.000 đồng, đây là tiền vay cho trả góp hàng ngày. Tổng cộng bà
yêu cầu bà O trả số tiền là 224.000.000 đồng.
Bà xác nhận giữa bà và bà O có xác lập hợp đồng vay tài sản bằng ngoại tệ như
sau: vào tháng 6/2017 (âm lịch) với số tiền 2.000 USD, đến tháng 6/2017 (âm lịch) thứ
2 trong năm với số tiền 2.000 USD và tháng 7/2017 (âm lịch) với số tiền 2.000 USD),
nhưng vào ngày 15-11-2017 (âm lịch) hai bên đã chuyển sang tiền hụi, bà không đồng
ý việc bà O trả lại số tiền vay 6.000 USD.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 08-5-2018, trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa sơ thẩm bị đơn bà Võ Thị Ngọc O trình bày:
Vào tháng 6/2017 (âm lịch) bà có vay của bà H 2.000 USD (đô la Mỹ), thỏa
thuận lãi suất 2.400.000 đồng/tháng, hai bên có làm giấy tờ giao bà H giữ, sau khi vay
bà có trả được tiền lãi suất 01 tháng là 2.400.000 đồng. Đến tháng 6/2017 (âm lịch) thứ
2 trong năm 2017 bà có vay thêm 2.000 USD nữa, bà có ký tên vay thêm vào tờ giấy
trước đó, sau khi vay bà trả tiền lãi của 02 lần vay được 01 tháng là 4.800.000 đồng.
Đến tháng 7/2017 (âm lịch) bà tiếp tục vay thêm 2000 USD, bà có ký tên vay thêm vào

150
tờ giấy trước đó, sau khi vay bà tiếp tục trả tiền lãi suất đầy đủ mỗi tháng 7.200.000
đồng từ tháng 7/2017 (âm lịch) cho đến tháng 10/2017 (âm lịch) là 04 tháng tổng cộng
28.800.000 đồng. Sau đó hai bên có thỏa thuận chuyển sang tiền hụi có làm giấy tay,
nên khoảng 1,5 tháng sau là vào tháng 12/2017 (âm lịch) bà trả cho bà H 14.000.000
đồng do không đủ tiền nên bà trả 14.000.000 đồng thay vì 15.000.000 đồng. Sau đó bà
Hương đi nói với những người hàng xóm là bà “ăn giựt” rồi bà H xúi giục những
người hàng xóm là chủ hụi khác của bà đi thưa kiện nhưng họ không thưa kiện theo
như đề nghị của bà H. Vì vậy, từ đó đến nay bà không đóng hụi thêm cho bà H.
Bà O yêu cầu được trả cho bà H tiền vay ban đầu là 6.000 USD (đô la Mỹ) và
đồng ý trả 8.000.000 đồng tiền vay trả góp. Bà O không đồng ý trả thêm tiền lãi suất vì
từ tháng 12/2017 (âm lịch) thì bà H đã thay đổi thỏa thuận và đi nói xấu bà. Bà O
không đồng ý tiếp tục trả tiền hụi, thực sự bà không biết chủ hụi và không nhận tiền
đăng hụi, bà không yêu cầu đối với số tiền hụi 14.000.000 đồng đã trả cho bà Hương.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, ông Lê Văn Hoàng phát biểu:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa
án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự trong quá trình giải
quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm. Việc chấp hành pháp luật của những người tham
gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Về nội dung:
Xuất phát từ hợp đồng vay ngoại hối là vô hiệu do vi phạm điều cấm, nên việc
bà H và bà O thỏa thuận chuyển từ vay ngoại hối sang hợp đồng góp hụi và bà H yêu
cầu bà O trả số tiền 216.000.000 đồng là không có cơ sở chấp nhận. Việc chuyển sang
hợp đồng góp hụi là để che dấu hợp đồng trước đó đã vi phạm điều cấm.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Chấp nhận yêu cầu của bà H đối với bà O số tiền vay 8.000.000 đồng, ghi
nhận bà H không yêu cầu tính lãi suất;
+ Tuyên bố hợp đồng vay tài sản bằng ngoại tệ là vô hiệu và giải quyết hậu quả
của hợp đồng vô hiệu là buộc bà O trả lại cho bà Hương 6.000 USD được quy đổi
thành tiền Việt Nam tại thời điểm xét xử, buộc bà O nộp lại số tiền lãi 36.000.000
đồng để sung công quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa,
căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Bà Trần Thị H yêu cầu bà Võ Thị Ngọc O trả số tiền
bà O nhờ tham gia góp hụi 216.000.000 đồng và số tiền vay 8.000.000 đồng. Hội đồng
xét xử đối chiếu theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là
“Tranh chấp dân sự về hợp đồng góp hụi, hợp đồng vay tài sản”

151
[2] Về yêu cầu của các đương sự:
Bà Trần Thị H yêu cầu bà Võ Thị Ngọc O trả số tiền hụi là 216.000.000 đồng. Bà
H cho rằng bà O có nhờ bà tham gia hụi của người khác dùm là bà Trần Thị H và
Lương Thị T làm chủ hụi tính đến mãn hụi là 224.000.000 đồng, vào tháng 11 và
12/2017 (âm lịch) bà O có trả cho bà được 14.000.000 đồng tiền hụi nên bà O còn nợ
lại là 216.000.000 đồng. Bà H xác nhận vào tháng 6/2017 (âm lịch) bà cho bà O vay
tiền bằng ngoại tệ với số tiền 2.000 USD, đến tháng 6/2017 (âm lịch) thứ 2 trong năm
cho vay tiếp với số tiền 2.000 USD và tháng 7/2017 (âm lịch) với số tiền 2.000 USD,
hai bên có làm giấy tay vay tiền và bà O có ký tên các lần vay. Bà xác nhận có nhận
tiền lãi suất của bà O đầy đủ đến tháng 10/2017 (âm lịch) tổng cộng là 36.000.000
đồng. Tuy nhiên, vào ngày 15-11-2017 (âm lịch) hai bên đã chuyển sang tiền hụi, có
làm giấy tay nội dung bà O nhờ bà tham gia hụi dùm nên bà trả lại giấy vay tiền cho bà
O.
Bà Võ Thị Ngọc O xác nhận có vay tiền bằng ngoại tệ của bà H tổng cộng là
6.000 USD vào thời gian 02 (hai) tháng 6 và tháng 7/2017 (âm lịch), lãi suất 2.400.000
đồng/tháng đối với 2.000 USD, bà đã trả tiền lãi suất đầy đủ cho bà H đến tháng
10/2017 (âm lịch) tổng cộng là 36.000.000 đồng. Bà O xác nhận vào ngày 15-11-2017
(âm lịch) hai bên có thỏa thuận chuyển sang tiền hụi, bà nhờ bà H tham gia góp hụi
dùm cho bà, bà góp tiền hụi hàng tháng nên bà H đã trả lại giấy vay tiền bằng ngoại tệ
cho bà, giấy này hiện nay không còn. Vào tháng 12/2017 (âm lịch) bà O có trả cho bà
H số tiền hụi là 14.000.000 đồng, thực tế bà không trực tiếp tham gia góp hụi, không
nhận tiền lĩnh hụi, không có sự thống nhất với các chủ hụi.
Từ những tình tiết, sự việc nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy:
Thực tế giữa bà H và O có xác lập hợp đồng vay tiền bằng ngoại tệ tổng cộng là
6.000 USD vào thời gian 02 (hai) tháng 6 và tháng 7/2017 (âm lịch), lãi suất 2.400.000
đồng/tháng đối với 2.000 USD, hai bên có lập giấy vay tiền nhưng hiện nay không
còn. Bà H xác nhận đã nhận tiền lãi suất đến tháng 10/2017 (âm lịch) tổng cộng là
36.000.000 đồng. Đến ngày 15-11-2017 (âm lịch) hai bên thỏa thuận chuyển sang hợp
đồng góp hụi, hai bên hủy bỏ hợp đồng vay tiền bằng ngoại tệ, hàng tháng bà O trả tiền
hụi cho bà H.
Bà H và bà T là các chủ hụi xác định không tham gia hợp đồng góp hụi đối với
bà O, không quen biết bà O, không biết có sự thỏa thuận về hụi giữa bà H và bà O. Xét
thấy việc bà H và bà O tự thỏa thuận hợp đồng góp hụi với nhau không có sự thống
nhất với các chủ hụi, thực tế bà O không có tham gia góp hụi với các chủ hụi, không
được lĩnh (lãnh) hụi là chưa đúng theo quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự, các Điều
6, 7, 8, 9 và 17 Nghị định 144/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27-11-2006 về họ,
hụi, biêu, phường. Việc bà H và bà O thỏa thuận hợp đồng góp hụi là nhằm che giấu
hợp đồng vay bằng ngoại tệ là không đúng quy định của pháp luật nên cần tuyên bố
hợp dồng góp hụi vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là phù hợp với
Điều 124, 131 Bộ luật Dân sự.

152
Theo quy định tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005 (Sửa đổi, bổ sung năm
2013): “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo
giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác của
người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường
hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.”.
Xét thấy, ngoại tệ là một loại ngoại hối hạn chế sử dụng. Bà H và bà O xác lập
hợp đồng vay tài sản bằng ngoại tệ là vi phạm pháp luật nên cần tuyên bố hợp đồng
vay tài sản bằng ngoại tệ là vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là phù
hợp với Điều 123, 131 Bộ luật Dân sự.
Hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Bà O không yêu cầu đối với số tiền 14.000.000
đồng là tiền hụi đã giao cho bà H nên cần ghi nhận. Bà H và bà O xác lập hợp đồng
vay tài sản bằng ngoại tệ là vi phạm pháp luật nên cần buộc bà O trả lại cho bà H 6.000
USD được quy đổi thành giá trị tiền Việt Nam tại thời điểm xét xử sơ thẩm là
135.864.000 đồng (1 USD = 22.644 VND theo tỷ giá trung tâm do Ngân hàng Nhà
nước công bố ngày 23-7-2018) và cần sung công quỹ Nhà nước đối với số tiền lãi suất
bà H đã nhận là 36.000.000 đồng.
Đối với hợp đồng vay tài sản số tiền 8.000.000 đồng bà O xác nhận có nợ và
đồng ý trả nên cần công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự là phù hợp.
[3]Về án phí: Bà H là người cao tuổi nên được miễn tiền án phí theo quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bà O phải chịu 7.193.200 đồng tiền án phí dân sự sơ
thẩm (5% của số tiền 143.864.000 đồng) theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng
Dân sự, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 147, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 123, 124, 131,
463, 466 và 471 của Bộ luật Dân sự; Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005 (Sửa đổi, bổ
sung năm 2013); điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố hợp đồng góp hụi theo giấy tay ngày 15-11-2017 (âm lịch) giữa bà
Trần Thị H và bà Võ Thị Ngọc O là vô hiệu.
Hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Ghi nhận bà O không yêu cầu đối với số tiền hụi
14.000.000 (mười bốn triệu) đồng.
2. Tuyên bố hợp đồng vay tài sản bằng ngoại tệ (USD) giữa bà Trần Thị H và bà
Võ Thị Ngọc O là vô hiệu.

153
Hậu quả của hợp đồng vô hiệu:
Buộc bà Võ Thị Ngọc O phải trả lại cho bà Trần Thị H số tiền 135.864.000 (một
trăm ba mươi lăm triệu tám trăm sáu mươi bốn ngàn) đồng (tương đương với 6.000
USD tại thời điểm xét xử sơ thẩm).
Buộc bà Trần Thị H phải nộp lại số tiền lãi suất đã nhận 36.000.000 (ba mươi
sáu triệu) đồng để sung công quỹ Nhà nước.
3. Công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự như sau:
Bà Võ Thị Ngọc O xác nhận có nợ bà Trần Thị H số tiền vay 8.000.000 (tám
triệu) đồng và đồng ý trả số tiền này.
4. Án phí: Bà Trần Thị H là người cao tuổi nên được miễn tiền án phí. Bà Võ
Thị Ngọc O phải chịu 7.193.200 (bảy triệu một trăm chín mươi ba ngàn hai trăm) đồng
tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (bà Hương)
cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án (bà
Oanh) còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền tự thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự”.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- TAND tỉnh Tây Ninh; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- VKSND huyện Gò Dầu; (Đã ký)
- CC THADS huyện Gò Dầu;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Lê Minh Hiếu

154
7
155
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN B Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THÀNH PHỐ H
Bản án số 852/2018/DS-ST.
Ngày 12/10/2018
“V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, THÀNH PHỐ H
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Thải.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Lê Thị Tý.
2. Bà Trần Thị Thiếu Liên.
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Mai Lệ – Thư ký Tòa án nhân dân quận B,
Thành phố H.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B tham gia phiên tòa: Bà Hoàng
Thị Hà - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 05 và 12 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân
quận B, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 542/2016/TLST -
DS ngày 20 tháng 12 năm 2016, về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2018/QĐXXST-DS ngày 10
tháng 9 năm 2018, giữa:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bích Th, sinh năm 1969;
Địa chỉ: Phường B, Quận T, Thành phố H.
Có ông Nguyễn Trung Ch đại diện ủy quyền theo giấy ủy quyền có công chứng
số 029455, Quyển số 11 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/11/2016.
Bị đơn: Ông Phan Thanh T, sinh năm 1958;
Bà Phan Thị Tr, sinh năm: 1958.
Cùng địa chỉ: phường CK, Quận M, Thành phố H. (Bà Phan Thị Tr có ông Phan
Thanh T đại diện ủy quyền, theo giấy ủy quyền có chứng thực số 3352 quyển số 10-
SCT/CK,ĐC ngày 03/10/2018 của UBND phường CK, Quận M, Thành phố H).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Công ty TNHH Thương mại dịch vụ ĐA.
Địa chỉ: Phường TTA, quận B, Thành phố H. Có ông YA - đại diện ủy quyền
theo giấy ủy quyền của giám đốc Công ty TNHH Thương mại dịch vụ ĐA. (Có
đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:

156
Trong đơn khởi kiện đề ngày 25/11/2016 và bản tự khai, bà Nguyễn Thị Bích Th
có ông Nguyễn Trung Ch đại diện ủy quyền, trình bày: Ngày 15/12/2002, ông Phan
Thanh T và bà Phan Thị Tr làm hợp đồng chuyển nhượng 03 lô đất D4, D5, D6 tại
phường TTA, quận B, Thành phố H cho bà Th với giá 110.000 USD (Một trăm mười
ngàn đô la Mỹ), 03 lô đất này nằm trong số đất của ông T và bà Tr đầu tư vào dự án
của Công ty TNHH Thương mại dịch vụ ĐA (gọi tắt là công ty ĐA) nên trên GCN
quyền sử dụng đất đứng tên công ty ĐA.
Sau nhiều lần bà Th yêu cầu ông T và bà Tr làm thủ tục chuyển quyền sử dụng
đất nhưng bị hẹn mãi không thực hiện. Vào ngày 04/4/2016, ông T nhận thêm
75.000.000 đồng (Bảy mươi lăm triệu đồng) của bà Th để lo làm thủ tục sang tên
nhưng cho đến nay vẫn không thực hiện.
Nay, bà Th yêu cầu ông T và bà Tr thực hiện nghĩa vụ chuyển nhượng 03 lô đất
nói trên cho bà Th. Trường hợp ông T và bà Tr không thực hiện thì phải trả lại tiền
vốn và tiền lãi trong thời gian từ năm 2002 cho đến nay, cụ thể như sau:
Từ tháng 12/2002 đến 12/2007, theo tỷ giá 16.000 đồng/1USD nên số tiền
110.000 USD quy đổi là 1.760.000.000 đồng, lãi suất của số tiền này là 1.760.000.000
đồng x 8,25% x 05 năm = 726.000.000 đồng, như vậy, số tiền gốc và lãi là
2.486.000.000 đồng. Từ tháng 12/2007 đến 12/2011, lãi suất cơ bản 12%/năm, số tiền
lãi được tính như sau: 2.486.000.000 đồng x 12% x 04 năm = 1.193.280.000 đồng,
như vậy, số tiền mới được hình thành tính đến 12/2011 là 2.486.000.000 đồng +
1.193.280.000 đồng = 3.679.280.000 đồng. Từ 12/2011 đến 11/2016, lãi suất cơ bản
9%/năm. Số tiền lãi của 3.679.280.000 đồng được tính như sau: 3.679.280.000 đồng x
9% x 59 tháng = 1.628.081.400 đồng. Số tiền mới được hình thành tính đến 11/2016 là
3.679.280.000 đồng + 1.628.081.400 đồng = 5.307.361.400 đồng (Năm tỷ ba trăm lẻ
bảy triệu ba trăm sáu mươi mốt ngàn bốn trăm đồng) và khoản tiền 75.000.000 đồng
ông T nhận ngày 04/4/2016 để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Ông Phan Thanh T, trình bày: Ông đã cùng hợp tác đầu tư từ đầu vào dự án khu
nhà ở cùng với công ty ĐA thuộc xã TT, huyện BC (nay thuộc phường TTA, quận B,
Thành phố H) theo nguyên tắc thanh toán tất cả các chi phí đầu tư theo tỷ lệ được thụ
hưởng gồm 10 nền nhà tại hợp đồng chuyển nhượng nền nhà phần hạ tầng kỹ thuật số
09/HĐKT-2004 ngày 08/2/2004 tại văn phòng công ty ĐA. Bên chuyển nhượng là
công ty ĐA do ông Đinh Văn Ph làm giám đốc ký tên đóng dấu. Ngoài ra, ông có thụ
hưởng thêm 04 nền nhà khác không nằm trong 10 nền nhà thuộc hợp đồng trên. Trong
số 04 nền nhà này, ông đã chuyển nhượng cho bà Th 03 nền theo giấy chuyển nhượng
nền nhà ngày 15/12/2002 và chuyển nhượng 01 nền nhà khác cho ông Nguyễn Văn O.
Việc ký kết giữa hai hợp đồng này đều có sự chứng kiến của ông Ph là giám đốc công
ty ĐA tại thời điểm này.
Vào năm 2005, công ty ĐA được Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố H cấp
69 giấy CNQSD đất, trong đó có 14 giấy chứng nhận thuộc các nền nhà mà ông thụ
hưởng. Trong phần 14 lô đất kể trên, vào năm 2005, ông có xây một biệt thự tại nền
nhà số D7 nhưng hiện nay công ty ĐA vẫn chưa làm thủ tục chuyển nhượng sang tên
cho ông theo quy định của pháp luật.

157
Để chứng minh cho việc ông là chủ sở hữu hợp pháp của 14 nền đất nói trên
trong số 69 nền nhà của dự án khu nhà ở của công ty ĐA tại phường TTA, quận B,
Thành phố H, ngoài hợp đồng 09/HĐKT-2004 ngày 08/02/2004, ông xin cung cấp
thêm các chứng cứ sau: Giấy cam kết thanh toán tiền vốn góp liên doanh đầu tư ký
ngày 01/4/2010; Hợp đồng liên doanh hợp tác đầu tư xây dựng kinh doanh dự án số
0904-2012/HĐLD-ĐA/NT ký ngày 09/4/2012 giữa công ty ĐA và công ty NT; Vi
bằng ngày 03/12/2015 của Thừa phát lại Quận M, Thành phố H; Hợp đồng chuyển
nhượng phần vốn góp số 02.2015/HĐCN-ĐA và hợp đồng thanh toán chi phí đầu tư
dự án số 01.2015/HĐCN-ĐA giữa công ty ĐA và bà Nguyễn Thị Thùy L. Ngoài ra,
ông yêu cầu Tòa án triệu tập những người có liên quan gồm: giám đốc của công ty ĐA
hiện tại, ông Đinh Văn Ph và ông Phan Mạnh T để xác định quyền sử dụng đất của
ông.
Nay, đối với yêu cầu của bà Th, ông có ý kiến như sau: Ông đồng ý với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, thống nhất yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất lập ngày 15/12/2002 giữa ông và bà Tr với bà Th; hủy giấy nhận tiền đề ngày
04/4/2016 giữa ông với bà Th. Đối với số tiền 110.000 USD và số tiền 75.000.000
đồng để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông cũng đồng ý trả cho bà Th
trong trường hợp công ty ĐA hoàn trả cho ông 14 lô đất.
Hiện nay, ông đang yêu cầu Công an quận B, Thành phố H thụ lý giải quyết
tranh chấp 14 lô đất đối với công ty ĐA, (trong đó có 03 lô đất D4, D5, D6 đang tranh
chấp chuyển nhượng giữa ông với bà Th).
Bà Phan Thị Tr, trình bày: Đối với hợp đồng mua bán ký ngày 15/12/2002 giữa
ông T cùng bà với bà Th, bà có ký tên bên người bán vì bà là vợ của ông T, theo pháp
luật quy định bà là đồng sở hữu của các lô đất trên, nên khi chuyển nhượng bà phải ký
tên vào hợp đồng mua bán. Nay, đối với yêu cầu của bà Th, bà có ý kiến như sau: Việc
bà ký vào hợp đồng chỉ là để hợp pháp hóa, còn trách nhiệm thực hiện hợp đồng là
việc của các bên bà không có ý kiến hay yêu cầu gì. Do bận công việc bà xin vắng mặt
trong các buổi làm việc, hòa giải và xét xử của tòa.
Công ty TNHH Sản xuất Thương mại dịch vụ ĐA có bà Huỳnh Uyển Th, giám
đốc- đại diện theo pháp luật, trình bày: Đối với đơn khởi kiện và yêu cầu của bà Th và
ông T, công ty ĐA có ý kiến xác nhận các lô đất D4, D5, D6 trên thuộc quyền sở hữu
của công ty từ trước tới nay. Việc ông T và bà Tr có chuyển nhượng các lô đất trên
cho bà Th hay không, công ty ĐA hoàn toàn không biết, đồng thời công ty ĐA cũng
không chuyển nhượng đất cho ông T.
Tại phiên toà hôm nay:
Bà Th, có ông Ch đại diện ủy quyền, yêu cầu: hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất lập ngày 15/12/2002; hủy giấy nhận tiền đề ngày 04/4/2016 giữa
đôi bên, buộc ông T và bà Tr phải hoàn trả lại số tiền đã nhận là 110.000USD (được
quy đổi ra tiền Việt Nam) cùng với số tiền 75.000.000 đồng.
Đồng thời, do các bên đều có lỗi làm cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất vô hiệu, cụ thể là bà Th có lỗi ½, ông T và bà Tr có lỗi ½, nên yêu cầu ông T
và bà Tr phải bồi thường thiệt hại tương ứng phần lỗi phải chịu với số tiền

