You are on page 1of 189

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN

T ỔNG HỢP B ỞI L UẬ T S Ư F DVN

TÒA ÁN NHẬN ĐỊNH VỀ


SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG
VÀ HOÀN CẢNH
THAY ĐỔI CƠ BẢN

T HÁ NG 8 / 2 0 2 0

Email: fdvnlawfirm@gmail.com / Phone: 0935.643.666


Web: www.fdvn.vn/www.fdvnlawfirm.vn/www.diendanngheluat.vn
Địa chỉ: 99 Nguyễn Hữu Thọ, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TÒA ÁN NHẬN ĐỊNH VỀ SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG
VÀ HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN

STT TÊN BẢN ÁN SỐ


TRANG
1 Bản án số 01/2016/LĐPT ngày 17/8/2016 về “Đơn phương chấm 1-9
dứt hợp đồng lao động của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị
Nội dung: Ngày 15/11/2006 bà G được nhận vào làm việc tại Hội liên
hiệp Phụ nữ thành phố Đ. Ngày 21/4/2014, bà G nhận được Thông báo
của Hội LHPN thành phố Đ về việc chấm dứt thời gian làm việc. Ngày
05/5/2014, tại cuộc họp cơ quan, Chủ tịch Hội LHPN thành phố Đ
thông báo với toàn cơ quan về việc không giao việc, không trả lương,
không đóng bảo hiểm xã hội và thu thẻ bảo hiểm y tế, với lý do: Bà G
không ký hợp đồng lao động 06 tháng kể từ tháng 01 đến tháng 6/2014.
Bà G cho rằng, Hội LHPN thành phố Đ chấm dứt hợp đồng lao động
với bà là trái quy định của pháp luật, cụ thể: Hội LHPN thành phố Đ
vi phạm thời gian báo trước khi chấm dứt hợp đồng, bà G yêu cầu Tòa
án tuyên bố việc chấm dứt hợp đồng lao động của Hội LHPN thành
phố Đ bồi thường cho bà G với tổng số tiền 64.952.866 đống,
Bản án sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Vũ
Thị Kiều G, buộc Hội LHPN thành phố Đ, tỉnh Q phải trả tiền trợ cấp
thôi việc cho bà Vũ Thị Kiều G số tiền 10.747.000 đồng.
Sau đó bà G đã có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tòa án phúc thẩm nhận định: : TH bất khả kháng theo điểm c khoản
1 Bộ luật lao động 2012 và các tài liệu hướng dẫn , qui định: “Quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động
tại điểm c, khoản 1, Điều 38 của Bộ luật lao động quy định như sau: “
2.Lý do bất khả kháng thuộc một trong các trường hợp sau đây: a. Do
địch họa, dịch bệnh; b. Di dời hoặc thu hẹp sản xuất, kinh doanh theo
yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Theo cách giải thích
trên thì HLHPN thành phố Đ đơn phương chấm dứt HĐLĐ đối với bà
G là không đúng quy định.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên
đơn Bà G: Sửa bản án sơ thẩm: Tuyên bố việc đơn phương chấm dứt
Hợp đồng lao động của Hội liên hiệp phụ nữ Thành phố Đ là trái quy
định của pháp luật . Hội liên hiệp phụ nữ Thành phố Đ có nghĩa vụ giải
quyết chế độ cho bà G: Tiền trợ cấp thôi việc (Đã được cấp sơ xem
xét: 10.747.000, đồng ). Tiền lương trong những ngày không được làm
việc: 33.770.000, đồng ; tiền hai tháng lương tối thiểu theo Hợp đồng
lao động: 6.140.000, đồng; Tiền Bảo hiểm xã hội: 6.078.600,đồng ;
Bảo hiểm y tế: 2.333.100, đồng. Tổng số tiền Hội Liên hiệp phụ nữ
thành phố Đ phải giải quyết cho bà G là: 59.068.700, đồng.
2 Bản án số 10/2017/DS-ST ngày 22/8/2017 về “Tranh chấp về đòi 10-18
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính mạng bị xâm phạm”
của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội
Nội dung: Anh H khởi kiện Tổng công ty vận tải H về việc xảy ra tai
nạn cho vợ anh là chị Nguyễn Thị H. Tại buổi làm việc, cơ quan công
an thông báo không khởi tố vụ án hình sự và cũng khuyên các bên hòa
giải, nếu không hòa giải được thì khởi kiện ra tòa án. Vì vậy, anh khởi
kiện về dân sự tại Tòa án quận Bắc Từ Liêm yêu cầu Tòa án buộc Tổng
Công ty vận tải H phải bồi thường cho gia đình anh 1.041.000.000
đồng.
Tòa án sơ thẩm nhận định: Trong vụ án này, hành vi điều khiển xe
buýt gây hậu quả chết người của ông Tr là sự kiện bất ngờ, không thuộc
trường hợp được loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự kiện
bất khả kháng theo như trình bày của Người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan Xí nghiệp xe buýt.
Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
anh Lê Văn H đối với Tổng Công ty vận tải H. Buộc Tổng Công ty vận
tải H phải bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho anh H
với tổng số tiền là 153.900.000đồng. Ghi nhận Tổng Công ty vận tải
H đã bồi thường 10.000.000 đồng. Vì vậy, Tổng Công ty vận tải H còn
phải bồi thường là 143.900.000 đồng
3 Bản án số 10/2018/DS-ST ngày 19/01/2018 về “Tranh chấp hợp 19-23
đồng đặt cọc” của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Nội dung: Bà C và bà T ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất là 100 triệu, nhưng sổ đỏ bà T đang cho người khác mượn
nên hẹn khi nào bà T và bà C ra văn phòng công chứng làm thủ tục
chuyển nhượng thì bà C sẽ trả 270 triệu còn lại.
Bà C khởi kiện đòi lại tiền đặt cọc vì trong thời gian đi dưỡng thai 2
tháng, bà T đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác
Bà T thì cho rằng sau 15 ngày kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc, bà T đã
nhiều lần liên lạc với bà C để hối thúc việc nhanh chóng làm thủ tục
chuyển nhượng nhưng bà T đã nói không mua nữa. Do vậy bà C chỉ
đồng ý trả lại 1//2 số tiền bà C đã đặt cọc.
Nhận định của Tòa án: Nội dung “Giấy nhận tiền cọc” chỉ đề cập đến
số tiền mà không đề cập đến thời hạn cụ thể để hai bên thực hiện thủ
tục chuyển nhượng là vi phạm về nội dung hợp đồng. Bà T cho rằng
đã liên lạc với bà C để hối thúc thực hiện chuyển nhượng nhưng không
có bằng chứng. Bà C đi dưỡng thai theo chỉ định của bác sĩ, không liên
lạc với bà T được là trường hợp bất khả kháng nên không bị mất cọc.
Tòa án tuyên: Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của bà C, vô hiệu
hợp đồng đặt cọc, buộc bà T trả toàn bộ số tiền đặt cọc cho bà C.
4 Bản án số 01/2018/KDTM-PT ngày 22/01/2018 về “Tranh chấp hợp 24-42
đồng tín dụng” của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Nội dung: Công ty S vay của Ngân hàng B 18 tỉ đồng. Tại thời điểm
đó ông Đ là Giám đốc và thành viên hội đồng quản trị của Công ty S
đã kí hợp đồng thế chấp là quyền sử dụng đất với Ngân hàng B để
Công ty S được vay tiền. Do công ty S vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên
Ngân hàng B yêu cầu Tòa án xử lý tài sản thế chấp nêu trên. Ông Đ có
yêu cầu độc lập về việc chấm dứt thực hiện hợp đồng do hoàn cảnh
thay đổi cơ bản so với lúc giao kết (vì ông Đ bị bãi miễn tư cách thành
viên HĐQT, cách chức giám đốc công t S).
Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của Ngân
hàng B, yêu cầu Công ty S thanh toán hết nợ và lãi. Nếu Công ty S
không thực hiện hoặc không thực hiện được thì quyền sử dụng đất theo
hợp đồng thế chấp bị phát mãi để để thu hồi trả nợ. Không chấp nhận
yêu cầu độc lập của ông Đ về chấm dứt hợp đồng thế chấp do hoàn
cảnh thay đổi cơ bản.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Giữ nguyên bản án sơ thẩm, không chấp
nhận yêu cầu độc lập của ông Đ.
5 Bản án số 02/2018/KDTM-PT ngày 26/01/2018 về “Tranh chấp hợp 43-50
đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp; tuyên
hủy thư bảo lãnh” của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Nội dung: Công ty P ký hợp đồng với công ty V về việc thuê thương
hiệu và vật dụng quán bar. Trước đó công ty P đã ký hợp đồng thuê
mặt bằng kinh doanh với công ty T. Sau này vì công ty P không trả
tiền thuê mặt bằng liên tục trong 3 tháng nên công ty T gửi thông báo
đơn phương chấm dứt hợp đồng. Vì khó khăn nên công ty P đã nhiều
lần đề nghị công ty V thay đổi nội dung hợp đồng để phù hợp với khả
năng thanh toán của mình nhưng không được chấp nhận.
Do vậy công ty B khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên chấm dứt thực hiện
hợp đồng thuê thương hiệu và vật dụng quán bar với công ty V vì việc
Công ty T đơn phương chấm dứt hợp đồng làm hoàn cảnh thay đổi cơ
bản, và Công ty P mất khả năng thực hiện hợp đồng với Công ty V.
Tòa án sơ thẩm (TAND quận Sơn Trà) tuyên: Không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của Công ty P
Tòa án phúc thẩm tuyên: Huỷ bản án sơ thẩm do việc thụ lý giải
quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của TAND quận Sơn Trà
6 Bản án số 130/2018/DS-PT ngày 10/7/2018 về “Tranh chấp yêu cầu 51-58
bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” của Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương
Nội dung: Ông Đ và bà V khởi kiện ông T1 và bà T2 vì cây cao su của
nhà ông T1 bà T2 gãy, ngã đè vào trạm biến áp của nhà ông Đ và V,
làm đứt dây điện, gây nổ và hư hỏng thiết bị điện, yêu cầu ông T1 bà
T2 bồi thường chi phí sửa chữa.
Tòa án sơ thẩm quyết định: chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, buộc ông T1 và bà T2 liên đới bồi thường toàn bộ số tiền
chi phí sửa chữa cho ông Đ bà V.
Tòa án phúc thẩm nhận định: cây cao su của ông T1 bà T2 đảm bảo
khoảng cách an toàn với trạm biến áp của ông Đ bà V, do mưa to, gió
lớn nên nhánh cây bị rơi gãy rơi trúng trạm điện gây hư hỏng. Mặc dù
là sự kiện bất khả kháng nhưng ông T1 bà T2 vẫn phải chịu một phần
trách nhiệm.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông
T1. Buộc ông T1 bà T2 bồi thường ½ giá trị thiệt hại xảy ra.
7 Bản án 16/2018/DS-PT ngày 22/10/2018 về “Tranh chấp bồi thường 59-67
thiệt hại tính mạng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” của Tòa án
nhân dân tỉnh Hà Giang
Nội dung: Anh L điều khiển xe máy va chạm với anh H2 điều khiển
xe ô tô gây tại nạn giao thông, anh L bị thương nặng và tử vong khi
điều trị tại bệnh viện. Chị H1 là vợ anh L khởi kiện yêu cầu anh H2
bồi thường thiệt hại cho gia đình chị H1.
Tòa án sơ thẩm quyết định: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của chị H1. Buộc anh H1 bồi thường 78.367.500đ và cấp dưỡng nuôi
cháu H4 là con anh L mỗi tháng 800.000 cho đến khi cháu H4 đủ 18
tuổi.
Anh H1 kháng cáo bản án sơ thẩm và cho rằng, vụ tai nạn là trường
hợp bất khả kháng, anh hoàn toàn không có lỗi.
Tòa án phúc thẩm nhận định: anh L và anh H2 cùng có lỗi, nhưng
anh H2 sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nên phải bồi thường một
phần thiệt hại.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng cáo của anh
H2, buộc anh H2 bồi thường số tiền 43.155.000 đồng và cấp dưỡng
cho cháu H4 mỗi tháng 800.000 đồng cho đến khi cháu H4 đủ 18 tuổi.
8 Bản án số 09/2018/KDTM-PT ngày 6/11/2018 về “Tranh chấp hợp 68-74
đồng mua bán hàng hóa” của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng
Nội dung: Ông H khởi kiện ông M và bà N về việc không thanh toán
đúng hạn theo hợp đồng mua bán thức ăn nuôi tôm và thuốc hải sản.
Tòa án sơ thẩm: Buộc ông M và bà N trả toàn bộ số tiền thức ăn nuôi
tôm và thuốc hải sản theo hợp đồng là 207.555.000 đồng.
Bà N có đơn kháng cáo yêu cầu chia đợt thanh toán là ba đợt và giảm
50% tiền án phí do ông M và bà N thuộc trường hợp bất khả kháng do
nuôi tôm mất mùa, hoàn cảnh khó khăn.
Tòa án phúc thẩm nhận định: Về việc chia việc thanh toán thành
nhiều đợt nguyên đơn không đồng ý nên HĐXX chỉ buộc bà N trả số
tiền còn thiếu, còn việc chia thành nhiều đợt, mỗi đợt bao nhiêu tiền
được xem xét ở giai đoạn thi hành án nếu có yêu cầu; về việc giảm tiền
án phí: bà N không cung cấp được tài liệu chứng minh gặp sự kiện bất
khả kháng dẫn đến không đủ khả năng trả án phí theo khoản 1 Điều 13
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bà N
9 Bản án số 98/2018/HS-PT ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân 75-80
tỉnh Lạng Sơn
Nội dung: H chở vợ điều khiển xe mô tô đi trên đường, nhìn phía trước
thấy xe ô tô tải do S điều khiển đi cùng chiều nên H đã điều khiển xe
đi bên trái đường để vượt xe tải. Lúc lên đến đầu xe tải thì va chạm với
một xe mô tô khác đi ngược chiều do D điều khiển, chở I ngồi sau.
Hậu quả là những người trên xe ngã ra đường, I tử vong tại chỗ do ngã
vào phía trước dàn lốp thứ hai của xe tải.
Bản án sơ thẩm: Tòa tuyên xử H phạm tội Vi phạm quy định giao
thông đường bộ, xử phạt bị cáo H 16 tháng tù cho hưởng án treo, thời
gian thử thách là 32 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 03-10-2018.
Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của H, D và S.
Sau đó người đại diện hợp pháp của I là ông E, kháng cáo bản án sơ
thẩm, yêu cầu xem xét trách nhiệm hình sự của D và S.
Tòa án phúc thẩm nhận định: Nguyên nhân khiến I tử vong là đa
chấn thương do tai nạn giao thông. Bánh xe trục trước thứ hai của xe
ô tô tải do anh S điều khiển kẹp lên một phần cơ thể của I là sự kiện
bất khả kháng theo khoản 2 Điều 584 Bộ luật dân sự. Anh D điều khiển
xe chở I đi đúng làn đường nhưng do không tuân thủ quy định về an
toàn giao thông đường bộ, vượt xe khi chưa đảm bảo an toàn với gây
va chạm với xe của anh D.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của ông E.
10 Bản án số 17/2018/DS-ST ngày 21/11/2018 về “Tranh chấp bồi 81-84
thường thiệt hại về tài sản” của Tòa án nhân dân thị xã An Khê –
tỉnh Gia Lai
Nội dung: Do trời mưa bão nên tường chuồng bò nhà bà S bị sập làm
bể đường ống dẫn phân từ chuồng heo xuống hầm bioga nhà bà N. Bà
N yêu cầu bà S khắc phục nhưng bà S không làm, do vậy và N khởi
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Tòa án sơ thẩm nhận định: Việc tường gạch chuồng bò nhà bà S bị
ngã làm vỡ đường ống dẫn phân từ chuồng heo xuống hầm biôga của
bà N là do mưa bão, không phải hành vi vi phạm của bà S gây ra. Thiệt
hại là do sự kiện bất khả kháng nên bà S không phải chịu trách nhiệm
bồi thường. Sau khi đường ống dẫn phân bị vỡ, bà N không khắc phục,
sửa chữa, không tiếp tục sử dụng để hư hỏng hầm Biôga là lỗi của bà
N, không phải do lỗi của bà S. Do đó, bà S không phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại số tiền đã bỏ ra làm hầm Biôga và tiền ga sử dụng
trong một năm mà bà N yêu cầu.
Tòa án tuyên: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà N
11 Bản án số 07/2018/KDTM-PT ngày 23/11/2018 về “Tranh chấp hợp 85-90
đồng mua bán” của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh
Nội dung: Công ty B và Công ty SN ký hợp đồng nguyên tắc số 006
ngày 2/1/2017 về việc công ty SN sẽ cung cấp sản phẩm tinh bột khoai
mì khi có đơn hàng của Công ty B. Ngày 21/8/2017, Công ty B có đơn
hàng số 22496, các bên thỏa thuậ về hàng và giá, việc giao hàng thành
từng đợt sẽ được công ty B thông báo sau. Ngày 14/10/2017 Công ty
B có thông báo về thời gian giao hàng nhưng Công ty SN xác nhận là
không đáp ứng được đơn hàng do dịch bệnh “khảm lá cây khoai mì”
nên việc thu mua nguyên liệu khó khăn. Công ty SN sau đó có thông
báo đã có nguồn hàng mong muốn được nhưng đề nghị Công ty B hỗ
trợ tăng giá nhưng Công ty B không đồng ý và đã đi mua ở công ty
khác để kịp làm trước thời gian tết. Công ty B khởi kiện yêu cầu Công
ty SN chịu tiền phạt vi phạm hợp đồng là 280.000.000, tiền bồi thường
thiệt hại về chênh lệch giá 1.750.000.000, tổng cộng 2.030.000. Công
ty SN không đồng ý bồi thường vì dịch bệnh xảy ra là trường hợp bất
khả kháng theo quy định tại hợp đồng và phụ lục giữa hai bên, công ty
SN cũng bị thiệt hại.
Bản án sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty
B, buộc Công ty SN trả cho Công ty B 280.000.000 đồng. Không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện đối với 1.750.000.000 đồng.
Công ty B kháng cáo, yêu cầu xem xét chấp nhận yêu cầu bồi thường
số tiền 1.750.000.000 đồng.
Bản án phúc thẩm: Công nhận sự thỏa thuận của các bên, sửa lại bản
án sơ thẩm. Công ty SN đồng ý trả cho Công ty B số tiền phạt vi phạm
và bồi thường thiệt hại tổng cộng là 800.000.000 đồng.
12 Bản án số 32/2019/HS-PT ngày 21/02/2019 của Tòa án nhân dân 91-96
tỉnh Bình Dương
Nội dung: K điều khiển xe buýt vào sát lề đường bên phải để dừng
trước trạm xe buýt đón khách. Lúc này bà L2 chở bà Q đang lưu thông
thì thấy xe buýt trên đang dừng đón khách nên bà L2 điều khiển xe mô
tô từ phía sau vượt lên bên trái xe buýt. Bất ngờ, K điều khiển xe búy
chuyển hướng sáng bên trái để tiếp tục lưu thông về phía trước trên làn
đường xe mô tô nên đã va chạm vào xe của bà L2 và Q. Hậu quả là bà
Q tử vong tại bệnh viện.
Bản án sơ thẩm: Tòa án tuyên K phạm tội “Vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ”, xử phạt K 01 năm tù nhưng cho hưởng án
treo, thời gian thử thách là 24 tháng.
Sau đó người đại diện hợp pháp của bị hại Q có đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm với lý do: bà L2 là người phạm tội “Vi phạm giao thông
đường bộ” do không tuân thủ điều kiện vượt xe theo quy định tại khoản
2 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ còn bị cáo K không có tội do lúc
bà L2 vượt xe tại vị trí góc khuất của gương chiếu hậu nên K không
thấy là trường hợp bất khả kháng.
Tòa án phúc thẩm nhận định: Bà L2 vẫn ở làn đường dành cho xe
môtô nên hành vi vượt qua xe buýt của bà L2 là đúng pháp luật, không
vi phạm Luật Giao thông đường bộ. Còn việc K điều khiển xe buýt
chuyển hướng rẽ trái để đi trong làn đường xe mô tô thì phải đảm bảo
an toàn cho các phương tiện di chuyển khác, chú ý quan sát để không
để xảy ra tai nạn, do vậy xem đó thuộc trường hợp bất khả kháng là
không có cơ sở.
Tòa án phúc tẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của người người
đại diện hợp pháp của bị hại Q.
13 Bản án số 02/2019/KDTM-ST ngày 12/3/2019 về “Tranh chấp hợp 97-103
đồng khai thác khoáng sản” của Tòa án nhân dân huyện Đồng Ph,
tỉnh Bình Phước.
Nội dung: Công ty HĐP ký kết hợp đồng khai thác mỏ khoáng sản với
Công ty ĐB. Công ty HĐP đã thanh toán đủ cho Công ty ĐB số tiền
theo hợp đồng. Theo đó, Công ty ĐB phải giao cho Công ty HĐP diện
tích khai thác mỏ đá là 06 ha và cam kết thời hạn khai thác là 5 năm,
tức đến ngày 10/5/2016. Khi hết thời hạn trên, nếu chưa khai thác hết
trữ lượng đá thì hai bên thương lượng để làm thủ tục gia hạn khai thác.
Tuy nhiên, thực tế Công ty ĐB chỉ giao 4,45ha (thiếu là 1,55ha), đồng
thời giấy phép khai thác đến ngày 02/8/2014 thì hết hạn, không đảm
bảo thời hạn 5 năm như cam kết. Công ty HĐP khởi kiện yêu cầu Công
ty ĐB phải tiếp tục thực hiện hợp đồng đã ký kết, cụ thể: Gia hạn thời
hạn khai thác mỏ đá cho Công ty HĐP thêm 34 tháng để đủ thời hạn 5
năm như hợp đồng đã ký kết. Công ty HB thì cho rằng: Công ty ĐB
làm thủ tục gia hạn và đã được UBND tỉnh Bình Phước gia hạn thời
hạn khai thác thêm 2 năm, tức đến ngày 02/8/2014 thì hết hạn giấy
phép khai thác. Theo quy định của luật khoáng sản và các văn bản liên
quan thì không thể gia hạn thời hạn khai thác tiếp được nữa, mà phải
đóng cửa mỏ và lập hồ sơ thăm dò, khai thác mới. Do đó, với trách
nhiệm của mình, ngày 09/6/2014, Công ty ĐB đã có văn bản gửi cho
Công ty HĐP đề nghị Công ty HĐP phối hợp để làm thủ tục xin gia
hạn tiếp, đồng thời nhiều lần điện thoại trực tiếp để đôn đốc Công ty
HĐP. Tuy nhiên, Công ty ĐB không nhận được sự phản hồi nào của
Công ty HĐP.
Tòa án sơ thẩm nhận định: Việc Công ty ĐB không gia hạn giấy
phép khai thác như trên là nằm ngoài ý muốn của Công ty ĐB theo
Điều 5 của hợp đồng do sự kiện bất khả kháng. Công ty ĐB cũng đã
gửi văn bản yêu cầu làm việc và sẽ hoàn trả chi phí cho thời gian còn
lại của hợp đồng không xin được giấy phép khai thác cho Công ty
HĐP. Tuy nhiên, Công ty HĐP không phản hồi, đồng thời vẫn quản
lý, khai thác cho đến ngày 04/6/2016 mới bàn giao lại mỏ đá cho Công
ty ĐB. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 thì
Công ty ĐB được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm do sự kiện
bất khả kháng. Đồng thời, Công ty ĐB cũng đã bàn giao mỏ đá đủ thời
hạn theo hợp đồng là 5 năm (từ ngày 10/5/2011 đến ngày 04/6/2016).
Tòa án sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn Công ty TNHH MTV HĐP về việc kiện yêu cầu Công ty
TNHH ĐB phải tiếp tục thực hiện hợp đồng khai thác khoáng sản đã
ký kết ngày 10/5/2011, gia hạn thời gian khai thác mỏ cho Công ty
TNHH MTV HĐP thêm 34 tháng.
14 Bản án số 14/2019/DS-PT ngày 27/3/2019 về “Tranh chấp bồi 104-108
thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Thọ
Nội dung: Anh N và anh S điều khiển hai xe ô tô đi ngược chiều nhau.
Cùng lúc đó anh Nam chở Việt điều khiển xe máy đi tông vào đuôi xe
của anh N. Cả Nam và Việt đều bị văng ra khỏi xe và va vào xe của
anh N và anh S. Sau đó N và S cùng với nhân dân đưa Nam và Việt
đến bệnh viện nhưng N tử vong ngay sau đó. S và N đã tự nguyện hỗ
trợ cho gia đình Nam 60.000.000 đồng nhưng mẹ của N là bà X không
đồng ý, khởi kiện yêu cầu N và S phải bồi thường thiệt hại tính mạng
cho con bà số tiền 200.000 đồng.
Tòa án sơ thẩm: Bác yêu cầu khởi kiện của bà X về việc yê cầu bồi
thường thiệt hại về tính mạng. Chấp nhận sự tự nguyện bồi thường của
anh N và S.
Sau đó bà X có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm
Tòa án phúc thẩm nhận định: 2 xe ô tô do N và S điều khiển đi đúng
đường, làn đường của mình, các anh không có lỗi trương việc gây tai
nạn, việc xe anh S chèn lên người anh Nam là sự kiện bất ngờ, là
trường hợp bất khả kháng, không thể xử lý được trong tình huống này,
do đó anh S không có lỗi. Việc anh S không để xe giữ nguyên hiện
trường là lỗi hành chính và đã bị xử phạt hành chính.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của chị X, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
15 Bản án số 01/2019/LĐ-PT về “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt 109-116
hợp đồng lao động” của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông
Nội dung: Ngày 14/8/2014 Chị P ký hợp đồng lao động không thời
hạn với Trường THCS Đ. Đến ngày 17/1/2018, hiệu trưởng trường Đ
đã ban hành quyết định số 02/QĐ-THCS về việc đơn phương chấm
dứt hợp đồng với chị P do định mức giáo viên môn toán đã đủ (ngày
1/12/2017 nhà trường đã thông báo về việc này) căn cứ vào văn bản số
1304/UBND-NV ngày 14/7/2017 của UBND huyện T về việc chấm
dứt hợp đồng lao động tại các đơn vị sự nghiệp. Sau nhiều lần khiếu
nại nhưng không có kết quả nên chị P đã khởi kiện yêu cầu hủy quyết
định số 02/QĐ-THCS ; buộc trường tiếp tục nhận chị P vào làm việc
và chi trả 3 cho chị P đầy đủ các khoản lương, trợ cấp kể từ ngày
17/01/2018 cho đến ngày xét xử.
Bản án sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị P.
Tòa án phúc thẩm nhận định: Việc Hiệu trưởng Trường THCS Đ
ban hành quyết định số 02/QĐ-THCS là căn cứ vào văn bản số
1304/UBND-NV của UBND huyện T, trên cơ sở văn bản chỉ đạo số
989/UBND-NC của UBND tỉnh Đắk Nông. Đây là văn bản của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền của cấp tỉnh, thuộc trường hợp lý do
bất khả kháng theo quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 38 của Bộ luật
lao động năm 2012 và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 12 N định số
44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 của Chính phủ; khoản 2 Điều 12 N
định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/1/015 của Chính phủ. Do đó, chị P
kháng cáo đề N hủy quyết định số 02/QĐ-THCS của Hiệu trưởng
Trường THCS Đ là không có căn cứ.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
chị P
16 Bản án số 143/2019/KDTM-PT ngày 15/11/2019 về “Tranh chấp 117-133
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần” của Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội
Nội dung: Ngày 11/4/2016, chị H ký Hợp đồng đặt cọc 1.870.500.000
để mua 4.350.000 cổ phần phổ thông. Ngày 23/6/2016, Chị H và Công
ty Q ký hợp đồng chuyển nhượng, trong đó có đề cập vào ngày hoàn
tất chuyển nhượng, các bên phải ký hợp đồng cầm cố. Chị H cho rằng,
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần không thể thực hiện là do lỗi của
Công ty Q cố tình không thực hiện nghĩa vụ chuyển nhượng + sự kiện
bất khả kháng (Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội ban hành quyết định
số 684/TB -SDGHN về việc hạn chế giao dịch đối với mã chứng khoán
DK ). Do vậy chị H đề nghị Tòa án yêu cầu chấm dứt hợp đồng chuyển
nhượng và buộc Công ty Q hoàn trả số tiền đặt cọc 1.870.500.000
đồng. Công ty Q thì cho rằng các bên thỏa thuận việc chuyển nhượng
cổ phần và nghĩa vụ cầm cố tài sản là hai hoạt động song song, do chị
N liên tục trì hoãn, các hợp đồng cầm cố chứng khoán chị H gửi cho
Công ty Q lại không có chữ ký của ông B – chủ sở hữu tài sản cầm cố
nên Công ty Q không chấp nhận và tiếp tục thực hiện toàn tất chuyển
nhượng; Công ty Q cũng đã thiện chí, hỗ trợ và có đề nghị phương án
khác nhưng chị H cũng không thực hiện được. Do vậy Công ty Q bác
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị H.
Bản án sơ thẩm: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị H. Buộc Công ty
Q phải trả lại Chị Hsố tiền 1.870.500.000 đồng.
Sau đó Công ty Q kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm.
Tòa án phúc thẩm nhận định: Cấp sơ thẩm nhận định việc Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội ban hành Quyết định 296 và Thông báo 684
về việc hạn chế giao dịch đối với mã chứng khoán DK , bị hủy niêm
yết trên sàn HNX và chỉ được giao dịch trên sàn Upcom là “tình huống
bất khả kháng” và được coi là “sự thay đổi của các qui định của pháp
luật Việt Nam” là không có căn cứ theo điểm b, khoản 8.01, Điều 8
Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần dẫn đến việc Hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần và các Hợp đồng cầm cố chứng khoán không có giá
trị là nhận định không có căn cứ. Vì 2 văn bản trên là văn bản có tính
chất cá biệt của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, không thể được coi
là qui định của pháp luật Việt Nam. Mặt khác, từ thời điểm 2 bên kí
hợp đồng chuyển nhượng đến khi có văn bản của Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội là 10 tháng nhưng cả khoảng thời gian đó, nguyên đơn
đưa ra những lý do như đã phân tích trên để chậm trễ và không kí hợp
đồng cầm cố là lỗi hoàn toàn thuộc về nguyên đơn. Mặt khác, ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm cũng như phúc thẩm, bị đơn luôn muốn tiếp tục
thực hiện hợp đồng và sẵn sàng thống nhất với nguyên đơn thực hiện
chuyển nhượng theo hình thức thỏa thuận và vẫn có thể thực hiện thông
qua khớp lệnh trên sàn nhưng nguyên đơn cũng không muốn tiếp tục
thực hiện hợp đồng.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo của Công ty Q, đình
chỉ một phần yêu cầu của chị H, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện
của chị H là chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng. Công ty Q được
hưởng số tiền 1.870.500.000 đồng bà H đã đặt cọc để ký kết và thực
hiện Hợp đồng chuyển nhượng và 4.350.000 cổ phần của Công ty Cổ
phần DK.
17 Bản án số 55/2019/KDTM-PT ngày 28/11/2019 về “Tranh chấp hợp 134-144
đồng bảo hiểm” của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Nội dung: Ông T có mua bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty Công ty bảo
hiểm P đối với xe ô tô tải. Ông T đã hoàn thành nghĩa vụ đóng phí bảo
hiểm đúng thời hạn. ngày 17/5/2018, khi xe ô tô trên đậu ở bãi xe số
05 QL14B, xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng thì bị
cháy và thiệt hại toàn bộ xe. Ngay khi xảy ra sự cố, ông T đã thông
báo với Công ty bảo hiểm P và cơ quan chức năng để xem xét, giải
quyết. Ông T đã hoàn thành tất cả các thủ tục để yêu cầu Công ty bảo
hiểm P bồi thường bảo hiểm vật chất. Tuy nhiên, Công ty bảo hiểm P
không chấp nhận, cho rằng nguyên nhân dẫn đến thiệt hai là do xe đang
chở hàng hóa, chất cháy chủ yếu là xăng dầu. Ông T không đồng ý,
cho rằng: nguyên nhân cháy là do chậm điện tại bình ắc quy của xe
gây cháy lan, căn cứ bản kết luận Điều tra số 236/KL – PC&CCS%
ngày 23/5/2018 của Phòng Cảnh sát PC&CC số 5. Do đó, ông T yêu
cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty bảo hiểm P phải bồi thường bảo
hiểm vật chất đối với xe số BKS 43C – 179.12 với số tiền là
317.000.000đ. Công ty bảo hiểm P thì cho rằng cho trên xe chứa xăng,
dầu, vật liệu cháy nổ.
Bản án sơ thẩm: Chấp nhận đơn khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp
đồng bảo hiểm” của ông Nguyễn Văn T đối với Công ty Bảo hiểm P.
Xử: Buộc Công ty Bảo hiểm P phải bồi thường bảo hiểm vật chất đối
với xe số BKS 43C – 179.12 của ông Nguyễn Văn T với số tiền
317.000.000 đồng.
Sau đó Công ty bảo hiểm P có đơn kháng cáo toàn bộ bản ản sơ thẩm.
Tòa án phúc thẩm nhận định: Sự kiện bảo hiểm xảy ra một cách
khách quan không thể lường trước được, xuất phát từ nguyên nhân bất
khả kháng, do chập điện tại bình ắc quy của xe gây cháy lan, không
phải do lỗi cố ý hoặc vô ý của người mua bảo hiểm hoặc người thụ
hưởng; đồng thời sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn được bảo
hiểm. Mặt khác, người thụ hưởng theo hợp đồng bảo hiểm xe ô tô nêu
trên là tài sản được NLQ1 nhận thế chấp, hiện ông T còn nợ NLQ1 cả
gốc và lãi là 168.645.000đ. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông
T, tuyên Công ty Bảo hiểm P phải trả toàn bộ tiền bồi thường cho ông
T là không đúng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của người thụ hưởng là NLQ1. Do Tòa án cấp sơ thẩm xác định không
đúng tư cách tham gia tố tụng của NLQ1, không giải quyết quyền lợi
của người thụ hưởng NLQ1 nên Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc
phục được.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Hủy bản án sở thẩm, giao hồ sơ cho Tòa
án giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm
18 Bản án số 91/2020.HS-PT ngày 09/3/2020 của Tòa án nhân dân 145-151
tỉnh Thanh Hóa
Nội dung: Q điều khiển xe ô tô qua đường giao nhau với đường không
ưu tiên nhưng Q không giảm tốc độ hoặc hoặc dừng lại một cách an
toàn khi phát hiện thấy chướng ngại vật đi vào ngã tư dẫn đến gây tai
nạn đâm va vào xe mô tô do ông C điều khiển chở bà V. Hậu quả bà
V tử vong tại chỗ , ông C bị thương nặng được đưa vào Bệnh viện cấp
cứu nhưng sau đó tử vong. Nguyên đơn cho rằng nguyên nhân vụ tai
nạn là do tình thế bất khả kháng và do lỗi hỗn hợp.
Bản án sơ thẩm: Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội : “Vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Xử phạt: Hoàng Văn Q
42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ
ngày bắt thi hành án.
Tòa án phúc thẩm nhận định: hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản
4 iều 11 Luật Giao thông đường bộ và khoản 1 Điều 5 Thông tư số
91/2015/TT-BGTVT quy định các trường hợp bắt buộc phải giảm tốc
độ tại nơi có biển cảnh báo nguy hiểm, nơi có đường bộ giao nhau. Với
hậu quả vụ tai nạn làm hai người chết, do đó bị cáo phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội: “Vi phạm quy dịnh về tham gia giao thông đường
bộ” như bản án sơ thẩm đã xử là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Do
đó, kháng cáo của bị cáo cho rằng tai nạn xảy ra thuộc trường hợp bất
khả kháng là không có cơ sở chấp nhận. Do bị cáo có vài tình tiết giảm
nhẹ nên HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo
Hoàng Văn Q, sửa một phần bản án sơ thẩm số 186/2019/HSST ngày
03/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa về hình phạt. Xử
phạt: Bị cáo Q 24 (Hai mươi bốn tháng tù về tội “Vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính
từ ngày bắt thi hành án.
19 Bản án số 46/2020/DS-PT về “Tranh chấp hợp đồng chuyển 152-161
nhượng quyền sử dụng đấ và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền
sử đất” của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
Nội dung: ngày 21/2/2009 Công ty C và bà D ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giá 266.880.000. Việc thanh toán chia thành
5 đợt. Nhưng sau khi thanh toán được 2 đợt thì bà D không tiếp tục
thanh toán theo như nội dung cam kết mặc dù đã được Công ty C nhắc
nhở nhiều lần trong khi đó Công ty C đã hoàn tất các thủ tục pháp lý
để UBND cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho bà D. Do vậy Công ty C
khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ nêu trên, Công
ty C không phải trả lại số tiền bà D đã thanh toán; Hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nêu trên. Bà D thì cho rằng từ năm 2011 đến
2017 bà D không nhận được bất kì thông báo nào, bà có liên lạc để trả
nhưng công ty thay đổi địa điểm giao dịch nên bà D không liên lạc
được. Bà D yêu cầu được tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Bản án sơ thẩm: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
Công ty C. Buộc Công ty C giao cho bà D bản chính giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và bàn giao diện tích đất nêu trên cho bà D. Buộc
bà D thanh toán số tiền 400.208.171 đồng cho Công ty C.
Sau đó, Công ty C đã kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà D cũng
kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu xem xét lại số tiền bà phải trả cho
Công ty C.
Tòa án phúc thẩm nhận định: Công ty C và bà D cùng có lỗi một
phần dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng tại thời điểm
này. Việc chấm dứt thực hiện hợp đồng một phần cũng do hoàn cảnh
đã thay đổi cơ bản (giá trị quyền sử dụng đất thay đổi so với khi ký kết
hợp đồng nhưng hai bên không thỏa thuận lại) theo quy định tại Điều
420 Bộ luật Dân sự. Để cân bằng lợi ích cho các bên khi chấm dứt hợp
đồng chuyển nhượng trên, Công ty phải có nghĩa 8 vụ trả lại cho bà D
giá trị quyền sử dụng đất tương ứng với phần diện tích đất bà D đã
thanh toán theo giá trị tại thời điểm xét xử.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo
của nguyên đơn; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Sửa
Bản án dân sự sơ thẩm như sau: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về việc tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuyên bố chấm dứt thực hiện Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty C với bà D.
Công ty C có nghĩa vụ trả lại cho bà D số tiền 600.576.000 đồng.
20 Bản án số 02/2020/KDTM-PT ngày 19/2/2020 về “Tranh chấp đòi 162-170
lại tài sản” của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
Nội dung: Ngày 2/12/2015 Công ty P và Công ty A ký hợp đồng mua
bán thiếc. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty P đã cho Công ty A
tạm ứng số tiền 5.372.435.316 đồng. Từ khi Công ty A tạm ứng số tiền
cho đén nay, phía Công ty A chưa giao được số hàng nào cho Công ty
P. Công ty P đã nhiều lần làm văn bản yêu cầu nhưng Công ty A không
giao hàng đúng cam kết và Công ty A cũng đã có văn bản trả lời về
việc không giao đúng hợp đồng được. Ngày 10/4/2018 hai bên đối
chiếu công nợ và thỏa thuận lãi suất đến ngày 31/3/2018. Sau khi chốt
nợ Công ty A chỉ trả được cho Công ty P 40.000.000 đồng. Nay, Công
ty P yêu cầu Tòa án buộc Công ty A trả số tiền tạm ứng gốc và lãi suất
theo thỏa thuận đến ngày 30/7/2019.
Bản án sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty P; buộc
Công ty A có nghĩa vụ trả số tiền tạm ứng và tiền lãi suất tính đến ngày
30 tháng 7 năm 2019 cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành
viên Xuất nhập khẩu P tổng số tiền là 7.003.270.395 đồng. Trong đó,
tiền gốc là 5.332.435.316 đồng, tiền lãi suất là 1.670.835.079 đồng.
Sau đó Công ty A đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với 3 lý do
trong đó có: tại thời điểm sau khi ký hợp đồng mua bán thiếc và nhận
tiền tạm ứng, thị trường thiếc thế giới và Việt Nam giảm sâu khoảng
23.000 USD/tấn xuống còn 16.000 USD/tấn nên cả hai công ty sẽ bị
lỗ. Mặt khác, theo quy định của Nghị định số 100/2016/NĐ-CP ngày
01 tháng 7 năm 2016. đã khiến cho các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực khoáng sản bị ảnh hưởng nghiêm trọng do không được hoàn
thuế giá trị gia tăng. Công ty A đã tìm cách giải quyết nhưng không
được nên thuộc trường hợp bất khả kháng theo Điều V của hợp đồng
đã ký. Theo đó, Công ty A được miễn trừ mọi nghĩa vụ do sự kiện bất
khả kháng.
Tòa án phúc thẩm nhận định: hai bên ký hợp đồng với nhau vào
ngày 02 tháng 12 năm 2015 và thời hạn giao hàng chậm nhất là hết
tháng 02 năm 2016. Mặc dù Công ty P đã chuyển số tiền tạm ứng
nhưng Công ty A đã không thực hiện đúng thời gian giao hàng như đã
cam kết. Công ty P cũng đã đồng ý gia hạn thời gian giao hàng nhưng
Công ty A không thực hiện đúng. Công ty A cho rằng việc vi phạm
thời gian giao hàng thuộc trường hợp bất khả kháng nhưng không xuất
trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do
đó, không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo ngày của bị đơn.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn
Công ty A; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Page 1

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG TRỊ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 01/2016/LĐPT


Ngày 17/8/2016
“ Giữa: Bà Vũ Thị Kiều G - Hội
LHPN Thành phố Đ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ


Với thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

- Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Đức Tân.
- Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Cường
Bà Nguyễn Thị Oanh
- Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Ông Nguyễn Văn Long - Cán bộ
Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị tham gia phiên toà: Bà
Hoàng Thị Ngọc Hà- Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 8 năm 2016, tại Hội trường Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị
xét xử phúc thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số: 01/2016/TLPT - LĐ ngày
30/6/2016 về việc “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và trợ cấp khi chấm
dứt hợp đồng lao động ”.
Do bản án sơ thẩm số 01/2016/LĐ - ST ngày 24/5/2016 của TAND thành
phố Đ bị nguyên đơn bà Vũ Thị Kiều G kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2016/LĐPT - QĐ ngày 22 tháng
7 năm 2016 giữa các bên đương sự:
Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Kiều G, sinh năm: 1978; địa chỉ: Khu phố A,
phường B, thành phố Đ, tỉnh Q, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Vũ Thị Kiều G:
Ông Nguyễn Duy P - Công tác tại Trường Đại học Luật H. Có mặt
Bị đơn: Hội Liên Hiệp Phụ Nữ thành phố Đ, tỉnh Q; địa chỉ: Số 03 -
đường H, thành phố Đ, tỉnh Q.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Hồng H - Chủ tịch HLHPN, Uỷ
quyền cho bà Nguyễn Thị Mỹ V - Phó chủ tịch HLHPN tham gia phiên toà ( Theo
giấy uỷ quyền ngày 15/8/2016 ) Có mặt.
NHẬN THẤY:

1
Page 2

Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/3/2015, được sửa đổi, bổ sung ngày
27/3/2015, ý kiến tại các phiên hòa giải 16/6/2015 và ngày 21/3/2016 cũng như ý
kiến tại biên bản lấy lời khai ngày 25/02/2016, nguyên đơn bà Vũ Thị Kiều G trình
bày:
Ngày 15/11/2006 bà Vũ Thị Kiều G được nhận vào làm việc tại Hội liên
hiệp Phụ nữ thành phố Đ (viết tắt: Hội LHPN thành phố Đ) theo đề án của Thị ủy
(thể hiện tại Thông báo số 169 ngày 21/12/2006, Thông báo số 170 ngày
15/01/2007). Sau 03 tháng thử việc, ngày 15/02/2007 bà G ký hợp đồng lao động
có thời hạn 01 năm với người sử dụng lao động, thời gian tập sự 01 năm, hết thời
hạn hợp đồng bà G tiếp tục ký hợp đồng lao động từ ngày 01/02/2009 đến ngày
31/12/2010. Từ năm 2011 đến năm 2013, bà G ký hợp đồng lao động từng năm
một. Ngày 31/12/2013, hết thời hạn hợp đồng, bà G trực tiếp gặp thường trực Hội
LHPN thành phố Đ để đề xuất nguyện vọng tiếp tục làm việc và được Chủ tịch Hội
LHPN thành phố Đ đồng ý, nhưng không nói đến việc ký kết hợp đồng. Cũng
trong thời gian đó, bà G tiếp tục làm việc, được nhận lương, nhận thẻ bảo hiểm y tế
và đóng bảo hiểm xã hội cho đến tháng 4/2014 tại Hội LHPN thành phố Đ.
Ngày 21/4/2014, bà G nhận được Thông báo của Hội LHPN thành phố Đ về
việc chấm dứt thời gian làm việc. Ngày 05/5/2014, tại cuộc họp cơ quan, Chủ tịch
Hội LHPN thành phố Đ thông báo với toàn cơ quan về việc không giao việc,
không trả lương, không đóng bảo hiểm xã hội và thu thẻ bảo hiểm y tế, với lý do:
Bà G không ký hợp đồng lao động 06 tháng kể từ tháng 01 đến tháng 6/2014.
Bà Vũ Thị Kiều G cho rằng, Hội LHPN thành phố Đ chấm dứt hợp đồng lao
động với bà là trái quy định của pháp luật, cụ thể: Hội LHPN thành phố Đ vi phạm
thời gian báo trước khi chấm dứt hợp đồng, bà G yêu cầu Tòa án tuyên bố việc
chấm dứt hợp đồng lao động của Hội LHPN thành phố Đ bồi thường cho bà Vũ
Thị Kiều G theo quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 42; Điều 48 Bộ
luật lao động với tổng số tiền 64.952.866 đống, gồm các khoản sau:
- Trợ cấp thôi việc: 7 năm (thời gian làm việc) x ½ tháng lương x 3.070.000
đồng = 10.747(5).000 đồng,
- Tiền lương do không được làm việc (từ ngày 01/5/2014 đến ngày
01/4/2015): 11 tháng x 3.070.000 đồng = 33.770.000 đồng,
- Tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong thời gian không được làm việc
(từ ngày 01/5/2014 đến ngày 01/4/2015): 11 tháng x 16% x 3.070.000 đồng =
5.403.200 đồng,
- Tiền lương 02 tháng theo hợp đồng lao động: 02 tháng x 3.070.000 đồng =
6.140.000 đồng,
- Bồi thường do vi phạm quy định về thời hạn báo trước (35 ngày): 35 ngày
x 102.333 đồng = 3.581.666 đồng,
- Tiền nâng bậc lương (lên 3.0) kể từ tháng 02/2014: 0,33 x 1.150.000
đồng/tháng x 14 tháng = 5.313.000 đồng.

2
Page 3

Tại văn bản số 08/HPN-BTV ngày 15/4/2015 và số 11/CV-TL ngày


21/3/2016 cũng như ý kiến tại các phiên hòa giải ngày 16/6/2015 và ngày
21/3/2016, bị đơn là Hội LHPN thành phố Đ có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện
của bà Vũ Thị Kiều G như sau:
Từ ngày 15/11/2006 đến ngày 31/12/2013, bà Vũ Thị Kiều G làm việc liên
tục tại Hội LHPN thành phố Đ theo các hợp đồng lao động có thời hạn trong thời
gian làm việc bà G hưởng đầy đủ quyền lợi của người lao động theo quy định của
pháp luật lao động.
Ngày 20/02/2014, Thành ủy Đ ban hành Thông báo số 358-TB/TU về chủ
trương hợp đồng cán bộ năm 2014, Thông báo có nội dung: “Đối với 02 cán bộ
hợp đồng làm việc tại cơ quan UBMT thành phố và Hội LHPN thành phố, sau khi
có thông báo kết quả thi tuyển công chức khối Đảng, Mặt trận, các đoàn thể của
tỉnh năm 2014 thì chấm dứt hợp đồng”.
Ngày 13/3/2014, Thường trực Hội LHPN thành phố Đ họp phiên mở rộng
(bà Vũ Thị Kiều G có tham gia). Tại phiên họp, Chủ tịch Hội LHPN thành phố đã
trực tiếp thông báo chủ trương hợp đồng cán bộ của Hội LHPN thành phố năm
2014 theo tinh thần Thông báo số 358-TB/TU, và thông báo việc chấm dứt hợp
đồng lao động đối với bà Vũ Thị Kiều G, cụ thể: Hội LHPN thành phố sẽ chấm dứt
hợp đồng lao động với bà G, sau khi có kết quả thi tuyển công chức.
Ngày 31/3/2014, Hội đồng tuyển dụng Tỉnh ủy Q thông báo kết quả điểm kỳ
thi tuyển công chức, ngày 21/4/2014, Hội LHPN thành phố ban hành Thông báo số
03/TB-BNV về việc chấm dứt hợp đồng lao động với bà G.
Với căn cứ nói trên, Hội LHPN thành phố Đ chấm dứt hợp đồng lao động
với bà Vũ Thị Kiều G là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật lao động,
nên các yêu cầu của bà Vũ Thị Kiều G như: Tiền lương do không được làm việc:
33.770.000 đồng; tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong thời gian không được
làm việc: 5.403.200 đồng; tiền lương 02 tháng theo hợp đồng lao động: 6.140.000
đồng; bồi thường do vi phạm quy định về thời hạn báo trước: 3.581.666 đồng và
tiền nâng bậc lương: 5.313.000 đồng không được chấp nhận.
Hội LHPN thành phố Đ chấp nhận yêu cầu chi trả trợ cấp thôi việc cho bà
Vũ Thị Kiều G theo quy định tại khoản 1, Điều 48 của Bộ luật lao động với số tiền
10.474.000 đồng.
- Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
Bà Vũ Thị Kiều G làm việc liên tục tại Hội LHPN thành phố Đ, từ ngày
15/11/2006 đến ngày 31/12/2013, theo các hợp đồng lao động có thời hạn; năm
2013, bà G ký kết hợp đồng lao động với Hội LHPN thành phố Đ với thời hạn 01
năm (từ ngày 10/01/2013 đến ngày 31/12/2013). Hết thời hạn hợp đồng, Hội
LHPN thành phố Đ với bà G không ký kết hợp đồng mới nhưng bà G vẫn tiếp tục
làm đến hết ngày 31/5/2014 mới nghỉ việc, theo quy định tại Điều 22 Bộ luật lao
động hợp đồng có thời hạn được ký kết năm 2013 giữa bà G với Hội LHPN thành
phố Đ trở thành hợp đồng không xác định thời hạn.
3
Page 4

Hội LHPN thành phố Đ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà G
không thuộc 01 trong 04 trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 38 của Bộ luật lao
động.
Ngày 21/4/2014, Hội LHPN thành phố Đ ra thông báo số 03 về việc chấm
dứt hợp đồng lao động với bà G, ngày 01/5/2014 Hội LHPN thành phố Đ đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà G là vi phạm thời hạn báo trước (35
ngày) theo quy định tại khoản 2, Điều 38 của Bộ luật lao động.
Yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Vũ
Thị Kiều G.
Tại bản án số 01/2016/LĐ – ST ngày 24/5/2016 của Tòa án nhân dân thành
phố Đ đã áp dụng khoản 1, Điều 218 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 15; Điều 16;
điểm b, khoản 1, khoản 2, Điều 22; khoản 10, Điều 36; điểm c, khoản 1,khoản 2,
Điều 38 và Điều 48 của Bộ luật lao động, xử:
- Chấp nhận xem xét nội dung thay đổi yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa của
bà Vũ Thị Kiều G.
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị Kiều G, buộc Hội
LHPN thành phố Đ, tỉnh Q phải trả tiền trợ cấp thôi việc cho bà Vũ Thị Kiều G số
tiền 10.747.000 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các bên đương
sự trong vụ án.
Ngày 04/6/2016 nguyên đơn bà Vũ Thị Kiều G có đơn kháng cao với nội
dung:
- Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của bà G tuyên việc đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động của Hội LHPN thành phố Đ là trái pháp luật.
- Tòa sơ thẩm cho rằng Hội LHPN thành phố Đ không vi phạm thời gian
thông báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động là không đúng với thực tế.
- Tòa sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu các khoản bồi thường khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động là không đúng và yêu cầu:
Trả tiền lương 11 tháng tôi không được làm việc (từ ngày 01/5/2014 cho đến
ngày 01/4/2015 là 11 tháng): 11 x 3.070.000đ = 33.770.000đ (1) (khoản 1 Điều 42
BLLĐ).
Trả bảo hiểm xã hội trong thời gian tôi không được làm việc (khoản 1 Điều
42 BLLĐ): 11 tháng x 18% x 3.070.000đ = 6.078.600đ (2)
Trả bảo hiểm y tế do cơ quan không đóng trong thời gian tôi không được
làm việc (khoản 1 Điều 42 BLLĐ): 3% x 11 x 3.070.000đ = 2.333.100đ (3)
Trả ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động (khoản 1 Điều 42
BLLĐ): 2 x 3.070.000đ = 6.140.000đ (4)
Trả tiền bồi thường do vi phạm quy định về thời hạn báo trước (khoản 5
Điều 42 BLLĐ): 35 ngày x 102.333đ = 3.581.666đ (6)
4
Page 5

Trả khoản tiền tăng thêm do được nâng lương cho tôi: 0,33 x 1.150.000đ x
14 tháng = 5.313.000đ (7)
Tổng cộng: 57.216.366đ (năm mươi bảy triệu hai trăm mười sáu ngàn
ba trăm sáu mươi sáu đồng).
Lý do của kháng cáo: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử thiếu khách quan, áp dụng
không đúng quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bà G ; cụ thể:
- Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Hội LHPN Đ chấm dứt hợp đồng lao động
căn cứ Thông báo số 358-TB/TU ngày 20/2/2014 của Thành ủy Đ theo khoản 10
Điều 36, điểm c khoản 1 Điều 38 của Bộ luật lao động là không đúng.
- Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Hội LHPN thành phố Đ không vi phạm thời
hạn báo trước với lý do ngày 13/3/2014 thường trực Hội LHPN thành phố Đ đã
họp phiên mở rộng và thông báo nội dung công văn số 358-TB/TU ngày 20/2/2014
của Thành Ủy Đ và cho rằng đó là “ Báo cho người lao động biết trước ” để tính
thời điểm chấm dứt hợp đồng 47 ngày là không vi phạm . Thực tế ngày 21/4/2014
Hội LHPN thành phố Đ đã ra thông báo số 03/TB-BTV về việc chấm dứt hợp đồng
lao động với bà G, theo bà G là vi phạm thời hạn báo trước.
- Tòa sơ thẩm cho rằng Hội LHPN thành phố Đ không nâng bậc lương cho
bà G với lý do không làm kiểm điểm theo quy định của khoản 2, Điều 2 thông tư
08/2013/TT-BNV của Bộ nội vụ, là không đúng tinh thần nội dung Thông tư.
Quan điểm của vị đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị tại phiên
toà phúc thẩm: Toà án nhân dân tỉnh đã thụ lý thông báo, thông báo bổ sung thụ lý
vụ án theo trình tự. Thẩm phán, thư ký Toà án thực hiện đúng đầy đủ thủ tục tố
tụng theo quy định; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được
đảm bảo. (Trong quá trình giải quyết vụ án).Về mặt nội dung vụ án thấy rằng:
HLHPN thành phố Đ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với lý do trường hợp bất khả
kháng là không đúng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 38. Đề nghị Hội đồng xét
xử xem xét sửa bản án sơ thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn,
buộc bị đơn có nghĩa vụ giải quyết chế độ khi chấm dứt HĐLĐ không đúng quy
định của pháp luật ( theo quy định tại Điều 42 BLLĐ).
XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Tòa án nhân dân thành phố Đ xác đinh ̣ thời hiêụ khởi kiên,
̣ thẩ m quyề n giải
quyế t và quan hê ̣ tranh chấ p “Về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và trợ
cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động” thuô ̣c thẩ m quyề n Tòa án thành phố Đ đúng
quy đinh ̣ của bô ̣ luâ ̣t tố tu ̣ng dân sự. Sau khi xét xử sơ thẩ m ngày 24/5/2016,
nguyên đơn bà Vũ Thị Kiều G làm đơn kháng cáo vào ngày 04/6/2016 là trong thời
ha ̣n kháng cáo theo quy đinh ̣ của pháp luâ ̣t.
Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Vũ Thị Kiều G: Tòa án sơ thẩm không
chấp nhận yêu cầu của bà G tuyên việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
5
Page 6

của Hội LHPN Đ đối với bà G là trái quy định của pháp luật ; Hội đồng xét xử thấy
rằng:
Về mặt chủ trương Hợp đồng lao động theo Quy định 68-QĐ/TV ngày
25/4/2002 của Ban thường vụ thị uỷ về hợp đồng cán bộ phường xã; Quy định số
01-QĐ/TU1 ngày11/9/2012 của Ban thường vụ thành ủy Đ, về việc sửa đổi, bổ
sung Quy định 68-QĐ/TU của Ban thường vụ thành uỷ Đ ghi rõ: " Khi hết thời hạn
hợp đồng làm việc nếu có nguyện vọng tiếp tục làm việc thì được xem xét để tiếp
tục hợp đồng; ưu tiên tham gia dự tuyển vào công chức, viên chức ở các phòng,
ban, ngành thành phố và phường khi có nhu cầu. Việc chấm dứt, thanh lý hợp đồng
thực hiện theo quy định của Bộ luật lao động ". Về thẩm quyền ký kết Hợp đồng
lao động, tại công văn Số 170TB/TU ngày 15/01/2007 của Ban thường vụ thị ủy
Đ, thì kể từ ngày 01/01/2007 việc ký kết hợp đồng, giải quyết chế độ và quản lý
điều hành trực tiếp cán bộ hợp đồng giao cho đơn vị được thường vụ đồng ý cho
hợp đồng, UBND thị xã cân đối ngân sách bổ sung nguồn kinh phí cho các phòng,
địa phương đang có cán bộ hợp đồng (Kèm theo danh sách có bà Vũ Thị Kiều G
HĐLĐ tại HLHPN thành phố Đ)
Từ các cơ sở nêu trên, ngày 15/11/2006 bà Vũ Thị Kiều G được nhận vào
làm việc tại Hội liên hiệp Phụ nữ thành phố Đ. Sau 03 tháng thử việc, ngày
15/02/2007 bà G ký hợp đồng lao động có thời hạn 01 năm với người sử dụng lao
động, thời gian tập sự 01 năm, hết thời hạn hợp đồng bà G tiếp tục ký hợp đồng lao
động từ ngày 01/02/2009 đến ngày 31/12/2010. Từ năm 2011 đến năm 2013, bà G
ký hợp đồng lao động từng năm một, HLHPN đã giải quyết chế độ đầy đủ bà G
không có khiếu nại gì. Ngày 31/12/2013, hết thời hạn hợp đồng, bà G trực tiếp gặp
thường trực Hội LHPN thành phố Đ để đề xuất nguyện vọng tiếp tục làm việc
nhưng không thoả thuận ký hợp đồng được. Cũng trong thời gian đó, bà G tiếp tục
làm việc, được nhận lương, nhận thẻ bảo hiểm y tế và đóng bảo hiểm xã hội cho
đến hết tháng 4/2014 tại Hội LHPN thành phố Đ. Theo quy định tại điểm b, khoản
1, Điều 22 Bộ luật lao động, thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày 01/01/2014 Hội
LHPN thành phố Đông Hà với bà G phải ký hợp đồng lao động mới; nhưng Hội
LHPN thành phố Đ với bà G không ký kết hợp đồng lao động mới trong thời hạn
nói trên, nên hợp đồng lao động số 01/HĐLĐ/PN ngày 10/01/2013 trở thành hợp
đồng lao động không xác định thời hạn. Do đó, khi chấm dứt hợp đồng lao động,
Hội LHPN thành phố Đ phải căn cứ vào quy định ở khoản 1, Điều 38 để chấm dứt
hợp đồng và phải báo trước cho bà Vũ Thị Kiều G biết trước ít nhất 45 ngày, theo
điểm a, khoản 2, Điều 38 của Bộ luật lao động .
Theo thông báo số 358 TB/TU ngày 20/02/2014 của Thành uỷ Đ về chủ
trương cán bộ hợp đồng năm 2014 có ghi: " Đối với 02 cán bộ hợp đồng làm việc
tại cơ quan mặt trận thành phố và Hội liên hiệp phụ nữ thành phố, sau khi có thông
báo kết quả thi tuyển công chức khối Đảng, Mặt trận, các đoàn thể của tỉnh năm
2014 thì chấm dứt hợp đồng ". Ngày 13/3/2014, Thường trực HLHPN thành phố Đ
họp Thường trực mở rộng, phiên họp có nội dung: Thông báo về chủ trương hợp
đồng cán bộ năm 2014 theo thông báo số 358/TB-TU của BTV Thành ủy về việc
chấm dứt hợp đồng lao động với bà G sau khi có kết quả thi tuyển công chức năm
6
Page 7

2014. Ngày 31/3/2014 Hội đồng tuyển dụng Tỉnh Ủy Q Thông báo kết quả điểm
kỳ thi tuyển công chức cơ quan Đảng, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị -
xã hội. Ngày 21/4/2014, Hội LHPN thành phố ban hành thông báo số 03/TB-TU
về việc chấm dứt hợp đồng lao động với bà Vũ Thị kiều G , Nhân viên hợp đông,
Thông báo có nội dung: “Hội cũng đã thống nhất tiếp tục hợp đồng với bà Vũ Thị
Kiều Giang 06 tháng (từ tháng 01/2014 đến tháng 06/2014) nhằm tạo điều kiện để
bà có thời gian xin việc nơi khác và bàn giao công việc , ngày 01/5/2014 bà Vũ Thị
kiều G chính thức chấm dứt làm việc tại Hội LHPN thành phố. Hội liên hiệp phụ
nữ thành phố Đ căn cứ vào thông báo số 358 /TB-TU ngày 20/2/2014 của thành uỷ
Đông Hà cho rằng đây là trường hợp" bất khả kháng " HLHPN thành phố Đ đơn
phương chấm dứt HĐLĐ là đúng pháp luật ( Theo quy định tại khoản 10 Điều 36
và điểm c khoản 1 Điều 38 BLLĐ ) . Hội đồng xét xử thấy rằng: trường hợp bất
khả kháng theo điểm c khoản 1 Bộ luật lao động 2012 và các tài liệu hướng dẫn ,
qui định: “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao
động tại điểm c, khoản 1, Điều 38 của Bộ luật lao động quy định như sau: “ 2.Lý
do bất khả kháng thuộc một trong các trường hợp sau đây: a. Do địch họa, dịch
bệnh; b. Di dời hoặc thu hẹp sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền”. Theo cách giải thích trên thì HLHPN thành phố Đ đơn
phương chấm dứt HĐLĐ đối với bà Vũ Thị Kiều G là không đúng quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 38. Còn khoản 10 Điều 36 là dẫn chiếu trở lại điều 38 khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng quy định đối với người lao động thì
chấm dứt hợp đồng lao động. Các quy định của Thị uỷ, Thành uỷ nêu trên hướng
dẫn khi chấm dứt, thanh lý hợp đồng thực hiện theo quy định của Bộ luật lao động,
Thôn báo số 358 TB-TU để biết thực hiện việc ký kết, chấm dứt HĐLĐ theo quy
định của pháp luật, nhưng HLHPN lại không thực hiện đúng tinh thần này. Hết hạn
hợp đồng HLHPN vẫn để người lao động ở lại làm công việc cũ, trả lương và nộp
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, theo quy định . Việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ
của HLHPN không đúng quy định ở khoản 1 Điều 38 BLLĐ là chấm dứt HĐLĐ
trái pháp luật theo qui định tại điều 41 BLLĐ. Theo quy định tại Điều 42 người sử
dụng lao động HLHPN đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật phải có nghĩa
vụ:
- Trả tiền trợ cấp thôi việc (Theo quy định tại khoản 2 Điều 42, Điều 48
BLLĐ) toà án cấp sơ thẩm đã chấp nhận đơn khởi kiện, các đương sự không có
kháng cáo đã có hiệu lực pháp luật .
- Trả tiền lương trong những ngày không được làm việc ( Từ ngày
01/5/2014 nghỉ việc đến ngày khởi kiện 17/3/2015 theo khoản 1 Điều 42 ): 11
tháng x 3.070.000, đồng = 33.770.000, đồng,
- Trả ít nhất hai tháng lương theo hợp đồng lao động ( Theo khoản 1 Điều
42 BLLĐ ): 2 tháng x 3.070.000, đồng = 6.078.000 đồng,
- Trả tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày không được
làm việc ( Theo khoản 2 Điều 42 BLLĐ ):
+ BHXH: 11 tháng x 18% x3.070.000, đồng = 6.078.600, đồng

7
Page 8

+ BHYT: 11 tháng x 3% x 3.070.000, đồng = 2.333.100, đồng.


Với tổng số tiền: 48.321.700, đồng. Cần chấp nhận kháng cáo của nguyên
đơn về những yêu cầu nêu trên là phù hợp với quy định của pháp luật.
Không chấp nhận vi phạm thời hạn báo trước vì điều luật quy định: đơn
phương chấm dứt HĐLĐ đúng quy định ở khoản 1 Điều 38 thì phải báo trước cho
người lao động theo khoản 2 Điều 38 BLLĐ nếu vi phạm thời hạn báo trước thì
phải bồi thường những ngày không báo trước . Trong trường hợp này người khởi
kiện yêu cầu bồi thường những ngày không báo trước trong lúc người sử dụng lao
động vi phạm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ở khoản 1 là không hợp lý.
Về yêu cầu bồi thường nâng bậc lương theo định kỳ: Đây không phải là hậu
quả của việc chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật ; tuy nhiên trong quá trình giải quyết
vụ án bà G cho rằng HLHPN không nâng lương cho bà là không đúng quy định
của pháp luật; Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại khoản 2, Điều 2 của
Thông tư 08/2013/TT-BNV ngày 31/7/2013 của Bộ nội vụ; Quy định số 68/QĐ-
TU ngày 25/4/2002 của Thị ủy Đ (nay Thành ủy Đ) thì đến thời điểm nâng lương
theo định kỳ, bà G phải nộp bản tự kiểm điểm trong thời gian giữ bậc lương cho
Hội LHPN thành phố Đ. Trên cơ sở bản tự kiểm điểm đó thì Hội LHPN thành phố
Đ có trách nhiệm đánh giá mức hoàn thành nhiệm vụ, làm cơ sở cho việc nâng bậc
lương của bà G. Tại phiên toà hôm nay không có tài liệu và cơ sở đánh giá hoàn
thành nhiệm vụ nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.
Từ những phân tích trên cần chấp nhận ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát,
chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Vũ Thị Kiều G sửa bản án sơ
thẩm.
Về án phí:
- Án phí lao động sơ thẩm: Hội liên hiệp phụ nữ thành phố Đ phải chịu án
phí lao động sơ thẩm trên số tiền phải có nghĩa vụ: Tiền trợ cấp thôi việc:
10.747.000, đồng ; tiền lương trong những ngày không được làm việc, tiền ít nhất
hai tháng lương tối thiểu, tiền BHXH,BHYT trong những ngày không được làm
việc: 48.321.700,đồng
- Bà Vũ Thị Kiều G không phải chịu án phí lao động phúc thẩm,
Vì các lẽ trên, áp dụng khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 309 BLTTDS.
QUYẾT ĐỊNH
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn Bà Vũ Thị Kiều G: Sửa
bản án sơ thẩm:
Áp dụng khoản 1 Điều 218 BLTTDS, Điều 15; Điều 16; khoản 2 Điều 22;
Khoản 10, Điều 36; điểm c khoản 1, Điều 38, Điều 41, Điều 42 Điều 48 BLLĐ
xử:
Tuyên bố việc đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của Hội liên hiệp
phụ nữ Thành phố Đ là trái quy định của pháp luật . Hội liên hiệp phụ nữ Thành
phố Đ có nghĩa vụ giải quyết chế độ cho bà Vũ Thị Kiều G: Tiền trợ cấp thôi việc (
8
Page 9

Đã được cấp sơ xem xét: 10.747.000, đồng ). Tiền lương trong những ngày không
được làm việc: 33.770.000, đồng ; tiền hai tháng lương tối thiểu theo Hợp đồng lao
động: 6.140.000, đồng; Tiền Bảo hiểm xã hội: 6.078.600,đồng ; Bảo hiểm y tế:
2.333.100, đồng ( Tổng số tiền Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố Đ phải giải quyết
cho bà Vũ Thị Kiều G là: 59.068.700, đồng. (Năm mươi chín triệu không trăm sáu
tám ngàn bảy trăm đồng )
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước quy định, tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thi
hành án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7 Luật thi hành
án dân sự.
Về án phí:
Sửa án phí sơ thẩm: Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố Đ phải chịu 1.772.000,
đồng án phí lao động sơ thẩm.
Bà Vũ Thị Kiều G không phải chịu án phí lao động phúc thẩm
Y các phần còn lại của bản án sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- VKSND tỉnh Quảng Trị; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự;
- Phòng KTNV;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, HCTP.

Nguyễn Đức Tân

9
Page 10

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN BẮC TỪ LIÊM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bản án số: 10/2017/DS-ST


Ngày: 22-8-2017
V/v tranh chấp về đòi bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do tính mạng bị
xâm phạm

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Kim Oanh;
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Hoàng Văn Tính;
2. Bà Vũ Thúy Hậu.
- Thư ký phiên toà: Bà Hoàng Thị Thu Vân - Thư ký Toà án nhân dân
quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm tham gia phiên
toà: Bà Vũ Thị Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ
Liêm, TP. Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
16/2017/TLST-DS ngày 04/4/2017 về “ Tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do tính mạng bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 30/2017/QĐXX-ST ngày 29/6/2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn H, sinh năm 1989 – Có mặt.
HKTT: Thôn T, xã H, huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Nơi cư trú: Số 164 V, phường Y, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Lê Văn H: Luật sư
Nguyễn Thị T, Luật sư Vũ Quang B – thuộc Công ty Luật TNHH Khải Hưng
– Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; Luật sư Lê Văn L – Văn phòng Luật sư
Hưng Đạo Thăng Long – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. (Luật sư B- có
mặt; Luật sư T, Luật sư L – Vắng mặt).
2. Bị đơn: Tổng công ty vận tải H.

10
Page 11

Trụ sở : Số 5 L, phường Ph, quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội.


Đại diện theo pháp luật : Ông Nguyễn Phi Th – Chủ tịch Hội đồng
thành viên.
Đại diện theo ủy quyền : Ông Phạm Hồng Th (Theo Giấy ủy quyền số:
332/CV-XB, ngày 12/04/2017) - Có mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Công Ng, sinh năm 1965 – Có mặt.
3.2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965 – Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: 29/38 M 3, phường Đ, TP. Th, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Ng, bà L: Anh Lê Văn H, sinh
năm 1989 (Văn bản ủy quyền ngày 24/5/2017).
3.3. Cháu Lê Đình Bảo A, sinh ngày 08/2/2014 – do anh Lê Văn H là
bố đẻ người giám hộ.
3.4. Ông Nguyễn Quang Tr, sinh năm 1960 – Có mặt.
HKTT và nơi ở: Số 109 L, phường V, quận Đống Đa, TP. Hà Nội.
3.5. Xí nghiệp xe buýt 10 – 10 H, chi nhánh Tổng Công ty vận tải H.
Trụ sở : Số 90 Ng, phường T, quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật : Ông Nguyễn Phi Th – Giám đốc xí nghiệp.
Đại diện theo ủy quyền : Ông Phạm Hồng Th (Theo Giấy ủy quyền
số: 587b/CV-XB, ngày 01/6/2017) – Có mặt.
3.6. Công ty Bảo Việt H
Trụ sở: Số 15C T, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội.
Đại diện theo pháp luật : Ông Nguyễn Văn Ngh – Giám đốc Công ty.
Đại diện theo ủy quyền : Bà Trần Thị Thu Ph (Theo văn bản ủy quyền
ngày 10/8/2017) – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 15/12/2016, Đơn bổ sung đơn khởi kiện
ngày 25/3/2017 và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, anh Lê văn H là
nguyên đơn trình bày: Anh khởi kiện Tổng công ty vận tải H về việc xảy ra
tai nạn cho vợ anh là chị Nguyễn Thị H, vào hồi 11 giờ 30 phút, ngày
02/8/2016, tại đường Ph, phường C, quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội do lái xe
Nguyễn Quang Tr điều khiển xe buýt BKS 29B-04671, khiến chị H chết tại
hiện trường. Sau khi chị H mất, Công ty vận tải H có cử người về gia đình
phúng viếng 10.000.000 đồng. Khi xảy ra tai nạn thì cơ quan điều tra không
thông báo cho gia đình đến hiện trường. Ngày 10/10/2016 cơ quan điều tra
quận Bắc Từ Liêm gửi cho gia đình anh Thông báo về kết quả giải quyết tố

11
Page 12

giác tin báo về tội phạm và Quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Sau khi
nhận được thông báo, anh đã khiếu nại về việc không khởi tố hình sự. Sau đó,
Công an quận Bắc Từ Liêm có biên bản làm việc với anh, Tổng Công ty vận
tải H và ông Nguyễn Quang Tr lái xe. Tại buổi làm việc, cơ quan công an
thông báo không khởi tố vụ án hình sự và cũng khuyên các bên hòa giải, nếu
không hòa giải được thì khởi kiện ra tòa án.
Vì vậy, anh khởi kiện về dân sự tại Tòa án quận Bắc Từ Liêm yêu cầu
Tòa án buộc Tổng Công ty vận tải H phải bồi thường cho gia đình anh
1.041.000.000 đồng, gồm các khoản sau:
- Chi phí mai táng: Theo Đơn khởi kiện , anh đề nghị chi phí mai táng
là 100.000.000đồng nhưng sau khi tính toán lại chi phí anh yêu cầu bồi
thường là 40.000.000đồng.
- Khoản tiền cấp dưỡng cho con đẻ chưa thành niên - cháu Lê Đình
Bảo A sinh ngày 08/02/2014: Tính từ tháng 8/2016 đến khi cháu A tròn 18
tuổi là 186 tháng, mỗi tháng 3.500.000 đồng, tổng là : 651.000.000 đồng.
-Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần 100 tháng lương tối thiểu
3.500.000đồng x 100 tháng là 350.000.000 đồng.
Bị đơn Tổng công ty vận tải H do ông Phạm Hồng Th là người đại diện
theo ủy quyền trình bày: Vào hồi 11 giờ 40 phút, ngày 02/8/2016 Công ty
nhận được điện thoại về việc xảy ra tai nạn tại đường Ph, phường C, quận Bắc
Từ Liêm, TP. Hà Nội, do lái xe ông Nguyễn Quang Tr điều khiển xe buýt
BKS 29B-04671. Khi xảy ra tai nạn, ông Tr đã bắt xe taxi đưa nạn nhân đi
viện, còn hiện trường thì giữ nguyên để các cơ quan chức năng tiến hành đo
vẽ hiện trường. Khi gia đình đưa nạn nhân về quê ma táng thì Công ty cũng
về quê, và thay mặt ông Tr gửi cho gia đình chị H 10.000.000 đồng. Ngày
11/10/2016, Công ty nhận được thông báo và Quyết định không khởi tố vụ án
vì lái xe không có lỗi. Sau đó giữa Công ty và gia đình chị H không gặp gỡ gì
nữa. Đến nay anh H là chồng chị H khởi kiện yêu cầu Tổng Công ty vận tải H
bồi thường các khoản là 1.041.000.000 đồng. Do lái xe không có lỗi nên
Công ty không phát sinh bồi thường, mà sẽ hỗ trợ nhân đạo cho gia đình chị
H 50.000.000 đồng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Công Ng, bà
Nguyễn Thị L do anh Lê Văn H là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ông bà là bố mẹ đẻ của chị Nguyễn Thị H, nhất trí với trình bày và yêu cầu
khởi kiện của anh H, nếu được bồi thường phần của ông bà sẽ cho cháu Lê
Đình Bảo A.