158
3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng), yêu cầu ông T và bà Tr trả lại toàn bộ số tiền trên
làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Bà Th có ông Ch đại diện, rút lại yêu cầu phía ông T và bà Tr phải trả tiền lãi đối
với số tiền 110.000 USD như trong đơn khởi kiện.
Ông Phan Thanh T và bà Phan Thị Tr (bà Tr có ông T đại diện ủy quyền) đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thống nhất yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 15/12/2002; hủy giấy nhận tiền đề ngày
04/4/2016 đôi bên và đồng ý trả lại cho bà Th số tiền 110.000 USD (được quy đổi ra
tiền Việt Nam) cùng với 75.000.000 đồng, tuy nhiên phải chờ khi nào công ty ĐA
hoàn trả cho ông và bà Tr 14 lô đất thì ông sẽ trả tiền cho bà Th.
Đối với yêu cầu bồi thường số tiền 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng), ông T xác
nhận các bên đều có lỗi làm cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu
nhưng ông và bà Tr không đồng ý với yêu cầu bồi thường của bà Th.
Công ty TNHH Thương mại dịch vụ ĐA có ông YA, đại diện ủy quyền có đơn
xin xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B phát biểu: Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ
lý vụ án tới trước thời điểm xét xử, thấy rằng Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định
của pháp luật như thụ lý và giải quyết đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ tranh
chấp, tư cách và mối quan hệ của những người tham gia tố tụng. Hội đồng xét xử tiến
hành xét xử vụ án đúng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, tuân thủ đúng pháp luật;
Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của mình.
Về nội dung: Xét thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên
đương sự là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, do đó đề nghị HĐXX chấp
nhận yêu cầu của bà Th về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập
ngày 15/12/2002 giữa ông T và bà Tr với bà Th; hủy giấy nhận tiền đề ngày
04/4/2016 giữa ông T với bà Th, buộc ông T và bà Tr trả lại cho bà Th số tiền đã nhận
là 110.000 USD (được quy đổi ra tiền Việt Nam) cùng số tiền 75.000.000 đồng, trả lại
toàn bộ số tiền trên làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Tại phiên tòa,
do bà Th, có ông Ch đại diện, rút yêu cầu tính lãi, đề nghị HĐXX đình chỉ yêu cầu
buộc ông T, bà Tr phải trả tiền lãi đối với số tiền 110.000 USD của bà Th. Đối với các
lô đất D4, D5, D6 đang do công ty ĐA đứng tên quyền sử dụng đất và đang quản lý,
do đó không có cơ sở buộc bà Th phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả đất. Đối với yêu
cầu của bà Th cho rằng các bên đều có lỗi làm cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất vô hiệu do vi phạm điều cấm nên buộc ông T và bà Tr phải bồi thường
3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng) là không có căn cứ, đề nghị HĐXX không xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa
và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng: Quan hệ pháp luật trong vụ án này là tranh chấp dân sự về hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bất động sản tranh chấp tọa lạc tại quận B, theo
quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ

159
luật tố tụng dân sự, thì vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
quận B, Thành phố H.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Th với ông T và bà Tr
đươc ký kết ngày 15/12/2002, đây là giao dịch dân sự được xác lập khi Bộ luật dân sự
năm 1995 có hiệu lực, nên áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và các
văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng Bộ luật dân sự năm 1995 để giải quyết.
Ngày 15/12/2002, giữa bà Th với ông T và bà Tr có lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất (với tên gọi hợp đồng mua bán) để chuyển nhượng 03 lô
đất D4, D5 và D6 tại khu dân cư ĐA thuộc ấp 2, xã TT, huyện BC (nay là phường
TTA, quận B, Thành phố H), giá chuyển nhượng là 110.000 USD (Một trăm mười
ngàn đô la Mỹ). Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ngày 04/4/2016, bà Th có giao
thêm cho ông T số tiền 75.000.000 đồng để làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất.
Quá trình thực hiện giao dịch, giữa đôi bên có tranh chấp nên bà Th có đơn khởi kiện
ông T và bà Tr tại Tòa án nhân dân quận B.
Qua yêu cầu khởi kiện của bà Th, xét thấy:
[1]. Trong quá trình thu thập chứng cứ, hòa giải thì bà Th có ông Ch là đại diện
ủy quyền, khai nhận các bên có quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng giấy
tay đề ngày 15/12/2002 đối với 03 lô đất D4, D5 và D6 tại khu dân cư ĐA thuộc ấp 2,
xã TT, huyện BC (nay là phường TTA, quận B, Thành phố H) với giá 110.000 USD.
Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 10/01/2018, ông T, trình bày: “... xác nhận có
ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà Nguyễn Thị Bích Th đối với 03
lô đất D4, D5, D6, phường TTA, quận B, Thành phố H....”, ông cũng xác nhận
04/4/2016, có nhận thêm của bà Th số tiền 75.000.000 đồng để làm thủ tục chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
Từ sự thừa nhận của đôi bên, có cơ sở xác định giữa ông T và bà Tr với bà Th có
ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng giấy tay đề ngày 15/12/2002,
không có công chứng chứng, chứng thực để chuyển nhượng 03 lô đất D4, D5, D6 tại
khu dân cư ĐA thuộc ấp 2, xã TT, huyện BC (nay là phường TTA, quận B, Thành phố
H).
Theo quy định tại Điều 707 của Bộ luật dân sự năm 1995 về hình thức hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
phải được lập thành văn bản. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được phép
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, phải được làm thủ tục và đăng ký tại Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai”.
Tại khoản 2 Điều 31 của Luật đất đai năm 1993 quy định:“ Thủ tục chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ở nông thôn làm tại Uỷ ban nhân dân huyện; ở đô thị làm
tại Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”.
Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Th với ông T và
bà Tr đã không tuân thủ đúng quy định của pháp luật về hình thức của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giữa bà Th với ông T
và bà Tr tiến hành giao dịch với nhau bằng ngoại tệ là đồng Đô la Mỹ.

160
Theo khoản 2 Điều 1 của Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của
Chính phủ quy định:“Tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mọi hoạt động
ngoại hối của tổ chức, cá nhân phải tuân theo các quy định của Nghị định này và các
quy định khác có liên quan của pháp luật. Ngoại hối chỉ được lưu hành qua hệ thống
ngân hàng, tổ chức và cá nhân được phép hoạt động ngoại hối”.
Tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005, quy định: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi
giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú
không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các
trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường
hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép” và khoản 13 Điều 1 Pháp
lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh số 06/2013/PL-UBTVQH13 ngày
18 tháng 03 năm 2013, quy định: “Điều 22 được sửa đổi, bổ sung như sau: Trên lãnh
thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi
giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác của người cư trú,
người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được
phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”.
Do đó, giao dịch giữa bà Th với ông T và bà Tr đã vi phạm điều cấm là giao dịch
bằng ngoại tệ nên giao dịch này là vô hiệu, được quy định tại khoản 1 Điều 137 Bộ
luật dân sự 1995 và tại Điều 123 Bộ luật dân sự 2015, nên hợp đồng được ký kết giữa
bà Th với ông T, bà Tr không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ
thời điểm xác lập, đôi bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy định của
pháp luật.
Tại phiên tòa, phía bà Th khai nhận đã giao cho phía ông T, bà Tr số tiền 110.000
USD và số tiền 75.000.000 đồng, phía ông T và bà Tr (có ông T đại diện) cũng đồng ý
trả lại số tiền trên cho bà Th, như vậy có căn cứ buộc ông T và bà Tr phải trả lại số tiền
đã nhận cho bà Th. Đối với 03 lô đất D4, D5, D6 tại khu dân cư ĐA thuộc ấp 2, xã
TT, huyện BC (nay là phường TTA, quận B, Thành phố H), đôi bên thừa nhận các lô
đất này đang do công ty ĐA đứng tên quyền sử dụng và thuộc quyền quản lý của công
ty ĐA do đó không có căn cứ xác định bà Th đã nhận đất từ ông T và bà Tr nên bà Th
không phải thực hiện nghĩa vụ trả lại đất cho phía ông T và bà Tr.
Từ những nhận định trên, xét yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất lập ngày 15/12/2002; hủy giấy nhận tiền đề ngày 04/4/2016 giữa đôi bên,
buộc ông T và bà Tr phải hoàn trả lại số tiền đã nhận là 110.000USD (được quy đổi ra
tiền Việt Nam) cùng với số tiền 75.000.000 đồng, trả làm một lần ngay sau khi án có
hiệu lực pháp luật của bà Th là có căn cứ chấp nhận.
Căn cứ theo giá mua vào của Ngân hàng Ngoại Thương đối với đồng Đô la Mỹ
đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 12/10/2018 là 23.305 đồng/1USD (110.000
USD = 2.563.550.000 đồng). Tổng số tiền mà ông T và bà Tr phải trả cho bà Th là:
2.563.550.000 đồng + 75.000.000 đồng = 2.638.550.000 đồng (Hai tỷ sáu trăm ba
mươi tám triệu năm trăm năm mươi ngàn đồng).
Tại phiên tòa, bà Th (có ông Ch đại diện) cho rằng hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 15/12/2002 bịvô hiệu là do lỗi của đôi bên và xác định mỗi

161
bên phải chịu ½ lỗi. Vì vậy, bà Th yêu cầu ông T và bà Tr phải bồi thường thiệt hại
tương ứng phần lỗi phải chịu với số tiền 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng).
Theo điểm c, tiểu mục 2.3, mục 2 của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao quy định xác định lỗi,
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất vô hiệu thì: “Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của
Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao”. Tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của của Nghị quyết số
01/2003/NQ-HĐTP ngày16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
quy định về xác định lỗi thì khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu, về nguyên tắc chung khi
giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, Tòa án buộc các bên phải trả lại cho nhau
những gì đã nhận và xác định lỗi của các bên để giải quyết bồi thường thiệt hại. Tuy
nhiên, nếu hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật mà hai bên đều có lỗi
thì không xác định lỗi để bồi thường thiệt hại, trong trường hợp có thiệt hại thì mỗi
bên tự chịu phần thiệt hại của mình theo quy định tại khoản 2 Điều 137 của Bộ luật
dân sự 1995: “Trong trường hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi, thì mỗi bên tự
chịu phần thiệt hại của mình; nếu chỉ một bên có lỗi, thì bên đó phải bồi thường thiệt
hại cho bên kia”.
Xét thấy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa bà Th
với ông T và bà Tr đã vô hiệu do vi phạm điều cấm, đôi bên đều xác định có lỗi, thì bà
Th với ông T và bà Tr tự chịu phần thiệt hại của mình theo quy định của pháp luật.
Mặc khác, yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà Th thuộc trường hợp phải có đơn yêu
cầu và nộp tạm ứng án phí nhưng trong suốt quá trình chuẩn bị xét xử vụ án, bà Th
không có yêu cầu bồi thường thiệt hại và không nộp tạm ứng án phí đối với yêu cầu
này. Do đó, yêu cầu bồi thường thiệt hại của phía bà Th là không có cơ sở xem xét.
Tại phiên tòa, bà Th (có ông Ch đại diện) rút lại yêu cầu buộc ông T và bà Tr
phải trả tiền lãi đối với số tiền 110.000 USD, xét thấy việc rút yêu cầu này là hoàn toàn
tự nguyện, đúng pháp luật nên chấp nhận.
[2]. Phía ông T và bà Tr (bà Tr có ông T đại diện), cũng đồng ý hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 15/12/2002; hủy giấy nhận tiền đề ngày
04/4/2016 giữa đôi bên và đồng ý trả lại số tiền đã nhận là 110.000 USD (được quy
đổi ra tiền Việt Nam) cùng số tiền 75.000.000 đồng. Tuy nhiên, có yêu cầu khi nào
công ty ĐA hoàn trả 14 lô đất, thì sẽ trả lại số tiền trên cho bà Th, xét thấy yêu cầu này
là nhằm kéo dài thời gian thanh toán tiền và không được phía nguyên đơn đồng ý,
không đúng pháp luật nên không chấp nhận.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T có yêu cầu Tòa án triệu tập những người
có liên quan là ông Đinh Văn Ph, ông Phan Mạnh T để xác định quyền sử dụng đất đối
14 lô đất giữa ông với công ty ĐA (trong đó có 03 lô D4, D5, D6 chuyển nhượng cho
bà Th). Đây là quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông T và bà Tr với công ty
ĐA. Tuy nhiên, ông T và bà Tr không có đơn yêu cầu trong vụ án này, do đó Tòa
không xét. Ông T và bà Tr được quyền khởi kiện tranh chấp đối với công ty ĐA trong
một vụ án dân sự khác.

162
[3]. Công ty TNHH Thương mại dịch vụ ĐA đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn
cứ Điều 228, Bộ luật tố dụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt
đương sự.
[4]. Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B xét thấy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên đương sự là vô hiệu do vi phạm điều
cấm của pháp luật, do đó đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà Th về việc hủy
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 15/12/2002; hủy giấy nhận tiền
đề ngày 04/4/2016 giữa đôi bên. Buộc ông T, bà Tr trả lại cho bà Th số tiền đã nhận là
110.000 USD (được quy đổi ra tiền Việt Nam) cùng với số tiền 75.000.000 đồng, trả
lại toàn bộ số tiền trên làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Đối với việc
rút yêu cầu tính lãi của phía nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện nên đình chỉ giải
quyết. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của phía nguyên đơn là không có cơ sở
xem xét như HĐXX nhận định nên không xét. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là
phù hợp với quy định của pháp luật, có cơ sở chấp nhận.
[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết 326 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; khoản 3 Điều 144 và
Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì: Ông T, bà Tr chịu trách nhiệm trả tiền
cho bà Th nên phải chịu án phí trên số tiền phải trả là 2.638.550.000 đồng.
Số tiền án phí là 72.000.000 đồng + (2% x 638.550.000 đồng) = 84.771.000
đồng. Ông T, bà Tr phải chịu án phí là 84.771.000 đồng.
Bà Th không phải chịu án phí DSST. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho Th là
56.691.180 đồng theo biên lai thu số 0001692 ngày 16/12/2016 của Chi cục Thi hành
án dân sự quận B, Thành phố H.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39;
Điều 146; Điều 147; Điều 203; Điều 220; Điều 227; Điều 228 và Điều 235 Bộ luật tố
tụng dân sự;
Căn cứ các điều 121; 122; 124; 127; 128; 134; 137 Bộ luật dân sự 2005 và Điều
357 và Điều 468 Bộ luật dân sự 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 31 Luật đấ đai năm 1993;
Căn cứ Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005 và khoản 13 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi,
bổ sung một số điều của pháp lệnh số 06/2013/PL-UBTVQH13 ngày 18 tháng
03 năm 2013;
Căn cứ Nghị quyết 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của UBTVQH.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi của bà Nguyễn Thị Bích Th.
Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tên gọi là hợp đồng mua
bán) lập ngày 15/12/2002 giữa ông Phan Thanh T và bà Phan Thị Tr với bà Nguyễn
Thị Bích Th; hủy giấy nhận tiền đề ngày 04/4/2016 giữa ông Phan Thanh T với bà
Nguyễn Thị Bích Th.

163
Buộc ông Phan Thanh T và bà Phan Thị Tr có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn
Thị Bích Th tổng cộng số tiền là 2.638.550.000 đồng (Hai tỷ sáu trăm ba mươi tám
triệu năm trăm năm mươi ngàn đồng), trả làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực
pháp luật.
Đình chỉ giải quyết yêu cầu của bà Nguyễn Thị Bích Th về việc buộc ông Phan
Thanh T và bà Phan Thị Tr phải trả tiền lãi đối với số tiền 110.000 USD.
Đôi bên thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Trường hợp ông Phan Thanh T và bà Phan Thị Tr chậm trả tiền thì phải trả lãi
đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm
trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Án phí DSST: Ông Phan Thanh T, bà Phan Thị Tr phải chịu số tiền án phí là
84.771.000 đồng (Tám mươi bốn triệu bảy trăm bảy mươi mốt ngàn đồng).
Bà Th không phải chịu án phí DSST. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho bà Th là
56.691.180 đồng theo biên lai thu số 0001692 ngày 16/12/2016 của Chi cục Thi hành
án dân sự quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày Tòa tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại địa phương.
“Trường hợp quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
(Đã giải thích quy định về quyền yêu cầu thi hành án cho các đương sự).
Nơi nhận: T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND TP.H; Thẩm Phán - Chủ tọa phiên tòa
- VKSND quận B;
(Đã ký và đóng dấu)
- CC THADS quận B;
- Các đương sự; Nguyễn Thành Thải
- Lưu hồ sơ –VP (Mai Lệ).

164
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG BÌNH §éc lËp - Tù do - H¹nh Phóc
Bản án số: 03/2018/KDTM-PT
Ngày 27 -11 - 2018
V/v tranh chấp hợp đồng
mua bán hàng hóa

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Từ Thị Hải Dương
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hữu Tuyến
Ông Trần Hữu Sỹ
- Thư ký phiên toà: Bà Hoàng Thị Thu - Thư ký TAND tỉnh Quảng Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên toà:
Ông Nguyễn Anh Đức - Kiểm sát viên.

Ngày 27 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2018/TLPT - KDTM ngày
25/9/2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.
Do bản án kinh doanh Thương mại sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày
16/8/2018 của Toà án nhân dân thị xã Ba Đồn bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 154/2018/QĐ-PT ngày
03/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH TVA
Đại diện theo pháp luật: Bà Võ Thị Hoài Th – Giám đốc Công ty
Địa chỉ: Số N Thái Phiên, khu phố k, phường m, thành phố ĐH, tỉnh Quảng
Trị, vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Thị Thuý H, trú tại 88B đường H
phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, theo giấy uỷ quyền ngày
20/10/2018, có mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ tổng hợp TV
Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Hùng C - Giám đốc công ty
Địa chỉ: Khu phố m, phường B, thị xã B, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê D - Văn phòng Luật sư N thuộc Đoàn
luật sư tỉnh Quảng Bình.
Địa chỉ: số x đường B, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt tại
phiên toà.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Bà Nguyễn Thị Cẩm Nh; Địa chỉ: số nhà h, đường Q, phường B, thị xã B,
tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

165
NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án phía nguyên đơn trình bày:
Ngày 03/7/2017 giữa công ty TNHH TVA (gọi tắt là Công ty TVA) và
Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ tổng hợp TV (gọi tắt là Công ty TV) đã
thống nhất ký kết hợp đồng nguyên tắc bán hàng số 01-CT/2017. Theo đó Công ty
TV sẽ bán hàng là than củi có xuất xứ từ Lào cho Công ty TVA, quy cách hàng
hóa, thời gian, phương thức thanh toán sau này hai bên sẽ ký kết các hợp đồng đối
với từng lô hàng cụ thể. Sau khi ký kết hợp đồng nguyên tắc, hai bên đã nhiều lần
giao dịch mua bán hàng hóa nhưng chỉ thỏa thuận bằng miệng mà không lập các
hợp đồng cụ thể, khi nào Công ty TV giao hàng thì Công ty TVA giao tiền. Tuy
nhiên, ngày 03/11/2017, Công ty TVA và Công ty TV từ Lào về Việt Nam và cùng
nhau ký kết Hợp đồng mua bán hàng hóa số 31102017/HĐMB về việc mua bán
than trắng xuất xứ từ Lào với số lượng 2.250 thùng với giá 23.625 USD (Quy cách
thùng: 10 kg/01 thùng; đơn giá là 10.5 USD/thùng), bên bán là Công ty TV, bên
mua là Công ty TVA; thời hạn giao hàng chậm nhất là 35 ngày kể từ ngày đặt cọc
và giao hết tiền chậm nhất 35 ngày kể từ ngày nhận hàng. Tuy hợp đồng được ký
kết vào ngày 03/11/2017 nhưng hai bên lại thống nhất lấy ngày 31/10/2017 để ghi
trong hợp đồng. Cùng ngày 03/11/2017, theo yêu cầu của bên Công ty TV, Công ty
TVA rút từ Ngân hàng và đã đặt cọc cho Công ty TV số tiền mặt 150.000.000
đồng, hai bên giao nhận tiền bằng hình thức Công ty TV ký nhận tiền vào cuối bản
hợp đồng giao cho Công ty TVA. Để thực hiện hợp đồng, ngày 06/11/2017, Công
ty TVA tiếp tục chuyển tiền đặt cọc vào số tài khoản 0311000705837 (là số tài
khoản của Công ty TV ghi trong hợp đồng) số tiền 150.000.000 đồng nhưng Ngân
hàng tính bằng ngoại tệ tương ứng 6.613,76 USD (Đô la Mỹ). Trong hai ngày 13
và 14/12/2017, Công ty TVA tiếp tục chuyển vào số tài khoản nói trên cho Công ty
TV số tiền 100.000.000 đồng, được chia làm hai lần, mỗi lần chuyển 50.000.000
đồng. Ngoài tổng số tiền 400.000.000 đồng mà Công ty TVA đã ba lần chuyển cho
Công ty TV nói trên thì Công ty TVA còn mua và chuyển qua Lào cho Công ty TV
4.300 thùng giấy có giá là 73.100.000 đồng (giá mỗi thùng là 13.700 đồng, cước
vận chuyển 3.300 đồng/ thùng) để Công ty TV đóng hàng và hai bên thỏa thuận sẽ
khấu trừ số tiền này vào khoản tiền mà Công ty TVA giao cho Công ty TV sau khi
nhận hàng. Hết thời hạn giao hàng theo thỏa thuận tại hợp đồng nhưng không thấy
Công ty TV chuyển hàng, Công ty TVA đã nhắc nhở và gửi thông báo nhiều lần
yêu cầu thực hiện hợp đồng cho Công ty TV nhưng Công ty TV vẫn không thực
hiện. Khi Công ty TVA đã tìm cách gặp đại diện Công ty TV thì Công ty TV trốn
tránh. Vì vậy, Công ty TVA khởi kiện yêu cầu Công ty TV phải thực hiện các
nghĩa vụ do vi phạm Hợp đồng số: 31102017/HĐMB ngày 31/10/2017 hai bên đã
ký kết. Buộc Công ty TV phải trả cho Công ty TVA 400.000.000 đồng tiền mua
hàng mà Công ty TVA đã chuyển trước cho Công ty TV; thanh toán số tiền
73.100.000 đồng tương ứng trị giá 4.300 thùng giấy và chi phí vận chuyển số
thùng giấy đó từ Việt Nam qua Lào giao cho Công ty TV; thanh toán khoản tiền
phạt vi phạm hợp đồng là 26.867.531 đồng tương ứng 5% giá trị hợp đồng. Tổng
số tiền Công ty TV phải trả choCông ty TVA là 499.967.531 đồng.