12
Page 13

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quang Tr trình
bày: Ông là lái xe điều khiển xe buýt số 13 BKS 29B- 046.71 cho Xí nghiệp
xe buýt 10-10 thuộc Tổng công ty vận tải H. Hồi 11 giờ 40 phút ngày
02/8/2016, ô tô buýt đang lưu thông trên đường Ph hướng từ Cầu N đi Cầu D,
khi đi đến lối rẽ vào khu đô thị giao lưu thuộc địa phận phường C thì xảy ra
tai nạn giao thông với xe mô tô BKS 36B-795.40 do chị Nguyễn Thị H điều
khiển theo chiều ngược lại, hậu quả chị H bị tử vong trên đường đi cấp cứu.
Cơ quan Công quan quận Bắc Từ Liêm đã xác định việc gây tại nạn chết
người của ông là sự kiện bất ngờ, do chị H tự ngã xe nên nên không khởi tố
vụ án đối với ông. Sau tai nạn, ông đã làm hết trách nhiệm của người công
dân là đưa chị H đi cấp cứu. Do chưa có kết luận của cơ quan điều tra và
không muốn gây xúc động cho gia đình chị H, nên ông không trực tiếp đến
phúng viếng mà gửi 10.000.000đồng cho Công ty để nhờ phúng viếng chị H.
Nay anh H khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại, ông không đồng ý vì ông không
có lỗi.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Xí nghiệp xe buýt 10-10 do ông
Phạm Hồng Th là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Xí nghiệp nhất trí
như trình bày của Tổng Công ty xác định việc tại nạn giao thông xảy ra ngày
02/8/2016 giữa chị H với xe buýt do ông Tr điều khiển là trường hợp bất khả
kháng, do lỗi hoàn toàn từ phía chị H, lái xe không có lỗi và tại quyết định
không khởi tố vụ án hình sự cũng kết luật lái xe không thể biết và không buộc
phải biết. Sau khi chị H chết, Xí nghiệp đã cử người về quê chị H và hỗ trợ 10
triệu đồng. Xí nghiệp nhất trí với Tổng Công ty là hỗ trợ nhân đạo cho gia
đình chị H 50.000.000đồng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty Bảo Việt H do bà
Trần Thị Thu Ph là người đại diện theo ủy quyền trình bày: Tổng Công ty
vận tải H đã mua bảo hiểm cho xe buýt BKS 29B-04671 từ ngày 01/01/2016
đến ngày 31/12/2016 với mức bồi thường cho người thứ ba là 70.000.000
đồng. Nếu xảy ra tai nạn mà lái xe có lỗi thì Công ty bảo hiểm sẽ bồi thường
70.000.000 đồng, nếu lãi xe không có lỗi thì Công ty bảo hiểm sẽ bồi thường
nhân đạo với mức 50% là 35.000.000 đồng.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn anh Lê Văn H trình bày: Anh giữ nguyên ý kiến đã trình
bày trước đây. Anh đề nghị Tòa án buộc Tổng Công ty vận tải H phải bồi
thường 822.000.000đồng gồm các khoản: mai tang phí 50.000.000 đồng
(gồm: tiền mua quan tài: 10.000.000đồng; tiền thuê xe tang: 3.500.000đồng;
tiền thuê xe từ quê ra Hà Nội: 5.000.000đồng; tiền thuê xe đi chôn cất:

13
Page 14

2.000.000đồng; tiền hương, hoa, khăn, nến: 4.000.000đồng; tiền thuê người
khiêng và chôn cất: 5.000.000đồng; tiền thuê bệnh viện khâu vết thương và
bảo quản: 3.000.000đồng; tiền thuê phông, bạt: 4.000.000đồng và chi phí phát
sinh khác: 14.000.000đồng); cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên 3.500.000
đồng x 186 tháng là 651.000.000 đồng; tổn thất tinh thần 1.210.000 đồng x
100 tháng là 121.000.000 đồng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Lê Văn H - Ông Vũ
Quang B trình bày: Việc ông Tr lái xe buýt gây tai nạn dẫn đến cái chết của
chị Nguyễn Thị H là trường hợp bất ngờ chứ không phải trường hợp bất khả
kháng nên không thuộc trường hợp được loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Đề nghị Tòa án căn cứ vào Điêù 584; khoản 1, 3 Điều 601 Bộ luật dân sự
và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân Tối cao buộc Tổng công ty vận tải H là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường cho anh H theo các khoản mà anh H đã trình bày ở trên
tổng các khoản là 822.000.000 đồng.
Đại diện theo ủy quyền của Tổng Công ty vận tải H và Xí nghiệp xe bus
10-10 là ông Phạm Hồng Th trình bày: Ông giữ nguyên ý kiến đã trình bày
trước đây; Công ty chỉ chấp nhận hỗ trợ nhân đạo cho gia đình chị H là
50.000.000 đồng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quang Tr trình
bày: Ông khẳng định mình không có lỗi nên không phải bồi thường cho gia
đình chị H. Sau khi chị H chết, ông đã gửi cơ quan 10.000.000 đồng để hỗ trợ
cho gia đình chị H. Vì vậy đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm phát biểu ý kiến:
Qua kiểm sát giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm này thấy rằng
Thẩm phán, Thư ký đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa Thẩm phán, Thư ký và Hội
đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của các Điều 26,39, 48, 198, 203,
205, 208, 209, 210, 220 và các Điều luật tại chương 14 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của các
Điều 70,71,72,73,75 Bộ luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của mình.
Về nội dung: Đề nghị Tòa án căn cứ vào Điều 591, khoản 1,3 Điều 601
Bộ luật dân sự chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải
bồi thường cho nguyên đơn số tiền 334.160.000đồng, gồm: tiền mai tang phí
là 36.500.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần 60 tháng x 1.210.000 đồng là
72.600.000 đồng, tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.210.000 đồng x 186
tháng là 225.060.000 đồng.

14
Page 15

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1] Về tố tụng:
Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ án “Tranh chấp đòi bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính mạng bị xâm phạm” tai nạn xảy ra tại
đường Ph, phường C, quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội nên theo khoản 6 Điều
26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm.
Về người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan: + Ông Phạm Hồng Th (Theo văn bản ủy quyền số: 332/CV-
XB, ngày 12/04/2017 587b/CV-XB, ngày 01/6/2017) là hợp lệ được chấp
nhận.
+ Anh Lê Văn H là người đại diện theo ủy quyền của người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Công Ng, bà Nguyễn Thị L. (Văn
bản ủy quyền ngày 24/5/2017) là hợp lệ được chấp nhận.
+ Bà Trần Thị Thu Ph là người đại diện theo ủy quyền của Công ty
bảo việt H (Theo văn bản ủy quyền ngày 10/8/2017) là hợp lệ được chấp
nhận.
Về sự vắng mặt của các đương sự: Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai nhưng người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Lê Văn H là
bà Nguyễn Thị T và ông Lê Văn L vắng mặt không có lý do. Người đại diện
theo ủy quyền của Công ty bảo Việt H là bà Trần Thị Thu Ph có Đơn xin xét
xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự nêu trên.
[2] Về nội dung:
[2.1] Hồi 11 giờ 40 phút ngày 02/8/2016, ông Nguyễn Quang Tr là lái
xe của Xí nghiệp xe buýt 10-10 thuộc Tổng Công ty vận tải H điều khiển xe
buýt số 13 BKS 29B- 046.71 lưu thông trên đường Ph hướng từ Cầu N đi Cầu
D, khi đi đến lối rẽ vào khu đô thị giao lưu thuộc địa phận phường C thì xảy
ra tai nạn giao thông với xe mô tô BKS 36B-795.40 do chị Nguyễn Thị H,
sinh năm 1990, HKTT: M, phường Đ, TP.Th, tỉnh Thanh Hóa điều khiển theo
chiều ngược lại, hậu quả chị Hà bị tử vong trên đường đi cấp cứu. Việc xảy ra
tai nạn do lỗi của chị Nguyễn Thị H nên cơ quan điều tra Công an quận Bắc
Từ Liêm không khởi tố vụ án hình sự cũng như không khởi tố bị can. Căn cứ

15
Page 16

khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố dụng dân sự, Tòa án công nhận các tình tiết này là
sự thật.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện bồi thường thiệt hại do tính mạng chị
Nguyễn Thị H bị xâm phạm của anh Lê Văn H:
Theo khoản 1, 2 Điều 601 Bộ luật dân sự thì xe buýt số 13 BKS 29B-
046.71 là nguồn nguy hiểm cao độ và Tổng Công ty vận tải H là chủ sở hữu
xe buýt phải bồi thường thiệt hại do xe buýt gây ra. Ngoài ra, khoản 3 Điều
601 Bộ luật dân sự quy đinh: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các
trường hợp sau: Thiệt hại xẩy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
Thiệt hại xẩy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ
trường hợp luật có quy định khác.”
Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công quan quận Bắc Từ Liêm có Quyết
định không khởi tố vụ án số 69/CQĐT(ĐTHS) ngày 10 tháng 10 năm 2016 vì
“thấy hành vi điều khiển xe ô tô gây tai nạn chết người của anh Nguyễn
Quang Tr là sự kiện bất ngờ mà anh Tr không thể thấy trước được hậu quả và
không buộc phải thấy trước hậu quả nên không cấu thành tội phạm”.
Trong vụ án này, hành vi điều khiển xe buýt gây hậu quả chết người
của ông Tr là sự kiện bất ngờ, không thuộc trường hợp được loại trừ trách
nhiệm bồi thường thiệt hại như viện dẫn điều luật ở trên. Vì vậy, Hội đồng xét
xử chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của anh H.
Theo điểm b, c khoản 1, 2 Điều 591, khoản 2 Điều 593 Bộ luật dân sự,
Hội đồng xét xử buộc Tổng công ty vận tải H phải bồi thường cho gia đình
anh H các khoản chi phí mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà người
bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng và tiền bù đắp tổn thất về tinh thân cho
những người thân thích.
[2.2.1] Đối với chi phí mai táng: Anh Lê Văn H yêu cầu về chi phí mai
táng là 50.000.000đồng nhưng anh không cung cấp được các hóa đơn, chứng
từ chứng minh mà chỉ liệt kê các khoản chi phí mai táng nên Hội đồng xét xử
chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của anh H là 20.000.000 đồng.
[2.2.2] Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi cháu Lê Đình Bảo A, sinh ngày
08/02/2014: Chị Nguyễn Thị H là mẹ đẻ của cháu Lê Đình Bảo A nên phải
buộc Tổng Công ty vận tải H phải cấp dưỡng cho cháu A (từ ngày 02/8/2016
cho đến khi cháu A tròn 18 tuổi) là 186 tháng theo mức lương cơ sở do Nhà
nước quy định là 1.300.000 đồng/tháng, thành tiền là 241.800.000 đồng. Do
cả bố và mẹ cùng có trách nhiệm nuôi con, nên chỉ chấp nhận ½ số tiền trên là
120.900.000 đồng.

16
Page 17

[2.2.3] Đối với tiền bồi thường tổn thất về tinh thần: Do các đương sự
không thỏa thuận được với nhau về mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh
thần nên Hội đồng xét xử buộc Tổng Công ty vận tải H bồi thường tổn thất về
tinh thần cho gia đình anh H là 10 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định là
1.300.000 đồng/tháng, thành tiền là 13.000.000đồng.
Tổng các khoản là 153.900.000 đồng.
Xác nhận Tổng Công ty vận tải H đã bồi thường 10.000.000 đồng, như
vậy Tổng Công ty vận tải H còn phải bồi thường là 143.900.000 đồng.
[3] Về án phí và quyền kháng cáo:
Đây là vụ án đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm nên
anh Lê Văn H được miễn án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền bồi thường
thiệt hại không được chấp nhận. Tổng Công ty vận tải H phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm.
Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 184;
khoản 2 Điều 92; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ điểm b, c khoản 1; khoản 2 Điều 591; khoản 2 Điều 593;
khoản 3 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Toà án nhân
dân Tối cao - Viện kiểm sát nhân dân Tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính
hướng dẫn việc xét xử và thi hành về tài sản;
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Lê Văn H đối với
Tổng Công ty vận tải H.
2. Buộc Tổng Công ty vận tải H phải bồi thường thiệt hại do tính mạng
bị xâm phạm cho anh Lê Văn H với tổng số tiền là 153.900.000đồng. Ghi
nhận Tổng Công ty vận tải H đã bồi thường 10.000.000 đồng. Vì vậy, Tổng
Công ty vận tải H còn phải bồi thường là 143.900.000 đồng (Một trăm bốn
mươi ba triệu, chín trăm nghìn đồng).
3. Về án phí: Tổng Công ty vận tải H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
là 7.195.000 đồng (Bảy triệu, một trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

17
Page 18

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn xin
thành án, người phải thi hành án nào phải thanh toán số tiền trên mà không
thanh toán thì người phải thi hành án đó còn phải chịu tiền lãi tính theo mức
lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tương đương với thời gian
chưa thi hành án.
Trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành án theo quy
định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,
người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Các đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt
khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận
được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nơi nhận: T M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
lợi nghĩa vụ liên quan;
- TAND TP. Hà Nội;
- VKSND Q. Bắc Từ Liêm;
- Chi cục thi hành án Q. Bắc Từ Liêm;
- Lưu hồ sơ, văn phòng.
Nguyễn Thị Kim Oanh

18
Page 19

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN ĐỨC HÒA Độc Lập - Tự Do- Hạnh Phúc
TỈNH LONG AN

1 Bản án số:10/2018/DS-ST
Ngày: 19-01-2018
V/v tranh chấp Hợp đồng đặt cọc

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

-Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán – chủ Tọa phiên tòa : Bà Nguyễn Thị Mộng Thúy
Các Hội thẩm nhân dân:
1.Ông Nguyễn Chí Lin
2.Bà Nguyễn Thị Rạt
-Thư ký phiên tòa: Bà Kiều Thị Tùng Khương – Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Đức Hòa, Tỉnh Long an.
-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tham
gia phiên tòa: Ông Đặng Văn Quý – Kiểm sát viên

Trong các ngày 18, 19 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân
huyện Đức Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
667/2017/TLST- DS ngày 08 tháng 12 năm 2017 theo quyết định đưa vụ án ra
xét xử số: 349/2017/QĐXX-ST ngày 20 tháng 12 năm 2017 giữa:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1976 (có mặt)
Địa chỉ: Ô 6, Khu B, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
2.Bị đơn: Bà Huỳnh Thị T, sinh năm 1974 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp Lập Thành, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An;
3.Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1/ Ông Lê Hoàng T, sinh năm 1955 (có mặt)
Địa chỉ: 405 Lê Quang Sung, phường 9, quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh
3.2/ Ông Bùi Văn N, sinh năm 1971 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp Tân Hòa, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

19
Page 20

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/12/2017, trong những lời khai tiếp theo tại
Tòa án và tại phiên tòa do bà Nguyễn Thị Kim C trình bày:
Ngày 30/5/2017 bà với bà T lập giấy tay xác nhận bà giao bà Thủy số tiền
là 100.000.000đồng (Một trăm triệu đồng) đặt cọc để nhận chuyển nhượng thửa
đất số 259, tờ bản đồ số 12-2-4 tọa lạc tại khu A, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức
Hòa, tỉnh Long An với giá 370.000.000 đồng. Đất do bà T đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Bà T có nói sổ đỏ hiện đang cho người khác mượn, hai
bên thỏa thuận lần hai giao tiền là khi nào có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất về sẽ ra Phòng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất qua tên cho bà
thì sẽ giao hết số tiền 270.000.000đồng còn lại. Sau đó, bà có thai nhưng bị yếu
bác sĩ buộc bà nhập viện dưỡng thai bà không báo với bà T biết được. Đến tháng
08 năm 2017 bà phát hiện bà T đã bán phần đất trên cho người khác. Bà có
xuống nhà yêu cầu bà T trả tiền cọc cho bà. Bà T đồng ý trả nhưng bà T trình
bày do bà đến đột xuất nên không có tiền, bà T đưa bà 30.000.000đồng. Đến
tháng 11/2017 bà T kêu bà xuống để lấy số tiền còn lại, nhưng bà T chỉ đưa bà
20.000.000đồng nhưng bà T nói chỉ trả lại bà trước sau là 50.000.000 đồng
không đồng ý trả 100.000.000 đồng nên bà không đồng ý nhận bỏ về. Nay bà
khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Huỳnh Thị T có nghĩa vụ trả tiền theo giấy nhận
tiền cọc là 100.000.000 đồng nhưng bà đã nhận 30.000.000 đồng nên bà T chỉ trả
thêm 70.000.000 đồng. Bởi vì trong giấy nhận cọc nêu rõ là đợt giao tiền lần 2 “là
ngày nào có sổ đỏ ra công chứng sẽ trả thêm 270.000.000 đồng” giấy này không
nêu rõ thời hạn nên bà cứ nghĩ bà T chưa có sổ đỏ nên bà T không liên lạc với bà T.
Bà T bán đất này cho người khác bà không hề hay biết.
Bị đơn bà Huỳnh Thị T trình bày: Bà và bà C có thỏa thuận với nhau bà
bán bà C phần đất thửa số 259 tờ bản đồ số 12-2-4 tọa lạc tại thị trấn Hậu Nghĩa
diện tích 107m2, giữa hai người có lập giấy tay xác nhận nhận cọc với số tiền
100.000.000đồng vào ngày 30/5/2017. Bà có hẹn sau 15 ngày có sổ đỏ về sẽ ra
phòng công chứng làm thủ tục chuyển nhượng. Đến lúc bà chuộc được sổ đổ về
kêu bà C ra công chứng thì bà C trả lời không mua do bận đi dưỡng thai kêu bà bán
người khác nên bà cần tiền có bán người khác giá 400.000.000 đồng. Khi bán xong
bà cho bà C lại 50.000.000 đồng tiền cọc, lần đầu bà giao 30.000.000 đồng bà C có
ký nhận lần hai bà giao bà C 20.000.000 đồng bà C không chịu ký nhận nên bà
không giao. Nay bà C đòi lại toàn bộ 100.000.000 đồng bà không đồng ý chỉ đồng
ý trả 50.000.000 đồng. Bà đã giao bà C số tiền được 30.000.000đồng, còn lại
20.000.000đồng.
Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan các ông Lê Hoàng T
(chồng bà C) trình bày: Ông thống nhất lời trình bày của bà T, khi có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất bà T có nhiều lần đôn đốc bà C mua tiếp nhưng

20
Page 21

bà C bận dưỡng thai không đi được nên kêu bà T bán người khác.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn N trình bày: ông và
C kết hôn vào tháng 01/2017, tiền bà C mua đất bà T là tiền riêng của C không
phải là tài sản chung vợ chồng. Do đó ông không có ý kiến tranh chấp gì với bà
T.
Kiểm sát viên phát biểu: Về tố tụng Tòa án đã tiến hành đầy đủ và đúng
quy định. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu của
bà C. Ghi nhận sự tự nguyện của bà T trả bà C thêm 20.000.000 đồng. Bởi vì bà
C không tiếp tục hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy nhận
cọc là do lỗi bà C đi dưỡng thai không báo bà T biết lẽ ra bà C phải mất số tiền
cọc nhưng vì bà T tự nguyện trả ½ là 50.000.000 đồng, bà T đã giao 30.000.000
đồng chỉ còn 20.000.000 đồng nên ghi nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Quan hệ pháp luật cần giải quyết trong vụ án: “Tranh chấp Hợp đồng
đặt cọc” vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đức
Hoà theo quy định Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Ông Bùi Văn N
có yêu cầu xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 Bộ
luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông.
[2] Bà Nguyễn Thị Kim C và bà Huỳnh Thị T có thỏa thuận lập hợp đồng
đặt cọc ngày 30/5/2017 để bà C mua của bà T thửa đất số 259 tờ bản đồ số 12-2-4
tọa lạc tại thị trấn Hậu Nghĩa diện tích 107m2, bà T đã nhận của bà C 100.000.000
đồng tiền đặt cọc. Lần giao tiền tiếp theo là ngày bà T chuộc được giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hai bên ra công chứng ký Hợp đồng chuyển nhượng thì
bà C giao tiếp số còn lại là 270.000.000 đồng. Hai đương sự thống nhất việc này
nên Hội đồng xét xử công nhận đây là tình tiến sự thật của vụ án không cần phải
chứng minh theo Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Các vấn đề không thống nhất: Bà T cho rằng sau 15 ngày kể từ ngày ký
hợp đồng đặt cọc bà đã chuộc được bằng khoán về, bà điện thoại bà C ra công
chứng nhưng bà C trả lời không mua nên bà mới bán cho người khác. Bà C cho
rằng không được bà T báo hơn nữa bà có thai nhưng bị yếu bác sĩ yêu cầu bà
nhập viện dưỡng thai bà không liên lạc được với bà T cũng không biết bà T bán
đất cho người khác. Khi bà về thấy người lạ kêu bà dọn cây kiểng trên đất nên
bà mới biết đất đã bị bán. Hội đồng xét xử thấy rằng: Nội dung “Giấy nhận tiền
cọc” đề ngày 30/5/2017 do bà T và bà C lập chỉ thể hiện số tiền nhận cọc, nghĩa
vụ các bên khi không thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhưng không ghi rõ
thời hạn (ngày, tháng, năm) cụ thể để hai bên đến Phòng công chứng ký kết hợp
đồng chuyển nhượng tiếp theo là vi phạm về nội dung hợp đồng theo quy định

21
Page 22

tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật dân sự 2015. Bà T cho rằng sau 15 ngày kể từ ngày
ký hợp đồng đặt cọc bà chuộc được bằng khoán về bà có gọi điện báo cho bà C
để ra Phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng nhưng bà C không thừa
nhận, bà T không có gì chứng minh có gọi điện bà C. Hơn nữa đất hiện nay bà T
đã chuyển nhượng cho người khác không còn. Trong khoảng thời gian từ
01/6/2017 đến hết tháng 8/2017 bà C nằm viện dưỡng thai nên không liên lạc
được với bà T để hai bên tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nói trên nên được xem là trường hợp bất khả kháng không phải mất
cọc. Do đó cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C tuyên bố vô hiệu hợp
đồng đặt cọc ngày 30/5/2017 với bà T là vô hiệu nên bà T phải trả lại bà C số
tiền đã nhận 100.000.000 đồng. Bà T đã trả bà C 30.000.000 đồng nên chỉ còn
phải trả tiếp là 70.000.000 đồng. Bà C và bà T không tranh chấp số tiền bà C đã
nhận 30.000.000 đồng vào tháng 8/2017 nên không đề cập xem xét.
[4] Về án phí: Bà T phải nộp án phí không có giá ngạch và án phí có giá
ngạch phần trả tiền cho bà C.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH
Căn Điều 35, Điều 184, Điều 186, Điều 273, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân
sự 2015;
Căn cứ Điều 117, Điều 122, Điều 131, Điều 328 và Điều 468 Bộ luật dân
sự 2015;
Căn cứ Điều 100, Điều 166 Luật đất đai 2013;
Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH
2014 ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Tuyên xử:
1/Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim C
“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc ” với bà Huỳnh Thị T.
Vô hiệu hợp đồng đặt cọc giữa bà Nguyễn Thị Kim C và bà Huỳnh Thị T
đề ngày 30/5/2017. Buộc bà Huỳnh Thị T trả cho bà Nguyễn Thị Kim C
70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng)
Áp dụng Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tính lãi chậm thi hành.
2/ Về án phí: Bà T phải nộp 300.000 đồng án phí tuyên bố vô hiệu hợp
đồng đặt cọc và 3.500.000 đồng án phí trả tiền cho bà C. Hoàn lại bà C

22
Page 23

1.750.000 đồng theo biên lai số 1885 ngày 08/12/2017 tại Chi cục thi hành án
huyện Đức Hòa.
Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Những đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7
và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nơi nhận:
-Các đương sự;
-TAND Tỉnh Long An;
-VKSND huyện Đức Hòa;
-Chi cục THA huyện Đức
Hòa;
-Lưu.
Nguyễn Thị Mộng Thúy

23
Page 24

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 01/2018/KDTM - PT
Ngày: 22 - 01- 2018
V/v “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ồng Võ Đình Thắng
Các thẩm phán: Ông Trương Chí Trung
Ông Cao Văn Hiếu
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Thị Hữu - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố
Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Ông Nguyễn Văn Hưng - Kiểm sát viên.
Ngày 04 và ngày 22 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số:
22/2017/TLPT- KDTM ngày 30 tháng 10 năm 2017 về việc “ Tranh chấp hợp
đồng tín dụng”
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 22/2017/KDTM - ST ngày
06/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2017/QĐ-PT ngày 13 tháng 12
năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ - Trụ sở: Tháp BIDV 35 đường H,
phường L, quận K, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Văn N - Địa chỉ: Số 520 đường H,
phường C, quận H, thành phố Đà Nẵng. Theo ủy quyền của Tổng giám đốc Ngân
hàng TMCP Đ (Văn bản ủy quyền số 03/QĐ-BIDV.SHA ngày 20/1/2017). Có mặt
- Ông Phạm Chí D - Địa chỉ: Phòng 1016 CT20C Khu đô thị V, quận B,
Thành phố Hà Nội. Là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP Đ -
Chi nhánh Sông Hàn (Văn bản ủy quyền số 038/QĐ-BIDV.SHA ngày 29/8/2017).
Có mặt
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần Phát triển Công nghệ T - Trụ sở: Số 174 đường V,
phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng.

24
Page 25

Người Đ diện hợp pháp: - Ông Trần Đ - Địa chỉ: Số 09 đường K, phường C, quận
H, thành phố Đà Nẵng. Là người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Phát
triển Công nghệ T. Có mặt
- Ông Tán Hoàng S - Địa chỉ: Số 346 đường D, quận H, thành phố Đà Nẵng. Là
người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty Cổ phần Phát triển Công nghệ T
(Văn bản ủy quyền ngày 19/12/2017). Có mặt
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Thân Vĩnh Đ - Sinh năm: 1976. Có mặt
- Bà Đinh Thị Kim N - Sinh năm: 1976. Vắng mặt
Cùng địa chỉ: Số 19 đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Địa chỉ liên lạc: K392/5 đường V, quận T, thành phố Đà Nẵng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thân Vĩnh Đ: Ông Trần
Khánh L – Luật sư Công ty Luật TNHH T thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng.
Địa chỉ: Số 77 đường T, phường C, quận H, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Công ty TNHH MTV Thành phố TV
Địa chỉ: Số 123 đường H, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện hợp pháp: Bà Huỳnh Thị H – Người đại diện theo pháp luật
của Công ty TNHH MTV Thành phố TV. Vắng mặt
Người kháng cáo: Ông Thân Vĩnh Đ và Bà ĐinhThị Kim N.

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Theo đơn khởi kiện ngày 19/12/2016 tại bản khai ngày 28/3/2017 và tại
phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
1. Về khoản vay:
Ngày 30/10/2015, Ngân hàng TMCP Đ - Chi nhánh Sông Hàn gọi tắt là Ngân
hàng và Công ty Cổ phần Phát triển Công nghệ S sau đó đổi tên thành Công ty Cổ phần
Phát triển Công nghệ T gọi tắt là Công ty S đã ký kết Hợp đồng tín dụng hạn mức số
01/2015/3241706/HĐTD với nội dung như sau:
- Hạn mức cấp tín dụng cho Công ty S là: 18.000.000.000đ (Mười tám tỷ đồng).
- Mục đích vay: Bổ sung vốn lưu động, bảo lãnh, mở L/C.
- Thời hạn vay: 12 tháng.
- Lãi suất cho vay: Theo quy định của BIDV từng thời kỳ.
- Lãi suất nợ quá hạn: 150% lãi suất cho vay trong hạn.
Theo nội dung Hợp đồng tín dụng hạn mức đã ký kết, Ngân hàng và Công ty S đã
ký kết các giấy đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng cụ thể như sau:
1/ Ngày 21/01/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.12/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
3.011.657.448 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 21/01/2016 đến ngày
21/10/2016, lãi suất cho vay trong hạn là 7,0%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Công ty S đã trả được

25
Page 26

2.523.000.000 đồng, Công ty S còn nợ lại số tiền là 501.090.957 đồng trong đó


tiền gốc là 488.657.448 đồng và tiền lãi phát sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016
với số tiền là 12.433.509 đồng gồm tiền lãi trong hạn 8.964.799 đồng và lãi quá
hạn 3.468.710 đồng.
2/ Ngày 22/01/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.13/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
370.843.457 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 22/01/2016 đến ngày
22/10/2016, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 378.337.585 đồng, trong đó tiền gốc 370.843.457 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 7.494.128 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 5.485.393 đồng và lãi quá hạn 2.008.735 đồng.
3/ Ngày 26/01/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.14/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
692.281.910 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 26/01/2016 đến ngày
26/10/2016, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 706.127.548 đồng, trong đó tiền gốc 692.281.910 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 13.845.638 đồng gồm tiền lãi
trong hạn 10.240.003 đồng và lãi quá hạn 3.605.635 đồng.
4/ Ngày 05/02/2016, Chi nhánh Sông Hàn và Công ty S ký giấy đề nghị giải
ngân kiêm hợp đồng tín dụng số 01.15/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số
tiền 1.579.910.000 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 05/02/2016 đến
ngày 05/11/2016, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là
150% lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S
còn nợ số tiền là 1.609.533.312 đồng, trong đó tiền gốc: 1.579.910.000 đồng và
tiền lãi phát sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 29.623.312 đồng gồm
tiền lãi trong hạn 23.369.502 đồng và lãi quá hạn 6.253.810 đồng.
5/ Ngày 17/02/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.16/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
685.349.971 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 17/02/2016 đến ngày
17/11/2016, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 697.486.377 đồng, trong đó tiền gốc: 685.349.971 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 12.136.406 đồng gồm tiền lãi
trong hạn 10.137.469 đồng và lãi quá hạn 1.998.937 đồng.
6/ Ngày 11/3/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân kiêm
hợp đồng tín dụng số 01.17/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
111.799.303 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 11/03/2016 đến ngày
11/12/2016, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 112.719.317 đồng, trong đó tiền gốc 111.799.303 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 920.014 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 885.077 đồng và lãi quá hạn 34.937 đồng.

26
Page 27

7/ Ngày 16/3/2016 Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân kiêm
hợp đồng tín dụng số 01.18/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
747.704.554 đồng, thời hạn vay là 09 tháng tính từ ngày 16/3/2016 đến ngày
16/12/2016, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 758.764.350 đồng, trong đó tiền gốc 747.704.554 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 11.059.796 đồng gồm tiền lãi
trong hạn 11.059.796 đồng.
8/ Ngày 18/3/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân kiêm
hợp đồng tín dụng số 01.20/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
107.618.000 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 18/03/2016 đến ngày
18/12/2016, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 22 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 108.469.975 đồng, trong đó tiền gốc 107.618.000 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 851.975 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 851.975 đồng.
9/ Ngày 23/3/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân kiêm
hợp đồng tín dụng số 01.23/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
1.042.311.659 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 23/03/2016 đến ngày
23/12/2016, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 1.057.729.186 đồng, trong đó tiền gốc: 1.042.311.659 đồng và tiền lãi
phát sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 15.417.527 đồng gồm tiền lãi
trong hạn 15.417.527 đồng.
10/ Ngày 30/3/2016, Ngân hàng và Công ty Cổ STD ký giấy đề nghị giải
ngân kiêm hợp đồng tín dụng số 01.24/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số
tiền 270.559.502 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 30/03/2016 đến ngày
30/12/2016, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 274.561.528 đồng, trong đó tiền gốc 270.559.502 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 4.002.026 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 4.002.026 đồng.
11/ Ngày 13/4/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.25/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
346.730.577 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 13/04/2016 đến ngày
13/01/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 351.859.300 đồng, trong đó tiền gốc 346.730.577 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 5.128.723 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 5.128.723 đồng.
12/ Ngày 26/4/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.27/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
1.910.000.000 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 26/04/2016 đến ngày
26/01/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%

27
Page 28

lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 1.938.252.083 đồng, trong đó tiền gốc: 1.910.000.000 đồng và tiền lãi
phát sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 28.252.083 đồng gồm tiền lãi
trong hạn 28.252.083 đồng.
13/ Ngày 26/5/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.28/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
985.268.903 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 26/05/2016 đến ngày
26/02/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 999.842.672 đồng, trong đó tiền gốc 985.268.903 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 14.573.769 đồng gồm tiền lãi
trong hạn 14.573.769 đồng.
14/ Ngày 21/7/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.29/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
112.589.563 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 21/07/2016 đến ngày
21/04/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 113.480.897 đồng, trong đó tiền gốc 112.589.563 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 891.334 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 891.334 đồng.
15/ Ngày 22/7/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.30/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
94.837.750 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 22/07/2016 đến ngày
22/04/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 96.240.558 đồng, trong đó tiền gốc 94.837.750 đồng và tiền lãi phát sinh
tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 1.402.808 đồng gồm tiền lãi trong hạn
1.402.808 đồng.
16/ Ngày 27/7/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.31/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
677.297.200 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 27/07/2016 đến ngày
27/04/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 687.315.554 đồng, trong đó tiền gốc 677.297.200 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 10.018.354 đồng gồm tiền lãi
trong hạn 10.018.354 đồng.
17/ Ngày 11/8/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.33/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
109.149.541 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 11/08/2016 đến ngày
11/05/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 109.376.935 đồng, trong đó tiền gốc 109.149.541 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 227.394 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 227.394 đồng.

28
Page 29

18/ Ngày 12/8/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.34/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
113.280.276 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 12/08/2016 đến ngày
12/05/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 114.955.880 đồng, trong đó tiền gốc 113.280.276 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 1.675.604 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 1.675.604 đồng.
19/ Ngày 15/8/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.36/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
82.129.514 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 15/08/2016 đến ngày
15/05/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 83.344.346 đồng, trong đó tiền gốc: 82.129.514 đồng và tiền lãi phát sinh
tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 1.214.832 đồng gồm tiền lãi trong hạn
1.214.832 đồng.
20/ Ngày 29/8/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.39/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
126.024.525 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 29/08/2016 đến ngày
29/05/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 127.888.638 đồng, trong đó tiền gốc 126.024.525 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 1.864.113 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 1.864.113 đồng.
21/ Ngày 31/8/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.41/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
367.785.440 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 31/08/2016 đến ngày
31/05/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là: 373.225.599 đồng, trong đó tiền gốc 367.785.440 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 5.440.159 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 5.440.159 đồng.
22/ Ngày 06/9/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.42/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
148.950.230 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 06/09/2016 đến ngày
06/06/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 151.153.452 đồng, trong đó tiền gốc: 148.950.230 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 2.203.222 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 2.203.222 đồng.
23/ Ngày 07/9/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.43/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
39.511.392 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 07/09/2016 đến ngày
07/06/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%

29
Page 30

lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 40.095.831 đồng, trong đó tiền gốc 39.511.392 đồng và tiền lãi phát sinh
tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 584.439 đồng gồm tiền lãi trong hạn
584.439 đồng.
24/ Ngày 09/9/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.44/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
460.736.086 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 09/09/2016 đến ngày
09/06/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 467.551.140 đồng, trong đó tiền gốc 460.736.086 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 6.815.054 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 6.815.054 đồng.
25/ Ngày 21/9/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.47/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
347.075.800 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 21/09/2016 đến ngày
21/06/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150%
lãi suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ
số tiền là 353.221.934 đồng, trong đó tiền gốc 347.075.800 đồng và tiền lãi phát
sinh tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 6.146.134 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 6.146.134 đồng.
26/ Ngày 30/9/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.48/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
960.922.821 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 30/9/2016 đến ngày
30/6/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi
suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ số
tiền là: 976.137.432 đồng, trong đó tiền gốc 960.922.821 đồng và tiền lãi phát sinh
tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 15.214.611 đồng gồm tiền lãi trong
hạn 15.214.611 đồng.
27/ Ngày 30/9/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.49/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
220.385.171 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 30/9/2016 đến ngày
30/6/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi
suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ số
tiền là: 223.874.603 đồng, trong đó tiền gốc 220.385.171 đồng và tiền lãi phát sinh
tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 3.489.432 đồng gồm tiền lãi trong hạn
3.489.432 đồng.
28/ Ngày 13/10/2016, Ngân hàng và Công ty S ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.50/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
723.640.500 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 13/10/2016 đến ngày
13/7/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi
suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ số
tiền là 733.138.282 đồng, trong đó tiền gốc 723.640.500 đồng và tiền lãi phát sinh
tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 9.497.782 đồng gồm tiền lãi trong hạn
9.497.782 đồng.