166
Tại phiên tòa sơ thẩm Công ty TVA rút yêu cầu khởi kiện đối với khoản tiền
150.000.000 đồng đã giao cho Công ty TV ngày 03/11/2017. Số tiền mà Công ty
TVA yêu cầu Công ty TV trả còn lại là 349.967.531.
Về phía bị đơn tại bản tự khai, các phiên hòa giải và tại phiên tòa trình bày:
Bị đơn thừa nhận vào ngày 03/11/2017 Công ty TV và Công ty TVA đã ký kết
Hợp đồng mua bán hàng hóa số 31102017/HĐMB với nội dung như phía nguyên
đơn trình bày, hai bên thống nhất lấy ngày 31/10/2017 để ghi trong hợp đồng. Tuy
nhiên, sau khi ký hợp đồng, khi kiểm tra lại hợp đồng để ký nháy từng trang thì đại
diện Công ty TV phát hiện số tài khoản của Công ty TV ghi trong hợp đồng không
đúng, đó là số tài khoản bà Nguyễn Thị Cẩm Nh (vợ ông Trần Hùng C - Giám đốc
Công ty TV) chứ không phải là số tài khoản của Công ty TV, nên đã yêu cầu đại
diện Công ty TVA sửa lại đúng số tài khoản của Công ty TV thì hợp đồng mới có
hiệu lực. Tuy nhiên, do Công ty TVA không chịu sửa lại số tài khoản của Công ty
TV nên Hợp đồng mua bán hàng hóa số 31102017/HĐMB không có hiệu lực ngay
từ khi thời điểm giao kết. Vì vậy, Công ty TV đã dừng toàn bộ mọi thỏa thuận và
mọi giao dịch mua bán hàng hóa với Công ty TVA. Đối với các yêu cầu khởi kiện
mà phía nguyên đơn đưa ra thì Công ty TV không đồng ý toàn bộ, với lý do:
Đối với số tiền đặt cọc vào ngày 03/11/2017 mà Công ty TVA yêu cầu,
Công ty TV khẳng định số tiền này là không có thực, do lúc đó bà Võ Thị Hoài Th
- Giám đốc Công ty TVA không có tiền mặt nên không thể có việc bà Th đặt cọc
cho Công ty TV số tiền là 150.000.000 đồng. Mặt khác, hợp đồng không có hiệu
lực ngay sau khi giao kết nên Công ty TV không có lý do để nhận số tiền đặt cọc
này.
Đối với số tiền 150.000.000 đồng và số tiền 100.000.000 đồng mà bà Th
chuyển vào số tài khoản của bà Nguyễn Thị Cẩm Nh (vợ ông C) lần lượt vào ngày
06/11/2017 và các ngày 13, 14/12/2017, đây là tiền bà Th trả nợ của các đợt mua
hàng trước đây và các giao dịch riêng khác với bà Nh, không liên quan gì đến số
tiền thỏa thuận trong Hợp đồng số 31102017/HĐMB vì hợp đồng này không có
hiệu lực. Mặt khác, theo hợp đồng nói trên thì tiền đặt cọc Công ty TVA phải
chuyển cho Công ty TV là 11.812,5USD, quy ra tiền VNĐ tại thời điểm giao kết
vào khoảng 268.000.000 đồng không khớp với số tiền mà Công ty TVA đã chuyển
qua tài khoản của bà Nh.
Đối với số thùng giấy đựng hàng 4.300 chiếc mà Công ty TVA cho rằng đã
mua cho Công ty TV và đã chuyển cho Công ty TV, thực chất đây là số thùng giấy
mà Công ty TV mua sau đó nhờ Công ty TVA vận chuyển qua Lào, nhưng do
không có kho đựng hàng nên Công ty TV đã gửi tại kho hàng mà trước đó Công ty
TV đã thuê của Công ty TVA (Theo Hợp đồng số: 01/HĐTNXVKB ngày
30/6/2017 về thuê kho bãi giữa Công ty TV và Công ty TVA).
Về hợp đồng mua bán hàng hóa số 31102017/HĐMB ngày 31/10/2017 tuy
hai bên đã ký kết và đóng dấu của hai Công ty. Tuy nhiên, sau đó Hợp đồng chưa
được ký nháy từng trang, chưa đóng dấu giáp lai của hai Công ty, Công ty TVA
không sửa lại số tài khoản của Công ty TV. Do đó, Hợp đồng này không có hiệu
lực, chưa phát sinh quyền và nghĩa vụ của hai bên và Công ty TV không vi phạm
nghĩa vụ để phải chịu khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng như Công ty TVA yêu
cầu.

167
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Cẩm Nh trình bày:
Bà Nh khẳng định số tài khoản 0311000705837 tại Ngân hàng TMCP
Vietcombank Chi nhánh tại thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình là tài khoản giao dịch
của bà. Quá trình làm ăn giữa Công ty TV và Công ty TVA bà không nắm rõ lắm,
nhưng các lần giao dịch thanh toán tiền mua hàng trước đây bà Võ Thị Hoài Th -
Giám đốc Công ty TVA thường chuyển tiền qua tài khoản này của bà để trả cho
Công ty TV. Quá trình giao dịch làm ăn giữa hai bên, theo bà thấy thì Công ty
TVA thường không sòng phẳng, hay nợ và chuyển tiền trả nợ lắt nhắt nhiều lần.
Đối với các khoản tiền 150.000.000 đồng chuyển ngày 06/11/2017 và khoản
100.000.000 đồng chuyển vào các ngày 13, 14/12/2017 vào tài khoản của bà là
những khoản tiền mà bà Th chuyển trả nợ các chuyến hàng trước đây cho Công ty
TV chứ không phải là chuyển tiền mua hàng theo hợp đồng số 31102017/HĐMB
ngày 31/10/2017.
Tại bản án sơ thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 16/8/2018 của Tòa án nhân
dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình đã quyết định: Áp dụng Khoản 2 Điều 26,
Khoản 1 Điều 30, Khoản 1 Điều 35, Điều 39, Khoản 2 Điều 71, Điều 244, Khoản 1
Điều 228, Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; các Điều 24, 300,
301 Luật Th mại; các Điều 117, 351, 398, 401, Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự
năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn - Công ty trách nhiệm hữu
hạn TVA về việc yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ
tổng hợp TV trả lại số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng) do
tại phiên tòa Nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với khoản tiền này.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn - Công ty trách
nhiệm hữu hạn TVA: Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ
tổng hợp TV phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn TVA số tiền 291.057.531
đồng (Hai trăm chín mươi mốt triệu không trăm năm mươi bảy nghìn năm trăm ba
mươi mốt đồng), trong đó gồm: 250.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi triệu đồng)
tiền mua hàng mà Công ty trách nhiệm hữu hạn TVA đã chuyển cho Công ty trách
nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV; 26.867.531 đồng (Hai mươi
sáu triệu tám trăm sáu mươi bảy nghìn năm trăm ba mươi mốt đồng) tiền phạt do
vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa số: 31102017/HĐMB ngày 31/10/2017;
14.190.000 đồng (Mười bốn triệu một trăm chín mươi nghìn đồng) tiền vận chuyển
4.300 thùng giấy mà Công ty trách nhiệm hữu hạn TVA chở từ Việt Nam qua Lào
giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Th mại và Dịch vụ tổng hợp TV.
Không chấp nhận yêu cầu của Công ty trách nhiệm hữu hạn TVA về việc
buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV thanh
toán số tiền 58.910.000 đồng (Năm mươi tám triệu chín trăm mười nghìn đồng)
tương ứng trị giá 4.300 thùng giấy.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và tuyên quyền kháng cáo cho các
đương sự.
Ngày 29/8/2018 Công ty TV có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu cấp
phúc thẩm xem xét không chấp nhận hợp đồng mua bán hàng hóa số
31102017/HĐMB ngày 31/10/2017 để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Công ty

168
TV với lý do: Hợp đồng không có dấu giáp lai của hai Công ty dẫn đến các trang
trong hợp đồng bị tráo đổi, không trung thực. Khi xem xét hợp đồng Công ty đã
phát hiện sai số tài khoản và yêu cầu thay đổi nhưng Công ty TVA không thay đổi
theo yêu cầu. Số tiền theo cam kết Công ty TVA không chuyển cho Công ty TV.
Số hộp giấy các tông mà Công ty TV để tại kho bãi của Công ty TVA, Công ty TV
tự chuyển qua Lào. Vì vậy buộc Công ty TV trả tiền vận chuyển là không đúng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo là Công ty TV cho rằng số tiền
Công ty TVA chuyển cho Công ty TV trong các ngày 6/11 và 13,14/12 là số tiền
trả công hàng ngày 01/10/2017 chứ không phải tiền đặt cọc (ngày 2/10/2017 mới
chỉ trả 90 triệu đồng trong khi lô hàng ngày 01/10 có giá trị 23,992 USD tương
đương 544.498.000 đồng). Đề nghị Toà án tuyên hợp đồng số 31102017 ngày
31/10/2017 vô hiệu vì hợp đồng không kí nháy từng trang, không đóng dấu giáp lai
và đối tượng ghi trong hợp đồng không được phép giao dịch; Số thùng giấy Công
ty TV tự vận chuyển nên Công ty TV không phải chịu chi phí vận chuyển. Do hợp
đồng không có hiệu lực nên công ty TV không phải chịu khoản tiền phạt do vi
phạm hợp đồng. Vì những lý do trên, đề nghị sửa án sơ thẩm, xử bác yêu cầu khởi
kiện của Công ty TVA. Phía Công ty TVA không chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của phía bị đơn với lý do việc không ký nháy, không đóng dấu giáp lai các trang
hợp đồng không làm mất hiệu lực của hợp vì chưa có văn bản pháp luật nào quy
định. Đối với vấn đề vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật thì hiện tại Luật
chưa quy định về cấm giao dịch bằng ngoại tệ mà chỉ có những văn bản dưới luật,
hơn nữa theo điểm b khoản 3 Mục I Nghị quyết 04/2003 ngày 27/5/2003 thì mặc
dù các bên thoả thuận trong hợp đồng thanh toán bằng ngoại tệ nhưng trên thực tế
chuyển đặt cọc bằng tiền Việt Nam đồng nên hợp đồng không vô hiệu. Phía Công
ty TV không chứng minh được công hàng ngày 01/10/2017 có giá trị bao nhiêu
nên không thể cho rằng Công ty TVA còn nợ tiền hàng ngày 01/10/2017. Khoản
tiền mua thùng cac-tông do Công ty TVA không chứng minh được nên phải chấp
nhận phán quyết của án sơ thẩm. Đối với chi phí vận chuyển số thùng giấy tại các
buổi làm việc ở cấp sơ thẩm Công ty TV đều thừa nhận là Công ty TVA vận
chuyển cho công ty TV, tại phúc thẩm nói không vận chuyển là không có căn cứ.
Đề nghị Toà phúc thẩm bác kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm. Tại phiên toà, đại
diện nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận cả hai công ty đều không được phép giao
dịch bằng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm:
+ Về tố tụng: Trong quá trình tiến hành tố tụng, giải quyết vụ án người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
+ Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ
luật tố tụng dân sự 2015 chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TV, tuyên bố
hợp đồng số 3110207/HĐMB ngày 31/10/2017 vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không buộc Công ty TV phải chịu khoản
tiền phạt do vi phạm hợp đồng và sửa về phần án phí sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:

169
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt
tại phiên toà (lần thứ ba) không có lý do nên căn cứ vào khoản 3 Điều 296 Bộ luật
Tố tụng Dân sự để xét xử vắng mặt.
[2] Xét nội dung kháng cáo của Công ty TV, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.1] Kháng cáo yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán số 3110207/HĐMB
ngày 31/10/2017 vô hiệu do không ký nháy từng trang và không đóng dấu giáp lai
lên các trang hợp đồng nên nội dung hợp đồng (số tài khoản của công ty TV bị
thay đổi), Hội đồng xét xử thấy: Nguyên đơn và bị đơn thừa nhận ngày 03/7/2017,
Công ty TVA và Công ty TV đã kí hợp đồng nguyên tắc số 01/-CY/2017 ghi nhận
các thỏa thuận mang tính nguyên tắc về việc mua bán hàng hóa là than trắng xuất
xứ từ Lào. Ngày 31/10/2017 hai bên ký Hợp đồng mua bán hàng hóa có nội dung
bên công ty TV bán cho Công ty TVA 2250 thùng than trắng với giá
10.5USD/thùng, đặt cọc trước giao hàng sau 30 ngày kể từ ngày nhận tiền đặt cọc.
Ngày 6/11 và ngày 13,14/12/2017, bên Công ty TVA chuyển tiền cho công ty TV
tổng số tiền 250 triệu đồng đặt cọc tiền mua than, số tài khoản ghi trên hợp đồng là
số tài khoản của chị Nguyễn Thị Cẩm Nh – vợ anh Trần Hùng C – giám đốc Công
ty TV; Phía công ty TV cho rằng TV không nhận tiền của TVA chuyển theo số tài
khoản ngoại tệ của Công ty TV. Sau khi ký kết hợp đồng mua bán số
3110207/HĐMB ngày 31/10/2017 quá trình giao dịch chuyển tiền mua hàng giữa
Công ty TVA với Công ty TV đều thực hiện qua số tài khoản 0311000700583, số
tài khoản ghi trên hợp đồng số 3110207/HĐMB ngày 31/10/2017 cũng là số tài
khoản hai bên đã thỏa thuận tại hợp đồng nguyên tắc số 01/-CY/2017 ngày
03/7/2017. Số tài khoản này đứng tên bà Nguyễn Thị Cẩm Nh mở tại Ngân hàng
TMCP Vietcombank Chi nhánh thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Quá trình giao
dịch chuyển và nhận tiền Công ty TV không có ý kiến gì và tất cả các khoản tiền
chuyển qua số tài khoản này Công ty TV đã nhận mà không từ chối. Công ty TVA
khẳng định sau khi ký kết hợp đồng Công ty TV không hề có ý kiến gì về số tài
khoản ghi trong hợp đồng nên Công ty TVA không sửa đổi, theo các tài liệu chứng
cứ trong hồ sơ cũng không có tài liệu nào cho rằng Công ty TV yêu cầu sửa đổi số
tài khoản như trình bày. Thông thường khi các bên giao kết hợp đồng gồm nhiều
trang, ngoài chữ ký và đóng dấu của các bên trong phần cuối cùng của hợp đồng
thì còn có dấu giáp lai của các bên ký kết (nếu các bên có sử dụng con dấu). Tuy
nhiên, dấu giáp lai không khẳng định giá trị pháp lý của hợp đồng, việc đóng dấu
giáp lai tùy thuộc vào tính chất văn bản, quy định của pháp luật. Phía người được
ủy quyền của Công ty TV đưa ra căn cứ quy định vấn đề này theo Điều 26 Nghị
định 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2014 nhưng đây là điều luật nội dung quy định
việc đóng dấu về công tác văn thư đối với việc sử dụng con dấu trong các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề
nghiệp, hội quần chúng, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cơ quan, tổ chức nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam (dưới đây gọi tắt là cơ quan, tổ chức) và một số chức
danh nhà nước. Do đó, trong hợp đồng mua bán hàng hóa việc không đóng dấu
giáp lai cũng không ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của hợp đồng như lập luận phía
Công ty TV đưa ra. Tuy nhiên, theo Thông tư số 32/2013/TT-NHNN ngày

170
26/12/2013 hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ
Việt Nam thì Công ty TV và Công ty TVA không thuộc các đối tượng quy định tại
Điều 4 Thông tư được phép sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, đối
tượng giao dịch ghi trong hợp đồng số 3110207/HĐMB ngày 31/10/2017 là USD
(Đô la Mỹ) thuộc trường hợp cấm giao dịch. Do vi phạm điều cấm của luật nên
theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự, Hợp đồng trên là vô hiệu. Việc nguyên
đơn cho rằng hợp đồng trên không vô hiệu vì thuộc trường hợp được hướng dẫn tại
điểm b khoản 3 Mục I Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao là không có căn cứ bởi lẽ nguyên đơn thừa nhận là hai bên
chưa thực hiện hợp đồng, và khi chưa thực hiện hợp đồng thì không thuộc trường
hợp hướng dẫn tại điểm b khoản 3 Mục I Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP nói trên.
Kháng cáo về yêu cầu tuyên bố hợp đồng số 3110207/HĐMB ngày
31/10/2017 vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật có căn cứ cần chấp nhận và
giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo Điều 131 Bộ luật Dân sự, hai bên
giao trả cho nhau những gì đã nhận và không buộc Công ty TV phải chịu khoản
tiền phạt do vi phạm hợp đồng là 26.867.531 đồng.
[2.2]. Kháng cáo về số tiền 250.000.000 đồng Công ty TVA chuyển vào số
tài khoản của chị Nh để trả công hàng ngày 01/10/2017, Hội đồng xét xử thấy: cả
hai bên đều thừa nhận sau khi ký kết hợp đồng số 3110207/HĐMB ngày
31/10/2017 Công ty TVA đã chuyển tiền cho Công ty TV theo các đợt ngày
06/11/2017 chuyển 6.613,76 USD quy đổi thành 150.000.000 VNĐ, ngày
13/12/2017 chuyển 50.000.000 đồng, ngày 14/12/2017 chuyển 50.000.000 đồng
vào số tài khoản số 0311000705837 của bà Nguyễn Thị Cẩm Nh. Phía Công ty TV
cho rằng đây là các khoản tiền mà bà Võ Thị Hoài Th - Giám đốc Công ty TVA
chuyển trả tiền nợ mua hàng ngày 01/10/2017 là chưa có căn cứ để chứng minh vì
thời gian chuyển tiền sau khi kí hợp đồng ngày 31/10/2017, nội dung chuyển tiền
đều ghi rõ ứng công hàng chưa về. Sau này, khi có căn cứ về khoản nợ tiền hàng
ngày 31/10/2017, Công ty TV có quyền khởi kiện yêu cầu thanh toán tiền nợ hàng
bằng một vụ kiện dân sự khác
[2.3]. Về số tiền vận chuyển 4.300 thùng giấy các tông: Tại các biên bản
làm việc ở cấp sơ thẩm, phía Công ty TV đều thừa Công ty TVA đã vận chuyển số
thùng giấy các tông trên từ Việt Nam sang Lào cho Công ty TV nhưng vì không có
kho đựng hàng nên Công ty TV đã gửi lại tại kho của Công ty TVA. Do đó án sơ
thẩm buộc Công ty TV phải trả tiền vận chuyển cho Công ty TVA là có cơ sở.

Từ những phân tích trên thấy cấn chấp nhận một phần kháng cáo của Công
ty TV để sửa án sơ thẩm.
Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên Công ty TV không phải chịu
án phí kinh doanh Thương mại phúc thẩm.
Vì lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

171
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TNHH TV, sửa bản án sơ
thẩm số 01/2018/KDTM-ST ngày 16/8/2018 của TAND thị xã Ba Đồn:
Áp dụng khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35, Điều 3, Điều 244, khoản 1
Điều 228, khoản 1 Điều 147 khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
các Điều 24, Điều 50 Luật Th mại; Điều 123, 131Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều
26, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Công ty TNHH TVA về việc
yêu cầu Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV trả lại số tiền
150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng) do tại phiên tòa sơ thẩm
nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với khoản tiền này.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Công ty TNHH
TVA: Buộc Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV phải trả cho
Công ty TVA số tiền 254.190.000 đồng (Hai trăm năm mươi tư triệu không trăm
năm mươi bảy nghìn năm trăm ba mươi mốt đồng), trong đó gồm: 250.000.000
đồng (Hai trăm năm mươi triệu đồng) tiền mua hàng mà Công ty TNHH TVA đã
chuyển cho Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Tổng hợp TV; 14.190.000
đồng (Mười bốn triệu một trăm chín mươi nghìn đồng) tiền vận chuyển 4.300
thùng giấy mà Công ty TNHH TVA chở từ Việt Nam qua Lào giao cho Công ty
TNHH Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV.
Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH TVA về việc buộc Công ty
TNHH Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV thanh toán số tiền 58.910.000 đồng
(Năm mươi tám triệu chín trăm mười nghìn đồng) tương ứng trị giá 4.300 thùng
giấy và 26.867.531 đồng (Hai mươi sáu triệu tám trăm sáu mươi bảy nghìn năm
trăm ba mươi mốt đồng) tiền phạt do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa số:
31102017/HĐMB ngày 31/10/2017;
2. Về án phí: Công ty TNHH TVA phải chịu 4.288.876 đồng tiền án phí
kinh doanh Thương mại sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
11.462.000 đồng theo biên lai số 0002164 ngày 22/3/2018 của Chi cục thi hành án
dân sự thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn
TVA 7.173.124 đồng .
Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ tổng hợp TV phải chịu 12.709.500
đồng tiền án phí kinh doanh Thương mại sơ thẩm và không phải chịu án phí
KDTM phúc thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã
nộp theo biên lai số 0002204 ngày 07/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã
Ba Đồn. Số tiền còn lại 12.409.500 đồng Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ
tổng hợp TV phải nộp đủ.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng
nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với
khoản tiền nêu trên, nếu người phải thi hành án không thi hành án thì hàng tháng
người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án

172
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Nơi nhận: T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- VKSND tỉnh Quảng Bình; THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND thị xã Ba Đồn; (Đã ký)
- Chi cục THADS thị xã Ba Đồn;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.

Từ Thị Hải Dương

173
10
174
TOÀ ÁN ND HUYỆN LẠNG GIANG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẮC GIANG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 09 /2019/ DS-ST


Ngày 27/3/2019
V/v: “Tranh chấp kiện đòi tài sản và
yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, giải
quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu"

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán sơ cấp - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Hằng.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Dương Thanh Bình và ông Giáp Đức Sơn.
- Thư ký phiên toà: Bà Vũ Thị Thanh Huyền - Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tham gia phiên
toà: Bà Đặng Minh Hà - Kiểm sát viên sơ cấp.
Ngày 27/3/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc
Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 105/2018/TLST-DS ngày
05/10/2018, về “Tranh chấp kiện đòi tài sản và yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu, giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu"; theo quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 14/2019/QĐST-DS ngày 11/02/2019, giữa:
+ Nguyên đơn: Anh Kim Ngọc T, sinh năm 1984
Địa chỉ: Thôn Đức T, xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Ủy quyền tham gia tố tụng cho chị Lê Thị H, sinh năm 1981 địa chỉ: Thôn N, xã
Quang T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đại diện (Văn bản ủy quyền lập ngày
28/9/2018) – (Chị H có mặt tại phiên tòa).
+ Bị đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1972 – (Có mặt).
Địa chỉ: Thôn N, thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Phùng Thị H, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Tô K, Gia Lâm, Hà Nội - Ủy quyền tham gia tố tụng cho chị Lê
Thị H, sinh năm 1981. Địa chỉ: Thôn N, xã Quang T, huyện Lạng Giang, tỉnh

175
Bắc Giang đại diện – (Chị H có mặt).
2. Anh Phan Văn T, sinh năm 1970 – (Vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn Đ, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Hiện trú tại: Thôn N, thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đòi tài sản ghi ngày 28/9/2018 và lời khai tiếp theo
nguyên đơn anh Kim Ngọc T trình bầy:
Do mối quan hệ quen biết với chị Trần Thị H, sinh năm 1972 ở thôn N, thị
trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Chị H nói với anh là giải quyết
được một số công việc làm ăn nên anh có đưa cho chị H nhiều lần với nhiều số
tiền, cụ thể:
- Lần 1 vào ngày 22/8/2011 chị H nhận số tiền 12.000.000 đồng.
- Lần 2 ngày 17/10/2011 chị H nhận số tiền 30.000.000 đồng.
- Lần 3 ngày 25/10/2011 số tiền 38.000.000 đồng.
- Lần 4 ngày 26/02/2011 số tiền 29.000.000 đồng.
- Lần 5 ngày 10/12/2011 số tiền 8.000 USD Mỹ (Tám ngàn đô la Mỹ).
- Lần 6 ngày 22/10/2011 số tiền 80.000.000 đồng.
- Lần 7 ngày 20/02/2012 số tiền 59.000.000 đồng.
- Lần 8 ngày 01/2/2012 số tiền 3.000 USD (Ba ngàn đô la Mỹ).
Tổng số tiền nhận là 248.000.000 đồng (Hai trăm bốn tám triệu) tiền Việt
nam đồng và 11.000 USD (Mười một ngàn đô la Mỹ). Quá trình làm ăn anh đã đòi
chị H rất nhiều lần nhưng chị H không trả.
Nay anh yêu cầu chị Trần Thị H phải có trách nhiệm thanh toán trả cho anh
tổng số tiền nợ gốc còn lại là 248.000.000 đồng (Hai trăm bốn tám triệu) tiền Việt
nam đồng và anh đề nghị Tòa án tuyên bố giao dịch giữa anh và chị H về số nợ
11.000 USD (Mười một ngàn đô la Mỹ) là vô hiệu, đề nghị được giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu, buộc chị H phải trả cho anh những gì đã nhận, buộc
chị H phải trả cho anh số tiền 11.000 USD được quy đổi ra tiền Việt Nam đồng
tại thời điểm xét xử và anh chỉ yêu cầu đổi 1 USD Mỹ tương đương 20.000 đồng
Việt nam đồng, bằng 220.000.000 đồng. Tổng toàn bộ số nợ là 468.000.000 đồng
(Bốn trăm sáu mươi tám triệu đồng).
Trước phiên tòa hôm nay chị Lê Thị H là người đại diện theo ủy quyền cho
anh Kim Ngọc T vẫn giữ nguyên các yêu cầu trên của anh Kim Ngọc T và đề nghị
Tòa án xem xét chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận về số tiền đô la Mỹ quy đổi ra
tiền Việt Nam đồng của anh T vì nó có lợi cho chị H.
+ Tại bản tự khai ghi ngày 05/10/2018 và các biên bản lấy lời khai ghi
ngày 15/01/2019, biên bản hòa giải ngày 15/01/2019 của Tòa án, bị đơn chị

176
Trần Thị H trình bày: Mối quan hệ giữa chị với anh Kim Ngọc T chỉ là quan hệ
quen biết. Anh T có nhờ chị một số công việc (do lâu ngày nên chị không nhớ rõ chi
tiết cụ thể công việc) và anh T có gửi cho chị một số tiền làm nhiều lần, chị có ghi
giấy xác nhận cho anh T cụ thể chị nhận số tiền 248.000.000 đồng (Hai trăm bốn
mươi tám triệu đồng) Việt nam đồng và 11.000 USD (Mười một ngàn đô la Mỹ).
Sau đó có những việc hoàn thành và những việc không hoàn thành nên giữa chị và
anh T đã thanh toán số tiền chị nhận của anh T, có lần chị chuyển khoản Ngân hàng
trả anh T, có lần em gái chị chuyển qua Ngân hàng ở Quảng Ninh, nhưng chủ yếu là
chị và chồng chị trả bằng tiền mặt cho anh T, nhưng vì lâu ngày không còn làm ăn
cùng với anh T nữa nên chị đã không giữ lại được những giấy tờ thanh toán với anh
T và chị cũng không có chứng cứ nào liên quan đến việc thanh toán tiền với anh T
để nộp cho Tòa án. Việc anh T cho là chị còn nợ lại tiền và đô la của anh T là
không đúng, sự thật chị có quan hệ quen biết về mặt tình cảm với anh T nên giữa chị
và anh T thống nhất đến ngày 30/11/2012 chị phải có trách nhiệm hoàn thành công
việc anh T nhờ, nếu không chị phải thanh toán tiền
trả cho anh T và chị đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính với anh T đầy đủ nên chị
không còn nợ gì của anh T nữa.
Nay phía anh Kim Ngọc T yêu cầu chị phải trả tổng số tiền nợ vay trên thì
chị không đồng ý vì chị không còn nợ tiền của anh T.
Trước phiên tòa hôm nay chị Trần Thị H vẫn giữ nguyên các yêu cầu như
trên và trình bày sở dĩ lời khai của chị với lời khai của chồng chị anh Phan Văn T
không đồng nhất là vì có thể anh T nhớ nhầm vì chị chỉ nhớ chồng chị có đi cùng
chị một lần và trực tiếp anh T trả số tiền 50.000.000 đồng cho anh T ở khu đô thị
Việt Hưng. Còn em gái chị Trần Khánh H chuyển trả tiền hộ cho chị vào số tài
khoản của anh T với số tiền 10.000.000 đồng tại Ngân hàng BIDV Hà nội, tuy
nhiên chị không nhớ rõ ngày tháng chuyển tiền.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Phan Văn T trình bày: Việc vợ anh chị H với anh T có mối quan
hệ làm ăn như thế nào thì anh không nắm được, vào năm 2012 anh có đi cùng vợ
đến nhà trọ của anh T ở khu đô thị Việt Hưng, Gia Lâm, Hà Nội để trả cho anh T
số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng). Vào khoảng giữa năm 2012 anh
có đi cùng vợ anh đến một quán cà phê tại Khu đô thị Việt Hưng để gặp anh T
hai lần, mỗi lần trả cho anh T số tiền 30.000.000 đồng, thời gian cụ thể thì anh
không nhớ rõ. Như vậy số lần anh đi cùng vợ anh để trả tiền cho anh T là 03 lần
với tổng số tiền là 110.000.000 đồng, lý do vợ anh trả tiền cho anh T là gì thì anh
không nắm được và khi trả thì không có ai làm chứng cũng không ghi giấy tờ gì.
Do công việc bận, anh xin phép được vắng mặt trong tất cả quá trình giải quyết
vụ án của Tòa án. Trước phiên tòa hôm nay anh Phan Văn T vắng mặt.

177
2. Chị Phùng Thị H trình bày: Việc chị Trần Thị H và anh Kim Ngọc T
chồng chị trước đây có mối quan hệ làm ăn như thế nào và chị H nợ tiền của anh
T cụ thể là tiền gì, bao nhiêu tiền thì chị cũng không được biết, vì chị và anh T
mới kết hôn vào tháng 10/2015.
Nay anh T chồng chị khởi kiện đòi tiền đối với chị H, vì đây là khoản tiền
riêng của anh T nên chị không có yêu cầu gì về số tiền này mà là tiền riêng của
anh T nên chị đã ủy quyền tham gia tố tụng cho chị Lê Thị H đại diện cho chị.
Do vậy chị đề nghị Tòa án xin phép được vắng mặt trong tất cả quá trình Tòa án
giải quyết vụ án.
Trước phiên tòa hôm nay Chị Lê Thị H là người đại diện theo ủy quyền
của chị H vẫn giữ nguyên các quan điểm trên của chị Phùng Thị H.
+ Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
- Thẩm phán và thư ký trong quá trình giải quyết vụ án chấp hành đúng
quy định của pháp luật. Về thời hạn tiến hành tố tụng đảm bảo đúng quy định của
pháp luật. Xác định tư cách tham gia tố tụng trong vụ án đúng quy định. Việc gửi
hồ sơ cho VKS nghiên cứu đúng thời gian quy định.
- HĐXX thực hiện đúng quy định của pháp luật; thành phần HĐXX không
có sự thay đổi với quyết định đưa vụ án ra xét xử.
- Người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật;
Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án chưa chấp hành đầy đủ
quy định của pháp luật.
Sau khi thụ lý vụ án Toà án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng, thông
báo về phiên họp công khai chứng cứ và hoà giải, về phiên đối chất nhưng giữa
các bên đương sự không hoà giải với nhau được. Tại phiên toà nguyên đơn vẫn
giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
- Về quan điểm đường lối giải quyết vụ án:
Đề nghị HĐXX áp dụng: Điều 256; Điều 121, Điều 122, Điều 127, Điều
128; Điều 137, Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005. Điều 22 Pháp lệnh về ngoại hối
ngày 13/12/2005. Khoản 3 Điều 26; Điều 91; Khoản 1 Điều 147; Điều 184; điểm b
khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015; Khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Xử Buộc chị Trần Thị H phải có
trách nhiệm thanh toán trả cho anh Kim Ngọc T tổng số tiền 468.000.000 đồng
(Bốn trăm sáu mươi tám triệu đồng). Án phí: Chị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ
thẩm và án phí tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
- Những yêu cầu, kiến nghị khác: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

178
- Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Ý kiến của đương sự, ý
kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1] Về thủ tục tiền tố tụng: Xác định đơn khởi kiện của anh Kim Ngọc T
là hoàn toàn hợp lệ, đảm bảo đúng quy định. Văn bản ủy quyền ngày 28/9/2018
giữa anh Kim Ngọc T với chị Lê Thị H đã được chứng thực của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Tòa án đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án.
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Quan hệ giao dịch dân sự giữa anh
Kim ngọc T và chị Trần Thị H là quan hệ giao dịch dân sự giữa cá nhân với cá
nhân, các bên đã không tự giải quyết được tranh chấp phát sinh, nguyên đơn đã
làm đơn khởi kiện theo thủ tục Tòa án. Địa chỉ nơi cư trú của bị đơn tại thị trấn
Vôi, huyện Lạng Giang. Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang giải
quyết là đúng thẩm quyền và phù hợp với quy định của pháp luật được quy định
tại các Điều 26; Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về thời hiệu khởi kiện và quan hệ pháp luật tranh chấp: Tại các bản
tự khai của cả hai bên thể hiện: Chị Trần Thị H có viết 03 giấy biên nhận ghi
nhận việc nhận tiền của anh T để giải quyết công việc với anh T, thời điểm ghi
giấy là vào năm 2011 và năm 2012 với tổng số tiền thực nhận là 248.000.000
đồng Việt nam đồng và 11.000 USD (Mười một ngàn tiền đô la Mỹ). Cụ thể:
- Giấy biên nhận ghi ngày bên dưới 25/10/2011 ghi 3 lần nhận tiền đó là
ngày 22/8/2011 nhận anh T một khoản tiền 12.000.000 đồng để lo công việc sẽ
hoàn thành trong tháng 12/2011; Ngày 17/10/2011 nhận của anh T thêm số tiền
30.000.000 đồng để giải quyết công việc và ngày 25/10/2011 nhận số tiền là
38.000.000 đồng để giải quyết công việc. Tổng số tiền của giấy biên nhận này là
80.000.000 đồng.
- Giấy biên nhận ghi nhận 02 khoản tiền USD, cụ thể: Ngày 10/12/2011
nhận số tiền 5.000 USD và ngày 01/12/2012 nhận số tiền là 3.000 USD. Tổng số
tiền đã nhận là 8.000 USD.
- Giấy xác nhận không ghi ngày nhận tiền chị H có viết có nhận của anh T
số tiền 29.000.000 đồng ngày 26/02/2011, 8.000 USD để lo việc cho anh Mạnh +
Thùy ngày 10/12/2011, 80.000.000 đồng để lo việc cho anh Cường ngày
22/10/2011 và 59.000.000 đồng để lo việc chỗ anh Thao ngày 20/02/2012; Hẹn
đến ngày 30/11/2012 sẽ thanh toán trả lại cho anh T tất cả số tiền trên.
Do đòi nhiều lần song chị H không trả nên ngày 28/9/2018 anh Kim Ngọc
T làm đơn khởi kiện ra Tòa án. Theo giấy biên nhận và giấy xác nhận đã được
xác lập thì các bên giao kết với nhau bằng 02 giao dịch: Giao và nhận bằng tiền
Việt Nam đồng và tiền Đô la Mỹ. Đây là giao dịch dân sự thông thường có điều

179
kiện thể hiện bằng việc bên nhận tiền đã xác lập giấy xác nhận số nợ và do không
thực hiện được giao dịch nên các bên khởi kiện đến Tòa án. Đối với yêu cầu khởi
kiện buộc chị H phải trả cho anh T toàn bộ số tiền 248.000.000 đồng, đây là mối
quan hệ tranh chấp “Đòi tài sản”. Đối với yêu cầu đề nghị Tòa án buộc chị H trả
số tiền 11.00USD thì đây là giao dịch dân sự bị vô hiệu vì các bên đã vi phạm
điều cấm của pháp luật, do vậy Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và
giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu, buộc các bên phải trả cho nhau
những gì đã nhận, buộc chị H phải trả cho anh T số tiền 11.000 USD được quy
đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá tại thời điểm xét xử. Căn cứ các Điều 256; Điều
121, Điều 122, Điều 127, Điều 128; Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005; theo quy
định tại Điều 184 Bộ luật TTDS năm 2015 thì việc anh Kim Ngọc T làm đơn
khởi kiện đối với chị Trần Thị H vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
[4] Về nội dung vụ kiện: Xét yêu cầu khởi kiện của anh Kim Ngọc T, Hội
đồng xét xử thấy:
Xuất phát từ mối quan hệ quen biết và làm ăn với nhau nên chị Trần Thị H có
nhận của anh Kim Ngọc T tổng số tiền là 248.000.000đ (Hai trăm bốn mươi tám
triệu đồng) và 11.000 USD (Mười một ngàn tiền đô la Mỹ). Khi nhận tiền phía chị
H có viết giấy biên nhận, giấy xác nhận nhận tiền, nội dung trong các giấy đều thể
hiện các lần nhận tiền, không thỏa thuận lãi suất và trong giấy xác nhận chị H có hẹn
đến ngày 30/11/2012 sẽ thanh toán trả lại cho anh T tất cả số tiền trên.
[4.1] Về các chứng cứ và lời khai cụ thể của từng bên: Phía chị H cho rằng
chị có nhận toàn bộ số tiền 248.000.000 đồng và 11.000 USD (đô la Mỹ) như anh T
khởi kiện, tuy nhiên chị đã thanh toán trả cho anh T toàn bộ số nợ này cụ thể các lần
trả thì chị đi cùng chồng hoặc nhờ em gái chị trả hộ nhưng chị không chứng minh
được việc trả nợ vì giữa chị và anh T có mối quan hệ quen biết về mặt tình cảm nên
khi thanh toán nợ chị không yêu cầu anh T viết giấy tờ gì cho chị, hơn nữa trong
giấy nhận nợ chị đã ghi chị hẹn anh T đến ngày 30/11/2012 chị sẽ thanh toán trả lại
cho anh T tất cả các khoản tiền trên do vậy chị khẳng định đã thực hiện xong nghĩa
vụ tài chính cho anh T.
[4.2] Về các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ đã được thu thập:
Ngày 31/12/2018 Tòa án đã thông báo và lập biên bản ấn định thời hạn
giao nộp tài liệu, chứng cứ đối với chị Trần Thị H yêu cầu chị H cung cấp chứng
cứ để chứng minh cho việc trình bày của chị về việc đã thanh toán đủ toàn bộ số
tiền đã nhận cho anh T, kể cả việc yêu cầu chị H cung cấp địa chỉ, báo cho chị
Trần Khánh Hà đến Tòa án để làm việc vì theo lời khai của chị H thì chị Hà có
liên quan đến việc trả tiền. Tuy nhiên, hết thời hạn thông báo cung cấp chứng cứ
chị H không cung cấp cho Tòa án những chứng cứ để chứng minh cho trình bày
của chị là có căn cứ và hợp pháp cũng không xuất trình được cho Tòa án bất cứ tài
liệu có liên quan nào khác về việc thanh toán tiền với anh T.

180
Tòa án đã thông báo về buổi đối chất và tiến hành hòa giải giữa các bên,
nhưng các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ngày 12/11/2018 chị Phùng Thị H có văn bản ủy quyền cho chị Lê Thị H là
người đại diện tham gia tố tụng đối trong vụ án.
Trong các ngày 26/02/2019 và ngày 20/3/2019 Tòa án đã mở phiên tòa
nhưng do người tham gia tố tụng vắng mặt nên HĐXX đã quyết định hoãn phiên
tòa, ấn định lại thời gian xét xử . Mọi thủ tục giao văn bản tố tụng, niêm yết đều
đảm bảo đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật
tố tụng Dân sự.
[5] Đối với yêu cầu của anh Kim Ngọc T chỉ yêu cầu chị Trần Thị H phải
trả số tiền 248.000.000 đồng Việt nam đồng nợ gốc mà không yêu cầu chị H phải
trả tiền lãi suất của các khoản tiền đã nhận. Bị đơn chị Trần Thị H đã thừa nhận
có nhận số tiền và có viết giấy biên nhận nhận tiền nhưng không chứng minh
được việc thanh toán tiền, tại phiên tòa chị H khẳng định chồng chị là anh Phan
Văn T có cùng chị đi đến nhà trọ của anh T ở khu đô thị Việt Hưng và anh T là
người trực tiếp trả số tiền 50 triệu đồng cho anh T, nhưng tại lời khai của anh
Phan Văn T lại thể hiện anh có đi cùng chị H tổng số 3 lần và mỗi lần thanh toán
tiền đều là chị H chứ không phải anh là người trả tiền cho anh T. Như vậy giữa
chị H và anh T lời khai đều không thống nhất cả về số lần đến trả tiền và số
lượng tiền trả. Vì vậy, yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi số tiền nợ gốc là phù
hợp với quy định của pháp luật tại Điều 116 Bộ luật dân sự, nên yêu cầu này cần
được chấp nhận.
Đối với yêu cầu buộc chị H trả 11.000 USD và không yêu cầu tính lãi đối
với số tiền này. Hội đồng xét xử xét thấy: Tại Điều 22 Pháp lệnh về ngoại hối
ngày 13/12/2005 và Điều 29 Nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh ngoại hối quy định “Trên lãnh thổ
Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú,
người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối trừ các giao dịch với
các tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ,
uỷ thác, đại lý và các trường hợp khác cần thiết khi được Thủ tướng Chính phủ
cho phép” cho nên giao kết được xác lập giữa các bên vào ngày 10/12/2011 và
ngày 01/02/2012 với số tiền 11.000 USD là ngoại tệ của anh T, chị H đã vi phạm
vào điều cấm của pháp luật. Việc các bên giao dịch nhận tiền của nhau là tiền Đô
la Mỹ là giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 122, 127, 128, 130 của
Bộ luật dân sự năm 2005. Thời điểm các bên giao dịch dân sự là vào năm 2011,
2012 nên Căn cứ vào các Điều 127, Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005, cần
tuyên bố giao dịch bằng ngoại tệ (11.000 USD) giữa anh Kim Ngọc T với chị
Trần Thị H là giao dịch dân sự vô hiệu.

181
Chị H không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của anh T. Phía anh T chỉ yêu cầu
chị H phải thanh toán trả toàn bộ số tiền gốc mà không yêu cầu lãi suất. Đối với
khoản tiền USD anh T chỉ yêu cầu quy đổi tỷ giá đồng đô la Mỹ ra tiền Viện
Nam tại thời điểm xét xử là 1 USD = 20.000 đồng tiền Việt Nam đồng. Theo quy
định tại Điều 137 của Bộ luật dân sự năm 2005 về giải quyết hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại
tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được
bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền…”, việc các bên giao kết cho nhau vay
bằng ngoại tệ đã vi phạm điều cấm của pháp luật, nên không thể buộc bị đơn trả
cho nguyên đơn bằng USD (đô la Mỹ) như đã nhận. Do vậy, buộc chị Trần Thị H
phải trả lại anh Kim Ngọc T số tiền 11.000 USD quy đổi ra tiền Việt Nam. Tại
thời điểm xét xử sơ thẩm ngày 27/3/2019 theo thông tin tỷ giá đồng đô la Mỹ của
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam niêm iết thì tỷ giá hối
đoái từ đồng Đôla Mỹ sang tiền Việt Nam đồng là 1USD (đô la Mỹ) = 23.160
Việt Nam đồng. Do vậy việc anh T tự nguyên thỏa thuận trị giá 1 USD = 20.000
Việt nam đồng không cao hơn so với giá hiện tại là có lợi cho chị H, vì đây là sự
tự nguyện của anh T, không trái pháp luật nên HĐXX chấp nhận yêu cầu này của
anh T.
Như vậy, tổng số tiền chị Trần Thị H phải có trách nhiệm thanh toán trả cho
anh Kim Ngọc T là 248.000.000 đồng và 11.000 USD = 220.000.000 đồng Việt
nam. Tổng cộng 468.000.000 đồng Việt nam đồng (Bốn trăm sáu mươi tám triệu
đồng).
[6] Đối với yêu cầu của chị Trần Thị H về số lần thanh toán tiền giữa chị
với anh T đều có chồng chị là anh Phan Văn T và em gái chị là Trần Khánh H đi
cùng hoặc chuyển tiền vào tài khoản của Ngân hàng cho anh T. Căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, lời trình bày
của các đương sự. Hội đồng xét xử xét thấy: Tại biên bản lấy lời khai anh Phan
Văn T thể hiện việc làm ăn giữa chị H với anh T như thế nào thì anh không biết,
anh có đi cùng chị H để trả cho anh T 03 lần với tổng số tiền là 110.000.000
đồng, khi trả thì không có ai làm chứng cũng không ghi giấy tờ gì. Còn lời khai
của chị H về địa chỉ và thông tin của chị Trần Khánh H là em gái chị H, Tòa án
đã thông báo và gửi bảo đảm đến địa chỉ của chị Hà như lời khai của chị H nhưng
phía chị H không hợp tác nên Tòa án không lấy được lời khai của chị H.
[7] Về án phí: Do yêu cầu của anh T được chấp nhận nên anh T không phải
chịu án phí.
Chị Trần Thị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm và án phí giải quyết
hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu.
Để đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án; áp dụng Điều 357
BLDS năm 2015.

182
[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH:

* Áp dụng Điều 256; Điều 121, Điều 122, Điều 127, Điều 128 và Điều 137
Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 357 BLDS năm 2015; Điều 22 Pháp lệnh về
ngoại hối ngày 13/12/2005; Khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 91, Khoản
1 Điều 147, Điều 184, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271,
Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về án phí và lệ phí Tòa án, Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Kim Ngọc T: Buộc chị Trần Thị H
phải trả anh Kim Ngọc T số tiền 248.000.000đồng (Hai trăm bốn mươi tám triệu
đồng).
2.Tuyên bố giao dịch bằng ngoại tệ (nhận số tiền 11.000 USD) được xác
lập bằng giấy biên nhận ghi các ngày 10/12/2011 và ngày 01/02/2012 giữa chị
Trần Thị H với anh Kim Ngọc T là giao dịch dân sự vô hiệu. Buộc chị Trần Thị
H phải trả cho anh Kim Ngọc T số tiền 220.000.000 đồng (Hai trăm hai mươi
triệu đồng).
Tổng cộng: Buộc chị Trần Thị H phải trả anh Kim Ngọc T tổng số tiền là:
468.000.000 đồng (Bốn trăm sáu mươi tám triệu đồng).
3 - Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu: 23.400.000 đồng án phí kiện đòi
tài sản; 300.000 đồng án phí yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Tổng
cộng, buộc chị Trần Thị H phải chịu 23.700.000 đồng (Hai mươi ba triệu bảy
trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả anh Kim Ngọc T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
12.500.000đồng (Mười hai triệu năm nghìn đồng) theo biên lai thu số
AA/2018/0006772 ngày 05/10/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng
Giang, tỉnh Bắc Giang.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại
khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật

183
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Báo cho đương sự có mặt biết có 15 ngày kháng cáo kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận
được tống đạt bản án vắng mặt hoặc được niêm yết công khai.
Án xử công khai sơ thẩm./.

Nơi nhận T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ


- TAND tỉnh Bắc Giang; THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND huyện Lạng Giang;
- THADS huyện Lạng Giang;
- Các đương sự.
- Lưu Trần Thị Hằng.