30
Page 31

29/ Ngày 31/10/2016, Ngân hàng và Công ty STD ký giấy đề nghị giải ngân
kiêm hợp đồng tín dụng số 01.51/2015/3241706/HĐTD để Công ty S vay số tiền
507.034.788 đồng, thời hạn vay là 09 tháng, tính từ ngày 31/10/2016 đến ngày
31/7/2017, lãi suất cho vay trong hạn là 7,7%/năm, lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi
suất cho vay trong hạn, trả lãi vào ngày 05 hàng tháng. Nay Công ty S còn nợ số
tiền là 511.914.998 đồng, trong đó tiền gốc 507.034.788 đồng và tiền lãi phát sinh
tạm tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là 4.880.210 đồng gồm tiền lãi trong hạn
4.880.210 đồng.
Công ty S còn nợ số tiền là 14.657.690.269 đồng (Mười bốn tỷ sáu trăm năm
mươi bảy triệu sáu trăm chín mươi ngàn hai trăm sáu mươi chín đồng) trong đó
tiền gốc là 14.430.385.881 đồng, tiền lãi tính đến ngày 14/12/2016 với số tiền là
227.304.388 đồng gồm lãi trong hạn là 209.933.624 đồng lãi quá hạn là
17.370.764 đồng.
Từ khi vay đến nay Công ty S đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ tiền gốc
và lãi cho Ngân hàng theo thỏa thuận tại các giấy đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín
dụng, mặc dù Ngân hàng nhiều lần gửi thông báo và trực tiếp làm việc với Công ty S để
yêu cầu Công ty S thanh toán số nợ đã vay. Trong trường hợp Công ty S không thực hiện
được nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng thì bàn giao lại toàn bộ tài sản đã thế chấp để Ngân
hàng tiến hành phát mãi tài sản nhằm thu hồi nợ.
Đồng thời Ngân hàng đã gửi cho ông Thân Vĩnh Đ thông báo về việc chậm thanh
toán nợ của Công ty S.
Phản hồi lại với Ngân hàng, Công ty S đã có công văn số 10/CV.Cty ngày
20/10/2016 giải trình kế hoạch trả nợ, đồng thời cho rằng tình hình tài chính Công ty S
khó khăn, Công ty không có khả năng trả nợ nên đề nghị Ngân hàng xử lý tài sản thế
chấp.
Do vậy Ngân hàng đã khởi kiện Công ty S tại Tòa án yêu cầu Công ty S thanh
toán số tiền nợ đã vay. Sau đó Công ty S có trả cho Ngân hàng số tiền là 30.000.000
đồng.
Ngân hàng thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án buộc Công ty S phải thanh
toán số nợ cho Ngân hàng TMCP Đ với số tiền là 15.682.341.771 đồng (Mười lăm tỷ
sáu trăm tám mươi hai triệu ba trăm bốn mươi mốt ngàn bảy trăm bảy mươi mốt
đồng) trong đó tiền gốc là 14.400.385.881 đồng, tiền lãi tính đến ngày 31/8/2017
với số tiền là 1.281.955.890 đồng gồm lãi trong hạn là 405.035.170 đồng lãi quá
hạn là 876.920.720 đồng.
Lãi tiếp tục được tính từ ngày 01/9/2017 theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận
của từng khế ước nhận nợ cho đến thời điểm thi hành án xong.
2. Tài sản thế chấp:
Để đảm bảo cho khoản vay trên của Công ty S, ông Thân Vĩnh Đ và bà Đặng Thị
Kim N đã ký với Ngân hàng hợp đồng thế chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày
21/7/2016 để thế chấp nhà và đất tại thửa đất số 331, tờ bản đồ số 7, địa chỉ 19 Đường N,
phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT 879774 do Sở Tài nguyên và Môi

31
Page 32

trường thành phố Đà Nẵng cấp cho ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N ngày
08/7/2014.
Trong trường hợp Công ty S không trả được nợ, Ngân hàng đề nghị xử lý tài sản
đã thế chấp theo hợp đồng thế chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 mà các
bên đã ký kết theo quy định của pháp luật để đảm bảo việc thu hồi nợ.
3. Với yêu cầu của ông Thân Vĩnh Đ đề nghị Tòa án tuyên bố chấm dứt việc
thực hiện hợp đồng thế chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 do hoàn
cảnh thực hiện hợp đồng có thay đổi cơ bản so với thời điểm giao kết mà không do
lỗi của bên thế chấp và buộc Ngân hàng giải chấp tài sản đảm bảo là nhà và đất tại
địa chỉ số 19 đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng đồng thời trả lại cho
ông Thân Vĩnh Đ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT 879774 cấp ngày 08/7/2014 cho ông Thân
Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N.
Ngân hàng hoàn toàn không đồng ý vì ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị
Kim N khi ký hợp đồng thế chấp hoàn toàn tự nguyện, có đầy đủ năng lực hành vi dân
sự theo quy định của pháp luật, hợp đồng thế chấp đã được công chứng, đăng ký giao
dịch bảo đảm theo đúng quy định, ông Đ và bà N thực hiện đúng các quy định của pháp
luật có liên quan xác định tư cách chủ thể sở hữu tài sản, ông Đ và bà N đã đọc và đồng ý
toàn bộ dự thảo hợp đồng và ký trước mặt Công chứng viên.
4. Việc ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N cho Công ty TNHH MTV
Thành phố TV thuê mặt bằng tại địa chỉ số 19 Đường N, phường T, quận H, thành
phố Đà Nẵng để kinh doanh cà phê cũng là tài sản đang thế chấp tại Ngân hàng, tại
buổi xem xét thực tế ngày 14/2/2017 ông Đ cho rằng gia đình ông tự kinh doanh cà phê,
nhưng sau đó ông Thân Vĩnh Đ cung cấp cho Tòa án hợp đồng thuê mặt bằng ngày
15/5/2016 giữa vợ chồng ông với Công ty TNHH MTV Thành phố TV. Do vậy Ngân
hàng đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Tại bản khai ngày 09/01/2017, ngày 15/4/2017 và tại phiên tòa đại diện
theo pháp luật của bị đơn là Công ty Cổ phần Phát triển Công nghệ T trình bày:
1. Đại diện Công ty S xác nhận lời trình bày của đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn về việc giữa Công ty S và Ngân hàng có ký kết Hợp đồng tín dụng hạn
mức số 01/2015/3241706/HĐTD ngày 30/10/2015 là đúng.
Trên cơ sở hợp đồng tín dụng hạn mức trên Công ty S và Ngân hàng có ký 29 giấy
đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng từ ngày 21/01/2016 đến ngày 31/10/2016
để Công ty S vay với tổng số tiền là 16.953.385.881 đồng. Công ty S đã thanh toán được
số tiền là 2.523.000.000 đồng.
Sau đó Công ty có thanh toán tiếp cho Ngân hàng số tiền là 30.000.000 đồng, do
vậy, Công ty S còn nợ Ngân hàng TMCP Đ số tiền là 15.682.341.771 đồng (Mười lăm
tỷ sáu trăm tám mươi hai triệu ba trăm bốn mươi mốt ngàn bảy trăm bảy mươi mốt
đồng) trong đó tiền gốc là 14.400.385.881 đồng tiền lãi tính đến ngày 31/8/2017
với số tiền là 1.281.955.890 đồng gồm lãi trong hạn là 405.035.170 đồng lãi quá
hạn là 876.920.720 đồng.
Nay Công ty S gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh nhất là trong việc thu hồi công
nợ, thêm vào đó việc điều hành Công ty của ông Thân Vĩnh Đ về mặt tài chính có những

32
Page 33

thất thoát chưa thu hồi, chưa có nguồn để thanh toán, Công ty S cam kết khi thu hồi được
các công nợ Công ty S sẽ ưu tiên trả nợ cho Ngân hàng.
Để đảm bảo cho việc vay vốn của Công ty S, ông Thân Vĩnh Đ và bà Đặng Thị
Kim N đã ký với Ngân hàng hợp đồng thế chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày
21/7/2016 để thế chấp nhà và đất tại địa chỉ 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố
Đà Nẵng theo giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số BT 879774 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp
cho ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N ngày 08/7/2014.
Trường hợp Công ty S không trả được nợ nói trên, đề nghị Ngân hàng xử lý tài
sản thế chấp theo hợp đồng mà các bên đã ký kết theo quy định của pháp luật nhằm đảm
bảo việc thu hồi nợ của Ngân hàng.
2. Ông Thân Vĩnh Đ đề nghị Tòa án tuyên bố chấm dứt việc thực hiện hợp
đồng thế chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 do hoàn cảnh thực
hiện hợp đồng có thay đổi cơ bản so với thời điểm giao kết mà không do lỗi của
bên thế chấp.
Đ diện Công ty S cho rằng Chủ tịch Hội đồng Quản trị có ký Quyết định số
02/2016/QĐ-HĐQT/B ngày 05/10/2016 với nội dung cách chức Giám đốc Công ty
đối với ông Thân Vĩnh Đ. Việc cách chức này Hội đồng quản trị đã chấp hành
đúng các quy định của pháp luật, đã tiến hành các cuộc họp nhằm đánh giá lại việc
điều hành Công ty cũng như việc chấp hành mọi sự chỉ đạo trong hoạt động kinh
doanh của Chủ tịch Hội đồng quản trị đối với ông Thân Vĩnh Đ, tại các cuộc họp
đều được lập biên bản và có sự thống nhất cao giữa các thành viên của Hội đồng
quản trị đối với việc cách chức giám đốc.
Hơn nữa ông Đ và bà N đã hoàn toàn tự nguyện trong việc dùng tài sản của
gia đình ra đảm bảo nguồn vay của Công ty S, ông Đ hiểu rõ trong trường hợp
Công ty không trả được nợ thì tài sản đã thế chấp sẽ được xử lý theo quy định của
pháp luật nhằm thu hồi nợ của Ngân hàng.
Do vậy, ông Thân Vĩnh Đ cho rằng vì ông Đ không giữ chức vụ giám đốc
Công ty là do hoàn cảnh thực hiện hợp đồng có thay đổi cơ bản so với thời điểm
giao kết mà không do lỗi của bên thế chấp. Nên ông đề nghị Tòa án tuyên bố chấm
dứt việc thực hiện hợp đồng thế chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016
Công ty đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
3. Đối với việc ông Đ và bà N có ký hợp đồng ngày 15/5/2016 với Công ty
TNHH MTV Thành phố TV để Công ty TNHH MTV Thành phố TV thuê mặt bằng tại
địa chỉ số 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng để kinh doanh cà phê,
Công ty S đề nghị Tòa án giải quyết theo quy dịnh của pháp luật.
* Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/ Tại biên bản hòa giải ngày 23/01/2017, đơn yêu cầu độc lập ngày
03/3/2017 và tại phiên tòa ông Thân Vĩnh Đ trình bày:
Ông Thân Vĩnh Đ xác nhận ông và bà Đặng Thị Kim N có ký hợp đồng thế chấp
số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 để thế chấp nhà và đất tại thửa đất số 331,
tờ bản đồ số 7, địa chỉ 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng theo giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số

33
Page 34

BT 879774 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp cho ông Thân Vĩnh
Đ và bà Đinh Thị Kim N ngày 08/7/2014 cho Ngân hàng để Công ty S vay tiền theo hợp
đồng tín dụng hạn mức số 01/2015/3241706/HĐTD ngày 30/10/2015 và các hợp đồng
tín dụng khác sẽ được ký kết trong tương lai. Tổng giá trị đảm bảo là 8.650.000.000 đồng
trên giá trị tài sản định giá là 11.305.000.000 đồng.
Ông Đ yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt việc thực hiện hợp đồng thế chấp
số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 do hoàn cảnh thực hiện hợp đồng có
thay đổi cơ bản so với thời điểm giao kết mà không do lỗi của bên thế chấp và
buộc Ngân hàng giải chấp tài sản đảm bảo là nhà và đất tại địa chỉ số 19 Đường N,
phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng đồng thời trả lại bản chính giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT
879774 cấp cho ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N ngày 08/7/2014 cho ông
Đ vì các lý do sau:
+ Khi ông không còn đảm nhiệm chức vụ Giám đốc Công ty S từ ngày
05/10/2016, Công ty đã có dấu hiệu chuyển dòng tiền thanh toán các công trình của các
chủ đầu tư vào tài khoản của các ngân hàng khác, cũng như thanh toán cho các mục đích
khác mà không ưu tiên thanh toán khoản tiền vay cho Ngân hàng theo hợp đồng số
01/2015/3241706/HĐTD ngày 30/10/2015 dẫn đến nợ quá hạn.
+ Công ty S đã vi phạm thỏa thuận đã được xác lập giữa Công ty S với vợ chồng
ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N khi Công ty mượn tài sản là nhà và đất tại 19
đường N, phường T, thành phố Đà Nẵng.
Việc vi phạm trên của Công ty S đã làm thay đổi cơ bản hoàn cảnh thực hiện hợp
đồng thế chấp 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 giữa ngân hàng với ông
Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N.
+ Ngân hàng đã biết việc chuyển nguồn thu của Công ty S vào tài khoản tại Ngân
hàng khác nhưng đã không thực hiện việc giám sát mục đích sử dụng vốn của Công ty S
nên làm cho Công ty S không có nguồn tiền để trả nợ.
Do vậy, lỗi vi phạm hợp đồng tín dụng hạn mức số 01/2015/3241706/HĐTD
ngày 30/10/2015 hoàn toàn thuộc về Ngân hàng và Công ty S nên Ngân hàng và Công ty
S phải liên đới chịu trách nhiệm.
- Đối với việc ông Đ và bà N cho Công ty TNHH MTV Thành phố TV thuê
mặt bằng tại địa chỉ số 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng để
kinh doanh từ ngày 15/5/2016, là thời điểm trước khi ông Đ bà N thế chấp cho
Ngân hàng. Nên ông Đ đề nghị Tòa án xem xét để đảm bảo quyền lợi của ông Đ và
bà N cũng như của Công ty TNHH MTV Thành phố TV.
2/ Tại biên bản hòa giải ngày 23/1/2017 bà Đinh Thị Kim N trình bày:
Bà N xác nhận bà và ông Thân Vĩnh Đ có ký với Ngân hàng hợp đồng thế
chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 để thế chấp nhà và đất tại địa chỉ
19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng để Công ty S vay tiền như ông Đ
đã trình bày là đúng. Bà N đề nghị Công ty S và Ngân hàng thực hiện đúng hợp
đồng tín dụng đã ký kết, một trong các bên không thực hiện đúng cam kết thì bên
bảo lãnh không chịu trách nhiệm về bảo lãnh.

34
Page 35

3/ Tại văn bản số 26/CV.2017 ngày 14/3/2017 Công ty TNHH MTV Thành
phố TV trình bày:
Vào ngày 15/5/2016 Công ty với ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N
có ký hợp đồng thuê nhà để Công ty TNHH MTV Thành phố TV thuê toàn bộ căn
nhà số 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng sử dụng vào mục đích làm
văn phòng làm việc hoặc kinh doanh, thời hạn thuê là 5 năm, giá thuê là
30.000.000đ/tháng, kể từ năm thứ tư trở đi giá thuê được điều chỉnh một lần/năm theo
công thức: Giá thuê = Giá thuê năm liền trước x 10%. Để phục vụ kinh doanh Công ty đã
đầu tư rất nhiều tiền vào việc thuê thiết kế, sữa chửa, cải tạo và nâng cấp trang thiết bị.
Việc thuê nhà giữa Công ty với ông Đ và bà N hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp
luật do đó có hiệu lực thi hành và hợp đồng vẫn đang còn hiệu lực đối với các bên. Do
vậy ông Đ và bà N có trách nhiệm liên đới tiếp tục thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của bên cho
thuê. Căn nhà trên được quyền quản lý và sử dụng hợp pháp của Công ty, nên Công ty
tiếp tục quản lý sử dụng cho đến khi kết thúc hợp đồng thuê nhà.
Việc vay vốn giữa Công ty S với Ngân hàng và quan hệ thế chấp giữa Ngân hàng
với ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N không liên quan gì đến việc thuê nhà của
Công ty TNHH MTV Thành phố TV.
* Trong quá trình giải quyết vụ án thì:
- Ngày 06/3/2017 ông Thân Vĩnh Đ có đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với người bị yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là Công ty S và Ngân hàng, biện pháp áp dụng
khẩn cấp tạm thời là phong tỏa tài khoản của Công ty S và cấm thực hiện hành vi nhất
định. Ngày 07/3/2017 Tòa án nhân dân quận Hải Châu ra thông báo số 80/CV-TA yêu
cầu ông Thân Vĩnh Đ phải sửa đổi bổ sung đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời, hết thời hạn, nhưng ông Thân Vĩnh Đ đã không sửa đổi đơn yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời theo nội dung Thông báo số 80/CV-TA ngày 07/3/2017. Do vậy
ngày 10/3/2017 Tòa án nhân dân quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng ra thông báo số 83
và 84 về việc không chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tại thời của ông
Thân Vĩnh Đ đối với người bị yêu cầu áp dụng bện pháp khẩn cấp tạm thời là Công ty S
và Ngân hàng.
- Tòa án nhân dân quận Hải Châu đã có văn bản yêu cầu ông Thân Vĩnh Đ và
Công ty TNHH MTV Thành phố TV giao nộp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ hợp
pháp liên quan đến việc Công ty TNHH MTV Thành phố TV đã đầu tư tiền vào việc
thiết kế, sửa chữa cải tạo căn nhà thuê và đầu tư mua sắm thiết bị phục vụ cho việc kinh
doanh cà phê, đồng thời Tòa án cũng yêu cầu ông Thân Vĩnh Đ phải giao nộp cho Tòa án
các tài liệu chứng cứ thể hiện giá trị tài sản đảm bảo là 8.650.000.000 đồng trên giá trị tài
sản thế chấp đã định giá là 11.305.000.000 đồng trước ngày 11/5/2017, hết thời hạn ông
Đ và Công ty TNHH MTV Thành phố TV đều không cung cấp.
- Tòa án nhân dân quận Hải Châu đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập thông báo về
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho bà Đinh
Thị Kim N và Công ty TNHH MTV Thành phố TV nhưng bà N và Công ty TNHH
MTV Thành phố TV đều vắng mặt không lý do. Nên Tòa án không thể tiến hành hòa
giải cho các bên đương sự.

35
Page 36

Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 22/2017/KDTM - ST ngày


06/9/ 2017 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
- Căn cứ các Điều 471, 474, 476, 342, 343, 344, 351 và Điều 355 Bộ luật Dân
sự năm 2005.
- Căn cứ Điều 91, khoản 2 Điều 95, khoản 3 Điều 98 Luật tổ chức tín dụng.
- Căn cứ khoản 1 Điều 420 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Căn cứ Điều 91, Điều 92, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 235 và Điều
273 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30.12.2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ đối với Công ty
Cổ phần Phát triển Công nghệ T.
Xử:
1/ Buộc Công ty Cổ phần Phát triển Công nghệ T phải thanh toán cho Ngân
hàng TMCP Đ số tiền là 15.682.341.771 đồng (Mười lăm tỷ sáu trăm tám mươi hai
triệu ba trăm bốn mươi mốt ngàn bảy trăm bảy mươi mốt đồng) trong đó tiền gốc
là 14.400.385.881 đồng tiền lãi tính đến ngày 31/8/2017 với số tiền là
1.281.955.890 đồng gồm lãi trong hạn là 405.035.170 đồng lãi quá hạn là
876.920.720 đồng. (Có bản lãi chi tiết kèm theo).
- Lãi tiếp tục được tính kể từ ngày 01/9/2017 đối với khoản nợ gốc cho đến
khi thanh toán xong theo mức lãi suất đã quy định cụ thể trong từng giấy đề nghị
giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng như sau:
Số 01.12/2015/3241706/HĐTD ngày 21/01/2016.
Số 01.13/2015/3241706/HĐTD ngày 22/01/2016.
Số 01.14/2015/3241706/HĐTD ngày 26/01/2016.
Số 01.15/2015/3241706/HĐTD ngày 05/02/2016.
Số 01.16/2015/3241706/HĐTD ngày 17/02/2016.
Số 01.17/2015/3241706/HĐTD ngày 11/3/2016.
Số 01.18/2015/3241706/HĐTD ngày 16/3/2016.
Số 01.20/2015/3241706/HĐTD ngày 18/3/2016.
Số 01.23/2015/3241706/HĐTD ngày 23/3/2016.
Số 01.24/2015/3241706/HĐTD ngày 30/3/2016.
Số 01.25/2015/3241706/HĐTD ngày 13/4/2016.
Số 01.27/2015/3241706/HĐTD ngày 26/4/2016.
Số 01.28/2015/3241706/HĐTD ngày 26/5/2016.
Số 01.29/2015/3241706/HĐTD ngày 21/7/2016.
Số 01.30/2015/3241706/HĐTD ngày 22/7/2016.
Số 01.31/2015/3241706/HĐTD ngày 27/7/2016.
Số 01.33/2015/3241706/HĐTD ngày 11/8/2016.
Số 01.34/2015/3241706/HĐTD ngày 12/8/2016.
Số 01.36/2015/3241706/HĐTD ngày 15/8/2016.
Số 01.39/2015/3241706/HĐTD ngày 29/8/2016.
Số 01.41/2015/3241706/HĐTD ngày 31/8/2016.

36
Page 37

Số 01.42/2015/3241706/HĐTD ngày 06/9/2016.


Số 01.43/2015/3241706/HĐTD ngày 07/9/2016.
Số 01.44/2015/3241706/HĐTD ngày 09/9/2016.
Số 01.47/2015/3241706/HĐTD ngày 21/9/2016.
Số 01.48/2015/3241706/HĐTD ngày 30/9/2016.
Số 01.49/2015/3241706/HĐTD ngày 30/9/2016.
Số 01.50/2015/3241706/HĐTD ngày 13/10/2016.
Số 01.51/2015/3241706/HĐTD ngày 31/10/2016.
Cho đến khi Công ty Cổ phần Phát triển Công nghệ T thanh toán hết nợ.
- Trong trường hợp Công ty Cổ phần Phát triển Công nghệ T không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa trả nợ cho Ngân hàng TMCP Đ thì tài sản thế chấp
là nhà và đất tại thửa đất số 331, tờ bản đồ số 7, địa chỉ 19 Đường N, phường T, quận H,
thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số BT 879774 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà
Nẵng cấp cho ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N ngày 08/7/2014 sẽ bị phát mãi để
thu hồi trả nợ cho Ngân hàng TMCP Đ.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ thì nhà và đất tại thửa đất số 331, tờ bản
đồ số 7, địa chỉ 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng thì hiện trạng thực
tế nhà cấp 4, tường xây mái tôn, nền gạch men và gỗ, cửa chính hai cánh bằng gương, 01
phòng khách, 01 phòng ngủ và 01 phòng bếp, hai toilet cửa nhôm kính, một cửa sắt bên
hông phía sau nhà, phía trước nhà có chừa khoảng sân để trồng cây. So với giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì có phát sinh thêm phần xây dựng trên đất phía sau nhà.
Tại thời điểm xử lý tài sản thế chấp mà Công ty TNHH MTV Thành phố TV vẫn
còn tiếp tục thuê nhà tại địa chỉ 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng của
ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N thì buộc Công ty TNHH MTV Thành phố TV
phải có trách nhiệm bàn giao nhà và đất nói trên cho các cơ quan chức năng để tiến hành
xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật.
2/ Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Thân Vĩnh Đ về việc chấm dứt
thực hiện hợp đồng thế chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 do hoàn
cảnh thực hiện hợp đồng có thay đổi cơ bản so với thời điểm giao kết mà không do
lỗi của bên thế chấp và buộc Ngân hàng B - Chi nhánh Sông Hàn giải chấp tài sản
đảm bảo là nhà và đất tại địa chỉ số 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà
Nẵng và trả lại cho ông Thân Vĩnh Đ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT 879774 ngày
08/7/2014 đã cấp cho ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của
các bên theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/9/2017 và ngày 25/9/2017 ông Thân Vĩnh Đ, bà Đinh Thị Kim N
có đơn kháng cáo một phần nội dung bản án liên quan đến việc giải quyết yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cụ thể:
Kháng cáo nội dung quyết định của Tòa án về việc: - Trong trường hợp Công
ty Cổ phần Phát triển Công nghệ T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
trả nợ cho Ngân hàng TMCP Đ thì tài sản thế chấp là nhà và đất tại thửa đất số 331, tờ
bản đồ số 7, địa chỉ 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng theo giấy

37
Page 38

chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
BT 879774 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp cho ông Thân Vĩnh
Đ và bà Đinh Thị Kim N ngày 08/7/2014 sẽ bị phát mãi để thu hồi trả nợ cho Ngân hàng
TMCP Đ.
- Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Thân Vĩnh Đ về việc chấm dứt
thực hiện hợp đồng thế chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 do hoàn
cảnh thực hiện hợp đồng có thay đổi cơ bản so với thời điểm giao kết mà không do
lỗi của bên thế chấp và buộc Ngân hàng B - Chi nhánh Sông Hàn giải chấp tài sản
đảm bảo là nhà và đất tại địa chỉ số 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà
Nẵng và trả lại cho ông Thân Vĩnh Đ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BT 879774 ngày
08/7/2014 đã cấp cho ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N.
Lý do: Nghĩa vụ đảm bảo của tài sản thế chấp là nhà đất tại 19 Nguyễn Chí
Thanh, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng chỉ đảm bảo cho nghĩa vụ là 8.450.000.000
đồng. Ngân hàng B cho Công ty S vay vượt quá giới hạn về tỷ lệ của tài sản bảo đảm, trái
với quy định về giao dịch bảo đảm số 8955/QĐ-QLTD ngày 31/12/2014 của BIDV, trái
với quy chế cho vay quy định tại Quyết định số 1722/QĐ-HĐQT ngày 02/10/2013 của
BIDV đối với khách hàng và trái với quy chế cho vay của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước tại văn bản số 20/VBNH-NHNN ngày 22/5/2014.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử lý nhà đất nói trên để trả nợ vay cho toàn bộ số
tiền Công ty còn nợ là không có căn cứ pháp lý, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ
chồng ông bà.
Nợ vay của hợp đồng tín dụng số 01/2015/3241706/HĐTD là để bổ sung vốn thi
công, thực hiện các công trình nên nguồn thu phát sinh sẽ ưu tiên thanh toán cho BIDV.
Do đó nếu BIDV và Công ty S tuân thủ các điều khoản đã thỏa thuận tại hợp đồng tín
dụng số 01, quyết định số 1722, quy định số 4633 và quy chế cho vay của các tổ chức tín
dụng thì nợ quá hạn đã không xảy ra. Lỗi do vi phạm hợp đồng tín dụng hạn mức số
01/2015/3241706/HĐTD hoàn toàn thuộc về BIDV và Công ty S, vợ chồng ông không
biết trước hoàn cảnh thay đổi cơ bản, lớn khi giao kết hợp đồng thế chấp đó là ông Đ bị
bãi miễn thành viên Hội đồng quản trị, bị cách chức Giám đốc Công ty nên yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm Tuyên bố chấm dứt việc thực hiện hợp đồng thế chấp số
01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016, buộc Ngân hàng B giải chấp tài sản đảm
bảo là nhà và đất tại 19 đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng và giao bản
chính Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số BT 87974 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp cho ông
Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N.
Yêu cầu Tòa án phúc thẩm tuyên bố Ngân hàng B và Công ty S đã vi phạm
Hợp đồng tín dụng số 01/2015/3241706/HĐTD, Quyết định số 1722/QĐ-HĐQT ngày
02/10/2013, Quy định số 4633/QĐ-BIDV ngày 30/6/2015, Quy chế cho vay của các tổ
chức tín dụng, Luật các tổ chức tín dụng và Bộ luật dân sự
Tuyên không chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản đảm bảo

38
Page 39

Tuyên chấp nhận toàn bộ các yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Thân Vĩnh Đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
bà Đinh Thị Kim N và Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH
MTV Thành phố TV do bà Huỳnh Thị H là người đại diện theo pháp luật có đơn
xin xét xử vắng mặt, nên HĐXX xử vắng mặt theo quy định tại Khoản 3 Điều 296
Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Thân Vĩnh Đ, bà Đinh Thị Kim N:
Ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N kháng cáo cho rằng việc Ngân hàng B
ký hợp đồng tín dụng nói trên cho Công ty S vay hạn mức 18.000.000.000 đồng là vượt
quá so với tài sản thế chấp thì thấy:
- Về việc ký hợp đồng tín dụng: Theo qui định tại Điều 14 Quyết định số
1722/QĐ-HĐQT ngày 02/10/2013 của HĐQT Ngân hàng TMCP Đ thì “Tổng mức
dư nợ cấp tín dụng của BIDV đối với một khách hàng không được vượt quá 15%
vốn tự có của BIDV”. Ngày 30/10/2015, Ngân hàng TMCP Đ - Chi nhánh Sông Hàn
(gọi tắt là Ngân hàng B) và Công ty Cổ phần Phát triển Công nghệ S (đổi tên thành Công
ty Cổ phần Phát triển Công nghệ T gọi tắt là Công ty S) đã ký Hợp đồng tín dụng hạn
mức số 01/2015/3241706/HĐTD cho Công ty S vay số tiền 18.000.000.000 đồng; Ngày
21/7/2016 Ngân hàng B ký hợp đồng thế chấp với ông Thân Vĩnh Đ, bà Đinh Thị Kim N
hợp đồng thế chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ để thế chấp nhà và đất tại thửa đất số
331, tờ bản đồ số 7, địa chỉ 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng theo
giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số BT 879774 ngày 08/7/2014 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp
cho ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N để Công ty S vay tiền theo hợp đồng tín
dụng hạn mức số 01/2015/3241706/HĐTD ngày 30/10/2015 và các hợp đồng tín dụng
khác sẽ được ký kết trong tương lai. Tài sản thế chấp được định giá là 11.305.000.000
đồng.
Việc Ngân hàng B ký hợp đồng tín dụng nói trên cho Công ty S vay hạn mức
18.000.000.000 đồng là vượt quá so với tài sản thế chấp nhưng vẫn đảm bảo được giới
hạn đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của BIDV. Do vậy Ngân
hàng B - Chi nhánh Sông Hàn thực hiện việc cho vay đối với khách hàng là đúng quy
định.
Do Công ty S vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận tại các giấy
đề nghị giải ngân kiêm hợp đồng tín dụng nên Ngân hàng có quyền đề nghị Tòa án xử lý
tài sản thế chấp do các bên thỏa thuận tại điểm c khoản 2 Điều 9 của hợp đồng thế chấp

39
Page 40

số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 nói trên.


- Về tài sản thế chấp: Ông Thân Vĩnh Đ, bà Đinh Thị Kim N cho rằng tài sản thế
chấp là nhà đất tại 19 đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng chỉ được đảm
bảo cho 8.650.000.000 đồng là không có cơ sở bởi tại điểm a, b khoản 1 Điều 4 của hợp
đồng thế chấp nói trên các bên thỏa thuận phạm vi nghĩa vụ bảo đảm là toàn bộ nhà và
đất tại 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng. Trường hợp ông Đ và bà N
có đầu tư thêm vào tài sản thế chấp thì phần tài sản tăng thêm cũng thuộc về tài sản thế
chấp. Giá trị tài sản thế chấp là 11.305.000.000 đồng sẽ không được áp dụng khi xử lý tài
sản thế chấp mà sẽ tiến hành định giá lại tại thời điểm xử lý tài sản thế chấp. Ông Thân
Vĩnh Đ và bà Định Thị Kim N đã đồng ý dùng toàn bộ tài sản là nhà và đất tại địa
chỉ 19 Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng để đảm bảo cho việc thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ của Công ty S với Ngân hàng đối với tất cả các hợp đồng tín dụng đã
phát sinh, đồng thời cam kết không có bất kỳ khiếu nại, tranh chấp hay đưa ra bất kỳ lý
do gì để từ chối nghĩa vụ của ông Đ và bà N. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử lý tài
sản thế chấp cho toàn bộ khoản nợ Công ty S nợ Ngân hàng B là có căn cứ.
Ông Thân Vĩnh Đ, bà Đinh Thị Kim N cho rằng Ngân hàng B – Chi nhánh
Sông Hàn BIDV và Công ty S có lỗi trong việc để xảy ra nợ quá hạn nhưng ông Đ,
bà N không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh theo quy định tại Điều 92
Bộ luật tố tụng dân sự trong khi về phía Ngân hàng và Công ty S đã cung cấp đầy
đủ các tài liệu và văn bản giải trình chứng minh Ngân hàng B – Chi nhánh Sông
Hàn không có lỗi trong việc để Công ty S chuyển tiền vào tài khoản tại Ngân hàng khác
và Ngân hàng B – Chi nhánh Sông Hàn cũng đã thực hiện đủ các biện pháp nhằm
thu hồi nợ. Do đó Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu độc
lập của ông Thân Vĩnh Đ về việc tuyên bố chấm dứt việc thực hiện hợp đồng thế
chấp số 01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016 do hoàn cảnh thực hiện hợp
đồng có thay đổi cơ bản so với thời điểm giao kết mà không do lỗi của bên thế
chấp và buộc Ngân hàng giải chấp tài sản đảm bảo là nhà và đất tại địa chỉ số 19
Đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng đồng thời trả lại cho ông Thân
Vĩnh Đ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số BT 879774 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành
phố Đà Nẵng cấp cho ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N ngày 08/7/2014 là
có căn cứ.
- Ông Thân Vĩnh Đ, bà Đinh Thị Kim N kháng cáo cho rằng hoàn cảnh thay đổi
cơ bản thì thấy:
Theo qui định tại khoản 1 Điều 420 của Bộ luật dân sự:
“1. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao
kết hợp đồng;

40
Page 41

b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về
sự thay đổi hoàn cảnh;
c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng
đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp
đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;
đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả
năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm
thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích”
Đối chiếu với quy định trên, tại thời điểm giao kết hợp đồng thế chấp ông Thân
Vĩnh Đ là Giám đốc và là thành viên Hội đồng quản trị của Công ty S. Trong hợp đồng
bảo lãnh thế chấp quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ của người bảo lãnh trong quá
trình thực hiện hợp đồng vay rất cụ thể. Việc ông Thân Vĩnh Đ bị cách chức Giám đốc
không ảnh hưởng đến việc người bảo lãnh thế chấp tài sản và không thuộc trường hợp
thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng.
Sự thay đổi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng hoàn toàn phải có tính khách quan,
nghĩa là không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên tham gia trong hợp đồng.
Do đó việc cách chức Giám đốc và bãi miễn thành viên Hội đồng quản trị đối với ông Đ
không phải là hoàn cảnh thay đổi cơ bản như đã phân tích.
Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng không có cơ
sở chấp nhận kháng cáo của ông Thân Vĩnh Đ, bà Đinh Thị Kim N cũng như ý
kiến của vị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thân Vĩnh Đ, giữ
nguyên án sơ thẩm.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà
Nẵng đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của ông Thân Vĩnh Đ và bà
Đinh Thị Kim N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Xét thấy đề nghị của Viện Kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng
xét xử nên chấp nhận.
[4] Do không chấp nhận kháng cáo nên ông Thân Vĩnh Đ, bà Đinh Thị Kim
N phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm và án phí sơ thẩm theo qui
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 293, khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị Kim N.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuyên xử:

41
Page 42

1. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Thân Vĩnh Đ và bà Đinh Thị
Kim N về việc yêu cầu chấm dứt thực hiện hợp đồng thế chấp số
01.2016/3241706/HĐBĐ ngày 21/7/2016.
2. Các quyết định khác của Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
22/2017/KDTM - ST ngày 06/9/ 2017 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành
phố Đà Nẵng không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí: Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm ông Thân Vĩnh Đ,
bà Đinh Thị Kim N mỗi người phải chịu là 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng theo biên lai thu số 009741 ngày 20/9/2017 và biên lai
thu số 009761 ngày 05/10/2017, như vậy ông Đ, bà Ngân đã nộp đủ án phí phúc
thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án
dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND Tp. Đà Nẵng;
-TAND quận Hải Châu;
- Chi cục THADS quận Hải Châu;
- Lưu hồ sơ.

Võ Đình Thắng

42
Page 43

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
—————————— ——————————————————
Bản án số: 02/2018/KDTM-PT
Ngày 26-01-2018
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
quyền sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp; tuyên hủy thư bảo lãnh

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Đình Quảng
Các Thẩm phán: Ông Trương Chí Trung
Ông Ngô Hà Nam
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Thị Thanh Tuyền
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Bà Đặng Ngọc Hoài Linh - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 27/2017/TLPT- KDTM ngày
20/11/2017 về Tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp; tuyên hủy thư bảo lãnh.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2017/KDTM- ST ngày
29/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 01/2018/QĐ-PT ngày
02/01/2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2018/QĐ- PT ngày 15/01/2018
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thương
mại du lịch P.
Địa chỉ: Số 323 đường Đ, quận S, thành phố Đà Nẵng. Người đại diện
theo pháp luật: Ông Đàm Đức H, chức vụ: Giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Lê Xuân C - sinh
năm 1991. Địa chỉ: Số 77 đường T, quận H, thành phố Đà Nẵng (Văn bản ủy
quyền số 1809/UQ.17 ngày 18/9/2017). Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần
Khánh L, Luật sư của Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn L thuộc Đoàn Luật sư
thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

43
Page 44

- Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn V.