184
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số 128/2019/DS-ST
Ngày 26-4-2019
V/v đòi tài sản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Bảo Ngọc.

Các Hội thẩm nhân dân:

1. Bà Đỗ Thị A;
2. Bà Nguyễn Thị Thu Cúc.
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Quỳnh Mai.

Ngày 26 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10 xét xử sơ
thẩm công khai vụ án thụ lý số 545/2018/TLST-DS ngày 26 tháng 10 năm 2018
về đòi tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2019/QĐST-DS ngày
05 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2019/QĐST-DS ngày
03 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1963; Địa chỉ thường trú:
đường P, Phường D, Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Văn K, sinh
năm 1965; Địa chỉ thường trú: đường H, Phường N, quận T, Thành phố Hồ Chí
Minh (theo Giấy ủy quyền ngày 13/11/2018 lập tại Văn phòng công chứng C)
(có Đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Ông Đoàn Trung C, sinh năm 1985; Địa chỉ thường trú: đường
S, Phường D, Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:


*Theo đơn khởi kiện ngày 17/10/2018, bản tự khai ngày 16/11/2018 cùng
các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ – bà Nguyễn Thị M có ông Nguyễn Văn K
là người đại diện ủy quyền khai trình như sau:
Vào tháng 6/2017 do có nhu cầu xin visa đi Mỹ nên bà Nguyễn Thị M,
thông qua cháu trai bà giới thiệu nhờ ông Đoàn Trung C làm thủ tục xin visa đi
Mỹ với giá là 5.000USD. Theo thỏa thuận thì bà M sẽ đưa trước cho ông C

185
2

4.500USD, số tiền này bà M chia làm 02 đợt: đợt 1 đưa cho ông C 2.000USD
vào tháng 3/2017, đợt 2 đưa tiếp cho ông C 2.500USD. Đôi bên có lập biên nhận
xác nhận đã nhận 02 đợt tiền này. Tổng số tiền bà M đã đưa ông C là 4.500USD.
Số tiền 500USD còn lại bà M sẽ đưa cho ông C khi bà được cấp visa. Trường
hợp, bà không được cấp visa đi Mỹ thì ông C trả lại cho bà 3.700USD. Ông C
có hứa với bà đến tháng 10/2017 sẽ thực hiện thủ tục xin visa đi Mỹ. Nhưng tới
tháng 10/2017 chưa thấy ông C làm thủ tục, bà M hỏi thì ông C nói việc xin visa
đi Mỹ tốn rất nhiều tiền, nên ông không làm cho bà được. Sau đó, bà M có yêu
cầu ông C trả lại 3.700USD như đã thỏa thuận ban đầu, ông C hẹn qua năm
2018 sẽ trả lại tiền cho bà. Tuy nhiên, đến nay ông vẫn không trả tiền cho bà.
Nay, bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đoàn Trung C phải trả lại
3.700USD được quy ra bằng tiền đồng Việt Nam tại thời điểm xét xử sơ thẩm,
trả một lần ngay sau khi bản án/quyết định có hiệu lực pháp luật.
*Bị đơn ông Đoàn Trung C: Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông
C vắng mặt không lý do.
Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo phiên họp về kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt, người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa
giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án
quyết định đưa vụ án trên ra xét xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào lời khai của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên
đơn bà Nguyễn Thị M yêu cầu bị đơn ông Đoàn Trung C phải trả lại 3.700USD
cho bà M do ông C đã không làm được việc xin visa đi Mỹ, nên đây là vụ án về
Đòi tài sản quy định tại Điều 166 Bộ luật Dân sự và khoản 14 Điều 26 Bộ luật
Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Đoàn Trung C có hộ khẩu thường trú tại 313/7/8E
đường 3/2, Phường 10, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, theo quy định tại
khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
[1.2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tòa án nhân dân Quận 10 đã tiến
hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp về kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và Thông báo kết quả phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông
C đều vắng mặt và cũng không có văn bản gửi Tòa án trình bày ý kiến của mình
đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa, ông C tiếp tục vắng mặt dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai, người đại diện ủy quyền của nguyên đơn có Đơn xin xét xử
vắng mặt tại Tòa án. Xét, sự vắng mặt của các đương sự không làm ảnh hưởng

186
3

đến nội dung giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt các đương
sự theo quy định tại Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Theo Biên nhận về việc làm visa ngày 09/6/2017 do nguyên đơn nộp thì
ông C cam kết rằng“…có nhận làm visa đi Mỹ với số tiền 5.000 dollar cho cô
Nguyễn Thị M sanh năm 1963. Địa chỉ: 633/32 Lê Hồng Phong F.10, Quận 10,
TPHCM Cô Mỹ đặc cọc trước cho tôi 4.500usd…”, phía dưới tờ biên nhận này
có chữ viết và chữ ký mang tên Đoàn Trung C. Mặc dù được Tòa án triệu tập
hợp lệ nhiều lần nhưng ông C đều vắng mặt trong suốt quá trình quá trình giải
quyết vụ án, việc này xem như ông C từ bỏ quyền trình bày ý kiến của mình đối
với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, quyền cung cấp tài liệu chứng cứ để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Căn cứ khoản 2 và khoản 4 Điều 91,
Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận lời khai và chứng
cứ của nguyên đơn nên có cơ sở xác định ông C có nhận của bà M số tiền
4.500USD.
Cũng theo nội dung của tờ biên nhận nêu trên thì ông C có cam kết rằng
“…Sau khi làm xong cô M được cấp visa (usa) thì cô Mỹ sẽ đưa thêm 500 usd
(năm trăm usd). Nếu cô M không được cấp visa thì tôi sẽ hoàn trả 3.700usd cho
cô M”. Theo khoản 13 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh ngoại hối năm 2013
thì “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo,
báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự
khác của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại
hối, trừ các trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam”, nên sự thỏa thuận giữa bà M và ông C là trái quy định pháp luật do các
bên đã giao dịch với nhau bằng tiền đô la Mỹ. Căn cứ Điều 123 và Điều 131 Bộ
luật Dân sự, có cơ sở xác định giao dịch giữa bà M và ông C là vô hiệu và ông C
phải có nghĩa vụ trả lại cho bà M 4.500USD. Tuy nhiên, bà M chỉ yêu cầu ông C
trả lại 3.700USD, đây là yêu cầu hoàn toàn có lợi cho phía bị đơn nên Hội đồng
xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà M đối với yêu cầu này.
[2.2] Về thời hạn và phương thức thanh toán: Xét, thời gian ông C giữ số
tiền đã nhận của bà M đã quá lâu (từ tháng 6/2017) mặc dù đã được bà M gửi
thông báo nhắc nhở, nên cần thiết buộc ông C phải trả một lần ngay sau khi bản
án có hiệu lực pháp luật.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn buộc ông Đoàn Trung C phải trả cho bà Nguyễn Thị M số
tiền là 3.700USD x 23.230VNĐ = 85.951.000VNĐ (Tám mươi lăm triệu chín
trăm năm mươi mốt ngàn đồng), theo tỷ giá ngoại tệ đăng trên Báo Sài gòn giải
phóng ngày 26/4/2019 với giá mua 1USD là 23.230VNĐ.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí

187
4

dân sự sơ thẩm trên số tiền nguyên đơn yêu cầu được Hội đồng xét xử chấp
nhận.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định
tại Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 14 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 227, 228, 238, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 123, 131, 166 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự;
- Căn cứ khoản 13 Điều 1 Pháp lệnh số 06/2013/UBTVQH13 ngày
18/3/2013 của Ủy ban thường vụ quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh ngoại hối;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008; Luật sửa đổi, bổ sung một
điều của Luật Thi hành án dân sự số 64/2014/QH13 ngày 25/11/2014.
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1. Buộc ông Đoàn Trung C phải trả cho bà Nguyễn Thị M số tiền
85.951.000đ (Tám mươi lăm triệu chín trăm năm mươi mốt ngàn đồng), trả một
lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu
người phải thi hành án chưa thi hành bản án nêu trên thì hàng tháng người phải
thi hành án còn phải trả tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian
chậm trả tại thời điểm thanh toán theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Các bên thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Đoàn Trung C phải chịu số tiền là
4.297.550đ (Bốn triệu hai trăm chín mươi bảy ngàn năm trăm năm mươi đồng).
Hoàn lại cho bà Nguyễn Thị M số tiền 2.099.750đ (Hai triệu không trăm chín
mươi chín ngàn bảy trăm năm mươi đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ
phí Tòa án số 0016526 ngày 24/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận
10.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể
từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành

188
5

án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND Tp.HCM; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND Q.10;
- Chi cục THADS Q.10;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.

Nguyễn Bảo Ngọc

189
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TẠI ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 153/2019/DS - PT


Ngày: 29-8-2019
“V/v: Yêu cầu thanh toán tiền
thuê nhà, tiền đặt cọc và tiền
phạt”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG


- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tào
Các thẩm phán Ông Nguyễn Thanh Long
Ông Đặng Kim Nhân
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thanh Thủy, Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Thế Vinh, Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 179/2019/TLPT-DS ngày 08 tháng 5
năm 2019 về việc: “Yêu cầu thanh toán tiền thuê nhà, tiền đặt cọc và tiền phạt”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 10/2019/DS-ST ngày 19 tháng 3 năm 2019 của
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 969/2019/QĐ-PT ngày 12 tháng 8 năm
2019, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Y - sinh năm 1984.
Địa chỉ: Sapporo, Nhật Bản. Vắng.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Bà Dương Kim H - sinh năm:
1984 - Nơi ĐKHKTT: Tổ 96 phường H2, quận L, thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở hiện
nay: Phòng 701 Chung cư N1, tổ 10 phường K, quận N, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Võ Văn Đ -
Văn phòng luật sư T2 thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Vắng.
* Bị đơn: Ông Trần Văn T - sinh năm: 1955.
190
Địa chỉ: số 46 đường D, phường K, quận N, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Thành Đ1 - sinh năm:
1981 - Địa chỉ: số 574/11 đường T1, quận H1, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
* Người kháng cáo: Bị đơn - ông Trần Văn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Người đại điện theo ủy quyền của nguyên đơn - bà Dương Kim H trình
bày:
Ngày 27/01/2018 ông Y và ông Trần Văn T đã ký hợp đồng thuê nhà Lô số
73, tờ bản đồ số 10, tại địa chỉ số 42 Đường P, quận N, thành phố Đà Nẵng.
Theo hợp đồng này, giá thuê là 2400 USD/tháng. Thời hạn thuê nhà là 05 năm.
Tiền cọc: 7200 USD tương đương 3 tháng tiền thuê nhà, được trả 06 tháng một lần.
Mục đích thuê nhà là cung cấp các dịch vụ nhà hàng - khách sạn. Căn cứ theo hợp
đồng ông Y đã thanh toán 06 tháng tiền thuê nhà với số tiền là 14.400 USD theo ủy
nhiệm chi số 452985 ngày 09/2/2018 và 03 tháng tiền cọc là 7.200 USD theo điện
chuyển tiền ngày 29/12/2017. Tổng số tiền mà ông Y đã thanh toán cho ông Trần
Văn T là 21.600 USD. Ông Y đã chuyển vào tài khoản số 025840070000108 - chủ tài
khoản: Trần Văn T tại Ngân hàng HD Bank - chi nhánh Đà Nẵng, địa chỉ: số 74-76-
78 Chi Lăng, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Ngày 27/01/2018 ông Trần Văn T đã bàn giao nhà cho ông Y, toàn bộ nội thất
của ngôi nhà đã bị hư hỏng hoàn toàn, tất cả các thiết bị vệ sinh đều không thể sử
dụng và phục vụ cho mục đích kinh doanh của ông Y. Vào ngày 27/02/2018, ông Y
phải thuê đội vệ sinh với chi phí là 30.000.000 đồng đến tháo dỡ và chuyển toàn bộ
thiết bị cũ ra khỏi nhà và đầu tư thay thế thiết bị mới. Ngày 11/3/2018 ông T đã khóa
cửa ngôi nhà mà ông Y đã thuê và không cho đội vệ sinh vào nhà để dọn dẹp và lắp
đặt thiêt bị mới. Ông T không thông báo cho ông Y biết rằng ông ấy đã đơn phương
chấm dứt hợp đồng thuê nhà, vi phạm hợp đồng thuê nhà đã ký ngày 27/01/2018. Tất
cả các thiết bị trong nhà đều hư hỏng hoàn toàn và không sử dụng được: điện bị cắt,
nước bị khóa không cấp cho cả ngôi nhà, toilet bốc mùi, đồ đạc trong nhà đều không
sử dụng được...Việc ông T đóng cửa ngôi nhà mà không thông báo đã khiến ông Y
không thể sử dụng ngôi nhà đã thuê, điều đó có nghĩa là ông ấy đã đơn phương chấm
dứt hợp đồng thuê nhà và vi phạm hợp đồng thuê nhà đã ký ngày 27/01/2018. Ngoài
ra đồng tiền giao dịch của hợp đồng là đô la Mỹ (USD) đã vi phạm pháp luật Việt
Nam về việc cấm sử dụng ngoại tệ để thanh toán trong lãnh thổ Việt Nam.
Yêu cầu Tòa án xem xét và hủy bỏ Hợp đồng thuê nhà đã ký ngày 27/01/2018
giữa ông Y và ông Trần Văn T vì đã vi phạm các quy định của pháp luật Việt Nam.
Yêu cầu ông Trần Văn T trả lại tiền đặt cọc và thuê nhà 06 tháng tiền thuê nhà

191
là 21.600 USD cộng với tiền phạt tương đương với 03 tháng tiền thuê nhà là 7.200
USD vì đã đơn phương chấm dứt hợp đồng. Tổng cộng số tiền mà ông T phải trả lại
là 28.800 USD * 23.160 đồng = 667.008.000 đồng. (Theo thông báo của Ngân hàng
ngoại thương Việt Nam ngày 19/3/2019 thì 01 USD = 23.160 đồng).
Căn cứ vào biên bản làm việc ngày 26/3/2018 thì bị đơn cũng xác định có bàn
giao nhà ngày 27/01/2018, đã nhận đủ tiền cọc 03 tháng và 06 tháng tiền thuê tổng
cộng số tiền là 21.600 USD.
Ngày 03/4/2018 ông T đã đồng ý trả lại số tiền cọc 03 tháng và 06 tháng tiền
thuê cho bên thuê tổng cộng số tiền là 21.600 USD, ông cũng xác nhận ngôi nhà cho
thuê được xây dựng và hoạt động kinh doanh khách sạn từ năm 2005. Toàn bộ trang
thiết bị trong ngôi nhà của ông T cho thuê phần lớn không còn giá trị sử dụng chỉ còn
lại 25 cái giường có giá trị là 2.500.000 đồng x 25 cái = 62.500.000 đồng và 20 cái tủ
kính mỗi cái có giá trị 1.000.000 x 20 cái = 20.000.000 đồng. Tổng số tài sản còn giá
trị sử dụng trong ngôi nhà cho thuê của ông T mà bên thuê đã di dời là 82.500.000
đồng.
Tôi không đồng ý với yêu cầu phản tố của ông Trần Văn T vì: Toàn bộ tài sản
mà ông Trần Văn T liệt kê trên không có phụ lục đính kèm, không có biên bản kiểm
kê tài sản để đối chứng, không rõ thời điểm mua tài sản. Tại biên bản làm việc giữa
tôi và ông Trần Văn T ngày 03/4/2018, thể hiện nhà 42 Đường P xây và hoạt động
khách sạn từ năm 2005. Toàn bộ số nội thất trong nhà không có giá trị sử dụng. Ông
T chỉ xác định giá trị tài sản còn giá trị sử dụng là 25 cái giường mỗi cái giá
2.500.000đ, 20 cái tủ làm bằng kính giá 1.000.000 đ/cái. Tổng giá trị tài sản còn giá
trị của ông T là 82.500.000đ (Tám mươi hai triệu năm trăm ngàn đông).
Ông T đồng ý hoàn trả tiền cọc và tiền thuê nhà 6 tháng cho ông Y là 21.600
USD * 23.160 đồng = 500.256.000đ (Theo thông báo của Ngân hàng ngoại thương
Việt Nam ngày 19/3/2019 thì 01 USD = 23.160 đồng).
Điêu đó cho thấy, ông T thừa nhận việc tài sản của ông T trong căn nhà không
có giá trị sử dụng, còn giường và tủ kính có giá trị sử dụng ông T đã yêu cầu cấn trừ
vào số tiền mà bên thuê đã thanh toán. Ông T đồng ý hoàn trả tiền thuê nhà và tiền
cọc cho ông Y.
Hợp đồng thuê nhà giữa ông Y và ông Trần Văn T để phục vụ vào hoạt động
kinh doanh khách sạn của ông Y mà tài sản của ông T được lắp đặt sử dụng từ năm
2005 đến nay đã 13 năm không còn giá trị sử dụng. Bên thuê nhà thuê người tháo gỡ
những thiết bị không còn giá trị sử dụng để lắp đặt thay thế mới các thiết bị mới thì
mới khai thác được công năng của tài sản thuê.
Khi làm việc ông T chỉ thừa nhận 25 cái giường và 20 cái tủ kính còn giá trị sử
dụng, ngoài ra những cái khác đều không có giá trị sử dụng.
192
Nếu ông Y không thực hiện việc tháo gỡ những thứ hư hỏng để thay thế thiết
bị mới thì không thể dùng căn nhà vào mục đích thuê của ông Y.
Vì tất cả những căn cứ trên. Tôi không đồng ý với yêu cầu phản tố của ông
Trần Văn T. Đề nghị Tòa án bác yêu cầu phản tố của ông Trần Văn T. Buộc ông Trần
Văn T phải trả lại 500.256.000đ (Năm trăm triệu, hai trăm năm mươi sáu ngàn đồng)
và tiền phạt tương đương với 03 tháng tiền thuê nhà là 7.200 USD vì đã đơn phương
chấm dứt hợp đồng. Tổng cộng số tiền mà ông T phải trả lại là 28.800 USD * 23.160
đồng = 667.008.000 đồng cho ông Y.
2. Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Thành Đ1 trình bày:
Ngày 27/01/2018 ông T và ông Y đã ký Hợp đồng thuê nhà để ở tại địa chỉ Lô
số 73, tờ bản đồ số 10, số 42 Đường P, quận N, thành phố Đà Nẵng, thời hạn thuê là
5 năm bắt đầu từ ngày 27/01/2018, giá thuê là 2.400 đô la Mỹ. Ông T đã nhận tiền
cọc là 3 tháng tiền thuê nhà và tiền thuê nhà trong 6 tháng và đã giao chìa khóa nhà
cho ông Y ngày 27/01/2018.
Từ khi tiếp nhận, ông Y đã tháo dời và bán những thiết bị nội thất trong nhà để
cải tạo phục vụ cho mục đích kinh doanh của ông Y mà không hề báo trước cho ông
T là bên cho thuê.
Ngày 26/3/2018 ông T đã có buổi làm việc với luật sư của văn phòng Luật sư
Tân Hòa, đại diện theo ủy quyền của ông Y.
Tại văn bản làm việc, ông T đã có thiện chí để hai bên tiếp tục thực hiện hợp
đồng nhưng lấy lý do là hợp đồng chưa công chứng, giá trị hợp đồng được thể hiện
bằng ngoại tệ, nên hợp đồng đã ký là vô hiệu, ông Y yêu cầu ông T hoàn trả lại tiền
đặt cọc và tiền thuê nhà như đã nêu trong đơn khởi kiện.
Về việc giá trị hợp đồng được thực hiện bằng ngoại tệ là do bản thân ông T
cũng như nhiều người dân khác, khi ký kết hợp đồng, còn thiếu kiến thức về pháp
luật, chưa nắm rõ quy định về sử dụng ngoại hối của Việt Nam. Ông T thừa nhận
mình có thiếu sót ở điểm này.
Về việc hợp đồng không có công chứng, chứng thực thì sau buổi làm việc với
văn phòng luật sư Tân Hòa, ông T đã tìm hiểu và được biết tại khoản 2, Điều 122
Luật nhà ở năm 2014 quy định về công chứng, chứng thực hợp đồng về nhà ở lại quy
định đối với trường hợp cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở thì
không bắt buộc phải công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp các bên có
nhu cầu. Bộ luật dân sự 2015 cũng đã bỏ quy định về Hợp đồng cho thuê nhà và thay
thế bằng một dẫn chiếu về Điều 121 Luật nhà ở 2014.
Tuy giá trị hợp đồng đã ký được thể hiện bằng ngoại tệ, nhưng hợp đồng đã
được thực hiện trên thực tế, mục đích và ý chí các bên đã được thể hiện.