Địa chỉ: Số 121 đường Y, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại
diện theo pháp luật: Ông Thái Hoạt Đ, chức vụ: Giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Bà Nguyễn Thị Ngọc O -
Sinh năm: 1966.
Địa chỉ: 561/23/42 đường X, Phường Y, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh
(Văn bản ủy quyền ngày19/5/2017). Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Đàm Thận C
Địa chỉ: Thôn H, xã M, thị xã S, tỉnh Bắc Ninh. Vắng mặt.
+ Ngân hàng Thương mại cổ phần A
Địa chỉ: Số 442 đường K, Phường H, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chi nhánh Đà Nẵng: Số 218 đường Đ, quận C, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Đức T - chức vụ: Nhân viên
(Văn bản ủy quyền số 44/UQ-DAN.17 ngày 26/5/2017). Ông T có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và dịch vụ T
Địa chỉ: Z72- Z77 đường Đ, quận S, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đàm Thận C - Chức vụ: Giám đốc.
Vắng mặt.
- Người kháng cáo: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thương
mại du lịch P, là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thương mại du lịch P (sau
đây gọi tắt là Công ty P) và Công ty trách nhiệm hữu hạn V (sau đây gọi tắt là
Công ty V) ký kết Hợp đồng thuê thương hiệu và vật dụng quán bar số
10/HĐKT/2016 ngày 28/3/2016. Theo Hợp đồng, Công ty P thuê Công ty V tài
sản là quyền sử dụng nhãn hiệu “SSL” và vật dụng quán Bar theo danh mục tài
sản đính kèm; hình thức sử dụng: độc quyền; thời hạn thuê là 03 năm kể từ ngày
01/4/2016 đến ngày 01/5/2019 với giá thuê 3.375.000.000 đồng (tương đương
150.000 USD); thanh toán theo từng năm với số tiền 1.125.000.000 đồng (tương
đương 50.000 USD) bằng hình thức chuyển vào tài khoản cá nhân của ông Thái
Hoạt Đ tại Ngân hàng N - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, ông Đ chịu trách
nhiệm chuyển cho Công ty V.
Để đảm bảo thực hiện Hợp đồng số 10/HĐKT/2016, Công ty P có đề nghị
và được Ngân hàng Thương mại cổ phần A - Chi nhánh Đà Nẵng phát hành Thư
bảo lãnh thanh toán số BLTT.DAN.7055.280316 ngày 28/3/2016. Tài sản bảo

44
Page 45

đảm để Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh là Sổ tiết kiệm mở tại Ngân hàng
TMCP A - Chi nhánh Bắc Ninh đứng tên ông C.
Đồng thời, để có mặt bằng kinh doanh quán bar, trước đó ngày 25/3/2016,
Công ty P ký kết với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ T
(sau đây gọi tắt là Công ty T) Hợp đồng thuê mặt bằng số 2503/HĐMB-2016.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty P không thanh toán được tiền thuê
mặt bằng cho Công ty T các tháng 9/2016, 10/2016 và 11/2016 với tổng số tiền
là 90.000.000 đồng, nên ngày 01/12/2016 Công ty T gửi Thông báo đơn phương
chấm dứt hợp đồng cho thuê mặt bằng số 2503/HĐMB-2016 kể từ ngày
31/12/2016 và yêu cầu Công ty P bàn giao mặt bằng đang sử dụng kinh doanh
quán bar SSL cho Công ty T. Do đó, Công ty P đã nhiều lần gửi văn bản đến
Công ty V đề nghị thay đổi nội dung Hợp đồng 10/HĐKT/2016 ngày 28/3/2016,
cụ thể số tiền thuê trong 3 năm đề nghị sửa đổi còn 2.250.000.000 đồng và chia
làm 2 đợt thanh toán cho phù hợp với khả năng của Công ty P nhưng không
được Công ty V chấp nhận.
Công ty P cho rằng việc Công ty T đơn phương chấm dứt Hợp đồng thuê
mặt bằng số 2503/HĐMB-2016 làm hoàn cảnh thay đổi cơ bản và Công ty P mất
khả năng tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 10/HĐKT/2016 với Công ty V theo
quy định tại Điều 420 Bộ luật Dân sự 2015. Ngoài ra, điều khoản thanh toán
trong Hợp đồng thuê thương hiệu các bên thỏa thuận chuyển qua tài khoản cá
nhân của ông Thái Hoạt Đ là vi phạm pháp luật, có dấu hiệu trốn thuế nên vô
hiệu; và hiện nay có đơn vị khác sử dụng nhãn hiệu SSL tại Đà Nẵng, điều đó
cho thấy Công ty V đã không đảm bảo quyền sử dụng trọn vẹn thương hiệu này
tại Đà Nẵng cho Công ty P như thỏa thuận trong hợp đồng.
Từ những lý do trên, Công ty P yêu cầu Tòa án tuyên chấm dứt hợp đồng
thuê thương hiệu và vật dụng quán bar số 10/HĐKT/2016 ngày 28/3/2016 giữa
Công ty P và Công ty V kể từ ngày 01/5/2017 và tuyên hủy Thư bảo lãnh thanh
toán số BLTT.DAN.7055.280316 ngày 28/3/2016 do Ngân hàng TMCP A - Chi
nhánh Đà Nẵng phát hành.
Ngày 23/5/2017, Công ty P có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, được Tòa án nhân dân quận Sơn Trà chấp nhận ban hành Quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2017/QĐ-ADBPKCTT ngày
23/5/2017 cấm Ngân hàng Thương mại cổ phần A – chi nhánh Đà Nẵng thực
hiện việc thanh toán cho Công ty V theo Thư bảo lãnh thanh toán số
BLTT.DAN.7055.280316 ngày 28/3/2016 cho đến khi có quyết định của Tòa án
về việc giải quyết tranh chấp giữa Công ty P và Công ty V.
Công ty V cho rằng Hợp đồng thuê thương hiệu và vật dụng quán bar số
10/HĐKT/2016 ngày 28/3/2016 là thỏa thuận của các bên, không bị ép buộc nên
Công ty P phải có trách nhiệm thực hiện đúng hợp đồng. Công ty P dựa vào lý
do đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê mặt bằng của Công ty T và cho đó

45
Page 46

là hoàn cảnh thay đổi cơ bản là không đúng với quy định của Điều 420 Bộ luật
Dân sự 2015 do không thuộc trường hợp bất khả kháng hay trở ngại khách quan,
vì thời điểm Công ty T đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê mặt bằng với Công
ty P thì người đại diện theo pháp luật của hai Công ty đều là ông C. Đối với thư
bảo lãnh là ý chí của Công ty P nhằm đảm bảo tài chính thực hiện hợp đồng đã
ký nên Công ty V đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty P
và tuyên hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 05/2017/QĐ-
BPKCTT ngày 23/5/2017.
Ngân hàng TMCP A và Công ty T đều có ý kiến không có liên quan đến
tranh chấp giữa Công ty P và Công ty V, đồng thời đề nghị vắng mặt trong quá
trình giải quyết vụ án. Đối với yêu cầu tuyên hủy thư bảo lãnh thanh toán thì
Ngân hàng TMCP A có ý kiến đề nghị Tòa án giải quyết vụ án đúng quy định
pháp luật và Ngân hàng sẽ chấp hành phán quyết của Tòa án.
Với nội dung trên, tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
06/2017/KDTM-ST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà đã quyết
định:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 269, 270,
271 Luật Thương mại; Điều 424 Bộ luật Dân sự năm 2005
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV
Thương mại du lịch P về việc yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê thương hiệu và
vật dụng quán bar số 10/HĐKT/2016 giữa Công ty TNHH MTV Thương mại du
lịch P và Công ty TNHH V kể từ ngày 01/5/2017 và Tuyên hủy thư bảo lãnh
thanh toán số BLTT .DAN.7055.280316 ngày 28/3/2016 về việc thực hiện nghĩa
vụ thanh toán theo hợp đồng thuê thương hiệu và vật dụng quán bar số
10/HĐKT/2016 giữa Công ty P và Công ty V do Ngân hàng TMCP A - Chi
nhánh Đà Nẵng phát hành nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Công ty P đối
với Công ty V.
2. Tuyên hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
05/2017/QĐ-ADBPKCTT của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà ngày 23/5/2017.
3. Về án phí:
Công ty P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 77.000.000 đồng, được trừ
vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 35.250.000 đồng theo biên lai thu số 0001713
ngày 31/5/2017 và biên lai số 009016 ngày 28/4/2017 tại Chi cục Thi hành án
dân sự quận Sơn Trà, còn phải nộp thêm án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm
là 41.750.000 đồng.

46
Page 47

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi
hành án dân sự của đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/10/2017, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà nhận đơn kháng cáo của
nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thương mại du lịch P
kháng cáo toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2017/KDTM-
ST ngày 29/9/2017 vì Tòa án cấp sơ thẩm đã có những sai lầm, thiếu sót sau:
1. Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện việc cấp, tống đạt các văn bản tố
tụng cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông C là vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng.
2. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết là
hoàn toàn sai lầm về luật áp dụng.
3. Việc hai Công ty thỏa thuận thanh toán chuyển qua tài khoản cá nhân
ông Thái Hoạt Đ trong Hợp đồng số 10/HĐKT/2016 là nhằm mục đích trốn
thuế, trái với quy định tại Điều 15 của Thông tư số 219/2013/BTC ngày
31/12/2013 hướng dẫn thi hành Luật Thuế giá trị gia tăng và Nghị định số
209/2013/NĐ-CP, nên thỏa thuận này vi phạm điều cấm của luật. Do đó, căn cứ
các điều 122,128,129 Bộ luật Dân sự 2005 thì Hợp đồng thuê thương hiệu và vật
dụng quán bar số 10/HĐKT/2016 bị vô hiệu.
4. Yêu cầu tuyên buộc chấm dứt hợp đồng thuê thương hiệu và vật dụng
quán bar số 10/HĐKT/2016 kể ngày 01/5/2017 vì quá trình hoạt động khó khăn,
doanh thu không đủ chi phí; chi phí trả cho Công ty V cao hơn doanh thu khiến
Công ty P mất khả năng thanh toán tiền thuê mặt bằng cho Công ty T và phải
tạm ngừng kinh doanh từ ngày 15/7/2016 đến ngày 14/7/2017. Với những thay
đổi trên Công ty P đã rơi vào tình thế không thể tiếp tục hoạt động kinh doanh,
phù hợp với quy định tại Điều 420 Bộ luật Dân sự 2015.
5. Về án phí: Nguyên đơn yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê và tuyên hủy
thư bảo lãnh là vụ án dân sự không có giá ngạch, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tính
án phí có giá ngạch là không đúng.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn giữ nguyên đơn kháng cáo, đại diện
của nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đại diện hợp pháp của bị đơn đề nghị bác
đơn kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:

47
Page 48

Tòa án đã triệu tập hợp lệ đương sự tham gia tố tụng nhưng đại diện theo
ủy quyền của Ngân hàng Thương mại cổ phần A có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt; đại diện hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại và dịch vụ
T, cũng như ông C (Bản án sơ thẩm xác định ông Đàm Thuận C là không đúng)
vắng mặt lần thứ 2 không có lý do. Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự này.
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:
Tại Điều 5 “Hợp đồng thuê thương hiệu và vật dụng quán bar” số
10/HĐKT/2016 ngày 28/3/2016 các bên đương sự thỏa thuận: “Nếu không thỏa
thuận được, việc tranh chấp sẽ được các bên đồng ý đưa vụ việc ra giải quyết
tại Tòa án nhân dân nơi thực hiện hợp đồng”. Nguyên đơn xác định nơi thực
hiện hợp đồng là tại quận Sơn Trà nên ngày 28/4/2017 nộp đơn khởi kiện, được
Tòa án nhân dân quận Sơn Trà căn cứ điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng
dân sự thụ lý vụ án, bị đơn thống nhất về thẩm quyền giải quyết vụ án tại Tòa án
cấp sơ thẩm.
[2.1] Tranh chấp giữa Công ty P và Công ty V phát sinh từ “Hợp đồng
thuê thương hiệu và vật dụng quán bar” số 10/HĐKT/2016 ngày 28/3/2016, theo
đó Công ty P được sử dụng nhãn hiệu “SSL” và vật dụng quán Bar theo danh
mục tài sản đính kèm. Nhãn hiệu “SSL” là đối tượng sở hữu công nghiệp được
Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu hàng hóa số 63021, Công ty V nhận chuyển nhượng toàn bộ quyền sở
hữu theo Quyết định số 1227/QĐ- SHTT ngày 22/3/2016. Do đó, “Hợp đồng
thuê thương hiệu và vật dụng quán bar” về bản chất là hợp đồng chuyển quyền
sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp được quy định tại Điều 141 Luật Sở hữu
trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 03/4/2008 Hướng dẫn áp dụng một số quy
định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ
tại Toà án nhân dân xác định tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối
tượng sở hữu công nghiệp (điểm m khoản 3 mục I phần A Thông tư) là tranh
chấp về sở hữu trí tuệ. Như vậy tranh chấp phát sinh giữa Công ty P và Công ty
V về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là tranh
chấp kinh doanh thương mại về sở hữu trí tuệ được quy định tại khoản 2 Điều
30 Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo điểm a khoản 1 Điều 37 và điểm a khoản 3
Điều 38 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp nói trên thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Nguyên đơn khởi kiện tại Tòa án nơi
thực hiện hợp đồng theo điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ
án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng. Do vậy Tòa án nhân dân quận Sơn Trà thụ lý giải quyết là không đúng
thẩm quyền.
[3] Phát biểu tại phiên tòa của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố
Đà Nẵng: Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ quy định

48
Page 49

pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự đã thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ của mình. Ông Thái Hoạt Đ là người được hai Công ty thỏa thuận
chuyển tiền thực hiện Hợp đồng số 10/HĐKT/2016 vào tài khoản cá nhân nhưng
cấp sơ thẩm không đưa ông Thái Hoạt Đ vào tham gia tố tụng với tư cách người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.
Về nội dung: Do tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án không đúng thẩm quyền
nên đại diện Viện Kiểm sát đề nghị hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng giải quyết sơ thẩm theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[4] Xét thấy việc thụ lý giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền của Tòa
án cấp sơ thẩm là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, do vậy Hội đồng xét
xử phúc thẩm căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự hủy bản án sơ
thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
giải quyết theo thẩm quyền.
Trong quá trình giải quyết vụ án, theo yêu cầu của nguyên đơn Tòa án cấp
sơ thẩm đã ra Quyết định áp dụng biện pháp khẩn tạm thời số 05/2017/QĐ-
BPKCTT ngày 23/5/2017. Tại Bản án số 06/2017/KDTM- ST ngày 29/9/2017
Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên.
Do Bản án sơ thẩm bị hủy nên việc hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời số 05/2017/QĐ-BPKCTT ngày 23/5/2017 của Tòa án nhân
dân quận Sơn Trà sẽ được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[5] Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm nên không xem xét
các nội dung kháng cáo của nguyên đơn. Đương sự kháng cáo được nhận lại tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 3
Điều 38, điểm g khoản 1 Điều 40 và khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 141 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2009.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2017/KDTM- ST
ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

49
Page 50

2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
3. Hoàn trả Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thương mại du
lịch P số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 2000.000 đồng đã nộp theo biên lai thu
số 0001997 ngày 18/10/2017 (300.000 đồng) và biên lai số 008299 ngày
10/11/2017 (1.700.000 đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND TP. Đà Nẵng;
- TAND quận Sơn Trà;
- Chi cục THADS quận Sơn Trà;
- Lưu: hồ sơ vụ án.

Trần Đình Quảng

50
Page 51

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH DƯƠNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 130/2018/DS-PT
Ngày 10-7-2018
V/v tranh chấp yêu cầu bồi thường
thiệt hại do tài sản bị xâm phạm

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đào Minh Đa
Các Thẩm phán: Ông Đoàn Hoài Trí
Bà Nguyễn Thị Duyên Hằng
- Thư ký phiên tòa: Bà Dương Thị Kim Thoa – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- i i n i n i m t nh n n t nh nh ư ng tham gia phiên
tòa: Bà Đặng Hà Nhung - Ki m sát viên.
Ngày 10 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 92/2018/TLPT-DS ngày 03 tháng 5
năm 2018 về việc “tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm
phạm”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2018/DSST ngày 27 tháng 02 năm 2018
của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm 96/2017/DS-PT ngày 24
tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Quang Đ, sinh năm 1966; địa chỉ: Tổ 4, ấp Tân L,
xã Đất C, huyện B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm
1968; địa chỉ: Tổ 4, ấp T, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Dương (văn bản ủy quyền
ngày 16 tháng 10 năm 2017).
- Các bị đơn:
1. Ông Nguyễn Đắc T1, sinh năm 1957;
2. Bà Lê Thị Thanh T2, sinh năm 1961;
Cùng địa chỉ: Tổ 4, ấp T, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Dương.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

51
Page 52

1. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1968;


2. Bà Lê Thị G, sinh năm 1988;
3. Bà Lê Thị C, sinh năm 1987;
4. Ông Lê Quang T3, sinh năm 1991;
5. Bà Lê Thanh T4, sinh năm 1993;
Cùng địa chỉ: Tổ 4, ấp T, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Dương.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Đắc T.

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Nguyên đơn trình bày:
Ngày 13 tháng 7 năm 2017, cây cao su của vợ chồng ông Nguyễn Đắc T1,
bà Lê Thị Thanh T2 bị ngã đập vào bình điện (Trạm biến áp 1x25KVA) của vợ
chồng ông Lê Quang Đ, bà Lê Thị V làm đứt dây, gây nổ làm hư hỏng thiết bị,
dẫn đến mất điện. Khi nhân viên của Điện lực huyện B xuống thì bà V liên hệ
với vợ chồng ông T1, bà T2 sang đ giải quyết nhưng chờ rất lâu thì bà T2 mới
đến; bà V đã soi đèn pin lên bình điện cho bà T2 xem cành cây cao su của bà T2
đang nằm trên Trạm biến áp 1x25KVA của gia đình bà V làm đứt dây, hư hỏng
thiết bị, gây nổ bình điện dẫn đến mất điện.
Sau khi cho bà T2 xem hiện trạng vụ việc, ông Đ đã yêu cầu bà T2 cho
nhân viên của Điện lực huyện B tiến hành chặt cành cây ngã trên trạm biến áp
xuống, sửa chữa lại trạm biến áp và yêu cầu gia đình bà T2 phải chịu hoàn toàn
chi phí sửa chữa. Tuy nhiên, bà T2 cho rằng do nhà ông Đ, bà V sử dụng điện
quá tải nên bị nổ bình, hư hỏng nên không chịu trách nhiệm đối với chi phí sửa
chữa. Nghe bà T2 nói vậy thì nhân viên của Điện lực huyện B giải thích cho bà
T2 về nguyên nhân làm đứt dây và hư hỏng thiết bị điện gây nổ bình điện, dẫn
đến mất điện là do cành cây cao su gãy ngã vào bình điện, bà T2 không ở lại đ
nghe giải thích mà chạy xe về nhà. Vợ chồng ông Đ, bà V đến Công an xã Đ
nhờ ra làm chứng đ cho đơn vị sửa chữa điện chặt cành cao su đang nằm trên
bình điện (Trạm biến áp 1x25KVA) đ sửa chữa nhằm có điện đ sử dụng.
Khi sửa chữa, nhân viên của Điện lực B đã cúp điện khu nhà trọ của ông
Đ, bà V 01 ngày và 01 đêm, chi phí sửa chữa hết số tiền là 9.087.000 đồng. Do
đó, ông Lê Quang Đ yêu cầu ông Nguyễn Đắc T1 cùng bà Lê Thị Thanh T2 phải
bồi thường chi phí sửa chữa là 9.087.000 đồng.
Bị đơn trình bày:
Ông T1, bà T2 không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
vì các lý do sau:
Thứ nhất: Nguyên nhân gây hư hỏng tại Trạm biến áp 1x25KVA của ông
Đ vào ngày 13 tháng 7 năm 2017 không phải do cây cao su của ông T1, bà T2
gây ra. Nếu ông Đ cho rằng nhánh cây cao su ngã đè lên dây diện, gây hư hỏng

52
Page 53

tại Trạm biến áp 1x25KVA của ông thì tại sao ông Đ không lưu lại hình ảnh
hoặc video, ghi nhận sự việc này đ làm chứng cứ chứng minh và đ buộc bồi
thường? Mặt khác, theo biên bản làm việc ngày 13 tháng 7 năm 2017 ghi nhận
sự việc nhánh cây cao su ngã vào làm đứt 01 “hotline” tại Trạm biến áp
1x25KVA của ông Đ mà không có sự chứng kiến và chữ ký của vợ chồng ông
T1, bà T2 và không được đóng dấu bởi cơ quan có thẩm quyền, văn bản này
không có giá trị pháp lý, thiếu khách quan và không phản ánh đúng nguyên nhân
gây ra sự cố hư hỏng tại Trạm biến áp 1x25KVA. Thời đi m gây ra sự cố hư
hỏng tại Trạm biến áp 1x25KVA thì trời mưa lớn, có nhiều sấm sét, sự cố xảy ra
có th là do thiên tai hoặc nguyên nhân khác.
Thứ hai: Ông Đ không chứng minh được chi phí khắc phục thiệt hại sửa
chữa Trạm biến áp 1x25KVA, không cung cấp được hóa đơn, chứng từ cho từng
khoản chi phí khắc phục thiệt hại mà chỉ cung cấp cho Tòa án: “Bảng chiết tính
thí nghiệm trạm biến áp sự cố” ngày 15 tháng 7 năm 2017 có chữ ký và họ tên
ông Trương Văn H. Biên bản ghi nhận sự cố tại Trạm biến áp 1x25KVA ngày
13 tháng 7 năm 2017 do nhân viên của Điện lực huyện B lập và sửa chữa cũng
do nhân viên Điện lực huyện B thực hiện (theo lời trình bày của ông Đ) nhưng
phiếu thu ngày 17 tháng 7 năm 2017 với nội dung thu tiền sửa chữa Trạm biến
áp 1x25KVA số tiền là 9.087.000 đồng không có chữ ký của thủ trưởng đơn vị,
kế toán trưởng, thủ quỹ, không có hóa đơn; người lập bảng ngày 15 tháng 7 năm
2017 và người viết phiếu thu ngày 17 tháng 7 năm 2017 đều do ông Trương Văn
H thực hiện.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Nguyễn Thị V là vợ ông Đ thống nhất với ý kiến và yêu cầu của ông
Đ.
Bà Lê Thị G, bà Lê Thị C, bà Lê Thanh T4 và ông Lê Quang T3 là con
của ông Đ và bà V thống nhất với ý kiến và yêu cầu của ông Đ.
Người làm chứng ông Nguyễn Văn S trình bày:
Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 7 năm 2017, ông S nhận được tin
báo của quần chúng nhân dân về việc cháy nổ gây mất điện tại Trạm biến áp
1x25KVA của ông Lê Quang Đ tại ấp T, xã Đ, huyện B. Khi đến nơi thì ông S
thấy có một nhánh cây cao su gãy nằm trên dây điện của hộ ông Lê Quang Đ;
ngoài ra ông S không biết gì khác.
Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2018/DS-ST ngày 27 tháng 02 năm 2018
của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về tranh chấp bồi thường thiệt hại
do tài sản bị xâm phạm đối với ông Nguyễn Đắc T1 và bà Lê Thị Thanh T2.
Buộc ông Nguyễn Đắc T1 và bà Lê Thị Thanh T2 iên đới bồi thường cho
ông Lê Quang Đ số tiền 9.087.000 đồng (chín triệu không trăm tám mươi bảy
nghìn đồng).

53
Page 54

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, trách nhiệm chậm thi hành
án và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 06 tháng 3 năm 2018, bị đơn ông Nguyễn Đắc T1 kháng cáo toàn
bộ bản án dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện Ki m sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát bi u ý kiến:
Về tố tụng: Những người tham gia tố tụng và tiến hành tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu bồi thường số tiền
9.087.000 đồng do cao su của bị đơn ngã đè lên Trạm biến áp 1x25KVA làm đứt
dây, hư hỏng thiết bị bình điện, gây nổ dẫn đến mất điện. Theo biên bản làm
việc ngày 13 tháng 7 năm 2017, bảng chiết tính thí nghiệm trạm biến áp sự cố
ngày 15 tháng 7 năm 2017, biên bản xác minh ngày 04 tháng 12 năm 2017, lời
khai người làm chứng th hiện có việc cây cao su của bị đơn bị đổ, cành cây đè
lên Trạm biến áp 1x25KVA của nguyên đơn làm đứt dây, hư hỏng bình điện dẫn
đến mất điện và nguyên đơn thực hiện sửa chữa với tổng chi phí 9.087.000
đồng. Tuy nhiên bảng chiết tính thí nghiệm trạm biến áp sự cố ngày 15 tháng 7
năm 2017 th hiện có 700.000 đồng là chi phí bảo trì trạm biến áp của nguyên
đơn nhưng Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn bồi thường cho nguyên đơn là chưa
phù hợp. Kháng cáo của bị đơn là có cơ sở chấp nhận một phần.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị
đơn, sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng buộc bị đơn bồi thường cho nguyên
đơn số tiền 8.387.000 đồng.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được
thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày
của đương sự, ý kiến của Ki m sát viên;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


[1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện thì ông Đ khởi kiện vợ chồng ông T1,
bà T2; do đó, vợ chồng ông T1, bà T2 là bị đơn trong vụ án. Quá trình tố tụng,
Tòa án cấp sơ thẩm xác định tư cách tố tụng bị đơn trong vụ án là ông T1, bà T2
nhưng nội dung bản án sơ thẩm lại xác định tư cách của bà T2 là người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan là không đúng. Tuy nhiên, vi phạm tố tụng của Tòa án cấp
sơ thẩm không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
bà T2 nên không cần phải hủy bản án dân sự sơ thẩm.
[2] Về nội dung: Nguyên đơn ông Đ khởi kiện yêu cầu bị đơn ông T1, bà
T2 bồi thường thiệt hại do nhánh cây cao su của ông T1, bà T2 bị ngã vào Trạm
biến áp 1x25KVA của ông Đ, bà V dùng cho việc kinh doanh nhà trọ làm hư

54
Page 55

hỏng, phải sửa chữa khắc phục với số tiền 9.087.000 đồng; ông Đ yêu cầu ông
T1, bà T2 bồi thường số tiền 9.087.000 đồng.
Bị đơn ông T1, bà T2 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đ và
trình bày: Không có chứng cứ chứng minh nhánh cây cao su của ông T1, bà T2
gãy ngã vào Trạm biến áp 1x25KVA của ông Đ, bà V; thời đi m xảy ra sự cố
trời mưa lớn, có nhiều sấm sét nên có th là do thiên tai hoặc do nguyên nhân
khác gây hư hỏng Trạm biến áp 1x25KVA. Mặt khác, chứng từ sửa chữa Trạm
biến áp 1x25KVA do ông Đ đưa ra là không hợp pháp; phiếu thu tiền sửa chữa
không có chữ ký của thủ trưởng đơn vị, kế toán trưởng, thủ quỹ, không có hóa
đơn đính kèm, người lập bảng chiết tính ngày 15 tháng 7 năm 2017 và người
viết phiếu thu ngày 17 tháng 7 năm 2017 đều do ông Trương Văn H thực hiện.
[3] Xét lời khai của hai bên đương sự, các chứng cứ do hai bên đương sự
cung cấp và các chứng cứ do Tòa án thu thập được, thấy rằng:
Biên bản làm việc về sự cố mất điện tại Trạm biến áp 1x25KVA của ông
Lê Quang Đ do ông Nguyễn Ngọc M - nhân viên của Điện lực huyện B lập vào
lúc 21 giờ 30 phút ngày 13 tháng 7 năm 2017 (bút lục 22), có nội dung: ...... “do
trời mưa ,gió lớn làm nhánh cây cao su ngã vào trạm điện gây đứt 01 hotline tại
trạm và đứt 01 chì FCO pha B trụ 01 NR xã Đ, đứt 01 chì FCO tại trạm...hiện
tại điện lực đang cô lập điện nhánh rẽ khách hàng.. đề nghị khách hàng phát
quang cây vi phạm hành lang an toàn lưới điện thay đà composite thí nghiệm
kiểm tra bảo trì lại trạm biến áp do hiện tại không đảm bảo vận hành…”; biên
bản có chữ ký xác nhận của ông Nguyễn Văn S (Công an xã Đ) và bà Nguyễn
Thị V (vợ ông Đ). Bản tự khai ngày 10 tháng 01 năm 2018, ông Nguyễn Văn S
cũng thừa nhận nội dung trên.
Biên bản xác minh ngày 04 tháng 12 năm 2017 (bút lục số 32), ông
Trương Văn H là nhân viên của Điện lực huyện B xác nhận: “..Trạm biến áp
1x25KVA của ông Lê Quang Đ hỏng thiết bị do trời mưa gió lớn làm nhánh cây
cao su ngã vào trạm điện gây đứt 01 hotline tại trạm và đứt 01 chì FCO pha B
tại trụ 01 nhánh rẽ Đ, đứt 01 chì FCO tại trạm, gây mất điện trạm Lê Quang Đ.
Các cây cao su ngoài hành lang an toàn đường điện; tuy nhiên, do trời mưa, gió
lớn khiến cành cây ngã vào trạm điện. Chi phí sửa chữa Trạm biến áp 1x25KVA
của ông Lê Quang Đ theo Bảng chiết tính thí nghiệm trạm biến áp sự cố ngày
15 tháng 7 năm 2017 là 9.087.000 đồng…”.
Tại phiên tòa sơ thẩm (bút lục số 72) ông T1, bà T2 thừa nhận do mưa gió
lớn nên nhánh cây cao su của ông T1 va quẹt vào trạm biến áp của ông Đ gây sự
cố mất điện.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông T1 và bà T2 không thừa nhận nhánh cây
cao su của ông T1 ngã đè vào trạm biến áp của ông Đ. Ông Đ đưa ra các hình
chụp th hiện có duy nhất vườn cây cao su của ông T1, bà T2 là gần trạm biến
áp, có cây cao su nghiêng về hướng trạm biến áp của ông Đ; ông T1 và bà T2
thừa nhận hình ảnh chụp thực tế vườn cao su của ông T1 và trạm biến áp của
ông Đ. Hình chụp thực tế phản ánh trạm biến áp của ông Đ sát ranh đất vườn

55
Page 56

cao su của ông T1, không có cây lâu năm hoặc cao su của người khác gần trạm
biến áp.
Do đó có căn cứ xác định nhánh cây cao su lâu năm của ông T1 gãy ngã
vào trạm biến áp, gây chập điện.
Biên bản xem xét thẩm định ngày 27 tháng 6 năm 2018 th hiện: Trạm
biến áp 1x25KVA của ông Đ cách hàng cây cao su của gia đình ông T1 khoảng
05m; ranh giới đất giữa hai bên là hàng rào kẽm gai và lưới B40; ông T1 đã cưa
cây cao su gầm trạm biến áp vào cuối tháng 4 năm 2018; ông T1 xác định không
muốn cưa cây cao su nhưng do Trưởng ấp T vận động gia đình ông cưa do mùa
mưa bão nên ông mới đồng ý.
Với những chứng cứ đã phân tích ở trên thì có căn cứ xác định: Trời mưa
to, gió lớn nên làm gãy nhánh cây cao su của ông T1, bà T2 và rơi trúng Trạm
biến áp 1x25KVA của ông Đ, gây sự cố mất điện.
[4] Khoản 2, 3 Điều 584 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “..Người
gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp
thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh
theo quy định tại khoản 2 Điều này…”.
Điều 604 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Chủ sở hữu, người
chiếm hữu, người được giao quản lý phải bồi thường thiệt hại do cây cối gây
ra”.
Cây cao su của ông T1, bà T2 trồng trên đất ông T1, bà T2 và đảm bảo
khoảng cách an toàn (khoảng cách 05m) với trạm Trạm biến áp 1x25KVA của
ông Đ, nhưng rõ ràng hình chụp cây cao su bị nghiêng về hướng trạm biến áp,
khi có mưa to, gió lớn nhánh cây cao su bị gãy rơi trúng trạm điện gây sự cố mất
điện. Do đó, mặc dù có sự kiện bất khả kháng nhưng ông T1, bà T2 vẫn phải
chịu một phần trách nhiệm về sự cố làm hư hỏng trạm biến áp của ông Đ, bà V.
[5] Theo bảng chiết tính thí nghiệm trạm biến áp ngày 15 tháng 7 năm
2017 và phiếu thu tiền ngày 17 tháng 7 năm 2017 (bút lục số 23, 35) sửa chữa
Trạm biến áp 1x25KVA mà ông Đ cung cấp thì số tiền sửa chữa là 9.087.000
đồng; tuy nhiên, hóa đơn đã bao gồm các chi phí bảo trì, vệ sinh Trạm biến áp
với số tiền 700.000 đồng, ông Đ và bà V yêu cầu bồi thường khoản tiền này là
chưa đúng pháp luật. Do đó, trừ chi phí bảo trì, vệ sinh là 700.000 đồng thì thiệt
hại thực tế của ông Đ, bà V là 8.387.000 đồng; ông T1, bà T2 phải chịu trách
nhiệm bồi thường ½ thiệt hại xảy ra là 4.193.500 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Đ là chưa đảm
bảo quyền lợi của ông T1, bà T2.

56
Page 57

Với những nhận định trên, cần chấp nhận một phần kháng cáo của ông T
và ý kiến của đại diện Viện Ki m sát nhân dân tỉnh Bình Dương; sửa bản án dân
sự sơ thẩm.
Án phí dân sự sơ thẩm: Các bên đương sự phải chịu theo luật định.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông T1 không phải chịu.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 147; khoản 2 Điều 148; khoản 2 Điều 308; Điều 309; Điều
313 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2, 3 Điều 584, Điều 604 của Bộ luật Dân
sự năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Đắc
T1.
2. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2018/DS-ST ngày 27 tháng 02 năm
2018 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương như sau:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Quang Đ.
Buộc ông Nguyễn Đắc T1 và bà Lê Thị Thanh T2 phải liên đới bồi
thường cho ông Lê Quang Đ, bà Nguyễn Thị V số tiền 4.193.500 đồng (bốn
triệu, một trăm chín mươi ba nghìn, năm trăm đồng).
K từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến
khi thi hành xong nếu người phải thi hành án chậm thi hành thì phải trả thêm lãi
theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015
tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành.
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Đắc T1 và bà Lê Thị Thanh T2 phải liên đới chịu 300.000
đồng (ba trăm nghìn đồng).
Ông Lê Quang Đ phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), khấu trừ
tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai
thu tiền số 0016627 ngày 28 tháng 9 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện B.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh
Bình Dương trả cho ông Nguyễn Đắc T 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0016820 ngày 08 tháng 3 năm 2018
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B.

57
Page 58

Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành
án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6, 7A và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật k từ ngày tuyên án./.

N i nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- VKSND tỉnh Bình Dương; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Chi cục THADS huyện B;
(đã ký)
- TAND huyện B;
- Các đương sự (đ thi hành);
- Tổ Hành chính Tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.