193
Từ khi tiếp nhận nhà, ông Y đã tự ý tháo dời và đã bán những trang thiết bị nội
thất trong nhà của ông T để cải tạo phục vụ cho mục đích kinh doanh của ông Y mà
không hề báo trước cho ông Trần Văn T là bên cho thuê, cụ thể: 18 cái tivi; 16 cái
điều hòa; 15 cái quạt; giường 27 cái (1m2 :11 cái; lm4: 14 cái, 1m6: 2 cái); 25 cái chăn
gối; 15 tủ quần áo (tủ nhôm: 13 cái, tủ gỗ: 2 cái); 16 bàn tivi; 14 tủ lạnh; 23 cái gối
nằm; 20 cái nệm giường thường; 6 cái nệm hiêu Kimdan; 11 cái ghế ngồi; 18 cái điện
thoại; 20 bộ kính soi mặt và phụ kiện; 10 bộ bồn tắm; 20 cái vòi tắm; 6 máy nước
nóng; 20 bộ bồn cầu toilet. Tổng giá trị tài sản của ông Trần Văn T bị ông Y tháo dỡ
và bán đi khoảng 500.325.000 đồng và chiếm giữ toàn bộ số tiền bán tài sản của ông
T.
Như vậy ông Y đã vi phạm điểm 2, điểm 3 khoản b Điều 6 của Hợp đồng thuê
nhà khi tự ý tháo dỡ đồ đạc nội thất bên trong ngôi nhà:
- Điểm 2:...Bất cứ việc sửa chữa hoặc cải tạo căn nhà cho mục đích sử dụng
của mình, phải được sự chấp nhận bằng văn bản của Bên cho thuê...
- Điểm 3:...Chịu hoàn toàn trách nhiệm sử dụng và bảo quản nội thất và trang
thiết bị trong khu vực thuê. Chịu trách nhiệm bồi thường nếu những hỏng hóc và mất
mát được gây ra do lỗi cố ý của Bên Thuê hoặc bởi bên thứ 3 được cho phép vào bởi
bên thuê...
Khoản d Điều 132 Luật nhà ở năm 2014 quy định về Đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng thuê nhà ở thì bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng thuê nhà khi Bên thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ nhà ở đang thuê.
Vậy chúng tôi không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
đồng thời phản tố yêu cầu ông Y phải trả lại toàn bộ tài sản hoặc bồi thường thiệt hại
toàn bộ tài sản nói trên cho ông Trần Văn T do ông Y tự ý tháo dỡ và bán đi tài sản
thuộc quyền sở hữu của ông T với số tiền tạm tính là: 500.325.000 đồng nhằm bảo vệ
lợi ích quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Trần Văn T. Ông Trần Văn T đề nghị Tòa
án buộc ông Y phải bồi thường thiệt hại toàn bộ tài sản, cụ thể là: 18 cái tivi; 16 cái
điều hòa; 15 cái quạt; giường 27 cái (lm2: 11 cái; 1m4: 14 cái, lm6: 2 cái); 25 cái chăn
gối; 15 tủ quần áo (tủ nhôm: 13 cái, tủ gỗ: 2 cái); 16 bàn tivi; 14 tủ lạnh; 23 cái gối
nằm; 20 cái nệm giường thường; 6 cái nệm hiệu Kimdan; 11 cái ghế ngồi; 18 cái điện
thoại; 20 bộ kính soi mặt và phụ kiện; 10 bộ bồn tắm; 20 cái vòi tắm; 6 máy nước
nóng; 20 bộ bồn cầu toilet do ông Y tự ý tháo dỡ và bán đi tài sản thuộc quyền sở hữu
của ông với số tiên tạm tính là khoảng 500.325.000 đồng nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho ông T theo quy định của pháp luật.
Tại bản án dân sự thẩm số 10/2019/DS-ST ngày 19 tháng 3 năm 2019, Tòa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định:
Căn cứ: Điều 117, 122, 123 và Điều 407 Bộ luật dân sự; Điều 244 Bộ luật tố
194
tụng dân sự; Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn ông Y buộc bị đơn ông Trần Văn T phải
trả lại số tiền 30.000.000 đồng mà ông Y đã bỏ ra để thuê đội vệ sinh tháo dỡ các
thiết bị hư hỏng ra ngoài.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Y “Yêu cầu hủy hợp đồng
thuê nhà; Yêu cầu thanh toán tiền thuê nhà, tiền đặt cọc” đối với bị đơn ông Trần Văn
T.
2.1. Tuyên hợp đồng thuê nhà ký ngày 27/01/2018 giữa ông Y và ông Trần
Văn T vô hiệu.
Buộc ông Trần Văn T phải trả lại cho ông Y số tiền 500.256.000đ.
2.2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc phạt hợp đồng ông
Trần Văn T số tiền 166.752.000 đồng.
2.3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn
phải bồi thường tài sản bằng giá trị là: 500.325.000đ.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền, nghĩa vụ thi hành
án, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 01 tháng 4 năm 2019, ông Trần Văn T kháng cáo đề nghị tòa án cấp
phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu
phản tố của ông, buộc ông Y bồi thường thiệt hại cho ông số tiền 500.325.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên phát biểu quan điển giải quyết vụ án
của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người
tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông Trần Văn T;
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[1] Xét kháng cáo của ông Trần Văn T, nhận thấy:
[1.1] Về yêu cầu hủy hợp đồng thuê nhà, thanh toán lại tiền đặt cọc và tiền thuê
nhà đã trả trước của nguyên đơn; xét thấy: Hợp đồng thuê nhà lập ngày 27/01/2018,
195
6
giữa ông Y và ông Trần Văn T, trong đó quy định giá thuê nhà là đồng USD và thực
tế các bên cũng đã thanh toán bằng đồng USD; Giao dịch này được thực hiện trên
lãnh thổ Việt Nam, do đó được điều chỉnh theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Căn cứ Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 và các Điều 3, 4 Thông tư số
32/2013/TT-NHNN ngày 26/12/2013 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, hướng dẫn
thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, thì hợp đồng
này là vi phạm điều cấm của pháp luật. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào điểm c
Điều 117; Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015, tuyên bố hợp đồng cho thuê nhà nêu
trên là vô hiệu và buộc các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận là đúng quy định pháp luật, nên không có căn cứ để chấp nhận yêu
cầu kháng cáo của ông T về nội dung này.
[1.2] Về yêu cầu phản tố của bị đơn ông Trần Văn T: Ông T yêu cầu ông Y bồi
thường thiệt hại tài sản do ông Y tự ý tháo dỡ và bán với số tiền 500.325.000 đồng.
Tuy nhiên trong suốt quá trình giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm, cũng như trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm, ông T cũng không cung cấp được chứng cứ về việc bàn giao
số tài sản trên cho bên thuê nhà; ngoài hợp đồng thuê nhà không có phụ lục hợp đồng
hoặc biên bản bàn giao tài sản kèm theo để chứng minh được tài sản và giá trị tài sản
yêu cầu bồi thường. Trong khi đó nguyên đơn không chấp nhận yêu cầu của ông T và
cho rằng khi nhận nhà thì toàn bộ trang thiết bị trong nhà đã hư hỏng toàn bộ, không
có giá trị sử dụng. Do đó tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu phản tố của ông T là có căn
cứ, nên không có cơ sở chấp chận yêu cầu kháng cáo của ông T.
[2] Về án phí: Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 của
Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí tòa án, thì ông T thuộc trường hợp được miễm án phí. Do đó
ông T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Bác kháng cáo của ông Trần Văn T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ Điều 117, 122, 123 và Điều 407 Bộ luật dân sự; Điều 22 Pháp lệnh
ngoại hối năm 2005; các Điều 3, 4 Thông tư số 32/2013/TT-NHNN ngày 26/12/2013
của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng
ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam; Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326
của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý

196
và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
- Đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn ông Y buộc bị đơn ông Trần Văn T phải trả
lại số tiền 30.000.000 đồng mà ông Y đã bỏ ra để thuê đội vệ sinh tháo dỡ các thiết bị
hư hỏng ra ngoài.
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Y “Yêu cầu hủy hợp đồng
thuê nhà; Yêu cầu thanh toán tiền thuê nhà, tiền đặt cọc” đối với bị đơn ông Trần Văn
T.
- Tuyên hợp đồng thuê nhà ký ngày 27/01/2018 giữa ông Y và ông Trần Văn T
vô hiệu.
Buộc ông Trần Văn T phải trả lại cho ông Y số tiền 500.256.000đ.
- Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc phạt hợp đồng ông Trần
Văn T số tiền 166.752.000 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn phải
bồi thường tài sản bằng giá trị là: 500.325.000đ.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Văn T không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm. Hoàn trả cho ông T 300.000 đồng tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
tòa án số 001694 ngày 09/4/2019 của Cục thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng.
3. Các Quyết định khác về án phí dân sự sơ thẩm; quyền và nghĩa vụ thi hành án
tại Bản án sơ thẩm số 39/2018/DS-ST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- TAND tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND thành phố Đà Nẵng;
- VKSND thành phố Đà Nẵng;
- Cục THADS thành phố Đà Nẵng;
- Những người tham gia tố tụng; (Đã ký)
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.

Nguyễn Văn Tào

197
TAND TP. PHAN THIEÁT CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH THUẬN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 62/2019 /DSST
Ngày: 12/12/2019.
Về việc: “Tranh chấp HĐ vay tài sản”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:


Chủ tọa phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Hòa- Thaåm phaùn.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Đỗ Văn Hòa
2. Bà Lê Thị Kiều Thu
Đại diện Việt kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết tham gia phiên tòa:
Bà Trương Thị Mỹ Thuận – Kiểm sát viên.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Phan Thị Thái– Thư ký Tòa án
nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Ngày 12 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan
Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
263/2019/TLST-DS ngày 01/10/2019 “V/v Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”,
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 393/2019/QÑXXST–DS ngaøy
14/11/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 404/2019/QĐST-DS ngày
03/12/2019, giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: 1/ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1978.
2/ Ông Nguyễn Thanh M, sinh năm 1971.
Cùng địa chỉ: Khu phố 02, phường X, Tp. P, tỉnh Bình Thuận.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Vũ Tuấn H, sinh năm 1971. Trú tại:
455B Thủa Khoa H, P, Bình Thuận (có mặt)
- Bị đơn: 1/ Ông Nguyễn Hoài T (vắng mặt)
2/ Bà Nguyễn Thị Ngọc L (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: thôn X, xã P, Tp. P, tỉnh Bình Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn ông Vũ Tuấn H trình bày:

198
Trong năm 2018, vợ chồng ông Nguyễn Thanh M và bà Nguyễn Thị T có
cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài T có vay nhiều lần
nhưng không trả lãi. Đến ngày 30/4/2019, thì bà Nguyễn Thị Ngọc L chốt nợ gốc
và lãi với tổng số tiền 402.100.000 đồng và 300 USD. Nhưng từ khi chốt nợ đến
nay vẫn không trả cho vợ chồng ông M, bà T. Nay tôi yêu cầu vợ chồng bà L, ông
T phải trả cho vợ chồng ông M, bà T số tiền 402.100.000 đồng và 300 USD.
* Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc L, trình bày:
Tôi thừa nhận trong năm 2018, tôi có vay của bà T các khoản như sau:
Ngày 02/02/2018 vay số tiền 10.000.000 đồng.
Ngày 30/01/2018 vay số tiền 20.000.000 đồng.
Ngày 17/5/2018 vay số tiền 5.000.000 đồng.
Ngày 23/7/2018 vay số tiền 10.000.000 đồng.
Ngày 24/5/2018 vay số tiền 10.000.000 đồng.
Ngày 04/10/2018 vay số tiền 10.000.000 đồng.
Ngày 06/10/2018 vay số tiền 10.000.000 đồng.
Ngày 26/10/2018 vay số tiền 30.000.000 đồng.
Ngày 30/9/2018 vay số tiền 30.000.000 đồng.
Ngày 07/10/2018 vay số tiền 5.000.000 đồng.
Ngày 12/10/2018 vay số tiền 10.000.000 đồng.
Ngày 23/01/2018 vay số tiền 7.000.000 đồng.
Như vậy, tổng số vay là 157.000.000 đồng (trong đó có 35.000.000 đồng tôi
vay dùm cho bà Trang D, bà T cũng có biết) và 300 USD.
Từ ngày vay số tiền trên thì tôi không có khả năng trả lãi cho vợ chồng bà
Trong; đến ngày 30/4/2019, tôi và bà T chốt lại số nợ gốc và lãi với tổng số tiền
402.100.000 đồng (trong đó tiền gốc là 157.000.000 đồng và số còn lại là tiền lãi)
và 300 USD.
Cách tính lãi của bà T cụ thể như sau: Ví dụ: khoản vay ngày 02/02/2018 số
tiền 10.000.000 đồng, thì tính lãi suất 80.000 đồng/ngày x 30 ngày =2.400.000
đồng, từ ngày 02/02/2018 đến 30/4/2019 là 30.000.000 đồng tiền gốc.
Hiện tại, tôi chưa có chứng cứ chứng minh cho vấn đề trên nhưng do tôi đã
chốt nợ với bà T vào ngày 30/4/2019 với tổng số tiền 402.100.000 đồng và 300
USD thì tôi cũng chấp nhận trả cho bà T nhưng tôi xin trả dần, mỗi tháng trả tối
thiểu 500.000 đồng cho đến khi hết nợ.
Mục đích tôi vay số tiền trên về để trả tiền ngân hàng và có mượn dùm cho
người khác. Việc vay mượn này chồng tôi không biết nên không đến Tòa án.
Vụ việc đã được Tòa án hòa giải nhưng không thành.
Sau khi những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến, vị đại diện Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phát biểu ý kiến về việc tuân thủ theo
pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký, của nguyên đơn; kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội

199
đồng xét xử nghị án là đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định.
Bị đơn chấp hành chưa tốt các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử, xử theo hướng chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc vợ chồng bị đơn là bà ông T và bà
L phải có nghĩa vụ trả nợ cho vợ chồng nguyên đơn ông M và bà T số tiền
402.100.000 đồng.
Vì một phần giao dịch ngày 30/4/2019 giữa nguyên đơn và bị đơn bị vô
hiệu, buộc bị đơn ông T và bà L phải hoàn trả cho nguyên đơn bà T và ông M số
tiền 300 USD được quy đổi thành tiền đồng Việt Nam theo tỉ giá hối đoái do
Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về trình tự thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông
Nguyễn Hoài T, hiện nay đang cư trú tại thôn X, xã P, thành phố P, tỉnh Bình
Thuận. Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm
a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, yêu cầu khởi kiện của bà
Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Thanh M về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài
sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết.
Bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài T đã được Tòa án nhân dân Tp.
Phan Thiết triệu tập hợp lệ lần thứ 2 đến phiên tòa nhưng bà Luân, ông Thanh vẫn
vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung vụ án:
Năm 2018, vợ chồng bà Nguyễn Thị T có cho vợ chồng bà Nguyễn Thị
Ngọc L vay nhiều lần nhưng không trả cả gốc và lãi. Đến ngày 30/4/2019 bà
Nguyễn Thị Ngọc L chốt lại nợ gốc và lãi với tổng số tiền 402.100.000 đồng và
300 đô la Mỹ; từ khi chốt công nợ đến nay vẫn chưa trả cho vợ chồng bà T. Nay
yêu cầu bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài T phải trả cho vợ chồng bà
Nguyễn Thị T và Nguyễn Thanh M số tiền 402.100.000 đồng và 300 đô la Mỹ.
Bà Nguyễn Thị Ngọc L thừa nhận có vay tiền nhiều lần của bà Nguyễn Thị
T tổng số tiền gốc là 157.000.000 đồng với lãi suất là 80.000 đồng/ngày, nếu bà
vay 10.000.000 đồng thì lãi suất sau 30 ngày là 2.400.000 đồng và 300 đô la Mỹ.
Nhưng do không trả được gốc và lãi nên đến ngày 30/4/2019 chốt nợ gốc và lãi là

200
402.100.000 đồng và 300 đô la Mỹ. Bà đồng ý trả số tiền này nhưng xin trả dần
mỗi tháng tối thiểu là 500.000 đồng cho đến khi trả xong nợ.
Tại phiên tòa hôm nay, bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài T
không có mặt chứng tỏ bà L, ông T đã khước từ quyền tham gia tố tụng của mình,
nên việc xét xử vắng mặt bà L, ông T là phù hợp, đảm bảo quyền chính đáng, hợp
pháp của nguyên đơn.
Hội đồng xét xử, xét thấy căn cứ vào giấy mượn tiền đề ngày 03/4/2019 với
nội dung “Tôi Nguyễn Thị Ngọc L sau khi đã tính toán hết từ năm 2018 mượn cho
tất cả các người kêu mượn dùm và tôi. Tôi và chị T đã tính hết tổng gốc và lãi hết
là 402.100.000 đồng và 300 đô tới ngày 30/4/2019. Tôi cam đoan trên là đúng sự
thật”. Bà Nguyễn Thị Ngọc L cho rằng thực tế có vay của bà T số tiền gốc là
157.000.000 đồng và 300 USD. Từ ngày vay số tiền trên bà không có khả năng trả
lãi cho vợ chồng bà T và ông M nên đến ngày 30/4/2019, bà đã chốt số nợ gốc và
lãi tổng cộng 402.000.000 đồng, trong đó số tiền gốc là 157.000.000 đồng còn lại
là số tiền lãi và 300 USD. Bà xác định cách tính lãi của bà T là 80.000 đồng/ngày,
nếu bà vay 10.000.000 đồng thì lãi suất sau 30 ngày là 2.400.000 đồng nên số tiền
lãi bà phải trả cho bà L rất cao. Tuy nhiên bà L cũng thừa nhận là không có chứng
cứ để chứng minh cho lời bà nói và đã chốt nợ với bà T vào ngày 30/4/2019. Bà L
cũng đồng ý trả nợ cho bà T nhưng bà xin được trả dần 500.000/tháng vì gia cảnh
khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy đủ căn cứ xác định việc vay mượn
giữa nguyên đơn và bị đơn là có thật.
Về nội dung giấy mượn nợ:
+ Đối với khoản tiền 402.100.000 đồng, bị đơn thừa nhận đã nợ số tiền trên
nên căn cứ theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 cần chấp nhận
yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn bà L phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số
tiền gốc là 402.100.000 đồng.
+ Đối với khoản tiền 300 USD là giao dịch bằng ngoại tệ: Do đó, các giao
dịch giữa các cá nhân về việc vay ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam là trái với quy
định tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005, sửa đổi bổ sung năm 2013 vì các
đương sự không thuộc đối tượng được phép sử dụng ngoại tệ trong giao dịch dân
sự. Vì vậy, giao dịch mượn nợ ngày 30/4/2019 giữa nguyên đơn và bị đơn bị vô
hiệu một phần do vi phạm điều cấm của pháp luật được quy định tại Điều 117 và
Điều 123 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu theo qui định tại Điều 137
của Bộ luật dân sự năm 2015: Cần buộc bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn số
tiền 300 USD được quy đổi thành tiền đồng Việt Nam theo tỉ giá hối đoái do
Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành án. Về lỗi làm cho giao dịch
dân sự bị vô hiệu một phần: nguyên đơn là người cho bị đơn mượn số tiền 300

201
USD mặc dù các đương sự không biết qui định giữa các cá nhân về việc vay
mượn ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam là trái quy định pháp luật; Tuy nhiện,
nguyên đơn là người có tiền ngoại tệ cho vay vì vậy buộc nguyên đơn phải biết
các qui định về việc vay ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, cần xác định lỗi
hoàn toàn thuộc về nguyên đơn. Vì vậy, đối với khoản tiền 300 đô la Mỹ, mặc dù
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả nợ nhưng giao
dịch bị vô hiệu 1 phần là lỗi của nguyên đơn nên nguyên đơn phải chịu án phí dân
sự không có giá ngạch trên số tiền 300 đô la Mỹ bị vô hiệu.
Về nghĩa vụ trả nợ:
Nguyên đơn yêu cầu vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài
T có phải có trách nhiệm liên đới trả nợ. Hội đồng xét xử xét thấy, trong giấy
mượn nợ mặc dù chỉ có một mình bà L là người viết, ký xác nhận và quá trình giải
quyết vụ án, ông T vắng mặt tất cả các buổi Tòa triệu tập mặc dù đã được tống đạt
hợp lệ văn bản tố tụng, tuy nhiên bà L khai mục đích bà mượn số tiền trên là để
trả nợ cho ngân hàng. Như vậy có thể thấy việc vay mượn nợ của bà Luân mục
đích là để trả nợ cho ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho gia đình. Vì
vậy căn cứ theo quy định tại Điều 27, khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 37 Luật
Hôn nhân gia đình thì ông Nguyễn Hoài T phải có trách nhiệm liên đới cùng với
bà Luân trả nợ số tiền 402.100.000 đồng và 300 đô la Mỹ.
[3] Về án phí: Phần giao dịch dân sự bị Hội đồng xét xử tuyên vô hiệu, bà
Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Thanh M phải chịu như đối với trường hợp vụ án
dân sự không có giá ngạch.
Bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài T phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm trên số tiền phải trả cho nguyên đơn theo quy định.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH
1/ Áp dụng: Khoản 3 Điều 26; Điều 35; Điều 39, Điều 147; Điều 227 và
Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Điều 117, Điều 123, Điều 137, Điều 463, Điều 466 và Điều 357 Bộ luật dân
sự năm 2015;
Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005, sửa đổi bổ sung năm 2013;
Điều 27, khoản 1 Điều 30, khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân gia đình;

202
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ;
Luật thi hành án dân sự.
2/ Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc bị đơn vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài T phải
có nghĩa vụ trả nợ cho vợ chồng ông Nguyễn Thanh M và bà Nguyễn Thị T số
tiền 402.100.000 (Bốn trăm lẻ hai triệu một trăm ngàn) đồng.
Tuyên bố một phần giao dịch ngày 30/4/2019 giữa nguyên đơn và bị đơn bị
vô hiệu, buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài T phải hoàn trả
cho nguyên đơn ông Nguyễn Thanh M và bà Nguyễn Thị T số tiền 300 USD được
quy đổi thành tiền đồng Việt Nam theo tỉ giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước
công bố tại thời điểm thi hành án.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất của các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của
pháp luật, nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi
suất quy định tại khoản 02 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
3/ Án phí: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Thanh M phải nộp 300.000
đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã
nộp trước đó theo biên lai thu tiền số 0028091 ngày 30/9/2019 của Chi cục thi
hành án dân sự Tp. Phan Thiết; hoàn lại cho bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn
Thanh M số tiền tạm ứng án phí còn lại là 9.862.000 đồng.
Bà Nguyễn Thị Ngọc L và ông Nguyễn Hoài T phải nộp 10.042.000 đồng
án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn;
báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn
vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc ngày niêm yết bán án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

203
- Tòa án tỉnh; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKS Tp. Phan Thiết;
-Chi cục THADS Tp. Phan Thiết;
- Đương sự;
- Lưu
Vũ Thị Thanh Hòa

204
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 413/2020/DS-PT
Ngày: 23/10/2020
V/v: “Tranh chấp Hợp đồng
cho thuê mặt bằng”.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
-Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Trần Thị Thu Nam
Các Thẩm phán: Ông Vũ Toàn Giang
Bà Nguyễn Thu Hồng
-Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Hương Lan, Thư ký Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội: Bà Nguyễn Mai Thanh -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 23 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 283/2019/TLPT-DS ngày 05 tháng 9
năm 2019 về việc “Tranh chấp Hợp đồng cho thuê mặt bằng”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 06/2019/DS-ST, ngày 3 và 8/5/2019 của Tòa án nhân
dân quận Hoàn Kiếm bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 378/2020/QĐ-PT ngày 09 tháng
12 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1985 (vắng mặt).
HKTT: Cụm 1, thôn Trung, xã Liên Trung, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đào Thị Thuý Mùi, sinh năm 1991; địa chỉ: số nhà
20 ngõ 394/16/24 đường Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành
phố Hà Nội (theo văn bản uỷ quyền ngày 31/10/2019. Số công chứng 1217 lập tại
Văn phòng công chứng Nguyễn Thương. Bà Mùi có mặt tại phiên tòa).
Bị đơn: Ông Lương Thành Đ, sinh năm 1987 (vắng mặt).
Hiện ở: số 02 -04 Nguyễn Hữu Huân, Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Đức Hoàng, sinh năm 1977. CMTND số
011770413 do Công an thành phố Hà Nội cấp ngày 16/6/2007 (Theo Giấy uỷ quyền

205
ngày 09/10/2017. Số công chứng 3608 lập tại Văn phòng công chứng Quốc Thái.
Ông Hoàng vắng mặt).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty TNHH TM GE Việt Nam (gọi tắt là Công ty GE)
Người đại diện theo pháp luật: Ông Bae Yong, quốc tịch Hàn Quốc (vắng mặt).
Trụ sở: 110 ngõ 35/163 Khương Hạ, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị P (vắng mặt) sinh năm 1985 - Phó
Giám đốc Công ty; địa chỉ: Cụm 1 thôn Trung, xã Liên Trung, huyện Đan Phượng,
thành phố Hà Nội (Theo Giấy uỷ quyền số 11/GUQ-GEVN, ngày 01 tháng 01 năm
2017).
2. Ông Hong Jong Woun, sinh năm 1971, Quốc tịch: Hàn Quốc (vắng mặt).
3. Bà Yoo Kyung Hee, sinh năm 1983, Quốc tịch: Hàn Quốc ( vắng mặt).
Cùng trú tại: P1707 Thăng Long Number 1, Khuất Duy Tiến, Mễ Trì, quận Nam Từ
Liêm, thành phố Hà Nội.
4. Công ty TNHH RB Việt Nam
Địa chỉ: 20 Hàng Tre, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Lê Huyền Ngân - Giám đốc (vắng mặt)..
5. Ông Tạ Thành T, sinh năm 1979 (vắng mặt).
Hộ khẩu thường trú: Lô OBT1, Ô số 2, Tổ 18 Bắc Linh Đàm, phường Đại Kim, quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh Phạm Anh Sơn, sinh năm 1990, CMTND số
001090009206 do Cục cảnh sát ĐKQL cư trú và DLQG về dân cư cấp ngày
19/10/2015 (anh Sơn vắng mặt tại phiên tòa).
6. Bà Thạch Duy A, sinh năm 1982 (vắng mặt).
Hộ khẩu thường trú: Lô OBT1, Ô số 2, tổ 18 Bắc Linh Đàm, Phường Đại Kim, quận
Hoàng Mai, Hà Nội.
7. Ông Bùi Mạnh H, sinh năm 1970 (vắng mặt).
Hộ khẩu thường trú: số 1 Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
8. Bà Phạm Thị Thúy Đ, sinh năm 1980 (vắng mặt).
Hộ khẩu thường trú: 9/3 Nguyễn Huy Tưởng, phường 6, quận Bình Thạch, thành phố
Hồ Chí Minh.
9. Công ty cổ phần đầu tư thương mại và dịch vụ Đ
Địa chỉ: 20 Hàng Tre, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lương Thành Đ - Giám đốc (vắng mặt).