Đào Minh Đa

58
Page 59
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH HÀ GIANG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 16/2018/DS-PT
Ngày 22- 10 - 2018
V/v “Tranh chấp bồi thường
thiệt hại tính mạng do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra”.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Mai Văn Hùng
Các Thẩm phán: Ông Trương Huy Huân;
Bà Nguyễn Thị Xuân
- Thư ký phiên tòa: ông Hoàng Văn Quán - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang tham gia phiên tòa: Ông
An Viết Thành - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/2018/TLDS-PT ngày 25 tháng 7 năm 2018
về tranh chấp bồi thường thiệt hại tính mạng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 02/2018/DS-ST ngày 18 tháng 6 năm 2018 của
Toà án nhân dân huyện V bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 19/2018/QĐ-PT ngày 24
tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Kim H1 sinh năm 1988. Trú tại: Xã V2, huyện
V, tỉnh Hà Giang; có mặt;
2. Bị đơn: Anh Phùng Đình H2 sinh năm 1973. Trú tại: Thị trấn V1, huyện V,
tỉnh Hà Giang ; có mặt;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Cao Xuân H3 – Luật
sư của Văn phòng luật sư Gia Long thuộc đoàn luật sư tỉnh Hà Giang. Địa chỉ:
Đường N, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Giang; có mặt;
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nông Đình C sinh năm 1950, trú tại: Xã V2, huyện V, tỉnh Hà Giang, có
mặt;

59
1
Page 60
- Bà Nguyễn Thị T sinh năm 1951, trú tại: Xã V2, huyện V, tỉnh Hà Giang, có
mặt;
- Cháu Nông Thị Hoàng G sinh năm 2012 và cháu Nông Hoàng H4, sinh 2015.
Đều trú tại: Xã V2, huyện V, tỉnh Hà Giang.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (cháu
Nông Thị Hoàng G và cháu Nông Hoàng H4): Chị Hoàng Thị Kim H1; có mặt.
4. Người kháng cáo: Bị đơn anh Phùng Đình H2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hoàng Thị Kim
H1 trình bày: Vào ngày 03/4/2016 anh Nông Văn L (chồng chị H1) điều khiển xe mô
tô mang biển kiểm soát 23D1-020.38 va chạm vào xe ô tô mang biển kiểm soát 34K-
1416 do anh Phùng Đình H2 điều khiển, đến buổi trưa cùng ngày thì xảy ra tai nạn giao
thông làm anh L bị trọng thương nặng, anh L được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa
khoa huyện V, tỉnh Hà Giang. Do vết thương quá nặng không thể cứu chữa được anh
Nông Văn L đã tử vong. Sau khi anh L tử vong, gia đình anh Phùng Đình H2 có đưa
cho gia đình chị H1 10.000.000 đồng để chi phí việc mai táng cho anh L. Sau này do
hai bên gia đình chị H1 và anh H2 không thống nhất thỏa thuận được số tiền mà gia
đình chị H1 yêu cầu. Ngày 19/10/2017 chị H1 có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân
huyện V, tỉnh Hà Giang yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc anh H2 phải có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại khoản tiền viện phí là 425.000 đồng, lo chi phí tất cả các khoản mai
táng cho anh Nông Văn L tổng cộng là 50.006.000 đồng, tổn thất về tinh thần cho 05
người (Chị H1, cháu G, cháu H4, ông C và bà T) là 70.000.000 đồng và tiền cấp dưỡng
cho con của anh L là cháu: Nông Hoàng H4, sinh ngày 22/7/2015 đến khi cháu H4 đủ
18 tuổi với số tiền là 1.500.000 đồng/tháng, tổng cộng là 432.431.000 đồng.
Tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai ngày 23/01/2018 bị đơn anh Phùng Đình
H2 trình bày: Vào ngày 03/4/2016, anh H2 điều khiển ô tô mang biển kiểm soát 30K-
1416 đi chở công cụ xây dựng nhà ở tại thị trấn V1, huyện V, tỉnh Hà Giang đi bốc
các công cụ, vật liệu xây dựng để xây nhà, khi bốc xong anh H2 tiếp tục điều khiển xe
đi đến Km 18 cổng nghĩa trang Liệt sỹ huyện V anh H2 bật đèn tín hiệu xi nhan xe
xin quay đầu, xe sang đường thì nghe thấy tiếng đâm vào xe của mình, khi đó anh H2
dừng xe, tắt máy, xuống xe thấy xe máy của anh L va vào dưới gầm xe ô tô, còn
người thì văng ra ngoài đường, sau đó anh H2 hô hoán mọi người xung quanh để đưa
anh L đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện V, tỉnh Hà Giang. Do bị thương nặng
anh Nông Văn L đã chết. Do sợ hãi anh H2 đã bỏ trốn, còn xe ô tô của anh H2 bị tạm
giữ tại Công an huyện V, đến ngày 04/4/2016 anh H2 ra Công an huyện V trình báo
về sự việc xảy ra vào ngày 03/4/2016, sau khi xảy ra sự việc gia đình anh H2 có hỗ
trợ 10.000.000 đồng để chi phí việc mai táng cho anh L.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 31/5/2018 và tại phiên tòa sơ thẩm người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nông Đình C trình bày: Vào ngày 03/4/2016 anh
Nông Văn L là con trai ông (anh L, chị H1 ở chung với ông) có điều khiển xe mô tô
60
Page 61
BKS 23D1-02038 đi đâu thì ông không rõ, đến 12 giờ 40 phút cùng ngày có bác
Nguyễn Đình Duy xã Đội trưởng xã Đ có điện về báo là anh L bị tai nạn, còn địa
điểm xảy ra ở chỗ nào thì ông không nắm được, sau đó người nhà ông xuống nơi xảy
ra tai nạn và đưa anh L đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện V, do bị thương tích
nặng nên anh L đã bị tử vong, sau khi xảy ra tai nạn anh H2 có đưa 10.000.000 đồng
cho người nhận là ông Nguyễn Quang P là hàng xóm mang chuyển cho gia đình ông
để hỗ trợ chi phí mai táng. Ba tháng sau anh H2 có xuống trao đổi và có nói đưa cho
gia đình ông số tiền 50.000.000 đồng nữa nhưng anh H2 chỉ nói và không thấy đưa
tiền, từ đó đến nay hai bên cũng không gặp nhau để thống nhất giải quyết vụ việc, do
đó chị H1 đã khởi kiện tại Tòa án. Ông đề nghị anh Phùng Đình H2 phải bồi thường
các khoản cho gia đình ông gồm: Chi phí mai táng cho anh L và các chi phí khác là
100.000.000 đồng; có trách nhiệm cấp dưỡng cho cháu Nông Hoàng H4 sinh ngày
22/7/2015 số tiền là 250.000.000 đồng đến khi cháu H4 đủ 18 tuổi; bồi thường tiền
tổn thất về tinh thần cho ông là: 26.000.000 đồng.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 31/5/2018, tại phiên tòa bà Nguyễn Thị T là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khai có nội dung: Vào ngày 03/4/2016 anh
Nông Văn L (là con trai bà, ở chung với vợ chồng bà) có nói cho bà biết là đi đám
cưới bạn tại thị trấn V1, huyện V, tỉnh Hà Giang khi đi anh L có điều khiển xe mô tô
biển kiểm soát 23D1-020.38, đến 12 giờ 40 phút cùng ngày xe mô tô của anh L có va
chạm vào xe ô tô biển kiểm soát 34K -1416 do anh Phùng Đình H2 điều khiển gây tai
nạn sau đó anh L bị tử vong, sau khi sự việc xảy ra tai nạn anh H2 có hỗ trợ cho gia
đình bà 10.000.000 đồng để chi phí việc mai táng cho anh L, sau 03 tháng anh H2 có
xuống gia đình tôi trao đổi là sẽ có trách nhiệm hỗ trợ thêm khoản tiền là 50.000.000
đồng nữa, nhưng gia đình bà không nhất trí từ đó anh H2 cũng không xuống để thỏa
thuận với gia đình bà nữa, nay chị H1 có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện V
yêu cầu giải quyết buộc anh H2 phải bồi thường thiệt hại cho gia đình bà. Bà đề nghị
Tòa án giải quyết buộc anh Phùng Đình H2 phải bồi thường các khoản chi phí mai
táng cho anh L là 100.000.000 đồng, đề nghị bồi thường tiền tổn thất về tinh thần cho
bà là: 26.000.000 đồng.
Tại bản khai ngày 18/10/2017 và tại phiên tòa sơ thẩm chị Hoàng Thị Kim H1
người đại diện hợp pháp cho cháu Nông Hoàng H4, cháu Nông Thị Hoàng G là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án trình bày: Cháu Nông Thị Hoàng G sinh
ngày 01/6/2012, cháu Nông Hoàng H4 sinh ngày 22/7/2015 là con đẻ của vợ chồng
chị, khi anh L bị tai nạn đã tử vong thì cháu H4 mới được hơn 6 tháng tuổi, vì cháu
H4 còn bé chưa thành niên nên khi còn sống anh L là người có nghĩa vụ cấp dưỡng,
do vậy chị đề nghị anh Phùng Đình H2 phải có nghĩa vụ cấp dưỡng để nuôi cháu H4
đến khi đủ 18 tuổi, đồng thời anh H2 phải bồi thường khoản tiền tổn thất về tinh thần
cho hai cháu mỗi cháu là 26.000.000 đồng.
Tại Bản án số: 02/2018/DS-ST ngày 18 tháng 6 năm 2018, Toà án nhân dân
huyện V đã quyết định:
Căn cứ Điều 584, 585, 586, 591, 601 Bộ luật dân sự 2015; khoản 1 Điều 147,
Điều 203, Điều 220, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
61
Page 62
điểm d khoản 1 Điều 12, khoản 1, 2, 9 Điều 26, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết
số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
* Tuyên:
- Chấp nhận đơn khởi kiện về việc “đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng bị
xâm phạm do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” của chị Hoàng Thị Kim H1.
- Buộc anh Phùng Đình H2 phải bồi thường các khoản chi phí sau:
+ Bồi thường khoản tiền viện phí cho chị Hoàng Thị Kim H1, địa chỉ: Xã V2,
huyện V, tỉnh Hà Giang là: 425.000đ (bốn trăm hai mươi năm nghìn đồng); Khoản
tiền mai táng phí là: 17.942.500đ - 10.000.000đ (đã bồi thường) = 7.942.500đ (bảy
triệu chín trăm bốn mươi hai nghìn năm trăm đồng); Tiền tổn thất về tinh thần là:
20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).
+ Bồi thường cho cháu Nông Thị Hoàng G, sinh ngày 01/6/2012, cháu Nông
Hoàng H4, sinh ngày 22/7/2015, địa chỉ: Xã V2, huyện V, tỉnh Hà Giang , do chị
Hoàng Thị Kim H1 làm Đại diện theo pháp luật, số tiền mỗi cháu là 15.000.000đ,
tổng cộng 02 cháu là 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng), số tiền này chị H1 là người
nhận.
+ Bồi thường cho ông Nông Đình C, địa chỉ: Xã V2, huyện V, tỉnh Hà Giang,
số tiền là: 10.000.000đ (mười triệu đông).
+ Bồi thường cho bà Nguyễn Thị T, địa chỉ: Xã V2, huyện V, tỉnh Hà Giang, số
tiền là: 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Tổng cộng anh Phùng Đình H2 phải bồi thường là: 78.367.500đ (bảy mươi tám
triệu ba trăm sáu mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
+ Anh Phùng Đình H2 phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nông Hoàng H4,
sinh ngày 22/7/2015 với số tiền là: 800.000đ (tám trăm nghìn đồng)/tháng cho đến
khi cháu H4 đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng theo tháng, thời điểm cấp dưỡng từ
tháng 5/2016, người nhận tiền cấp dưỡng là chị Hoàng Thị Kim H1, địa chỉ: Xã V2,
huyện V, tỉnh Hà Giang.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng
cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/6/2018, bị đơn anh Phùng Đình H2 kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số:
02/2018/DS-ST ngày 18/6/2018 của Toà án nhân dân huyện V, yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm: Không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng của nguyên
đơn Chị Hoàng Thị Kim H1; Hủy bản án sơ thẩm số: 02/2018/DS-ST ngày 18/6/2018
của Toà án nhân dân huyện V vì đúng với quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn
thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm:

62
Page 63
Không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn. Các đương sự không
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn
trình bày: Theo Thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm số 17 ngày
09/9/2016 của Công an huyện V thì anh Nông Văn L điều khiển xe mô tô trong tình
trạng hơi thở có nồng độ cồn 0,599mg/lít khí thở, không chú ý quan sát khi phía trước
có xe ô tô đi cùng chiều đang quay đầu, vượt ẩu là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vụ
tai nạn giao thông. Tai nạn giao thông xảy ra thuộc trường hợp bất khả kháng, anh
Phùng Đình H2 không có lỗi. Khi xảy ra tai nạn giao thông, anh Phùng Đình H2 đã
thực hiện đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 38 Luật giao thông đường bộ: a)
Dừng ngay phương tiện; giữ nguyên hiện trường; cấp cứu người bị nạn và phải có mặt
khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu. Theo quy định tại khoản 2 Điều 584 và điểm b
khoản 3 Điều 601 của BLDS thì anh Phùng Đình H2 không phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Về chi phí mai táng, Tòa án cấp sơ thẩm xác định không phù hợp với
hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án cấp sơ thẩm áp
dụng khoản 2 Điều 589 của BLDS để giải quyết yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh
thần là không đúng, Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm: Không
chấp nhận yều cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn, công nhận sự tự nguyện của
bị đơn đã hỗ trợ gia đình nạn nhân số tiền 10.000.000 đồng lo chi phí mai táng cho
nạn nhân.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang phát biểu ý kiến:
1. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng,
những người tham gia tố tụng và quan điểm về việc giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa phúc thẩm và các đương sự chấp hành đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
2. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308, Điều 309
BLTTDS năm 2015. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 02/2018/DS-ST ngày 18/6/2018
của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh Hà Giang, chấp nhận một phần yêu cầu bồi
thường của chị Hoàng Thị Kim H1:
- Buộc anh Phùng Đình H2 phải bồi thường các khoản sau:
+ Bồi thường tổn thất về tinh thần cho 05 người: Chị Hoàng Thị Kim H1 , cháu
Nông Thị Hoàng G, cháu Nông Hoàng H4, ông Nông Đình C, bà Nguyễn Thị T số
tiền 24.000.000 đồng;
+ Bồi thường cho chị Hoàng Thị Kim H1 về chi phí cứu chữa tại bệnh viện là
425.000 đồng;
+ Chi phí cho việc mai táng gồm mua áo quan là 12.000.000 đồng; thuê xe đưa
tang là 1.600.000 đồng.
Tổng cộng các khoản anh Phùng Đình H2 phải bồi thường là 38.025.000 đồng,
đã bồi thường 10.000.000 đồng, còn phải bồi thường là 28.025.000 đồng.

63
Page 64
- Anh Phùng Đình H2 phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Nông Hoàng H4
sinh ngày 22/7/2015 với số tiền 500.000 đồng/ tháng đến khi cháu H4 đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý
kiến Kiểm sát viên, các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Hoàng Thị Kim H1 khởi kiện anh Phùng Đình H2 yêu cầu
anh H2 phải bồi thường thiệt hại về tính mạng do anh Nông Văn L (là chồng chị Huệ)
bị chết do tai nạn giao thông giữa anh Nông Văn L là người điều khiển xe mô tô và
anh Phùng Đình H2 là người điều khiển xe ô tô tải xảy ra ngày 03/4/2016 tại Km 18
Quốc lộ 2 đường Hà Giang- Tuyên Quang. Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết tranh
chấp bồi thường thiệt hại về tính mạng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là có căn
cứ, đúng pháp luật.
[2] Về kháng cáo của anh Phùng Đình H2:
Tại phiên tòa anh Phùng Đình H2 thay đổi nội dung kháng cáo, anh H2 cho
rằng anh không có lỗi; tai nạn giao thông xảy ra ngày 03/4/2016 giữa anh và anh
Nông Văn L thuộc trường hợp bất khả kháng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 584 và
điểm b khoản 3 Điều 601 của BLDS, anh không phải bồi thường. Đề nghị Hội đồng
xét xử sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của chị
Hoàng Thị Kim H1 và ghi nhận sự tự nguyện của anh H2 đã hỗ trợ cho gia đình chị
Huệ số tiền 10.000.000 đồng để chi phí mai táng cho anh Nông Văn L.
Xét nội dung kháng cáo của anh Phùng Đình H2, Hội đồng xét xử thấy rằng:
- Khoản 3 Điều 601 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “3. Chủ sở hữu,
người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi
không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.”.
Trong vụ án này tai nạn giao thông xảy ra thuộc trường hợp cả hai bên (anh
Nông Văn L và anh Phùng Đình H2) cùng có lỗi gián tiếp:
Đối với anh Nông Văn L có lỗi: Điều khiển xe mô tô mà trong máu có nồng độ
cồn 0,599mg/lít khí thở (vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở); Điều khiển xe cơ giới
giành đường, vượt ẩu, vi phạm khoản 8 và khoản 11 Điều 8 Luật giao thông đường bộ;
Đối với anh Phùng Đình H2 có lỗi: Bỏ trốn sau khi gây tai nạn để trốn tránh
trách nhiệm, vi phạm khoản 17 Điều 8 Luật giao thông đường bộ.
Đối chiếu với quy định tại khoản 3 Điều 601 của Bộ luật dân sự thì anh Phùng
Đình H2 là người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
64
Page 65
- Trong vụ án này anh Nông Văn L là người bị thiệt hại, nhưng do anh Nông
Văn L và anh Phùng Đình H2 cùng có lỗi. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 585 của
Bộ luật dân sự thì anh Phùng Đình H2 chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường một phần
thiệt hại đã xảy ra. Anh Phùng Đình H2 là người điều khiển xe ô tô tải là nguồn nguy
hiểm cao độ có độ nguy hiểm cao hơn so với xe mô tô do anh Nông Văn L điều khiển,
do đó trong trường hợp này cần xác định mức độ lỗi của anh Phùng Đình H2 và lỗi
của anh Nông Văn L là ngang nhau nên mỗi bên phải chịu trách nhiệm tương ứng với
1/2 thiệt hại xảy ra.
- Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh Phùng Đình H2 phải bồi thường các khoản gồm:
Tiền chi phí cứu chữa người bị thiệt hại 425.000 đồng; 1/2 tiền chi phí mai táng
(35.885.000 đồng) bằng 17.942.500 đồng; tiền bù đắp tổn thất về tinh thần 70.000.000
đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định mức độ thiệt hại là có căn cứ, phù hợp với quy
định của pháp luật và hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại
Nghị quyết số: 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm
buộc anh Phùng Đình H2 phải bồi thường toàn bộ chi phí cứu chữa người bị thiệt hại
và toàn bộ tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là không đúng với quy định tại khoản 4
Điều 585 của Bộ luật dân sự. Vì vậy cần sửa án sơ thẩm theo hướng buộc anh Phùng
Đình H2 phải bồi thường thiệt hại cho đại diện bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án với mức 1/2 thiệt hại thực tế đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định;
đối với chi phí mai táng, Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh H2 phải chịu 1/2 chi phí mai
táng là phù hợp với quy định của pháp luật cần giữ nguyên.
- Về cấp dưỡng: Anh Nông Văn L và chị Hoàng Thị Kim H1 có 02 con chung
là cháu Nông Thị Hoàng G sinh ngày 01/6/2012 và cháu Nông Hoàng H4 sinh ngày
22/7/2015. Theo Luật hôn nhân và gia đình thì anh L và chị H1 cùng có trách nhiệm
nuôi dưỡng cháu Giang và cháu H4. Chị H1 yêu cầu anh H2 phải có trách nhiệm cấp
dưỡng nuôi cháu H4 với mức 1.300.000 đồng mỗi tháng. Tòa án cấp sơ thẩm buộc
anh Phùng Đình H2 phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nông Hoàng H4 800.000
đồng/tháng kể từ tháng 5/2016 đến khi cháu H4 đủ 18 tuổi là có căn cứ, phù hợp với
quy định của pháp luật cần giữ nguyên.
- Từ phân tích trên thấy rằng cần chấp nhận một phần kháng cáo của anh Phùng
Đình H2, sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc anh Phùng Đình H2 phải bồi thường
và phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng như sau:
+ Bồi thường cho chị Hoàng Thị Kim H1 các khoản: Tiền chi phí cứu chữa
người bị thiệt hại 212.500 đồng; tiền chi phí mai táng 17.942.500 đồng, đã bồi thường
10.000.000 đồng, còn phải bồi thường tiếp 7.942.500 đồng; tiền bù đắp tổn thất về
tinh thần 10.000.000 đồng. Tổng cộng là 18.155.000 đồng;
+ Bồi thường cho cháu Nông Thị Hoàng G và cháu Nông Hoàng H4 tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần mỗi cháu 7.500.000 đồng. Tổng cộng là 15.000.000 đồng;
+ Bồi thường cho ông Nông Đình C tiền bù đắp tổn thất về tinh thần 5.000.000
đồng;

65
Page 66
+ Bồi thường cho bà Nguyễn Thị T tiền bù đắp tổn thất về tinh thần 5.000.000
đồng;
Tổng cộng anh Phùng Đình H2 phải bồi thường 43.155.000 đồng.
+ Cấp dưỡng nuôi cháu Nông Hoàng H4 sinh ngày 22/7/2015 mỗi tháng
800.000 đồng kể từ tháng 5/2016 đến khi cháu Nông Hoàng H4 đủ 18 tuổi.
[3] Về án phí: Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm nên anh Phùng Đình
H2 phải chịu án phí giá ngạch tương ứng với số tiền phải bồi thường và án phí cấp
dưỡng theo quy định của pháp luật; anh Phùng Đình H2 không phải chịu án phí phúc
thẩm
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa
bản án sơ thẩm số 02/2018/DS-ST ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Toà án nhân dân
huyện V.
Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 591 và 601 của Bộ luật dân sự 2015, chấp nhận
một phần yêu cầu khởi kiện về việc “đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng bị xâm
phạm do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” của chị Hoàng Thị Kim H1 đối với anh
Phùng Đình H2:
- Buộc anh Phùng Đình H2 phải bồi thường như sau:
+ Bồi thường cho chị Hoàng Thị Kim H1 18.155.000 đồng;
+ Bồi thường cho cháu Nông Thị Hoàng G và cháu Nông Hoàng H4 mỗi cháu
7.500.000 đồng, tổng cộng là 15.000.000 đồng. Chị Hoàng Thị Kim H1 là người đại
diện hợp pháp của cháu Nông Thị Hoàng G và cháu Nông Hoàng H4 có quyền, nghĩa
vụ của người được thi hành án.
+ Bồi thường cho ông Nông Đình C 5.000.000 đồng;
+ Bồi thường cho bà Nguyễn Thị T 5.000.000 đồng.
Tổng cộng anh Phùng Đình H2 phải bồi thường 43.155.000 đồng.
- Buộc anh Phùng Đình H2 phải cấp dưỡng nuôi cháu Nông Hoàng H4 sinh
ngày 22/7/2015 mỗi tháng 800.000 đồng kể từ tháng 5/2016 đến khi cháu Nông
Hoàng H4 đủ 18 tuổi. Chị Hoàng Thị Kim H1 là người đại diện hợp pháp của cháu
Nông Hoàng H4 có quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả
các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự.
Căn cứ các Điều 147 và 148 của Bộ luật tố tụng dân sự, các Điều 24, 26, 27 và
29 của Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Anh
66
Page 67
Phùng Đình H2 phải chịu 2.157.750 đồng án phí dân sự có giá ngạch và 300.000 đồng
án phí cấp dưỡng; anh Phùng Đình H2 không phải chịu án phí phúc thẩm, trả lại cho
anh Phùng Đình H2 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Chi cục
Thi hành án dân sự huyện V theo biên lai số 01930 ngày 27/6/2018.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- TAND huyện V; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Hà Giang;
- Chi cục THADS huyện V;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.

Mai Văn Hùng

67
Page 68

68
Page 69

69
Page 70

70
Page 71

71
Page 72

72
Page 73

73
Page 74

74
Page 75

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH LẠNG SƠN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 98/2018/HS-PT


Ngày: 20 – 11 – 2018

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Lê Xuân Sơn.
Các Thẩm phán: Ông Cao Đức Chiến;
Ông Hồ Đức Châm;
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thanh Xuân – Thư ký Toà án nhân
dân tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tham gia phiên toà:
Bà Lương Thị Hòa - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 142/2018/TLPT-HS ngày 29
tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo Triệu Văn H do có kháng cáo của người đại
diện hợp pháp của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 84/2018/HS-ST
ngày 03-10-2018 của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
Bị cáo không kháng cáo và không bị kháng nghị:
Triệu Văn H, sinh ngày 20-01-1989 tại xã N, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn T, xã N, huyện H, tỉnh
Lạng Sơn; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Nùng;
Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Triệu Văn
R(sinh năm 1955) và bà Chu Thị X(sinh năm 1954); có vợ là Hoàng Cẩm
V(sinh năm 1990), chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị xử
lý trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 04-
5-2018 đến nay, có mặt.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Minh I: Ông Lê Thanh E, sinh
năm 1975; Địa chỉ: Thôn B, xã Q, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người đại diện hợp pháp
của bị hại Ông Lê Thanh E: Bà Hoàng Thị Kim M- Luật sư Văn phòng Luật sư
K thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Bị hại: Anh Phạm Thành D, sinh năm 2001; Địa chỉ: Thôn C, xã Q,
huyện H, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Người đại diện theo pháp luật của anh Phạm Thành D: Bà Hoàng Thị
H1, sinh năm 1983; Địa chỉ: Thôn C, xã Q, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

75
2 Page 76

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:


+ Anh Phạm Tiến S, sinh năm 1987; Địa chỉ: Thôn Nặm Nàng, xã Kim
Đồng, huyện Thanh An, tỉnh Cao Bằng; có mặt.
+ Chị Hoàng Cẩm V, sinh năm 1990; Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện H,
tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 20-3-2018, Triệu Văn H điều khiển xe mô tô
biển kiểm soát 12H1-237.22 chở vợ là Hoàng Cẩm V từ nhà đi theo đường F ra
thị trấn O, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Khi đi đến đoạn đường gần Ủy ban nhân
dân xã N thuộc thôn T, xã N, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, Triệu Văn H nhìn thấy
phía trước có 01 chiếc xe ô tô tải biển kiểm soát 29C-683.96 đi cùng chiều nên
Triệu Văn H đã điều khiển xe đi sang bên trái đường theo chiều đi của Triệu
Văn H để vượt xe ô tô 29C-683.96. Khi Triệu Văn H điều khiển xe mô tô vượt
bên trái lên đến đầu xe ô tô 29C-683.96 thì va chạm với 01 xe mô tô biển kiểm
soát 60H2-2717 dung tích xi lanh 85cm đi ngược chiều do Phạm Thành D điều
khiển, chở sau là Lê Minh I, làm hai xe mô tô bị đổ và những người ngồi trên xe
mô tô bị ngã ra đường. Lê Minh I ngã vào phía trước dàn lốp trục thứ hai bên
trái xe ô tô 29C-683.96 hậu quả Lê Minh I tử vong tại chỗ.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 84/2018/HS-ST ngày 03-10-2018 của Tòa
án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng sơn đã tuyên xử bị cáo Triệu Văn H
phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Căn cứ điểm a
khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50; Điều 65 của Bộ
luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Triệu Văn H 16 (Mười sáu) tháng tù cho hưởng án
treo, thời gian thử thách là 32 (ba mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm
03-10-2018.
Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Xác nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi
thường giữa bị cáo Triệu Văn H, người đại diện hợp pháp của người bị hại Lê
Minh I là ông Lê Thanh E và anh Phạm Thành D, cụ thể như sau: Bị cáo Triệu
Văn H bồi thường cho gia đình bị hại Lê Minh I số tiền là 180.000.000 đồng
(Một trăm tám mươi triệu đồng) và bồi thường cho anh Phạm Thành D số tiền là
15.000.000 đồng (Mười năm triệu đồng). Bị cáo Triệu Văn H đã bồi thường
xong toàn bộ số tiền trên cho gia đình bị hại Lê Minh I và anh Phạm Thành D
đầy đủ.
Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Thành D và anh Phan Tiến S mỗi
người tự nguyện hỗ trợ cho gia đình bị hại Lê Minh I số tiền 5.000.000 đồng
(Năm triệu đồng).
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền
kháng cáo của bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan.
Ngày 12-10-2018, người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Minh I ông Lê
Thanh E có đơn kháng cáo Bản án hình sự số 84/2018/HS-ST ngày 03-10-2018

76
3 Page 77

của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng về xem xét phần trách nhiệm hình sự đối
với bị cáo Triệu Văn H. Yêu cầu xem xét trách nhiệm hình sự và trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật đối với anh Phan Tiến S và anh Phạm Thành
D.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Minh I
ông Lê Thanh E rút một phần yêu cầu kháng cáo, chấp nhận quyết định của bản
án sơ thẩm đối với bị cáo Triệu Văn H; vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo đối
với Phạm Tiến S và Phạm Thành D.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn: Bản án sơ
thẩm xét xử bị cáo Triệu Văn H về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260;
điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử
phạt bị cáo Triệu Văn H 16 (Mười sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử
thách là 32 (ba mươi hai) tháng là phù hợp. Xét kháng cáo của người đại diện
hợp pháp của bị hại ông Lê Thanh E: Yêu cầu xem xét trách nhiệm hình sự và
trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật đối với anh Phan Tiến S và anh
Phạm Thành D. Xét thấy, Phan Tiến S điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 29C-
683.96 đi đúng phần đường, hai xe mô tô do bị cáo Triệu Văn H và anh Phạm
Thành D điều khiển va chạm vào nhau, khiến Lê Minh I ngã vào gầm phía trước
trục bánh lái thứ hai xe ô tô do anh Phan Tiến S điều khiển đi bên cạnh là sự
kiện bất ngờ thuộc trường hợp quy định tại Điều 20 Bộ luật Hình sự. Đối với
Phạm Thành D điều khiển xe mô tô đi bên phải theo chiều đi của mình nên
không có lỗi trong vụ án. Lê Minh I tử vong do đa chấn thương do tai nạn giao
thông, bánh xe ô tô do Phan Tiến S điều khiển kẹp lên là sự kiện bất ngờ, bất
khả kháng, theo quy định tại khoản 2 Điều 584 của Bộ luật Dân sự. Do sự kiện
bất khả kháng thì người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm.
Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều
356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp
pháp của bị hại Lê Minh I là ông Lê Thanh E giữ nguyên Bản án sơ thẩm số
84/2018/HS-ST ngày 03-10-2018 của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh
Lạng Sơn.
Ý kiến luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người đại diện hợp pháp
của bị hại: Đề nghị xem xét vì không có căn cứ để qui trách nhiệm cho Phan
Tiến Svà Phạm Thành D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo Triệu Văn H thừa nhận
hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo đã khai tại Cơ quan điều tra,
phù hợp với lời khai của bị hại Phạm Thành D, người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan trong vụ án, biên bản khám nghiệm hiện trường, các kết luận giám
định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ để kết
luận: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 20-3-2018 tại đoạn đường gần Ủy ban nhân

77
4 Page 78

dân xã N, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, thuộc thôn T, xã N, huyện H, tỉnh Lạng Sơn;
Triệu Văn H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12H1-237.22 chở vợ là Hoàng
Cẩm V từ nhà ra đường F thị trấn O, do không tuân thủ quy định về an toàn giao
thông đường bộ, vượt xe khi chưa đảm bảo an toàn nên đã va chạm với 01 xe
mô tô biển kiểm soát 60H2-2717 đi ngược chiều do Phạm Thành D điều khiển,
chở sau là Lê Minh I, làm hai xe mô tô bị đổ và người ngồi trên xe mô tô bị ngã
ra đường. Lê Minh I ngã vào phía trước dàn lốp trục thứ hai bên trái xe ô tô biển
kiểm soát 29C-683.96 hậu quả Lê Minh I tử vong tại chỗ, Triệu Văn H, Hoàng
Cẩm V và Phạm Thành D bị thương. Vì vậy, Bản án sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo
Triệu Văn H phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ,
đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại:
[3] Đối với yêu cầu xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Triệu Văn
H; tuy tại phiên tòa đại diện hợp pháp của người bị hại đã rút yêu cầu này,
nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Như đã phân tích nêu trên thì bị
cáo Triệu Văn H đã bị xét xử và kết án về tội Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình
sự. Bị cáo Triệu Văn H không có tiền án, tiền sự; không có tình tiết tăng nặng và
có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Quá trình điều tra và tại
phiên tòa, bị cáo Triệu Văn H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã
tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại
Lê Minh I và anh Phạm Thành D; ngoài ra bị cáo có bố đẻ là ông Triệu Văn R
được tặng Huy chương chiến sĩ giải phóng; Huy chương kháng chiến hạng nhì;
gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; gia đình bị cáo thuộc
hộ nghèo, sống trong vùng có điều kiện khó khăn và có nơi cư trú rõ ràng, tại địa
phương luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật ở địa phương nên Tòa án cấp sơ
thẩm đã áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015
tuyên phạt bị cáo 16 (mười sáu) tháng cho hưởng án treo thời gian thử thách là
32 (Ba mươi hai) tháng là phù hợp.
[4] Đối với yêu cầu xem xét trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự
theo quy định của pháp luật đối với anh Phan Tiến S và anh Phạm Thành D. Hội
đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Anh Phan Tiến S điều khiển xe ô tô đi đúng
phần đường, đúng tốc độ; do bị cáo Triệu Văn H không tuân thủ quy định về an
toàn giao thông đường bộ, vượt xe khi chưa đảm bảo an toàn nên khi ba xe cùng
đi đến điểm song song giáp gần nhau thì xe mô tô do Triệu Văn H điều khiển và
xe mô tô do anh Phạm Thành D điều khiển chở Lê Minh I ngồi phía sau đã xảy
ra va chạm nhau, khiến Lê Minh I ngã vào phía trước dàn lốp trục thứ hai bên
trái xe ô tô biển kiểm soát 29C-683.96 do anh Phan Tiến S đang điều khiển đi
bên cạnh đã gây ra tử vong cho Lê Minh I. Như vậy, việc Lê Minh I bị tử vong
là sự kiện bất ngờ thuộc trường hợp quy định tại Điều 20 của Bộ luật Hình sự.
Đối với Phạm Thành D điều khiển xe mô tô đi bên phải theo chiều đi của mình
nên không có lỗi trong vụ tai nạn. Nguyên nhân khiến Lê Minh I tử vong là do
đa chấn thương do tai nạn giao thông, do bánh xe trục trước thứ hai xe ô tô do

78
5 Page 79

anh Phan Tiến S điều khiển kẹp lên một phần cơ thể Lê Minh I là sự kiện bất
ngờ, bất khả kháng, theo quy định tại khoản 2 Điều 584 của Bộ luật Dân sự, do
sự kiện bất khả kháng thì người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi
thường. Tại phiên tòa sơ thẩm anh Phan Tiến S và Phạm Thành D cũng đã tự
nguyện hỗ trợ cho gia đình bị hại một khoản tiền nên án sơ thẩm đã ghi nhận sự
tự nguyện này.
[5] Từ những phân tích trên, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của
người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Minh I là ông Lê Thanh E.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
[7] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của người đại diện hợp
pháp của bị hại không được chấp nhận nên người đại diện hợp pháp của bị hại
phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356; điểm b khoản 1 Điều 355,
điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại Lê
Minh I, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 84/2018/HS-ST ngày 03 tháng
10 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, cụ thể:
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51,
Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Triệu Văn H 16 (Mười
sáu) tháng tù cho hưởng án treo về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ; thời gian thử thách là 32 (ba mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ
thẩm 03-10-2018.
Giao bị cáo Triệu Văn H cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện H, tỉnh Lạng
Sơn để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có
trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Nhật Tiến trong việc giám sát,
giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì
thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm
nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án
có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho
hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc
người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt
của bản án mới theo quy định của Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
2. Về trách nhiệm bồi thường dân sự:
2.1. Xác nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo Triệu Văn
H, người đại diện hợp pháp của người bị hại Lê Minh I là ông Lê Thanh E và
anh Phạm Thành D, cụ thể như sau:

79
6 Page 80

- Bị cáo Triệu Văn H bồi thường cho gia đình bị hại Lê Minh I số tiền là
180.000.000 đồng (Một trăm tám mươi triệu đồng); Bị cáo Triệu Văn H đã bồi
thường xong.
- Bị cáo Triệu Văn H bồi thường cho anh Phạm Thành D số tiền là
15.000.000 đồng (Mười năm triệu đồng). Bị cáo Triệu Văn H đã bồi thường
xong.
2.2. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Thành D và anh Phan Tiến
Smỗi người tự nguyện hỗ trợ cho gia đình bị hại Lê Minh I số tiền 5.000.000
đồng (Năm triệu đồng).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015. Điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-
12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Minh I phải chịu 200.000 đồng án
phí hình sự phúc thẩm để sung quỹ Nhà nước.
4. Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng
cáo, kháng nghị đã có hiệu lực từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- TAND cấp cao tại Hà Nội; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- Sở Tư pháp tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- PV27 Công an tỉnh Lạng Sơn;
- TAND h. Hữu Lũng, t. Lạng Sơn;
- VKSND h. Hữu Lũng, t. Lạng Sơn;
- CCTHADS h. Hữu Lũng, t. Lạng Sơn;
- Công an h. Hữu Lũng, t. Lạng Sơn;
- Bị cáo (qua địa chỉ); Lê Xuân Sơn
- Tổ HCTP, KTNV&THA;
- Lưu hồ sơ, tòa hình sự.

80
Page 81

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ AN KHÊ - TỈNH GIA LAI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 17/2018/DS-ST


Ngày 21/11/2018
“V/v tranh chấp bồi thường thiệt hại về tài sản”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN KHÊ - TỈNH GIA LAI

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đồng Ánh Đông.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Trần Văn Thảo.
2. Ông Võ Anh Tài.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Ngọc Thảo - Thư ký Tòa án nhân dân
thị xã An Khê.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Chung, Kiểm sát viên.

Ngày 21/11/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai
mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 112/2017/TLST-
DS ngày 18/12/2017 “Về việc tranh chấp bồi thường thiệt hại về tài sản” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2018/QĐXXST-DS ngày 05/11/2018, giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Đặng Thị N; địa chỉ: Tổ B, phường AP, thị xã AK,
tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Võ Thị S; địa chỉ: Tổ B, phường AP, thị xã AK, tỉnh Gia
Lai. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn D; địa chỉ:
Tổ B, phường AP, thị xã AK, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại
phiên tòa nguyên đơn bà Đặng Thị N trình bày: Tháng 9/2016, do mưa bão nên
chuồng bò nhà bà S bị sập làm bể đường ống dẫn phân từ chuồng heo xuống
hầm Biôga nhà bà N. Bà N yêu cầu khắc phục nhưng gia đình bà S không làm

81
Page 82

kéo dài cho đến nay. Bà N cũng không tự khắc phục, sửa chữa vì cho rằng phụ
nữ không biết làm và bỏ không sử dụng cho đến nay. Bà N khởi kiện yêu cầu bà
S bồi thường số tiền đã bỏ ra làm hầm Biôga, loại hầm xây gạch, bê tông 25m3
tương đương 25.000.000đ và tiền ga sử dụng trong một năm là 1.200.000đ.
Tổng cộng là 26.200.000đ (Hai mươi sáu triệu hai trăm nghìn đồng), ngoài ra
bà không yêu cầu gì thêm.
Bị đơn bà Võ Thị S trình bày: Khoảng tháng 9/2016, do mưa bão nên tường
gạch chuồng bò nhà bà bị ngã làm bể đường ống dẫn phân từ chuồng heo xuống
hầm Biôga của bà N, gia đình bà đã qua khắc phục, sau đó bà N đào mương nước
thải dưới đường ống nên đường ống bị rơi ra. Sau đó, bà N gửi đơn ra UBND
phường AP để giải quyết, thì gia đình bà có đến sửa chữa một lần nữa nhưng bà N
không cho sửa và khởi kiện ra Tòa án. Bà S cho rằng do trời mưa bão làm ngã đổ
tường và bà không có lỗi nên không đồng ý bồi thường như yêu cầu khởi kiện của
bà N.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn D (chồng bà Võ
Thị S), đồng ý với ý kiến của bà S và không có ý kiến gì khác.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm
phán, Thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và
lời khai của các đương sự. Xét thấy, do trời mưa bão làm ngã đổ bức tường chuồng
bò nhà bà S là sự kiện bất khả kháng, không thể lường trước được, bà S không có
hành vi trái pháp luật và không có lỗi trong việc làm hư hỏng hầm Biôga của bà N.
Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn. Bà N phải chịu tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là
2.000.000đ; bà N đã nộp đủ số tiền 2.000.000đ. Bà N phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm là 1.310.000đ, đã nộp số tiền tạm ứng án phí là 655.000đ, bà N còn phải
nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 655.000đ. Bà S không phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại
phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Đặng Thị N khởi kiện đối với bà
Võ Thị S; địa chỉ: Tổ B, phường AP, thị xã AK, tỉnh Gia Lai, yêu cầu bà S phải
bồi thường thiệt hại về tài sản. Theo quy định tại khoản 6 Điều 26, điểm a khoản
1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì đây là vụ án
tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân thị xã AK, tỉnh Gia Lai.

82
Page 83

[2] Theo đơn khởi kiện và lời khai của bà Đặng Thị N, cũng như lời khai
thừa nhận của bà Võ Thị S, thì vào khoảng tháng 9 năm 2016 do mưa bão nên
tường gạch chuồng bò nhà bà S bị ngã làm vỡ đường ống dẫn phân từ chuồng heo
xuống hầm Biôga của bà N. Bà S chưa khắc phục cho bà N, đồng thời bà N cũng
không sửa chữa lại đường ống dẫn phân và bỏ không sử dụng hầm Biôga. Bà N
khởi kiện yêu cầu bà S phải bồi thường số tiền đã bỏ ra làm hầm Biôga
25.000.000đ và tiền ga sử dụng trong một năm 1.200.000đ. Tổng cộng là
26.200.000đ (Hai mươi sáu triệu hai trăm nghìn đồng).
[3] Bà Võ Thị S không đồng ý bồi thường như yêu cầu khởi kiện của bà
N, vì cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc tường gạch chuồng bò của bà bị ngã là
do thiên tai mưa bão, bà không có lỗi gây ra thiệt hại.
[4] Xét yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của bà Đặng Thị N thấy
rằng, việc tường gạch chuồng bò của bà S bị ngã làm vỡ đường ống dẫn phân từ
chuồng heo xuống hầm Biôga của bà N là do mưa bão, không phải do hành vi
trái pháp luật và có lỗi của bà S gây ra. Thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất khả
kháng nên bà S không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Sau khi đường ống dẫn
phân bị vỡ, bà N không khắc phục, sửa chữa, không tiếp tục sử dụng để hư hỏng
hầm Biôga là lỗi của bà N, không phải do lỗi của bà S. Do đó, bà S không phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại số tiền đã bỏ ra làm hầm Biôga và tiền ga
sử dụng trong một năm mà bà N yêu cầu. Xét thấy, yêu cầu khởi kiện là không
có căn cứ, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N về
việc buộc bà S phải bồi thường thiệt hại với số tiền là 26.200.000đ (Hai mươi
sáu triệu hai trăm nghìn đồng).
[5] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của bà N không được Tòa án
chấp nhận nên bà N phải chịu tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản là 2.000.000đ. Bà N đã nộp đủ số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng).
[6] Về án phí: Theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án, thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận. Như vậy, bà Đặng Thị N phải chịu
án phí dân sự sơ thẩm là: 26.200.000đ x 5% = 1.310.000đ (Một triệu ba trăm
mười nghìn đồng). Bà Võ Thị S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ vào khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39; các Điều 147, 157, 165; khoản 1 Điều 235 và các Điều 266 và Điều
273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 604 và 605 của Bộ luật Dân
sự năm 2005; khoản 3 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày

83
Page 84

30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
2. Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đặng
Thị N về việc yêu cầu bà Võ Thị S phải bồi thường số tiền 26.200.000đ (Hai
mươi sáu triệu hai trăm nghìn đồng).
3. Về chi phí tố tụng: Bà Đặng Thị N phải chịu tiền chi phí xem xét, thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản là 2.000.000đ. Bà Niệm đã nộp đủ số tiền
2.000.000đ (Hai triệu đồng).
4. Về án phí: Buộc bà Đặng Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền
là 1.310.000đ (Một triệu ba trăm mười nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền
tạm ứng án phí đã nộp là 655.000đ (Sáu trăm năm mươi lăm nghìn đồng) theo
biên lai thu tiền số 0001131 ngày 18/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị
xã AK, tỉnh Gia Lai; bà N còn phải nộp 655.000đ (Sáu trăm năm mươi lăm
nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Bà Võ Thị S không phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm.
5. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 21/11/2018, các đương sự
có quyền làm đơn kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét
xử phúc thẩm.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- TAND tỉnh Gia Lai; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- VKSND thị xã AK; (Đã ký)
- Chi cục THADS TX AK; Đồng Ánh Đông
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, án văn, VP.

84
Page 85

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH TÂY NINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
—————————— ——————————————————

Bản án số: 07/2018/KDTM-PT


Ngày 23-11-2018
V/v tranh chấp hợp đồng mua bán

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy Phượng
Các Thẩm phán: Bà Phạm Thị Hồng Vân
Ông Nguyễn Văn Tòng
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Kiều Thanh là Thư ký Tòa án
nhân dân tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Trần An - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 09, 23 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2018/TLPT-
KDTM ngày 07 tháng 9 năm 2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2018/KDTM-ST ngày
01 tháng 8 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh bị
kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 05/2018/QĐ-PT
ngày 14 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần B;
Địa chỉ: Số 443 đường L, p8, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:
+ Ông Trương Phú C–Chức vụ: Tổng Giám đốc, là người đại diện theo
pháp luật của nguyên đơn.
+ Anh Lý Thành N, sinh năm 1995; cư trú tại: Số 441/15B đường Đ, p
25, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn, (theo Giấy ủy quyền số 000212/2018/BBC–UQ ngày 18-01-
2018), có mặt.

85
Page 86

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Tô
Đình H – Văn phòng luật sư Tô Đình H thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ
Chí Minh;
- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn SN.
Địa chỉ: Tổ 07, ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Tây Ninh;
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
+ Ông Nguyễn Thanh L – Chức vụ: Giám đốc, là người đại diện theo
pháp luật của bị đơn.
+ Ông Lê Khắc C, sinh năm 1979; cư trú tại: Tầng 46 B, số 02 H, p B,
Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn,
(theo văn bản ủy quyền ngày 28/3/2018), có mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Công ty Cổ phần B
- Viện Kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 18-0-2018 và các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty Cổ phần B – anh
Lý Thành N trình bày:
Vào ngày 02-01-2017, Công ty Cổ phần B (gọi tắt là Công ty B) và
Công ty Trách nhiệm hữu hạn SN (gọi tắt là Công ty S N) ký Hợp đồng
nguyên tắc số 006/BBC-SAMNHUT/2017 (gọi tắt là Hợp đồng số 006), theo
đó bên bán Công ty S N cung cấp sản phẩm tinh bột khoai mì (tinh bột sắn)
cho bên mua hàng Công ty B với chất lượng được quy định tại Điều II của hợp
đồng, số lượng được quy định cụ thể từng đơn đặt hàng có xác nhận của hai
bên, giá bán theo Phụ lục số 2 của hợp đồng, thời gian giao hàng theo thỏa
thuận trên đơn hàng và theo lịch giao cụ thể do Công ty B thông báo cho Công
ty S N. Theo hợp đồng số 006, hai bên có thỏa thuận bên nào vi phạm hợp
đồng chịu phạt 8 % phần giá trị nghĩa vụ bị vi phạm. Thời hạn có hiệu lực của
hợp đồng từ ngày ký 02-01-2017 đến hết ngày 31-12-2017.
Ngày 21-8-2017, Công ty B có Đơn đặt hàng số 22496 với nội dung:
Công ty B đặt mua 500.000 kg tinh bột khoai mì, đơn giá 7.000 đồng/kg, trị
giá lô hàng 3.500.000.000 đồng, đơn đặt hàng đã được Công ty S N ký xác
nhận. Cùng ngày 21-8-2017, Công ty B và Công ty S N ký Phụ lục hợp đồng
số 2 với nội dung hai bên thống nhất về số lượng hàng hóa, đơn giá và thời
gian giao hàng. Theo thỏa thuận của Phụ lục hợp đồng số 2, Công ty S N có
nghĩa vụ giao hàng từ ngày 01-10-2017 đến ngày 31-12-2017, số lượng và
ngày giao của mỗi đợt hàng cụ thể sẽ thực hiện theo thông báo giao hàng của
Công ty B.
Ngày 14-10-2017, Công ty B có thông báo yêu cầu Công ty S N thực
hiện giao hàng cho nhu cầu tháng 10-2017 là 150 tấn tinh bột khoai mì vào
các ngày 17, 21, 25, 26, 30 tháng 10 năm 201, mỗi ngày giao 30 tấn. Tuy

86
Page 87

nhiên, Công ty S N xác nhận tại thông báo trên của Công ty B về việc không
đáp ứng được đơn hàng.
Ngày 17-10-2017, Công ty S N gửi cho Công ty B Thông báo số 01/TB-
SN về việc không cung cấp tinh bột khoai mì. Theo nội dung thông báo thể
hiện trong năm 2017 Công ty S N gặp nhiều khó khăn do nguồn nguyên liệu
đầu vào không ổn định và khan hiếm để phục vụ sản xuất nên không thể đáp
ứng giao hàng theo yêu cầu của Công ty B. Công ty B cho rằng hành vi này
của Công ty S N là vi phạm thỏa thuận của hợp đồng. Do đó, ngày 01-11-2017
Công ty B có văn bản số 004091/2017/BBC/VB gửi Công ty S N yêu cầu thực
hiện hợp đồng, trường hợp Công ty S N không thực hiện nghĩa vụ thì phải bồi
thường thiệt hại, chịu phạt vi phạm nhưng Công ty S N vẫn không thực hiện.
Để có nguyên liệu kịp sản xuất trong mùa vụ cao điểm phục vụ Tết
nguyên đán năm 2017, Công ty B đã phải mua hàng của Công ty khác trong
thời gian gấp với giá cao để thay thế, cụ thể ngày 20-11-2017 Công ty B đã ký
hợp đồng mua 500.000 kg tinh bột khoai mì của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
xuất nhập khẩu Công nghệ Dịch vụ HD (viết tắt là Công ty HD) với đơn giá
10.500 đồng/kg x 500.000 kg, trị giá lô hàng 5.250.00.00 đồng (giá chưa bao
gồm thuế VAT). Do đó việc không thực hiện nghĩa vụ giao hàng của Công ty
S N đã gây ra thiệt hại cho Công ty B số tiền chênh lệch 5.250.000.000 đồng -
3.500.000.000 đồng = 1.750.000.000 đồng.
Vì vậy, nay Công ty B yêu cầu Công ty S N phải chịu phạt vi phạm và
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, cụ thể:
- Tiền phạt vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận tại Điều VIII hợp đồng
nguyên tắc số 006: 500.000 kg tinh bột khoai mì x 7.000 đồng/kg x 8% =
280.000.000 đồng;
- Tiền bồi thường thiệt hại về chênh lệch giá: (10.500 đồng - 7.000
đồng) x 500.000 kg = 1.750.000.000 đồng.
Tổng cộng: 2.030.000.000 (Hai tỉ không trăm ba mươi triệu) đồng.
Công ty B không yêu cầu tính tiền lãi.
Tại bản tự khai ngày 3-4-2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty S N trình bày:
Công ty S N và Công ty B có ký hợp đồng nguyên tắc 006 và phụ lục
hợp đồng số 01, 02 như Công ty B trình bày. Ngày 21-8-2017, Công ty S N có
nhận được Đơn đặt hàng số 22496 của Công ty B. Nhưng do dịch bệnh khảm
lá cây khoai mì, là sự kiện bất khả kháng, xảy ra khách quan gây khó khăn cho
Công ty S N trong việc thu mua nguyên liệu củ mì với giá cao Ngày 26-9-
2017 Công ty S N có nguồn hàng và mong muốn giao hàng cho Công ty B
nhưng đề nghị Công ty B hỗ trợ tăng giá từ 7.000 đồng/kg lên 9.500 đồng/kg
thì Công ty S N sẽ thực hiện nghĩa vụ giao hàng nhưng Công ty B không đồng
ý việc tăng giá. Tại thông báo ngày 14-10-2017 Công ty B yêu cầu Công ty S
N thực hiện giao hàng cho nhu cầu tháng 10-2017 là 150 tấn, mỗi ngày giao
30 tấn, việc này gây áp lực cho Công ty S N không đủ lượng hàng để giao.

87
Page 88

Mặt khác, trong suốt quá trình từ khi ký và thực hiện hợp đồng, Công ty S N
chưa nhận được khoản tiền nào từ Công ty B.
Về yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng: Công ty S N không đồng ý với yêu
cầu phạt vi phạm hợp đồng số tiền 280.000.000 đồng của Công ty B vì theo
hợp đồng nguyên tắc số 006, các bên có thỏa thuận phạt vi phạm do chậm giao
hàng nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải
bồi thường thiệt hại, mặt khác do thời hạn thực hiện hợp đồng chưa hết hạn
mà trong thời gian này Công ty B lại đơn phương chấm dứt hợp đồng và ký
hợp đồng mua tinh bột khoai mì với Công ty HD.
Về yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 1.750.000.000 đồng: Công ty S
N không đồng ý với yêu cầu của Công ty B vì trong hợp đồng nguyên tắc số
006 các bên không có thỏa thuận bồi thường thiệt hại. Tuy trong hợp đồng và
phụ lục hợp đồng ký giữa 02 Công ty B và Công ty S N không ghi nhận thỏa
thuận về trường hợp bất khả kháng nhưng Bộ luật Dân sự có quy định nếu xảy
ra sự kiện bất khả kháng thì không phải bồi thường thiệt hại vì sau khi ký phụ
lục hợp đồng số 2 ngày 21-8-2017, trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đã có dịch bệnh
khảm lá cây khoai mì, gây thiệt hại nặng cho toàn tỉnh Tây Ninh nên Công ty
S N cũng bị thiệt hại nặng do nguyên liệu đầu vào tăng cao. Dịch bệnh “khảm
lá cây khoai mì” là do thiên nhiên gây ra, là sự kiện bất khả kháng nên Công
ty S N không phải bồi thường thiệt hại.
Do thời hạn hợp đồng giao hàng chưa hết hạn (ngày 31-12-2017) nên
thông báo ngày 01-11-2017 của Công ty B yêu cầu giao hàng hoặc bồi thường
thiệt hại, Công ty S N không phản hồi bằng văn bản.
Nay Công ty S N không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công
ty B.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2018/KDTM - ST
ngày 01 tháng 08 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây
Ninh đã quyết định:
Căn cứ vào các Điều 24, 37, 52, 295, 305; khoản 3 Điều 317 Luật
Thương mại;
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần B đối với
Công ty Trách nhiệm hữu hạn SN về việc yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng.
Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn SN trả cho Công ty Cổ phần B số
tiền 280.000.000 (hai trăm tám mươi triệu) đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần B yêu cầu
Công ty Trách nhiệm hữu hạn SN bồi thường thiệt hại số tiền 1.750.000.000
(một tỷ bảy trăm năm mươi triệu) đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất chậm thi hành và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

88
Page 89

Ngày 10-8-2018, Công ty B kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty B yêu cầu Công ty S N bồi thường
thiệt hại số tiền 1.750.000.000 đồng.
Ngày 15-8-2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên,
tỉnh Tây Ninh có quyết định kháng nghị số 233/2018/QĐKNPT-VKS-KDTM
kháng nghị một phần đối với bản án số 03/2018/KDTM-ST ngày 01-08-2018
của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh về bồi thường thiệt hại do
không thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa và phần án phí theo nghĩa vụ
thực tế của các đương sự phải chịu.
Tại phiên tòa, Công ty B yêu cầu Công ty S N chịu phạt vi phạm hợp
đồng và bồi thường thiệt hại tổng cộng số tiền 800.000.000 đồng. Công ty S N
đồng ý chịu phạt và bồi thường cho nguyên đơn tổng cộng số tiền 800.000.000
đồng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Tô Đình H
trình bày ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự theo khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa án sơ
thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Thư ký phiên tòa đã tuân
thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành của những
người tham gia tố tụng thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
Về nội dung: Tại phiên tòa, các đương thỏa thuận về việc giải quyết vụ
án. Việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện và phù hợp kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, phù hợp
quy định pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự theo quy định tại Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, xét thấy:
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án như sau:
[1] Công ty S N đồng ý trả cho Công ty B số tiền phạt vi phạm hợp
đồng và bồi thường thiệt hại của hợp đồng nguyên tắc số 006/BBC-
SAMNHUT/2017 ngày 02-01-2017, phụ lục hợp đồng số 02 ngày 21-8-2017,
tổng cộng số tiền là 800.000.000 đồng. Ghi nhận Công ty B đã nhận xong số
tiền trên tại Tòa.
[2] Về án phí kinh doanh thương mại: Công ty S N chịu án phí kinh
doanh thương mại sơ thẩm 36.000.000 đồng, Công ty B chịu án phí phúc thẩm
2.000.000 đồng theo quy định tại Điều 26, khoản 5 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

89
Page 90

Xét thấy, sự thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm
điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự, sửa bản án sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 300; khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1/ Công nhận sự thỏa thuận của Công ty Cổ phần B và Công ty Trách
nhiệm hữu hạn SN.
Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2018/KDTM-ST ngày
01 tháng 8 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.
2/ Sự thỏa thuận của các đương sự cụ thể như sau:
- Công ty Trách nhiệm hữu hạn SN có trách nhiệm trả cho Công ty Cổ
phần B tiền phạt vi phạm hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hại, tổng cộng số
tiền 800.000.000 đồng (Tám trăm triệu đồng). Ghi nhận Công ty Cổ phần B đã
nhận xong số tiền trên tại Tòa
- Về án phí kinh doanh thương mại:
+ Án phí sơ thẩm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn SN phải chịu
36.000.000 (Ba mươi sáu triệu) đồng.
Công ty Cổ phần B không phải chịu án phí sơ thẩm. Hoàn trả cho Công
ty Cổ phần B số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 36.300.000 (Ba mươi sáu triệu,
ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0004988 ngày 06/02/2018 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh;
+ Án phí phúc thẩm: Công ty Cổ phần B phải chịu án 2.000.000 đồng
nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005532
ngày 10-8-2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TANDCC; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- TAND huyện Tân Biên;
- CCTHADS huyện Tân Biên;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu tập án;
- Lưu: VT, (th).
90
Page 91

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH DƢƠNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 32/2019/HS-PT
Ngày: 21/02/2019

NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƢƠNG
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Lê Quân Vương.
- Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Luông;
Ông Bùi Ngọc Thạch.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Hùng Cường – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Phương Dung - Kiểm sát viên.
Vào ngày 21 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý
số 19/2019/TLPT-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Bùi Tấn K. Do
có kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại Vũ Thị Nguyệt Q là ông
Vũ Huy P và bà Nguyễn Thùy L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số
346/2018/HS-ST ngày 16/11/2018 của Tòa án nhân dân thị xã D.
Họ và tên bị cáo bị kháng cáo: Bùi Tấn K, sinh năm 1974, tại tỉnh L;
thường trú: Ấp L1, xã L2, huyện C, tỉnh L; chỗ ở: Số 495/16, đường Dương Bá
T, Phường 1, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ
văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt
Nam; con ông Bùi Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1951; vợ là
bà Lê Huỳnh Thị P1, sinh năm 1978, bị cáo có 02 người con, lớn nhất sinh năm
2008, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Bị hại bị kháng cáo: Bà Nguyễn Thùy Khánh L2, sinh năm 1996; thường
trú: Số 64 đường 45, phường 14, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin
xét xử vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của bị hại Vũ Thị Nguyệt Q có kháng cáo: Ông
Vũ Huy P, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thùy L, sinh năm 1973; cùng thường
trú: Số 9E2, khu phố 6, phường T1, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có mặt.
Trong vụ án còn có 01 bị hại, 01 bị đơn dân sự, 01 người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu
tập.

91
Page 92

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Bùi Tấn K được Sở giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy
phép lái xe hạng E ngày 07/4/2017 và là nhân viên tài xế lái xe bus tuyến số 19
cho Liên hiệp hợp tác xã vận tải Thành phố Hồ Chí Minh.
Vào khoảng 10 giờ 35 phút, ngày 17/10/2017, Bùi Tấn K điều khiển xe
ôtô bus biển số 53N-3409 cùng nhân viên bán vé Nguyễn Thị Tuyết T3 đi từ bến
xe Đại học Q thuộc khu phố T4, phường T5, thị xã D, tỉnh Bình Dương để đi về
trạm Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến khoảng 11 giờ cùng
ngày, khi lưu thông trên Quốc lộ 1A đến trạm dừng xe bus ngã ba phía trước
Trường Đại học N thuộc khu phố T4, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương, K
điều khiển xe vào dừng ở trước trạm xe bus sát lề đường bên phải (làm đường
của xe 02 bánh) để đón khách. Lúc này, bà Nguyễn Thùy Khánh L2 điều khiển
xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số 59V1-939.14 chở bà Vũ Thị Nguyệt Q
lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng cầu vượt trạm 2 về hướng cầu vượt L3.
Khi đi đến trạm dừng xe bus ngã ba phía trước Đại học N nhìn thấy xe ô tô buýt
đang dừng ở trạm xe buýt để đón khách nên bà L2 điều khiển xe mô tô biển số
59V1-939.14 từ phía sau vượt lên bên trái xe ô tô buýt biển số 53N-3409. Bất
ngờ K điều khiển xe ô tô buýt biển số 53N-3409 chuyển hướng sang phía bên
trái để tiếp tục lưu thông về phía trước trên làn xe mô tô. Do thiếu chú ý quan sát
và không nhường đường cho xe mô tô đi đúng làn đường đã làm cho phần hông
trái giữa xe ô tô buýt biển số 53N-3409 và quẹt vào tay cầm bên phải của xe mô
tô biển số 59V1-939.14 làm cho bà L2 và xe mô tô biển số 59V1-939.14 ngã
xuống đường còn bà Q bị té ngã vào gầm xe ô tô buýt biển số 53N-3409 và bị
hàng bánh sau bên trái cán qua người dẫn đến tai nạn giao thông.
Hậu quả: Vụ tai nạn giao thông làm bà Q tử vong tại Bệnh viện Đa khoa
khu vực Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, bà L2 bị thương nhẹ do đó bà L2
không yêu cầu giám định thương tích của mình. Riêng xe mô tô hiệu Honda
AirBlade biển số 59V1-939.14 bị hư hỏng nhẹ.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 884/GĐPY ngày 21/10/2017
của Phòng kỷ thuật hình sự công an tỉnh Bình Dương kết luận: Nguyên nhân gây
tử vong của bà Vũ Thị Nguyệt Q là do đa chấn thương, suy hô hấp, suy tuần
hoàn cấp.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 346/2018/HS-ST ngày 16/11/2018, Tòa án
nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Bùi Tấn K phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ”.
Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60
của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

92
Page 93

ử phạt bị cáo Bùi Tấn K 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời
gian thử thách là 24 tháng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo
theo quy định của pháp luật.
Ngày 30/11/2018, người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn kháng cáo
toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm với lý do: Bị hại Nguyễn Thùy Khánh L2 là
người phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” và bị cáo
Bùi Tấn K không có tội, cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng (đơn kháng cáo trong thời hạn luật định).
Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương trong phần
tranh luận: Người đại diện hợp pháp của bị hại kháng cáo trong thời hạn luật
định, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm là đúng
quy định. Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện hành vi tố tụng
đúng theo quy định pháp luật và không bị khiếu nại, tố cáo. Căn cứ theo biên
bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của những người làm chứng Võ Thùy
Như H, Bùi Thanh Thảo D1 và những người khác thể hiện rằng: Khi bà L2 vượt
xe buýt thì xe buýt lúc này đang ở trạng thái dừng đón khách, không di chuyển
và cũng không có tín hiệu rẽ trái nên bà L2 không vi phạm Luật Giao thông
đường bộ; việc K điều khiển chuyển hướng cho xe buýt rẽ trái nhưng thiếu chú ý
quan sát và không nhường đường cho xe mô tô đi đúng làn đường đã gây tai nạn
giao thông đã vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật Giao thông đường bộ, đủ yếu tố
cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ”. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bị hại Q không cung
cấp thêm chứng cứ nào mới ngoài các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nên
không có cơ sở xem xét chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của
bị hại.
Người đại diện hợp pháp của bị hại Vũ Thị Nguyệt Q trình bày: Cơ quan
tiến hành tố tụng đã bỏ lọt tội phạm đối với hành vi của bà Nguyễn Thùy Khánh
L2 và bị cáo K không có tội, cụ thể: Hành vi vượt xe buýt 53N-3409 của bà L2
đã không tuân thủ điều kiện vượt xe theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật
Giao thông đường bộ, do lúc này xe buýt đang có tín hiệu rẽ trái và chưa tránh
về bên phải, bà L2 vượt xe tại vị trí góc khuất của gương chiếu hậu (điểm mù)
của xe buýt nên bị cáo K không thể nhìn thấy nên đây là trường hợp bất khả
kháng, bị cáo K không vi phạm Luật Giao thông đường bộ. Ngoài ra, người đại
diện hợp pháp của bị hại Q trình bày rằng cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm
có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như: Biên bản hiện trường không hợp
lệ, không có kết luận giám định của cơ quan có thẩm quyền về dấu vết va quẹt
xe, không đưa dữ liệu camera hành trình của xe buýt vào tài liệu hồ sơ nên đề
nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo K không có tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

93
Page 94

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vào khoảng 11 giờ ngày 17/10/2017, Bùi Tấn K điều khiển xe ô tô
buýt biển số 53N-3409 lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng bến xe Đại học Q
về trạm Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi đi đến trạm dừng xe
buýt ngã ba phía trước Trường Đại học N thuộc khu phố T4, phường Đ, thị xã
D, tỉnh Bình Dương, K điều khiển xe ô tô buýt biển vào dừng ở trước trạm xe
buýt sát lề đường bên phải (làn đường của xe hai bánh) để đón khách. Lúc này,
bà Nguyễn Thùy Khánh L2 điều khiển xe mô tô hiệu Honda AirBlade biển số
59V1-939.14 chở bà Vũ Thị Nguyệt Q lưu thông trên đường, khi đến trạm dừng
xe buýt nhìn thấy xe ô tô buýt đang dừng ở trạm để đón khách nên bà L2 điều
khiển xe mô tô từ phía sau vượt lên bên trái xe ô tô buýt. Bất ngờ K điều khiển
xe ô tô buýt chuyển hướng sang phía bên trái để tiếp tục lưu thông về phía trước
trên làn xe mô tô. Khi cho xe ôtô rẽ trái nhưng thiếu chú ý quan sát và không
nhường đường cho xe mô tô đi đúng làn đường đã gây tai nạn giao thông làm bà
Q tử vong. Hành vi của bị cáo K đã vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật Giao thông
đường bộ, gây thiệt hại tính mạng người tham gia giao thông khác. Do đó, Tòa
án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự là có căn
cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm trích
dẫn tên điều luật là “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là
chưa chính xác.
[2] Đối với yêu cầu kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại:
ét thấy, căn cứ vào lời khai của những người làm chứng, biên bản khám
nghiệm hiện trường và những tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án: Khi bà
Nguyễn Thùy Khánh L2 điều khiển xe mô tô biển số 59V1-939.14 từ phía sau
vượt lên bên trái xe ô tô buýt biển số 53N-3409, lúc này xe buýt đang ở trạng
thái dừng đón khách, không di chuyển và cũng không có tín hiệu rẽ trái, xe của
bà L2 vẫn ở làn đường dành cho xe môtô nên hành vi vượt qua xe buýt của bà
L2 là đúng pháp luật, không vi phạm Luật Giao thông đường bộ (được người
làm chứng Võ Thùy Như H, Bùi Thanh Thảo D1 là người chứng kiến khi tai nạn
xảy ra và xác định). Khi K điều khiển xe ô tô buýt biển số 53N-3409 chuyển
hướng cho xe buýt rẽ trái nhưng thiếu chú ý quan sát và không nhường đường
cho xe mô tô đi đúng làn đường đã gây tai nạn giao thông làm bà Q tử vong. Bị
cáo đã vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ, hậu quả làm nghiêm
trọng làm 01 người chết, do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Đối với lời trình bày của
người đại diện hợp pháp của bị hại về việc bà L2 vượt xe buýt khi đang rẽ trái
chuyển hướng, vượt xe tại vị trí góc khuất của gương chiếu hậu (điểm mù) của
xe buýt nên bị cáo K không thể nhìn thấy nên đây là trường hợp bất khả kháng
là không có cơ sở bởi lẽ: Khi đang ở trong làn đường dành cho xe mô tô, việc K
điều khiển xe buýt chuyển hướng rẽ trái thì phải đảm bảo an toàn cho các
phương tiện di chuyển khác, chú ý quan sát để không để xảy ra tai nạn; khi xảy

94
Page 95

ra tai nạn người đại diện hợp pháp của bị hại Q không có mặt tại hiện trường,
cũng không là người nhìn thấy tai nạn xảy ra như thế nào nhưng cho rằng bị hại
L2 vượt xe buýt khi xe đang chuyển hướng và có tín hiệu rẽ trái là không phù
hợp. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã
D, tỉnh Bình Dương, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương, Điều
tra viên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố Cơ quan tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tố tụng đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ
tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, không có căn cứ chấp nhận
kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại Q.
Đề nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc không chấp
nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại Q là phù hợp với nhận
định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Người đại diện hợp pháp cho bị hại không
phải nộp theo quy định của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015,
1. Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại Vũ
Thị Nguyệt Q. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 346/2018/HS-ST ngày
16/11/2018 của Toà án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương;
Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60
của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
ử phạt bị cáo Bùi Tấn K 01 (một) năm tù về tội “Vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” nhưng cho hưởng án treo. Thời
gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 16/11/2018).
Giao bị cáo Bùi Tấn K về Ủy ban nhân dân Phường 1, Quận 8, Thành phố
Hồ Chí Minh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị
cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa
vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo
phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án,
Ông Vũ Huy P và bà Nguyễn Thùy L không phải nộp.

95
Page 96

3. Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND T. Bình Dương; 1 THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Phòng PV 06 CA tỉnh BD; 1
- TAND tx D; 2
- VKSND tx D; 1
- C.cục THADS tx D; 1 (đã ký)
- CQCSĐT CA tx D; 1
- UBND Phường 1, Quận 8; 1
- Bị cáo; 1
- Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương; 1
- Lưu: HS, tổ HCTP. 3 Lê Quân Vƣơng

96
Page 97

97
Page 98

98
Page 99

99
Page 100

100
Page 101

101
Page 102

102
Page 103

103
Page 104

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH P1 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
__________ __________________

Bản án số:14 /2019/DS - PT.


Ngày 27/3/2019
“V/v Tranh chÊp về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trường Sơn
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Việt Tiến
Bà Lê Thị Thu Huyền
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Tấn – C¸n bé Tòa án nhân dân tỉnh
P1.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P1: Bà Nguyễn Thị Lan Anh - Kiểm
sát viên.
Ngày 27 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh P1 tiến hành xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2019/TLPT- DS ngày 10 tháng 01 năm 2019 về
việc “Tranh chÊp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 21/2018/DSST ngày 30 tháng 11 năm 2018 của
Tòa án nhân dân huyện TN bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 30/2019/QĐXXPT - DS
ngày 01 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:
1 - Nguyên đơn: Chị Hán Thị X – 1976 (có mặt).
Đại diện cho người bị hại: anh Đặng Phương Nam (đã chết). Địa chỉ: Khu 7 , xã
Cổ Tiết, TN, P1.
+ Người bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Xuân V , Hồ Văn P
– Công ty luật TNHH Hùng Lĩnh, đoàn luật sư tỉnh P1 (có mặt ông P, vắng mặt ông
V).
2 - Bị đơn: + Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1970.
Địa chỉ: Tổ 28, phường Nguyễn Phúc, TP. YB, tỉnh YB (xin vắng mặt).
+ Anh Hán Văn N – 1995 (vắng mặt).
Địa chỉ: Khu 2, xã XQ, TN, P1.
3- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: (Tòa án không triệu tập).
Anh Đặng Hồng H – 1971.
Địa chỉ: Khu 7 , xã Cổ Tiết, TN, P1.
4 - Người kháng cáo: Chị Hán Thị X – nguyên đơn.

104
Page 105

NỘI DUNG VỤ ÁN:


- Chị Hán Thị X trình bày: Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 22/3/2018 tại Km 21
+700, Quốc lộ 32C thuộc khu 4, xã Cổ Tiết, huyện TN, xảy ra tai nạn giao thông giữa
xe mô tô BKS 29 - 642 - Y4 trên xe có 02 người là Đặng Phương Nam (con trai chị
X) và Nguyễn Quốc Việt theo hướng Cẩm Khê đi huyện TN va chạm với xe ô tô
BKS 30A - 896.09 do anh Hán Văn N điều khiển đi cùng chiều phía trước và xe ô tô
BKS 21B - 004.09 do anh Nguyễn Văn S điều khiển đi ngược chiều. Hậu quả (con
trai chị X) chết trên đường đi cấp cứu, anh Việt bị thương nặng.
Tại Công an huyện TN các chủ xe là anh S và anh Nam chỉ hỗ trợ cho gia đình
chị X 60.000.000đ, gia đình chị X không nhất trí đã khởi kiện yêu cầu anh Hán Văn
N và anh Nguyễn Văn S bồi thường 200.000.000đ. Riêng chiếc xe máy chị không
yêu cầu bồi thường.
+ Bị đơn là anh Nguyễn Văn S trình bày: Tại địa điểm xảy ra vụ tai nạn, anh đi
từ Hà Nội về YB. Lúc đó xe ô tô của anh đi ngược chiều với xe ô tô của anh Hán Văn
N, trong lúc xe đang lưu thông thì đột nhiên anh thấy hai thanh niên đi xe máy đâm
vào đít xe ô tô do anh Nam, cả xe máy và hai thanh niên đều tung lên qua xe ô tô của
anh Nam, một thanh niên bắn qua xe của anh Nam, còn một thanh niên cũng văng
vào xe của anh và ngã ra đường. Lúc đó anh S điều khiển xe ô tô đi sau một xe
côngtơnơ đi cùng chiều. Anh dừng xe và cùng anh Nam và nhân dân đưa hai thanh
niên lên xe ô tô của anh Nam đi cấp cứu. Khoảng 40 phút sau, anh nghĩ hai thanh
niên không bị vấn đề gì nên anh điều khiển xe đi về YB. Hôm sau anh trở lại Công an
huyện TN để khai báo. Sau đó anh chỉ chấp nhận hỗ trợ 30.000.000 đồng.
+ Anh Hán Văn N trình bày: Anh đang điều khiển xe ô tô hướng xã Tứ Mỹ đi
xã Cổ Tiết để đi làm thì có một xe đầu kéo di chuyển hướng ngược chiều lấn làn
đường nên anh giảm tốc độ thì anh thấy rầm một cái và có một xe 16 chỗ đi đến, anh
dừng xe thì thấy một xe máy và hai người nằm bất động ở đường. Anh đưa nam nhân
đi cấp. Anh xác định khi điều khiển xe ô tô không vi phạm luật giao thông đường bộ,
anh không có lỗi nên anh chỉ chấp nhận hỗ trợ 30.000.000 đồng .
Anh Đặng Hồng H trình bày: Anh là bố đẻ Đặng Phương Nam, gia đình đã họp
thống nhất giao cho chị X đại diện giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính
mạng cho con anh đối với anh Nguyễn Văn S và anh Hán Văn N theo quy định của
pháp luật. Nay anh yêu cầu anh S và anh Hán Văn N bồi thường cho số tiền là
150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) cả anh với chị X. Khi cháu Nam tử
vong mọi chi phí cấp cứu, mai táng phí đều do chị X lo liệu, anh đang cải tạo nên
không biết.
+ Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 21/2018/DSST ngày 30/11/2018 của TAND
huyện TN đã áp dụng: Khoản 2 - Điều 584; Điều 585, 591; Khoản 3 - Điều 601của
Bộ luật dân sự; Điểm b - Khoản 2 - Điều 227, Khoản 1 - Điều 228, Khoản 1 - Điều
147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm d - Khoản 1 - Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/NQ - UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của chị Hán Thị X về việc “yêu cầu bồi thường
thiệt hại về tính mạng” đối với anh Nguyễn Văn S và anh Hán Văn N.
Không chấp nhận ý kiến của anh Đặng Hồng H.