206
10. Công ty cổ phần thương mại dịch vụ và bảo vệ ML.
Địa chỉ: Số 16 ngõ 406, đường Xuân Phương, phường Xuân Phương, quận Nam Từ
Liêm, thành phố Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật: Ông Hà Vũ Chang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn bà Nguyễn Thị P và người đại diện theo uỷ quyền trình bày:
Bà Phượng là chủ sở hữu Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương Mại GE Việt
Nam (gọi tắt là Công ty GE), chồng bà là ông Bae Yong (gọi tắt là ông Yong) là
Giám đốc Công ty.
Ngày 28/10/2015, ông Lương Thành Đ và bà P ký Hợp đồng cho thuê mặt bằng
tại tầng 1 và tầng 3 nhà số 20 Hàng Tre, Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội, thời hạn
thuê 3 năm kể từ ngày 12/11/2015 đến ngày 31/12/2018; giá thuê là 2.600USD/1
tháng để mở cửa hàng buôn bán mỹ phẩm và salon chăm sóc sắc đẹp. Hai bên thỏa
thuận kỳ đầu tiên thanh toán 3 tháng một lần, tiếp sau đó thanh toán 6 tháng một lần.
Bà Phượng đã thanh toán cho ông Đ tiền thuê nhà đến hết ngày 12/8/2016, cụ thể: lần
1 vào ngày 21/10/2015 thanh toán 58.084.000đồng; lần 2, vào ngày 28/10/2015 thanh
toán 116.168.000đồng; lần 3 vào ngày 12/01/2016 thanh toán 15.600USD. Người ký
tên trên các phiếu thu, nhận tiền của bà P là ông Phạm Anh Sơn
Ngay sau khi ký Hợp đồng, vợ chồng bà P ký hợp đồng thi công sửa chữa văn
phòng với Công ty TNHH Thương mại Thiết kế nội thất và xây dựng Hà Thành, cải
tạo lại toàn bộ nội thất tầng 1 và tầng 3 của nhà 20 Hàng Tre với giá trị là
883.466.000đồng. Trong quá trình thi công, sửa chữa nâng cấp nội thất, vợ chồng bà
nhập máy móc, thiết bị từ Hàn Quốc có giá trị trên 600.000.000đồng. Công ty của vợ
chồng bà giao cho ông Hong Jong Woun (gọi tắt là ông Woun) là chuyên gia làm tóc
và quản lý cửa hàng. Từ tháng 5/2016 doanh thu 1 tháng là hơn 200.000.000đồng.
Cuối tháng 5/2016, bà P nghỉ sinh con thì doanh thu tháng 6/2016 tụt xuống
còn 30.000.000đồng. Bà Phượng kiểm tra thì phát hiện nhân viên người Hàn Quốc và
nhân viên người Việt Nam đã cấu kết chiếm đoạt doanh thu của cửa hàng.
Ngày 11/7/2016, ông Sơn là người quản lý tòa nhà yêu cầu bà P thanh toán 6
tháng tiền nhà tiếp theo cho ông Đ, trong khi ông Đ không có liên hệ nào với bà.
Ngày 13/7/2016, ông Sơn gửi thông báo cho bà P chấm dứt hợp đồng thuê nhà. Khi
bà P liên hệ với ông Đ thì ông Đ trả lời do bà đóng cửa hàng nên chấm dứt hợp đồng.

207
Theo Hợp đồng ký kết giữa bà P với ông Đ thì không có quy định về trường
hợp được đơn phương chấm dứt hợp đồng do chậm nộp tiền, nếu có đơn phương
chấm dứt thì phải thông báo trước 60 ngày. Việc bà P chưa thanh toán tiền nhà sau
khi đến thời hạn phải nộp mới được 2 ngày và việc bà đóng cửa hàng một tuần
không thuộc trường hợp được đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Ông Đức đơn phương chấm dứt hợp đồng trong khi tiền nhà bà P đã nộp đến
hết ngày 12/8/2016. Ngày 13/7/2016 ông Đ đã ký hợp đồng với bà Yoo Kyung Hee
(gọi tắt là bà Hee - vợ ông Woun) cho thuê mặt bằng tại tầng 1 và tầng 3 nhà 20 Hàng
Tre theo đúng nội dung hợp đồng đã ký với bà, đồng thời bàn giao luôn tài sản của bà
cho vợ chồng Woun khai thác, sử dụng.
Bà Phượng đã nhiều lần yêu cầu ông Đ bàn giao lại tài sản cho vợ chồng bà
nhưng ông Đ không hợp tác. Việc làm này đã gây thiệt hại rất lớn về tài sản và uy tín
trong hoạt động kinh doanh sản xuất của vợ chồng bà.
Nay bà khởi kiện yêu cầu:
1. Yêu cầu ông Đ tiếp tục thực hiện hợp đồng cho thuê mặt bằng đã ký giữa hai
bên ngày 28/10/2015; Bàn giao lại cho bà nguyên vẹn toàn bộ tài sản bao gồm máy
móc, thiết bị và hàng hóa mỹ phẩm trong Salon tóc và Showroom mỹ phẩm tại nhà số
20 Hàng Tre; Bồi thường các thiệt hại cho bà trong thời gian ông Đ đơn phương
chấm dứt hợp đồng trái pháp luật khiến bà không thể thực hiện công việc kinh doanh
tại đó.
2. Yêu cầu ông Đ bàn giao các tài sản của ông bà đã đầu tư vào địa điểm thuê
của ông Đ cho ông bà và yêu cầu bên thứ 3 chấm dứt việc sử dụng trái phép tài sản
của ông bà.
Đề nghị ông Đ bồi thường thiệt hại theo giá trị bà đã mua sắm là
1.792.309.600đồng về việc chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Trả lại cho bà 01 tháng
tiền nhà là 2.600 đô la mỹ tương đương 59.189.000đồng.
Bị đơn ông Lương Thành Đ và người đại diện theo uỷ quyền trình bày:
Ngày 28/10/2015 ông Đ ký hợp đồng cho thuê mặt bằng với bà P tại số 20
Hàng Tre. Toà nhà này do ông Đ đã ký hợp đồng với ông Bùi Mạnh Hùng thuê lại
toàn bộ toà nhà để kinh doanh, nếu không sử dụng hết thì có thể cho thuê lại. Sau khi
ông Đ ký hợp đồng với bà P thì bà P cùng đối tác là 02 người có quốc tịch Hàn Quốc
là vợ chồng ông Woun, bà Hee tiến hành sửa chữa và hoạt động kinh doanh Salon tóc
và Showroom mỹ phẩm (thông tin này do cả 2 phía bà P và 02 người Hàn Quốc xác
nhận khi các bên làm việc tại toà nhà và thông báo với anh Sơn là quản lý toà nhà).

208
Bà Phượng đã thực hiện việc thanh toán tiền thuê nhà cho ông Đ làm nhiều lần,
trong đó lần 1 là: 58.084.000đồng vào ngày 21/10/2015; lần 2 là 116.168.000đồng
vào ngày 28/10/2015; lần 3 là: 15.600USD vào ngày 12/01/2016; Tổng số tiền bà P
đã thanh toán đến ngày 12/8/2016.
Bà Phượng đã tiến hành hoạt động kinh doanh cùng với vợ chồng ông Woun
và bà Hee trong suốt thời gian thuê. Đến tháng 7/2016, khi đến hạn phải thanh toán
tiền thuê nhà cho 6 tháng tiếp theo, ông Đ và anh Phạm Anh Sơn (là người được ông
Đ giao việc quản lý toà nhà) gọi điện thoại, nhắn tin, gửi email và thông báo bằng văn
bản nhiều lần tới bà P với nội dung yêu cầu bà P thực hiện việc thanh toán tiếp 6
tháng tiền thuê nhà. Tuy nhiên, bà P đã nhiều lần lẩn tránh, thoái thác và hẹn mà
không thực hiện việc thanh toán tiền theo đúng hợp đồng đã ký. Tiếp đó, ngày
03/7/2016 bà P đã yêu cầu anh Sơn cho bảo vệ toà nhà đóng cửa nhà số 20 Hàng Tre
01 tuần để bà P làm việc với đối tác Hàn Quốc vì bà P phát hiện có sự gian dối từ
phía những người Hàn Quốc và một số nhân viên đang làm việc tại đây. Bà Phượng
hứa sẽ thanh toán tiền thuê nhà đầy đủ, đúng thời hạn như trong hợp đồng nhưng sau
đó phía ông Đ vẫn không liên lạc được với bà P để hỏi có thuê tiếp hay không, bà P
cũng không thanh toán tiền thuê nhà. Như vậy, bà P đã vi phạm Khoản 2.2, Điều 2
Hợp đồng cho thuê mặt bằng ký ngày 28/10/2015. Phía vợ chồng ông Woun, bà Hee
vẫn tiếp tục làm việc tại Salon tóc và thông báo với ông Đ với nội dung: Ông Woun
và bà Hee đã làm việc với bà P và sẽ tự giải quyết vấn đề nội bộ cũng như toàn bộ tài
sản đã đầu tư bên trong nhà số 20 Hàng Tre, vợ chồng ông Woun và bà Hee vẫn hoạt
động tiếp và sẽ đứng ra thanh toán tiền thuê nhà 6 tháng tiếp theo, cũng như sẽ chịu
hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ tài sản trong nhà số 20 Hàng Tre.
Nay đề nghị Tòa xem xét để đảm bảo quyền lợi cho ông.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1.Ông Hong Jong Woun (gọi tắt là ông Woun) và bà Yoo Kyung Hee (gọi tắt là
bà Hee) trình bày:
Ông Yu Seok Yeon, (gọi tắt là ông Yeon), có địa chỉ: P1003, lô số 1005, số
245 đường Ga On, thành phố Pa Ju, GyungGiDo cùng ông Woun và ông Yong ký
hợp đồng hỗ trợ hoạt động doanh nghiệp phục vụ việc thành lập của Woun tại Việt
Nam. Ông Woun và Ông Yeon chịu chi phí liên quan đến việc thẩm mỹ tại Việt Nam.
Ông Woun và Ông Yeon đã chuyển lần lượt số tiền 30.000.000won và
100.000.000won vào tài khoản do ông Yong chỉ định làm vốn đầu tư doanh nghiệp sẽ
thành lập tại Việt Nam để ông Yong quản lý.

209
Ông Yong không chịu tiền đầu tư doanh nghiệp thực hiện thẩm mỹ nhưng thực
hiện việc thành lập doanh nghiệp phục vụ sự thành lập của ông Woun, hỗ trợ các
công việc marketing, kế hoạch và thích nghi với Việt Nam cho ông Woun, tư vấn
tổng thể kinh doanh thẩm mỹ tại Việt Nam của doanh nghiệp thành lập.
Ông Woun và ông Yeon mỗi bên được nhận 40% lợi nhuận mỗi tháng phát
sinh từ việc thẩm mỹ tại Việt Nam. Ông Yong không chịu chi phí liên quan tới việc
thẩm mỹ tại Việt Nam nhưng được chi trả 20% lợi nhuận thuần mỗi tháng, coi như
giá thực hiện các công việc đã đề cập.
Theo hợp đồng hợp tác thẩm mỹ tại Việt Nam, ông Woun chuyển
30.000.000won tới tài khoản tại Hàn Quốc của ông Yong, số tiền này để mua máy
móc thiết bị thẩm mỹ tại Hàn Quốc, thời điểm ông Woun và vợ là bà Hee chuyển tới
Việt Nam sẽ trực tiếp mang theo. Tuy nhiên, khi ông Woun tới Việt Nam sinh sống
thì phát hiện, ông Yong không thành lập công ty tại Việt Nam như ba bên đã thỏa
thuận và chia lợi nhuận theo tỉ lệ 40%, 20% và 40%. Vợ chồng ông Woun làm việc
chỉ với tư cách là nhân viên của Công ty được thành lập dưới tên của vợ ông Yong.
Ông Yong không thực hiện tư vấn marketing/điều hành/kinh doanh Công ty,
như nghĩa vụ của ông Yong phải thực hiện theo Hợp đồng hợp tác đã thỏa thuận,
đồng thời cũng lấy 20% doanh thu mà vợ chồng ông Woun kiếm được.
Về phía ông Yeon, nếu như ông Yeon thực sự đã đầu tư thì phải có tài liệu
chứng minh ông Yeon đã đầu tư, tuy nhiên, việc nhận tài liệu chứng minh điều này
chỉ là bản chi tiết về chi phí nội thất cửa hàng thẩm mỹ viện tại Việt Nam và phí thuê
được thanh toán theo hợp đồng thuê thẩm mỹ viện 6 tháng. Việc ông Yeon thực sự
đầu tư 100.000.000won đúng hay không đã liên tục yêu cầu phía Yong cung cấp tài
liệu giải thích, nhưng vẫn chưa nhận được.
Vợ chồng ông Woun đã ký tiếp hợp đồng thuê với ông Đ đứng tên bà Hee tại
số 20 Hàng Tre đến ngày 31/l2/2018 để mở cửa hàng thẩm mỹ viện. Ông Woun đã
thành lập công ty RB Vietnam, mã số chứng nhận đầu tư của công ty là 0107609154.
Hiện nay, có 9 nhân viên người Việt Nam đang làm việc tại đây. Tiền thuê trên hợp
đồng thuê mà ông Đ đã ký với vợ chồng ông Woun vẫn thanh toán bình thường cho
ông Đ bằng tiền mà ông Woun kinh doanh thẩm mỹ viện kiếm được.
Ông Woun đề nghị bảo vệ quyền lợi của vợ chồng ông Woun trên cơ sở:
1. Ông Đức không được đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê với vợ chồng
ông Woun.

210
2. Vợ ông Yong cho rằng quyền sở hữu các trang thiết bị máy móc của thẩm
mỹ viện là đơn phương, không có căn cứ hợp pháp nên đề nghị không chấp nhận.
Ngoài ra, quyền sở hữu các trang thiết bị máy móc của thẩm mỹ viện là do nhà đầu
tư đưa cho ông Woun là đại diện chuyên viên trang điểm.
3. Ông Yong đã nhận tiền đầu tư để thành lập và kinh doanh thẩm mỹ viện, tuy
nhiên sau khi nhận được tiền đầu tư ông Yong cần phải làm sáng tỏ rõ ràng đã sử
dụng số tiền đó vào mục đích gì, ở đâu.
Nếu không làm sáng tỏ nội dung chi tiết cụ thể thì có thể đưa đơn kiện của ông
Woun lên Tòa án, đồng thời có quyền được nhận bồi thường của vợ chồng ông Yong.
Đối với yêu cầu khởi kiện của vợ ông Yong:
Ông Woun đã và đang kinh doanh một cách ổn định tại địa điểm thuê, việc yêu
cầu ông Woun tạm dừng hoạt động kinh doanh, tìm kiếm địa điểm thuê mới và chấm
dứt Hợp đồng thuê với ông Đ sẽ gây tổn thất rất lớn. Về mặt ý chí, ông Đ cũng hoàn
toàn nhất chí với việc cho ông Woun tiếp tục Hợp đồng thuê.
Toàn bộ tài sản, máy móc thiết bị hiện đang được sử dụng tại địa điểm thuê nêu
trên là tài sản thuộc sở hữu của ông Woun, theo Hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị
giữa vợ ông Woun và nhà cung cấp - Công ty Seojeong Beauty Applicances (tài liệu
đính kèm số 3, 4). Tuy nhiên, tại thời điểm nhập khẩu số máy móc, thiết bị đó vào
Việt Nam, do ông Woun chưa hoàn thiện giấy tờ cư trú tại Việt Nam nên không thể
thực hiện việc thông quan số máy móc, thiết bị đó. Đồng thời, do ông Woun và ông
Yong đã ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh với nhau tại Hàn Quốc nên ông Woun
đã tin tưởng và ủy thác cho ông Yong và Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại
GE Việt Nam nhập khẩu thay. Trong quá trình thực hiện thông quan, ông Yong đã
xác nhận việc ủy thác đó với ông Kim Sung Mun là đại diện của Công ty trách nhiệm
hữu hạn vận tải Koex – đơn vị thực hiện vận chuyển số máy móc thiết bị đó (tài liệu
đính kèm số 5). Ông Kim Sung Mun rất sẵn lòng cung cấp thêm chứng cứ cũng như
đứng ra làm chứng cho thông tin nêu trên. Do vậy, việc vợ ông Yong nói tài sản tại
địa điểm thuê là của mình và có yêu cầu Tòa án bàn giao lại cho vợ ông Yong là hoàn
toàn không chính xác.
Ông Woun đề nghị xem xét giải quyết như sau:
1. Bảo vệ quyền lợi ích của ông Woun trong quan hệ Hợp đồng cho thuê mặt
bằng với ông Đ tại địa chỉ 20 Hàng Tre, cụ thể tiếp túc thực hiện Hợp đồng cho thuê
mặt bằng;

211
2. Bảo vệ quyền sở hữu của ông Woun đối với tài sản của mình tại địa điểm 20
Hàng Tre, hiện đang bị vợ ông Yong đòi lại theo nội dung đơn khởi kiện; Giá trị tài
sản tại thời điểm mua là 27,983,010 Won, tương đương 563.000.000 đồng;
3. Không áp dụng bất kỳ biện pháp khẩn cấp tạm thời nào đối với tài sản của
ông Woun tại địa điểm 20 Hàng Tre đến khi có phán quyết cuối cùng, tránh làm ảnh
hưởng đến việc kinh doanh của ông Woun tại địa chỉ này.
Theo tài liệu ông Woun cung cấp thì ông Yong đã trình bày về số tiền nhận của
ông Yeon như sau:
Phần sử dụng đối với 100.000.000 won nhận được từ ông Yeon:
- Trong 100.000.000 won nhận được từ ông Yeon thì ông Yong đã thanh toán
chi phí phải sử dụng tại Hàn Quốc bằng tiền won, phần chi phí phải sử dụng ở Việt
Nam không thể chi bằng tiền won, do đó đã đổi sang tiền “Việt Nam đồng” hoặc
USD để sử dụng.
Đối với chi phí sử dụng tại Hàn Quốc.
1. Mua đồ đạc thiết bị thẩm mỹ vào ngày 4/11/2015 từ Hãng đồ thẩm mỹ
Seojung để sử dụng tại Việt Nam và thanh toán số tiền 25.439.100 won (Olda số 1 –
Báo giá hàng hóa số 1, 2, Olda số 2 - bảng kê chi tiết giao dịch, Olda số 3 – Chi tiết
chuyển khoản giao dịch tín dụng – Chuyển tiền theo yêu cầu của người đại diện Hãng
đồ thẩm mỹ Seojung và người nhận chuyển khoản có tên khác)
2. Mua vật liệu thẩm mỹ - sản phẩm thẩm mỹ từ công ty trách nhiệm hữu hạn
Shisedo Profesional thanh toán số tiền 7.248.780 won (Olda số 4 – sổ quản lý, Olda
số 5 – Chi tiết chuyển khoản giao dịch tín dụng).
Đối với chi phí sử dụng tại Việt Nam
Ông Yong đã ký hợp đồng thuê tầng 1 và tầng 3 tòa nhà thương mại tại số 20
Hàng Tre, Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam vào ngày 26/10/2015 để sử
dụng làm phòng dịch vụ thẩm mỹ tại Việt Nam, sau đó, đã thanh toán tiền thuê 3
tháng (Olda số 6 – giấy xác nhận bản dịch – về hợp đồng thuê, Olda số 7 – giấy xác
nhận bản dịch – về hóa đơn nộp tiền)
Để sử dụng văn phòng thuê làm phòng dịch vụ thẩm mỹ, đã ký hợp đồng với
Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại thiết kế nội thất và xây dựng Hà Thành - là
công ty tại Việt Nam, vào ngày 9/11/2015 và sau đó thanh toán các chi phí về nội
thất, sửa chữa (Olda số 8 – giấy chứng nhận bản dịch – về hợp đồng kinh tế)
1. Sau khi ký hợp đồng thuê, trước khi hết 3 tháng, tức ngày 12/01/2016 đã
phải đóng số tiền thuê nhà của 6 tháng là 15.000 USD (Olda số 7 – tham khảo).

212
2. Đã phải thanh toán chi phí quản lý phòng dịch vụ thẩm mỹ bao gồm tiền
nước, tiền internet … phát sinh trong tháng 12 năm 2015 và tháng 1 năm 2016 (Olda
số 9 – giấy chứng nhận bản dịch – phần thuế VAT và phí quản lý)
Tiền thuê từ 12.2.2016 đến 12.8.2016
Nếu tổng hợp lại, sẽ được bảng như sau:
S
Ngày Số tiền sử Nơi sử dụng Ghi chú
TT dụng (đồng)
121.10.2015 58.084.000 Tiền hợp đồng thuê
2 28.10 116.168.000 Tiền thuê còn lại (3 tháng)
3
4 27.11 441.733.000 Tiền hợp đồng nội thất
5 31.12 250.000.000 Nội thất lần 2
6 12.1.2016 Tiền thuê 6 tháng 15.000USD
7 25.1 15.327.008 Phí quản lí văn phòng
8 3.2 108.000.000 Nội thất lần 3
Tổng 989.312.008
Thanh toán hơn 100.000.000 won khi tính tổng chi phí tính tỷ giá. Số tiền sử
dụng tại Hàn Quốc ban đầu là 32.687.880 won, tiền thuê 6 tháng là 15.000 USD,
được tính ra tiền won và tính theo tỷ giá vào thời điểm thanh toán tức tháng 1.2016 (1
USD = 1.200 won, Olda số 10 – hình ảnh chụp tỷ giá đô la Mỹ trên Naver) là
18.000.000 won, và 989.312.008 đồng tính theo tỷ giá tháng 1.2016 (1 đồng = 5.4
won, Olda số 11 – hình ảnh chụp tỷ giá Việt Nam Đồng trên Naver) thì ra
53.422.848won.
Theo đó, nếu tính tổng toàn bộ số tiền thì sẽ ra 104.110.728 won và bị đơn đã
thanh toán hơn 100.000.000 won.
Đối với các chi phí khác
Ngoài các khoản chi nêu trên, bị đơn còn có các khoản như tiền môi giới bất
động sản, các chi phí mua sắm đồ đạc để có thể sử dụng văn phòng thẩm mỹ như máy
giặt, máy tính, đồ dùng bên trong văn phòng, mua trực tiếp tại Việt Nam, chương
trình phòng dịch vụ thẩm mỹ, phí quản lý, lương … mà những chi phí này sẽ được
nộp khi được dịch bổ sung xong.
2. Ông Bae Yong trình bày:
Vợ chồng ông hiện là doanh nhân của thẩm mỹ viện Lovely Korea Beauty tại
Việt Nam cùng vợ chồng ông Woun, bà Hee đã gặp nhau qua giới thiệu của Kwon

213
Oh Sung vào khoảng thượng tuần tháng 10/2015 để thành lập thẩm mỹ viện tại Việt
Nam. Oh Dong Rok chỉ là người giúp đỡ khi ông Woun, bà Hee mở thẩm mỹ viện,
được biết đến trước lúc thẩm mỹ viện khai trương.
Vợ chồng ông Woun, bà Hee cùng Oh Dong Rok là những người cùng sinh
sống tại Việt Nam và là nhân viên thẩm mỹ làm việc tại Lovely Korea Beauty. Khi
vợ ông trước và sau khi sinh nở gặp khó khăn trong việc quản lý thẩm mỹ viện, vợ
chồng ông Woun, bà Hee đã chủ mưu để các nhân viên rút tiền doanh thu, lấy lợi
nhuận bất chính và tham ô công quỹ với số tiền doanh thu được xác nhận từ ngày
23/6 đến 2/7 là 210.200.000 đồng (10.510.000 won).
Bắt đầu vào thượng tuần tháng 10/2015, với sự đầu tư toàn bộ số tiền phí thuê
và mua máy móc vật liệu cùng các trang thiết bị thẩm mỹ tại Việt Nam của ông Yeon
là 100.000.000 won, thẩm mỹ viện Lovely Korea Beauty đã được khai trương tại Hà
Nội, Việt Nam. Ngày 23/01/2016, vợ chồng ông Woun, bà Hee được tuyển làm nhân
viên với điều kiện đầu tư chi phí vận hành 30.000.000 won.
Vợ chồng ông Woun, bà Hee đã sử dụng chi phí điều hành của thẩm mỹ viện
mở tại Hà Nội, Việt Nam vào rất nhiều mục mà không có sự thảo luận, gần như ngày
nào cũng phát sinh vấn đề trong khi ông là giám đốc đến thẩm mỹ viện cũng không
được đưa lại tiền doanh thu.
Ngày 13/7/2016, với số tiền đã tham ô chuẩn bị sẵn cùng với doanh nhân sở
tại, ông Woun, bà Hee đã thay đổi hợp đồng cho thuê tên bà Yu Kyung để lừa lấy
thẩm mỹ viện (địa điểm dự án).
Vợ chồng ông Woun, bà Hee đã phủ nhận các sự thật tham ô công quỹ và thu
lợi bất chính, từ chối trả lại, lừa đảo chiếm đoạt thẩm mỹ viện một cách có kế hoạch
số tiền 100.000.000 won để điều hành đến tận bây giờ. Ngày 19/7/2017, Công an Việt
Nam đã tiến hành điều tra khi được báo về 3 người nhân viên có cảnh mưu đồ toan
tính trên CCTV. Vợ chồng ông Woun, bà Hee từ chối đối thoại và lừa đảo đến cùng,
hiện tại đang hủy chứng cứ liên quan và bóp méo các tài liệu. Yêu cầu nghiêm túc
điều tra khẩn trương nhằm tránh thiệt hại thêm do các hành vi phạm pháp của vợ
chồng ông Woun, bà Hee, đồng thời khởi kiện để thể hiện không chấp nhận hơn nữa
hành vi của vợ chồng ông Woun, bà Hee.
3. Ông Tạ Thành T do ông Phạm Anh Sơn đại diện trình bày:
Ông Trung và bà Duy Anh mua nhà 20 Hàng Tre của ông Bùi Mạnh Hùng.
vào ngày 28/4/2017. Ông Trung và bà Duy Anh nhận bàn giao nhà 20 Hàng Tre từ
ông Hùng. Ông Trung không biết ông Hùng hiện đang ở đâu, số điện thoại, hộp thư.

214
Nay ông được Tòa án thông báo bà P khởi kiện ông Đ về Tranh chấp Hợp đồng cho
thuê mặt bằng và có các tài sản sửa chữa, đồ đạc tại 20 Hàng Tre, ông đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật. Sự việc ông Đ cho bà P thuê mặt bằng trước
khi ông mua nhà. Các tài sản sửa chữa, đồ đạc nếu của bà P tại 20 Hàng Tre sẽ giải
quyết theo pháp luật. Ông Trung và bà Duy Anh cho bà Hee thuê tầng 1 và tầng 3 nhà
20 Hàng Tre từ tháng 01/4/2017 đến ngày 12/3/2018 thì ông T và bà Duy Anh thông
báo chấm dứt Hợp đồng cho thuê đối với bà Hee.
Ông Trung đã thông báo cho bà Hee và ông Yong, nhưng các bên không đến
nhận các tài sản còn lại.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2019/DS - ST, ngày 3. 8/5/2019 Tòa án
nhân dân quận Hoàn Kiếm đã xét xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P đối với ông Lương Thành Đ.

2. Tuyên bố Hợp đồng cho thuê mặt bằng giữa bà Nguyễn Thị P và ông Lương
Thành Đ ký ngày 28/10/2015 về việc thuê tầng 1 và tầng 3 nhà số 20 Hàng Tre, Lý
Thái Tổ, Hoàn Kiếm Hà Nội có thời hạn 3 năm từ ngày 12/11/2015 tới 31/12/2018 là
có hiệu lực pháp luật.
3. Bà Nguyễn Thị P vi phạm Khoản 2.2, Điều 2 Hợp đồng cho thuê mặt bằng
ký ngày 28/10/2015 giữa bà Nguyễn Thị P và ông Lương Thành Đ.
4. Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị P đề nghị ông Lương Thành Đ
bồi thường thiệt hại số tiền là 1.792.309.600 đồng.
5. Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị P đề nghị ông Lương Thành Đ
trả lại 01 tháng tiền thuê mặt bằng là 2.600 đô la mỹ tương đương 59.189.000đồng.
6. Ông Lương Thành Đ không phải trả lại 01 tháng tiền thuê mặt bằng là 2.600
đô la mỹ tương đương 59.189.000đồng cho bà Nguyễn Thị P.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án
của các bên đương sự
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/5/2019 nguyên đơn - bà Nguyễn Thị P có đơn
kháng cáo toàn bộ bản án và cho rằng, bản án sơ thẩm chưa đánh giá đúng, đầy đủ
chứng cứ trong vụ án, nhận định thiếu khách quan; bị đơn chiếm giữ trái phép tài sản
của bà P đã đầu tư vào nhà 20 Hàng Tre mà Toà án xét xử không bảo vệ quyền sở
hữu tài sản của bà P là không khách quan; bị đơn chấm dứt Hợp đồng là trái pháp
luật.

215
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
cho nguyên đơn.
Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đều vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự đã thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật.
Về nội dung: sau khi phân tích, đánh giá quá trình giải quyết vụ án, đại diện
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu:
Tòa án cấp sơ thẩm đưa thiếu người tham gia tố tụng; thu thập chứng cứ chưa
đầy đủ; giải quyết vụ án vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn…
Do Tòa án cấp sơ thẩm có nhiều thiếu sót nghiêm trọng mà tại cấp phúc thẩm
không thể khắc phục được.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, chấp
nhận kháng cáo của nguyên đơn, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 06/2019/DSST ngày
03/5/2019 và 08/5/2019 Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm và chuyển hồ sơ vụ án cho
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, đã nộp
tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm nên xác định kháng cáo là hợp lệ.
Đối với Bị đơn và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có đơn
kháng cáo, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên toà, xét thấy sự vắng
mặt không làm ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự,
Toà án tiến hành xét xử vắng mặt những người nêu trên theo quy định của pháp luật.
Đối với bà Phạm Thị Thúy Đạt, là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, sau khi
xem xét Hợp đồng cho thuê nhà nhận thấy, ông Hùng đại diện cho bà Đạt ký Hợp đồng
cho Công ty cổ phần đầu tư và dịch vụ Đ do ông Lương Thành Đ làm giám đốc thuê nhà
20 Hàng Tre, sau đó ông Đ ký hợp đồng cho bà P thuê lại tầng 1 và tầng 3 nhà này. Quá
trình giải quyết vụ án ông Hùng, bà Đạt không có yêu cầu độc lập cũng như gửi ý kiến nêu
quan điểm về việc giải quyết vụ án; sau khi xét xử sơ thẩm không có đơn kháng cáo. Xét
thấy việc giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ

216
của ông Hùng, bà Đạt nên việc vắng mặt của ông Hùng, bà Đạt cũng không ảnh hưởng
đến việc xét xử . Trong trường hợp thấy quyền, nghĩa vụ của mình bị xâm phạm, ông
Hùng, bà Đạt có quyền khởi kiện đối với ông Đ bằng vụ án dân sự khác.
2. Về nội dung: xem xét đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét
xử xét thấy:
2.1 Về thẩm quyền giải quyết vụ án
Căn cứ vào lời khai của vợ chồng ông Woun thì giữa ông Woun, ông Yong và
ông Yeon có ký Hợp đồng hợp tác đầu tư để mở Công ty tại Việt Nam, trên cơ sở đó
ông Hong và ông Yeon đã đầu tư tiền và chuyển vào tài khoản của ông Yong tại Hàn
Quốc. ông Woun, bà Hee đã mua sắm một số máy móc trang thiết bị từ Hàn Quốc và
thông qua Công ty TNHH Thương mại GE Việt Nam để nhập khẩu vào Việt Nam,
tuy nhiên ông Woun, bà Hee chưa nộp được các tài liệu, chứng cứ hợp pháp chứng
minh cho trình bày nêu trên là có cơ sở. Quá trình giải quyết vụ án ông Woun, bà Hee
có Đơn yêu cầu độc lập, do không nộp tiền tạm ứng án phí nên Tòa án cấp sơ thẩm
không thụ lý đối với yêu cầu độc lập của ông Woun, bà Hee. Do có tranh chấp về
quyền sở hữu tài sản nên lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải làm rõ yêu cầu này của ông
Woun, bà Hee, giải thích để ông Woun, bà Hee thực hiện quyền có yêu cầu độc lập
để giải quyết vụ án đảm bảo quyền, nghĩa vụ cho các đương sự.
Nếu có căn cứ xác định trình bày của ông Woun, bà Hee là có cơ sở, ông Yeon
đang ở Hàn Quốc, theo quy định tại khoản 3 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án
này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tòa án nhân
dân quận Hoàn Kiếm phải chuyển hồ sơ vụ án lên Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
để giải quyết theo thẩm quyền.
2.2 Về việc xác định người tham gia tố tụng:
Căn cứ vào trình bày của nguyên đơn cùng tài liệu, chứng cứ là Phiếu thu thể
hiện, ông Phạm Anh Sơn là người quản lý tòa nhà 30 Hàng Tre có 3 lần ký nhận tiền
thuê nhà của bà P (BL73-74-75).
Quá trình giải quyết vụ án bà P trình bày, tháng 5/2016 bà P nghỉ sinh con nên
có giao cho vợ chồng ông Hong quản lý cửa hàng. Do thấy doanh thu tháng 6 giảm
nên bà P yêu cầu đóng cửa hàng để kiểm tra. Ngày 11/7/2016 ông Sơn yêu cầu bà
phải thanh toán tiền nhà cho ông Đ, trong khi ông Đ không có liên hệ gì với bà. Ngày
13/7/2016, bà P nhận được Văn bản Thông báo chấm dứt Hợp đồng trước thời hạn do
ông Sơn gửi cho bà.

217
Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm lại không đưa ông Sơn vào tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ việc ông Đ có ủy quyền
cho ông Sơn thông báo cho bà P hay không? Việc ủy quyền đó bà P có biết không?
2.3 Về tư cách chủ thể tham gia ký hợp đồng thuê nhà:
Ngày 13/11/2013 Công ty Cổ phần Đầu tư và Dịch vụ Đ do ông Lương Thành
Đ làm Giám đốc ký hợp đồng thuê nhà với ông Bùi Mạnh Hùng (BL329). Điều 7 nội
dung Hợp đồng thể hiện, Công ty Đ không được tự ý cho thuê lại toàn bộ hoặc thuê
lại một phần của diện tích nhà thuê nếu chưa được sự đồng ý của bên cho thuê (ông
Hùng).
Ngày 28/10/2015, ông Đ ký tên trong Hợp đồng cho thuê mặt bằng với bà P
với tư cách cá nhân.
Việc cho thuê nhà chưa được làm rõ phía bên thuê nhà là ông Hùng có đồng ý
để cho thuê lại như các bên thỏa thuận trong hợp đồng không?. Trong bản án không
nhận định về nội dung này.
Theo quy định tại Điều 119 Luật Nhà ở năm 2014 quy định: Điều kiện của các
bên tham gia giao dịch về nhà ở như sau:
1. Bên bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán
nhà ở thương mại, tặng cho, đổi, để thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ,
ủy quyền quản lý nhà ở phải có điều kiện sau đây:
a) Là chủ sở hữu nhà ở hoặc người được chủ sở hữu cho phép, ủy quyền để
thực hiện giao dịch về nhà ở theo quy định của Luật này và pháp luật về dân sự;
trường hợp chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải là người đã
mua nhà ở của chủ đầu tư hoặc người đã nhận chuyển nhượng hợp đồng mua bán
nhà ở;
Do đó, xác định việc ông Đ ký hợp đồng cho thuê nhà với bà P là không đúng
thẩm quyền. Chưa làm rõ việc chủ thể có quyền được thực hiện giao dịch cho thuê
nhà hay không?
2.4 Về việc thu thập chứng cứ:
- Như đã phân tích ở nội dung nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã chưa làm rõ
việc ông Đ ký hợp đồng cho bà P thuê nhà với tư cách gì ? ông Đ có quyền được cho
thuê lại nhà hay không?. Toà án cấp sơ thẩm xác đinh Hợp đồng thuê nhà giữa bà P
với ông Đ có hiệu lực pháp luật là chưa đủ căn cứ.
- Qúa trình giải quyết vụ án, bà P yêu cầu ông Đ phải bồi thường cho bà toàn
bộ giá trị tài sản mà bà đã đầu tư theo giá trị mới. Để có căn cứ giải quyết đối với yêu

218
cầu của của bà P, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải tiến hành định giá tài sản, tuy nhiên,
Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tiến hành xem xét, thẩm định mà không tiến hành định giá
phần sửa chữa trụ sở và tài sản bà P đã đầu tư máy móc thiết bị, mỹ phẩm là thiếu sót.
Không có căn cứ để giải quyết vụ án trong trường hợp xác định Hợp đồng cho thuê
nhà vô hiệu.
2.5 Về thanh toán tiền thuê nhà bằng ngoại hối trong Hợp đồng:
Căn cứ vào lời khai của bà P và Phiếu thu ngày 12/01/2016 thể hiện, bà P đã
thanh toán số tiền thuê nhà là 15.600USD (BL307).
Căn cứ Điều 3 Thông tư 32/2013/TT-NHNN quy định về sử dụng ngoại tệ
trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam: Trên lãnh thổ Việt Nam, trừ các trường hợp được
sử dụng ngoại hối quy định tại Điều 4 Thông tư này, mọi giao dịch, thanh toán, niêm
yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình
thức tương tự khác (bao gồm cả quy đổi hoặc điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ, giá
trị của hợp đồng, thỏa thuận) của người cư trú, người không cư trú không được thực
hiện bằng ngoại hối.
Như vậy, theo quy định nêu trên thì Hợp đồng thuê mặt bằng được ký kết giữa
bà P và ông Đ thỏa thuận thanh toán tiền thuê là 2.600 đô la mỹ/1 tháng và thực tế bà
P đã thanh toán tiền lần thứ 3 với số tiền 15.600USD là vi phạm điều cấm theo Điều
123 Bộ luật dân sự 2015.
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại nhận định các bên thỏa thuận thanh toán
bằng ngoại tệ nhưng khi thanh toán đã quy đổi ra tiền Việt Nam, trên cơ sở đó xác
định hợp đồng có hiệu lực là không đúng.
2.6 Về giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại:
Xem xét nội dung Hợp đồng cho thuê nhà giữa bà P với ông Đ ký ngày
28/10/2015, không có điều khoản nào thoả thuận chấm dứt hợp đồng do vi phạm
nghĩa vụ thanh toán. Việc ông Đ đơn phương chấm dứt Hợp đồng với bà P là vi phạm
khoản 4.5 của Hợp đồng, cụ thể: “…Trong trường hợp bên A muốn chấm dứt Hợp
đồng trước thời hạn cần thông báo bằng văn bản cho bên B biết trước 60 ngày.
Trong trường hợp bên A vi phạm điều khoản chấm dứt hợp đồng thì bên A phải bồi
thường toàn bộ chi phí thiêt kế của bên B.
Quá trình giải quyết vụ án bà P xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh Công
ty TNHH Thương mại GE Việt Nam do chồng bà là ông Yong là Giám đốc đã thanh
toán 799.733.000đồng trên tổng số tiền 883.466.000đ Hợp đồng thi công sửa chữa
Showroom và một số hoá đơn, chứng từ mua sắm thiết bị, máy móc phục vụ cho việc

219
kinh doanh. Ngày 13/7/2016, ông Đ thông báo chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và
bàn giao toàn bộ tài sản này cho ông Woun quản lý và sử dụng là trái quy định của
pháp luật, gây thiệt hại về tài sản của Công ty GE cũng như của vợ chồng bà P.
Ngày 6/10/2017 Bà Phượng có đơn đề nghị ông Đ bồi thường thiệt hại
(BL279) 1.792.309.600đồng, trong đó có giá trị sửa chữa đầu tư 883.466.000đồng.
Tuy nhiên bản án sơ thẩm nhận định, Công ty TNHH Thương mại GE do bà P
đại diện theo uỷ quyền không có yêu cầu độc lập nên không xem xét là không đúng,
bởi lẽ trong vụ án này bà P tham gia với hai tư cách, vừa là người khởi kiện vừa là
người đại diện theo uỷ quyền của Công ty TNHH Thương mại GE. Yêu cầu khởi kiện
của bà P buộc ông Đ phải bồi thường thiệt hại số tiền nêu trên phải được xác định là
yêu cầu độc lập, đồng thời cần làm rõ những tài sản nào thuộc tài sản của Công ty
GE, những tài sản nào là của cá nhân bà P, trên cơ sở đó hướng dẫn để tách và giải
quyết đối với từng yêu cầu mới đảm bảo vụ án được giải quyết một cách toàn diện.
Ngoài ra theo quy định tại khoản 2 Điều 132 Luật Nhà ở năm 2014, quy định
về việc Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở: Bên cho thuê nhà ở có
quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho
thuê khi Bên thuê không trả tiền thuê nhà ở theo thỏa thuận từ 03 tháng trở lên mà
không có lý do chính đáng;
Căn cứ theo quy định nêu trên thì bà P đã thanh toán tiền thuê nhà đến ngày
12/8/2016. Tòa án cấp sơ thẩm xác định lỗi thuộc về bà P nên không buộc ông Đ phải
bồi thường thiệt hại là không đúng quy định của pháp luật.
2.7 Việc xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng ông Woun, bà Hee
Theo ông Woun trình bày, ông Woun cùng người có tên Yeon và ông Yong
(chồng bà P) ký Hợp đồng hợp tác đầu tư hỗ trợ hoạt động kinh doanh cho ông Woun
ở Việt Nam, ông Woun và ông Yeon đã chuyển tiền vào tài khoản của ông Yong mở
tại Hàn Quốc để mua sắm thiết bị, máy móc chuyển về Việt Nam hoạt động kinh
doanh, tuy nhiên phía ông Yong, bà P không thừa nhận việc này. Trong hồ sơ không
có tài liệu, chứng cứ hợp pháp chứng minh lời trình bày của vợ chồng ông Woun là
có căn cứ.
Trong khi các bên đang có tranh chấp về quyền sở hữu tài sản là trang thiết bị,
sản phẩm mỹ phẩm đã đầu tư tại cửa hàng thuê tại 20 Hàng Tre, lẽ ra Toà án cấp sơ
thẩm cần giải thích cho vợ chồng ông Woun thực hiện quyền có yêu cầu độc lập để
giải quyết trong cùng vụ án. Bên cạnh đó lời khai của ông Woun thể hiện, ông Yeon
ở Hàn Quốc cùng góp tiền đầu tư và chuyển vào tài khoản của ông Yong ở Hàn

220
Quốc, nếu có căn cứ thì phải uỷ thác cho cơ quan đại diện của Việt Nam ở Hàn Quốc
để thu thập chứng cứ (trong trường hợp này thì thẩm quyền thực hiện ủy thác thuộc
Tòa án cấp tỉnh).
Trong khi chưa có căn cứ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu tài sản, bản án
sơ thẩm lại nhận định, lời trình bày của các đương sự phù hợp với thực tế nên xác
định có việc đầu tư hợp tác giữa ba bên để chia lợi nhuận, như vậy là thiếu căn cứ.
2.8 Về việc áp dụng án phí:
Vụ án được thụ lý giải quyết từ 19/12/2016, quy định về án phí được áp dụng
theo Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày
27/2/2009.
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án có hiệu lực từ
01/01/2017.
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 để tính án phí cho các đương sự là không đúng.
Do những thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm mà tại cấp phúc thẩm không thể
khắc phục được. Do vậy cần phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại từ đầu,
đảm bảo quyền được xét xử hai cấp cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
đương sự.
Kháng cáo của nguyên đơn và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Hà Nội là có cơ sở nên được chấp nhận.
Về án phí: Do hủy án sơ thẩm nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm.
Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm sẽ được tính lại sau khi Toà án cấp sơ
thẩm giải quyết lại vụ án theo trình tự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội ngày 27/2/2009 và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:

221
1. Huỷ toàn bộ bản án Dân sự sơ thẩm số 06/2019/DSST ngày 03/5/2019 và
08/5/2019 Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Giao hồ sơ vụ án về
Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm để giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm.
2. Về án phí:
Nguyên đơn, bà Nguyễn Thị P không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Số tiền 5.000.000đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà P đã nộp tại Chi cục
Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm theo Biên lai thu số 01659, ngày 15/12/2016
được giữ lại để giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Hoàn trả bà P 300.000đồng tạm ứng án phí DSPT đã nộp theo Biên lai số 3074,
ngày 04/6/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm.
Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
CÁC THẨM PHÁN THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ

222

You might also like