105
Page 106
- Chấp nhận sự tự nguyện bồi thường của anh Nguyễn Văn S cho gia đình chị
X số tiền là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng):
Trong số tiền 30.000.000 đồng này cụ thể như sau: Bồi thường các chi phí cấp
cứu, mai táng cho chị X là 16.975.000đ .
Bồi thường tổn thất về tinh thần cho chị X là 6.512.500đ .
Bồi thường tổn thất về tinh thần cho anh H là 6.512.500đ .
- Chấp nhận sự tự nguyện bồi thường của anh Hán Văn N cho gia đình chị X
số tiền là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng);
Trong số tiền 30.000.000 này cụ thể như sau: Bồi thường các chi phí cấp cứu,
mai táng phí cho chị X là 16.975.000đ
Bồi thường tổn thất về tinh thần cho chị X là 6.512.500đ.
Bồi thường tổn thất về tinh thần cho anh H là 6.512.500đ. Ngoài ra bản án còn
tính án phí, tuyên quyền thi hành án, quyền kháng cáo theo luật định.
+ Ngày 10/12/2018 Chị Hán Thị X có đơn kháng cáo với nội dung: kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa hôm nay chị X vẫn đề nghị xét xử theo đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa luật sư trình bày: anh S đã bỏ trốn không cứu giúp người bị nạn
Tòa án sơ thẩm đã áp dụng điều 584 đã bác đơn khởi kiện của chị X là không thỏa
đáng vì pháp luật quy định: Chủ sở hữu phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi;
Không phải bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.
Đề nghị Tòa án áp dụng khoản 3 điều 601 Bộ Luật hình sự bồi thường cho gia
đình người bị hại 120.000.000đ tiền tổn thất tinh thần, 30.000.000 đồng mai táng
tổng là 150.000.000 đồng.
+ §¹i diÖn ViÖn kiÓm s¸t nh©n d©n tỉnh P1 ph¸t biÓu ý kiÕn vÒ viÖc tu©n theo
ph¸p luËt tè tông trong qu¸ tr×nh gi¶i quyÕt vô ¸n cña ThÈm ph¸n, Héi ®ång xÐt xö;
viÖc chÊp hµnh ph¸p luËt cña nh÷ng ng-êi tham gia tè tông d©n sù kÓ tõ khi thô lý vô
¸n cho ®Õn tr-íc thêi ®iÓm Héi ®ång xÐt xö nghÞ ¸n lµ ®óng theo quy ®Þnh cña ph¸p
luËt. Quan ®iÓm vÒ néi dung vô ¸n lµ không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét về hình thức đơn kháng cáo của Chị Hán Thị X: Đơn của chị làm
trong hạn luật định, đơn hợp lệ.
[2] Xét về nội dung đơn kháng cáo của chị X: đề nghị cấp phúc thẩm xem xét
lại toàn bộ bản án sơ thẩm.
- Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại bản kết luận điều tra số 24/KLĐT ngày
17/9/2018 của cơ quan điều tra Công an huyện TN đã kết luận anh Đặng Phương
Nam đã vi phạm nhiều quy định luật giao thông đường bộ: Chưa đủ điều kiện để điều
khiển xe mô tô, nên không có giấy phép lái xe, không đội mũ bảo hiểm, không chú ý
quan sát, không làm chủ tốc độ, không giữ khoảng cách an toàn với xe đi liền trước,
đã va quệt vào xe ô tô của anh Hán Văn N đi phía trước, khi ngã ra đã bị xe ô tô của
anh Nguyễn Văn S đi phía sau không kịp phản ứng nên bị chèn vào người gây tử
vong cho bản thân. Còn 2 xe ô tô đã đi đúng phần đường, làn đường của mình, các
anh không có lỗi trong việc gây tai nạn, việc xe anh S chèn lên người anh Phương

106
Page 107
Nam là sự kiện bất ngờ, là trường hợp bất khả kháng, không thể xử lý được trong tình
huống này, do đó anh S không có lỗi. Việc anh S không để xe giữ nguyên hiện
trường là lỗi hành chính và đã bị xử phạt hành chính. Kết luận điều tra của cơ quan
công an không có khiếu kiện gì, đã có hiệu lực pháp luật, là cơ sở quan trọng để xem
xét giải quyết vụ kiện dân sự này. Với việc đánh giá toàn bộ vụ án, các anh S và Hán
Văn N không có lỗi nên các anh không có trách nhiệm phải bồi thường. Tuy nhiên
các anh đã tự nguyện, với xử sự tình người, mỗi anh đã tự nguyện hỗ trợ 30.000.000đ
được chấp nhận như án sơ thẩm là phù hợp.
[3] Tại phiên tòa hôm nay, chị X không xuất trình được chứng cứ, tài liệu gì
mới nên không có căn cứ để xem xét.
Chị trình bày: Con chị không phải là người điều khiển xe mô tô, tuy nhiên hội
đồng xét xử thấy rằng bản thân chị cũng không được chứng kiến sự việc, tại lời khai
của anh Nguyễn Quốc Việt trong tất cả các lời khai thì anh Đặng Phương Nam (con
chị X) mới là người điều khiển xe mô tô (BL 17-22) .Do đó không có căn cứ để xem
xét.
[4] Tõ nh÷ng c¨n cø trªn, phân tích nêu trên, thì kháng cáo của chị X không
được chấp nhận là phù hợp.
[5] Tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P1 đề nghị
Hội đồng xét xử không chấp nhËn kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm là phù hợp với
pháp luật.
[6] VÒ ¸n phÝ d©n sù phúc thÈm: Chị X kh¸ng c¸o yêu cầu bồi thường tính mạng
kh«ng ®-îc chÊp nhËn th× không chÞu ¸n phÝ d©n sù phóc thÈm lµ phï hîp.
V× c¸c lÏ trªn;
QuyÕt ®Þnh
- C¨n cø vào kho¶n 1 §iÒu 308 Bé luËt tè tông d©n sù.
- ¸p dông: Khoản 2 §iÒu 584, 585,591; khoản 3 Điều 601 Bé luËt d©n sù
2015; Kho¶n 1 §iÒu 147 Bé luËt Tè tông d©n sù n¨m 2015; điểm d Kho¶n 1 §iÒu 12
NghÞ quyÕt 326/2016/UBTVQH14 ngµy 30/12/2016 cña Ủy ban th-êng vô Quèc héi.
+ Kh«ng chÊp nhËn kh¸ng c¸o cña Chị Hán Thị X, gi÷ nguyªn b¶n ¸n s¬ thÈm.

Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của chị Hán Thị X về việc “yêu cầu bồi thường
thiệt hại về tính mạng” đối với anh Nguyễn Văn S và anh Hán Văn N.
Không chấp nhận ý kiến của anh Đặng Hồng H.
+ Chấp nhận sự tự nguyện bồi thường của anh Nguyễn Văn S cho gia đình chị
X số tiền là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng):
Trong số tiền 30.000.000đ này cụ thể như sau: Bồi thường các chi phí cấp cứu,
mai táng cho chị X là 16.975.000đ.
Bồi thường tổn thất về tinh thần cho chị X là 6.512.500đ .
Bồi thường tổn thất về tinh thần cho anh H là 6.512.500đ .
+ Chấp nhận sự tự nguyện bồi thường của anh Hán Văn N cho gia đình chị X
số tiền là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng);
Trong số tiền 30.000.000đ này cụ thể như sau: Bồi thường các chi phí cấp cứu,
mai táng phí cho chị X là 16.975.000đ
Bồi thường tổn thất về tinh thần cho chị X là 6.512.500đ.
Bồi thường tổn thất về tinh thần cho anh H là 6.512.500đ.

107
Page 108
+ VÒ ¸n phÝ phóc thÈm: Miễn tiÒn ¸n phÝ d©n sù phúc thÈm cho chị Hán Thị X.
+ C¸c quyÕt ®Þnh kh¸c cña b¶n ¸n s¬ thÈm kh«ng cã kh¸ng c¸o, kh«ng bÞ
kh¸ng nghÞ ®· cã hiÖu lùc ph¸p luËt kÓ tõ ngµy hÕt thêi h¹n kh¸ng c¸o kh¸ng nghÞ.
+ B¶n ¸n phóc thÈm cã hiÖu lùc ph¸p luËt kÓ tõ ngµy tuyªn ¸n.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- VKSND tỉnh; THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- TAND huyện TN;
- THADS huyện TN;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ + VP;
- Lưu: án văn.
Nguyễn Trường Sơn

108
Page 109

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK NÔNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 01/2019/LĐ-PT


Ngày 31/10/2019
“V/v tranh chấp về đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thông;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Chiến;
Ông Phạm Văn Cảnh.
- Thư ký phiên tòa: Ông Trừ Minh Quốc – là Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Đắk Nông.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tham gia phiên tòa: Bà
Đào Thị Óng - Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2019/LĐ-PT ngày 25 tháng 9 năm
2019 về việc “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.
Do bản án lao động sơ thẩm số: 01/2018/LĐ-ST ngày 01/8/2019 của Tòa án
nhân dân huyện T, tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 01/2019/QĐ-PT ngày 10
tháng 10 năm 2019. Giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu P – Vắng mặt;
Địa chỉ: Bon B, xã Q, huyện T, tỉnh Đắk Nông;
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Văn N.
Địa chỉ: 164 P, phường T, TP. B, tỉnh Đắk Lăk – theo giấy uỷ quyền ngày
22/10/2018 – Có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án.
- Bị đơn: Hiệu trưởng Trường trung học cơ sở (THCS) Đ, huyện T, tỉnh Đắk
Nông;
Địa chỉ: Thôn 3, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đình T - Chức vụ: Hiệu trưởng
– Có mặt.

109
Page 110

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Uỷ ban nhân dân huyện T.
Địa chỉ: Thôn 2, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Điểu H – Trưởng phòng Phòng Nội vụ
huyện T, tỉnh Đắk Nông – theo giấy uỷ quyền ngày 30/10/2019 - Có mặt.
- Người kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Thu P - Là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong qúa trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 14/8/2014, chị Nguyễn Thị Thu P ký hợp đồng lao động với Trường
trung học cơ sở Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông (sau đây gọi tắt là nhà trường) theo
hợp đồng số 05/HĐLĐ ngày 14/8/2014, hợp đồng không thời hạn với nhiệm vụ
giáo viên giảng dạy môn toán. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, chị P luôn
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không vi phạm kỷ luật lao động, quy chế nhà
trường được mọi người trong và ngoài trường yêu quý.
Ngày 01/12/2017, chị P nhận được thông báo số: 01/TB-THCSĐBS của
Hiệu trưởng Trường trung học cơ sở Đ về việc chấm dứt hợp đồng lao động với
chị P kể từ ngày 17/01/2018.
Sau khi nhận được thông báo của nhà trường chị P đã khiếu nại nhưng đến
ngày 10/01/2018 chị nhận được kết quả khiếu nại của nhà trường cho rằng: Hợp
đồng của chị P là hợp đồng ngoài biên chế và nay đã đủ số lượng giáo viên dạy
toán nên chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với chị P. Nhà trường đã căn cứ theo
điểm a khoản 2 Điều 38 của Bộ luật lao động năm 2012 thông báo cho chị P trước
thời hạn 45 ngày theo đúng quy định nên việc đơn phương chấm dứt hợp đồng là
đúng.
Không đồng ý với nội dung trả lời nên này 12/01/2018 chị P làm đơn khiếu
nại lần 02 gửi đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền nhưng chưa được trả lời.
Ngày 17/01/2018, Hiệu trưởng Trường trung học cơ sở Đ, huyện T ban hành
quyết định số 02/QĐ-THCS về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối
với chị Nguyễn Thị Thu P với lý do: Định mức giáo viên môn toán đã đủ. Chị P
cho rằng việc nhà trường căn cứ vào lý này để đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động với chị P là trái quy định của pháp luật cụ thể:
Định mức giáo viên môn toán đã đủ không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 38 của Bộ luật lao động năm 2012. Hơn nữa sau khi chấm dứt hợp
đồng lao động với chị P, nhà trường còn ký với hợp đồng lao động với chị T dạy
môn toán và đưa ông Nguyễn Hồng P về giảng dạy môn toán thay vị trí của chị P.
D đó, Chị P làm đơn khởi kiện yêu Tòa án nhân dân huyện T xem xét, hủy quyết
định số 02/QĐ-THCS về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với
chị Nguyễn Thị Thu P; buộc trường tiếp tục nhận chị P vào làm việc và chi trả

110
Page 111

cho chị P đầy đủ các khoản lương, trợ cấp kể từ ngày 17/01/2018 cho đến ngày
xét xử.
Người đại diện theo pháp luật của bị đơn ông Nguyễn Đình T trình bày:
Ông T thừa nhận vào ngày 14/8/2014, Trường trung học cơ sở Đ, huyện T
có ký hợp đồng lao động với chị Nguyễn Thị Thu P như lời trình bày của chị P là
đúng. Lý do nhà trường ban hành quyết định số 02/QĐ-THCS ngày 17/01/2018
về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị Nguyễn Thị Thu P là vì nhà
trường nhận được văn bản số 1304/UBND-NV ngày 14/9/2017 của UBND huyện
T về việc chấm dứt hợp đồng lao động tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục, trong đó
có nội dung: Đề nghị Hiệu trưởng Trường trung học cơ sở Đ không tiến hành ký
hợp đồng năm học 2017 – 2018 đối với bà Phạm Hà Thảo N – Cao đẳng sư phạm
tiếng Anh và bà Nguyễn Thị Thu P – Đại học sư phạm toán. Lý do: Giáo viên
chuyên ngành toán và chuyên ngành anh văn đã đủ theo định mức và tiến hành
chấm dứt hợp đồng đã ký trước đây theo đúng quy định của pháp luật.
Thực hiện văn bản số 1304/UBND-NV ngày 14/9/2017 của UBND huyện T,
nhà trường đã thông báo đến toàn thể cán bộ viên chức trong trường biết nội dung
văn bản này. Ngày 01/12/2017, nhà trường đã ban hành Thông báo số 01/TB-
THCSĐBS về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị Nguyễn Thị Thu P kể
từ ngày 17/01/2018 và giao trực tiếp cho chị P. Ngày 17/01/2018, Hiệu trưởng
Trường trung học cơ sở Đ đã ban hành quyết định số 02/QĐ-THCS về việc chấm
dứt hợp đồng lao động đối với chị P, lý do: Định mức viên chức giáo viên bộ môn
toán đã đủ theo quy định. Tuy nhiên, trên thực tế Trường trung học cơ sở Đ là
đơn vị phụ thuộc UBND huyện, nên sau khi nhận được văn bản danh sách kèm
theo của UBND huyện thì nhà trường phải làm các bước để đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động theo quy định.
Trước khi nhà Trường đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị
P thì giữa nhà trường cùng với chị P được UBND huyện T mời lên làm việc và
động viên chị P nếu có nhu cầu thì UBND huyện sẽ tạo điều kiện cho chị về
trường khác để dạy nhưng chị P không đồng ý. Mặt khác, năm 2015 Uỷ ban nhân
dân huyện T đã tổ chức thi tuyển viên chức, nhà trường đã thông báo cho toàn bộ
giáo viên trong trường biết, nhưng chị P không đăng ký thi tuyển viên chức. Việc
lập hồ sơ xét tuyển đặc cách viên chức cho chị P không thuộc thẩm quyền của
nhà trường mà do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Do đó, việc chấm
dứt hợp đồng lao đồng với chị P là trường hợp bất khả kháng khác quy định tại
Điểm c khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 38 của Bộ luật lao động năm 2012.
Đại diện theo ủy quyền của UBND huyện T - Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án trình bày:
Thực hiện văn bản số 989/UBND-NC ngày 03/3/2017 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh Đăk Nông, ngày 14/9/2017, Uỷ ban nhân dân huyện T đã ban hành văn bản
số 1304/UBND-NV về việc chấm dứt hợp đồng lao động tại các đơn vị sự nghiệp
giáo dục, trong đó có nội dung: Đề nghị Hiệu trưởng trường trung học cơ sở Đ
111
Page 112

không tiến hành ký hợp đồng năm học 2017-2018 đối với hai trường hợp trong đó
có chị Nguyễn Thị Thu P với lý do: Giáo viên chuyên ngành Toán đã đủ theo
định mức.
Sau khi có văn bản của UBND huyện thì nhà trường đã thực hiện và ban
hành quyết định số 02/QĐ-THCS ngày 17/01/2018 về việc đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động với chị P. Sau khi nhận quyết định chị P có làm đơn khiếu nại
gửi nhà trường và đã được trả lời. Tuy nhiên, chị P không đồng ý với việc trả lời
của nhà Trường nên đã làm đơn khiếu nại gửi có cơ quan có thẩm quyền. Đến
ngày 20/11/2018, Chủ tịch UBND huyện đã trả lời theo quyết định số 2128/QĐ-
UBND ngày 20/11/2018.
- Việc chị P đang là giáo viên hợp đồng, chưa qua thi tuyển hoặc xét tuyển
(mặc dù tốt nghiệp loại giỏi nhưng chưa hoàn thiện hồ sơ để được xét tuyển đặc
cách và chưa được cấp có thẩm quyền công nhận) nên chị P không thuộc đối
tượng được điều chỉnh tại luật Viên chức.
- Vào năm 2015, UBND huyện T có tổ chức thi tuyển viên chức, chị P
không tham gia thi tuyển, kết thúc ký thi tuyển dụng chị Nguyễn Thị Thùy T
trúng tuyển và được tuyển dụng vào dạy môn toán tại Trường THCS Đ. Việc chị
P cho rằng nhà trường đã ký hợp đồng dài hạn với chị, hợp đồng đúng biếu mẫu
quy định, nên nhà trường không đủ cơ sở để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động với chị. Qua xác minh năm học 2017-2018 trường thừa giáo viên giảng dạy
môn toán, mặc dù chị P luôn hoàn thành nhiệm vụ của mình và nhà trường đã tìm
mọi cách sắp xếp nhưng không thể sắp xếp được, nên nhà trường đã áp dụng
điểm c khoản 1 Điều 38 của Bộ luật lao động để đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động với chị P là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Tại bản án sơ thẩm số: 01/2019/LĐ-ST ngày 01/8/2019 của Tòa án nhân dân
huyện T đã quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu P về việc hủy
quyết định số 02/ QĐ-THCS ngày 17/01/2018 của Hiệu trưởng Trường trung học
cơ sở xã Đ, huyện T về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/8/2019, chị Nguyễn Thị Thu P kháng cáo yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị P,
trường hợp cấp sơ thẩm có vi phạm về việc áp dụng pháp luật, vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng thì đề nghị hủy bản án sơ thẩm số: 01/2018/LĐ-ST ngày
01/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn
giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo và cho rằng Hiệu trưởng
trường trung học cơ sở Đ chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị P với lý do:
Định mức viên chức giáo viên bộ môn toán đã đủ theo quy định là không đúng

112
Page 113

theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật lao động năm 2012. Nhà trường cho rằng
việc chấm dứt hợp đồng lao động là do bất khả kháng khác là không đúng. Tại
khoản 2 Điều 12 N định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ
hướng dẫn về lý do bất khả kháng:
a) Do địch họa, dịch bệnh;
b) Di dời hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.”
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của chị Nguyễn Thị Thu P.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông phát biểu ý kiến: Việc
chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Toà án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ, kết
quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản
1 Điều 308, của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của chị
Nguyễn Thị Thu P, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 01/2019/LĐ-ST ngày
01/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thu P, căn cứ vào các chứng
cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
xét thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thu P làm trong
thời hạn luật định là đúng quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Ngày 14/8/2014, Trường trung học cơ sở Đ, huyện T có ký hợp đồng
lao động với chị Nguyễn Thị Thu P không xác định thời hạn với nhiệm vụ giáo
viên giảng dạy môn toán. Sau khi ký hợp đồng chị P đều hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Quá trình giảng dạy tại trường, Uỷ ban nhân dân huyện T đã tổ chức
thi tuyển công chức vào năm 2015 và thông báo cho trường biết đồng thời thông
báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về thi tuyển công chức, nhưng chị P
không đăng ký thi tuyển.
[2.2]. Ngày 03/3/2017, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông ban hành văn bản
số 989/UBND-NC về việc hợp đồng chuyên môn nghiệp vụ tại các cơ quan, đơn
vị, trong đó có nội dung: “Không hợp đồng lao động để thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn, nghiệp vụ tại các cơ quan, đơn vị” (BL số 52). Thực hiện văn bản số
989/UBND-NC ngày 03/3/2017 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đăk Nông, ngày
14/9/2017, Uỷ ban nhân dân huyện T đã ban hành văn bản số 1304/UBND-NV về
việc chấm dứt hợp đồng lao động tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục, trong văn bản
có nội dung: “Đề nghị Hiệu trưởng trường trung học cơ sở Đ không tiến hành ký
113
Page 114

hợp đồng năm học 2017-2018 đối với chị Phạm Hà Thảo N, trình độ chuyên môn:
Cao đẳng sư phạm tiếng anh và chị Nguyễn Thị Thu P, trình độ chuyên môn: Đại
học sư phạm toán. Lý do: Giáo viên chuyên ngành Toán và chuyên ngành Anh
văn đã đủ theo định mức và tiến hành chấm dứt hợp đồng đã ký trước đây theo
đúng quy định của pháp luật”. (BL số 42). Sau khi Trường nhận được văn bản số
1304/UBND-NV, nhà trường đã tổ chức họp để thông báo đến toàn thể cán bộ
công nhân viên nhà trường, chị P có tham dự nhưng không ký vào biên bản (BL
56).
[2.3]. Thực hiện văn bản chỉ đạo của cơ quan cấp trên, ngày 01/12/2017,
Trường trung học cơ sở Đ đã ban hành Thông báo số 01/TB-THCSĐBS về việc
chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị Nguyễn Thị Thu P kể từ ngày
17/01/2018 (BL số 18). Ngày 17/01/2018, Hiệu trưởng Trường trung học cơ sở Đ
đã ban hành quyết định số 02/QĐ-THCS về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối
với chị Nguyễn Thị Thu P. Như vậy, việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với
chị P là đảm bảo đúng theo quy định tại Điểm c khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 38
của Bộ luật lao động năm 2012.
Tại Điểm c khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 38 của Bộ luật lao động năm
2012 quy định: “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử
dụng lao động
1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trong những trường hợp sau đây:
c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy
định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục
nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động
phải báo cho người lao động biết trước:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;”
Tại khoản 2 Điều 12 N định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2003 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về
hợp đồng lao động đã quy định người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động trong trường hợp quy định tại điểm a và điểm d khoản 1 Điều 38 của
Bộ luật lao động đã được sữa đổi, bổ sung quy định như sau:
2. Lý do bất khả kháng khác là trường hợp do yêu cầu của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền từ cấp tỉnh trở lên, do địch họa, do dịch bệnh không thể khắc phục được
dẫn tới việc phải thay đổi, thu hẹp sản xuất, kinh doanh.
Tại khoản 2 Điều 12 N định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao
động năm 2012, quy định: Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người
sử dụng lao động tại điểm a và c khoản 1 Điều 38 của Bộ luật lao động quy định như
sau:
114
Page 115

“2. Lý do bất khả kháng khác thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Do địch họa, dịch bệnh;
b) Di dời hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.”
[2.4]. Như vậy, Hiệu trưởng Trường trung học cơ sở Đ, huyện T ban hành
quyết định số 02/QĐ-THCS về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị
Nguyễn Thị Thu P là căn cứ vào văn bản số 1304/UBND-NV ngày 14/9/2017 của
Uỷ ban nhân dân huyện T, trên cơ sở văn bản chỉ đạo số 989/UBND-NC ngày
03/3/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông. Đây là văn bản của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền của cấp tỉnh, thuộc trường hợp lý do bất khả kháng theo quy định
tại Điểm c khoản 1 Điều 38 của Bộ luật lao động năm 2012 và hướng dẫn tại
khoản 2 Điều 12 N định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 của Chính phủ; khoản 2
Điều 12 N định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/1/015 của Chính phủ như đã viện dẫn ở
trên. Do đó, chị P kháng cáo đề N hủy quyết định số 02/QĐ-THCS ngày 17/01/2018
của Hiệu trưởng Trường trung học cơ sở Đăk Buk So là không có căn cứ.
[3]. Đối với yêu cầu kháng cáo của chị P buộc Trường THCS xã Đ tiếp
nhận chị P vào làm việc và chi trả đầy đủ các khoản lương và trợ cấp từ ngày
17/01/2018 đến ngày xét xử. Xét thấy, do yêu cầu của chị P về việc hủy quyết
định số 02/QĐ-THCS ngày 17/01/2018 của Hiệu trưởng Trường trung học cơ sở
Đ không được chấp nhận, nên không có căn cứ để buộc Trường THCS Đ tiếp
nhận chị P vào làm việc và chi trả đầy đủ các khoản lương và trợ cấp theo yêu cầu
của chị P. Khi Hiệu trưởng Trường THCS xã Đ chấm dứt hợp đồng lao động với
chị P thì nhà trường đã chi trả toàn bộ số tiền lương, phụ cấp khác cho chị P, nên
cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết là có căn cứ. Vì vậy, kháng cáo của chị P
là không có căn cứ chấp nhận.
[4]. Đối với nội dung kháng cáo đề nghị huỷ bản án sơ thẩm, Hội đồng xét
xử xét thấy, Đơn khởi kiện chị P yêu cầu giải quyết với hai nội dung: Thứ nhất:
Hủy quyết định số 02/QĐ-THCS ngày 17/01/2018 về việc đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động đối với chị; Thứ hai: Buộc nhà Trường tiếp tục nhận chị P vào
làm việc và chi trả cho chị P đầy đủ các khoản lương, trợ cấp kể từ ngày
17/01/2018 cho đến ngày xét xử, nhưng bản án sơ thẩm không nhận định và quyết
định đối với nội dung thứ hai là có phần thiếu sót. Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm
xác định Trường THCS Đ là bị đơn trong vụ án là chưa chính xác, bởi vì: Quyết
đinh số 02/QĐ-THCS ngày 17/01/2018 được ký với tư cách là Hiệu trưởng
Trường THCS Đ. Do đó, cần phải xác định bị đơn là Hiệu trưởng Trường THCS
Đ. Tuy nhiên, việc thu thập chứng cứ và chứng minh đã được cấp sơ thẩm thực
hiện đầy đủ và đúng theo quy định tại chương VII của Bộ luật Tố tụng dân sự,
nên việc thiếu sót của cấp sơ thẩm cũng không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của chị P và nội dung giải quyết vụ án, tại phiên toà phúc thẩm có thể
khắc phục được. Do đó, không cần thiết phải huỷ bản án sơ thẩm mà cần phải nêu
lên để cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.
115
Page 116

[5]. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Nông tại phiên toà là có căn cứ.
[6]. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, xét thấy mặc dù không có
căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thu P, nhưng do cấp sơ
thẩm có phần thiếu sót như đã nhận định ở trên. Do đó, cần phải sửa bản án sơ
thẩm số 01/2018/LĐ-ST ngày 01/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện T theo
hướng đã phân tích ở trên.
[7]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu P không phải chịu án phí theo quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1
Điều 35, khoản 1 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
khoản 10 Điều 36, điểm c khoản 1 Điều 38, khoản 2 Điều 202 Bộ luật lao động 2012;
Điểm a khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Sửa bản án sơ thẩm số 01/2019/LĐ-ST ngày 01/8/2019 của Tòa án nhân
dân huyện T, tỉnh Đắk Nông.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu P về việc
yêu cầu hủy quyết định số 02/QĐ-THCS ngày 17/01/2018 của Hiệu trưởng
Trường trung học cơ sở Đ, huyện T về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động, buộc nhà Trường tiếp tục nhận chị Nguyễn Thị Thu P vào làm việc và chi
trả cho chị P đầy đủ các khoản lương, trợ cấp kể từ ngày 17/01/2018 cho đến
ngày xét xử.
2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu P không phải chịu án phí lao động sơ
thẩm và án phí lao động phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đăk Nông;
- TAND huyện T; (Đá ký, đóng dấu)
- Chi cục THADS huyện T;
- Các đương sự;
- Tổ Hành chính tư pháp;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu Tòa dân sự.
Phạm Thị Thông

116
Page 117

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Số: 143/2019/KDTM - PT
Ngày: 15/11/2019
V/v: Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy
Các Thẩm phán: Bà Ngô Tuyết Băng
Ông Lê Thanh Bình
- Thư ký phiên toà: Bà Dương Thị Huệ – Thư ký Toà án nhân dân thành phố
Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội: Bà Ngô Thị Huyền
Phương - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 04 và 15/11/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 90/2019/TLPT ngày 03/7/2019 về Tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 390/2019/QĐ - PT ngày 07 tháng
10 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 430/2019/QĐ - PT ngày 18/10/2019 và
Quyết định hoãn phiên tòa số 471/2019/QĐ - PT giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Khúc Thị Thanh Huyền, sinh năm 1979
Trú tại: Số 143, ngõ 85 phố H , phường T, quận TX , Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Thu H , sinh năm 1985.
Trú tại: Số 10, phố V , phường N, quận Đ , Thành phố Hà Nội.
(Bà H và Bà H1 đều vắng mặt tại phiên tòa).
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần Q
Trụ sở theo ĐKKD: Tầng 25, tòa nhà P, lô VP2 Y, phường YH, quận C ,
thành phố Hà Nội (nay là Tầng 25, tòa nhà P, số 01 PV, phường YH, quận C ,
Thành phố Hà Nội).
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Huy T , sinh năm 1982 – Tổng
Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Đức S ; ông Nguyễn Văn T ; ông
Nguyễn Trần H; bà Trần Thị T – Luật sư Công ty Luật THNN S, tầng 2, tòa nhà L,
số 02 D, quận C , Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Xuân T , sinh năm 1982.
1
117
Page 118

- Bà Hoàng Thị Cẩm A, sinh năm 1988.


(Ông Sơn, bà Cẩm A có mặt tại phiên tòa; ông T, ông H, bà T vắng mặt tại
phiên tòa).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Công ty Cổ phần M .
Trụ sở: Số 143, ngõ 85, phố H , phường TX , quận TX , thành phố Hà Nôi.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Bùi Thị Thu T , sinh năm 1995 - Chủ tịch
Hội đồng quản trị (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Ông Trần Ngọc B , sinh năm 1973.
Trú tại: Lô HH, Khu đô thị T, đường TH, phường T, quận NTL, Thành phố
Hà Nội (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Công ty Cổ phần DK .
Trụ sở: Tầng 5, Tòa nhà A, số 36 phố HC, phường O, quận Đ , thành phố Hà
Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Duy Đ - Tổng Giám đốc.
(Có đơn xin xét xử vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Công ty Cổ phần Q – là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, các lời khai tại Toà án, nguyên đơn - chị Khúc Thị
Thanh H và người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Chị Hlà cổ đông của Công ty Cổ phần DK (DK). Ngày 11/4/2016, tôi có ký
Hợp đồng đặt cọc với Công ty Cổ phần Q để mua 4.350.000 cổ phần phổ thông
tương đương với 8,38% vốn điều lệ của Công ty cổ phần DK (DK ). Tại hợp đồng
đặt cọc tôi và bên bán (Công ty Q ) đã thỏa thuận rất cụ thể các nội dung:
+ Số lượng cổ phần chuyển nhượng: 4.350.000 cổ phần phổ thông của Công
ty DK .
+ Mã chứng khoán: DK ; Niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
(HNX).
+ Mệnh giá cổ phần: 10.000 đồng/cổ phần.
+ Tổng giá trị cổ phần theo mệnh giá: 43.500.000.000 đồng.
+ Giá chuyển nhượng: 4.300đồng/cổ phần.
+ Tổng giá trị chuyển nhượng: 18.705.000.000 đồng.
+ Số tiền đặt cọc: các bên thỏa thuận đặt cọc cho việc chuyển nhượng cổ
phần số tiền là 1.870.500.000 đồng, tương đương 10% tổng giá trị chuyển nhượng.
+ Thời hạn thanh toán tiền đặt cọc là trong vòng 01 ngày làm việc kể từ ngày
hai bên ký thỏa thuận đặt cọc, bên mua phải chuyển tiền đặt cọc vào tài khoản của
bên bán.
+ Thỏa thuận khác: Tại hợp đồng đặt cọc, chúng tôi đã thỏa thuận rõ ràng: chỉ
cần bên mua thanh toán đầy đủ tiền đặt cọc thì bên bán sẽ ký Hợp đồng chuyển
nhượng cho bên mua để bên mua đứng tên sở hữu số cổ phần đã mua; đồng thời bên

118
Page 119

mua phải thế chấp lại ngay toàn bộ số cổ phần đã nhận chuyển nhượng trên cho
chính bên bán; và thế chấp thêm 10.623.914 cổ phiếu phổ thông DK (do công ty cổ
phần đầu tư M nắm giữ) để đảm bảo việc thanh toán của bên mua trong thời hạn 18
tháng.
Sau khi ký hợp đồng đặt cọc tôi đã chuyển toàn bộ tiền đặt cọc cho bên bán
theo đúng thỏa thuận.
Ngày 23/06/2016, tôi ký Hợp đồng chuyển nhượng 4.350.000 cổ phần phổ
thông DK . Ngay sau đó, tôi đã ký hợp đồng thế chấp lại toàn bộ số cổ phần đã mua
cho bên bán, nhưng bên bán không làm thủ tục sang tên sở hữu tại cơ quan có thẩm
quyền cho tôi. Tôi đã rất nhiều lần yêu cầu bằng điện thoại, email, văn bản đề nghị
bên bán làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cổ phần cho tôi (theo Điều 4 Hợp đồng
chuyển nhượng) nhưng bên bán cố tình kéo dài thời gian không làm thủ tục.
Tình huống khách quan khác: Trong thời gian bên bán cố tình kéo dài thời
gian không sang tên sở hữu cổ phần đã bán cho tôi thì xuất hiện một tình huống
khách quan - bất khả kháng đó là: Ngày 26/4/2017, Sở Giao dịch chứng khoán Hà
Nội ban hành Quyết định số 296/QĐ-SGDHN và đến ngày 31/5/2017 thì phát hành
Thông báo số 684/TB -SDGHN về việc hạn chế giao dịch đối với mã chứng khoán
DK , theo đó mã chứng khoán DK bị hủy niêm yết trên sàn giao dịch HNX và chỉ
được giao dịch vào phiên thứ 6 hàng tuần trên sàn UpCoM, dẫn đến thỏa thuận giữa
các bên về việc giao dịch chuyển nhượng mã chứng khoán DK trên Sàn HNX là
không thể thực hiện được.
Do đó, đến thời điểm hiện nay, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa tôi và
Công ty Q là không thể thực hiện (do lỗi của Bên bán cố tình không thực hiện nghĩa
vụ chuyển nhượng + sự kiện bất khả kháng).
Đề nghị Tòa giải quyết yêu cầu chấm dứt thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần giữa các bên, buộc Công ty Q hoàn trả cho tôi số tiền đã nhận là
1.870.500.000 đồng.
Quá trình tham gia tố tụng đại diện theo ủy quyền của bị đơn là anh
Trần Đức S trình bày:
Công Ty Q AM (gọi tắt là bị đơn) đơn vị được ủy thác quản lý và bán
4.350.000 cổ phần của Công ty cổ phần DK (“Cổ Phần Chuyển Nhượng”).
Ngày 11/4/2016, bị đơn và nguyên đơn ký kết Biên bản thỏa thuận đặt cọc
chuyển nhượng cổ phần (“Thỏa Thuận Đặt Cọc”) để chuyển nhượng toàn bộ số Cổ
phần chuyển nhượng nêu trên của bị đơn sang cho nguyên đơn. Thỏa thuận đặt cọc
có một số nội dung chính, ngoài các nội dung khác, như sau:
Giá trị chuyển nhượng toàn bộ cổ phần chuyển nhượng là 18.705.000.000
đồng, không bao gồm phí giao dịch, các khoản thuế, phí và lệ phí của nhà nước;
Nguyên đơn đặt cọc cho bị đơn số tiền là 1.870.500.000 đồng tương đương
với 10% của tổng giá trị chuyển nhượng (“Tiền đặt cọc”);
Sau khi bị đơn nhận đủ số tiền đặt cọc, các bên sẽ tiến hành ký kết Hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần;

119
Page 120

Nguyên đơn có nghĩa vụ thu xếp thế chấp bổ sung 10.623.914 cổ phần của
Công ty cổ phần DK do Công ty cổ phần Đầu tư M nắm giữ cho bị đơn;
Việc thanh toán số tiền chuyển nhượng cổ phần còn lại sẽ được thực hiện sau
18 tháng kể từ ngày hai bên ký Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có hiệu lực, chi
tiết được quy định cụ thể tại Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Trên cơ sở thống nhất của các bên theo Thỏa thuận đặt cọc nêu trên, nguyên
đơn đã chuyển tiền đặt cọc cho bị đơn;
Ngày 23/6/2016, bị đơn và nguyên đơn đã ký Hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần (“Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần”). Theo đó, Hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần có quy định, ngoài các nội dung khác, một số nội dung chính như sau:
Bị đơn đồng ý một cách không hủy ngang bán cho nguyên đơn và nguyên
đơn đồng ý một cách không hủy ngang mua từ bị đơn số Cổ phần chuyển nhượng
(Điều 2.01);
Giá mua bán Cổ phần chuyển nhượng và thời hạn thanh toán không thay đổi
so với thỏa thuận đặt cọc nêu trên;
Để thực hiện đầy đủ và đúng hạn nghĩa vụ thanh toán, nguyên đơn đồng ý và
thu xếp cầm cố toàn bộ số Cổ phần chuyển nhượng và cầm cố bổ sung 10.700.000
cổ phần phổ thông của Công ty cổ phần DK (“Tài sản cầm cố bổ sung”) do ông
Trần Ngọc B nắm giữ cùng tất cả các quyền và lợi ích liên quan đến số cổ phần này
cho bị đơn (Điều 2.04);
Cùng với việc ký kết Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, các bên phải ký Hợp
đồng cầm cố chứng khoán (tức là nguyên đơn có nghĩa vụ cầm cố Cổ phần chuyển
nhượng và thu xếp việc cầm cố tài sản cầm cố bổ sung cho bị đơn) (Điều 6.01a) .
Trên thực tế, ngay sau khi ký kết Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, bị đơn
đã chuẩn bị để sẵn sàng tiến hành các thủ tục cần thiết liên quan đến việc chuyển
nhượng cổ phần chuyển nhượng. Tuy nhiên, nguyên đơn đã cố tình dùng mọi biện
pháp và cách thức trì hoãn để không tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần.
Vi phạm của chị H : Theo quy định tại Điều 6.01a Hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần cũng như các trao đổi và thỏa thuận liên quan, các bên thống nhất
rằng nghĩa vụ thực hiện các thủ tục chuyển nhượng cổ phần chuyển nhượng và
nghĩa vụ cầm cố bổ sung tài sản cầm cố bổ sung sẽ được thực hiện song song. Nói
cách khác, cùng với việc ký Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, bị đơn sẽ bàn giao
các tài liệu để Chị Hhoàn tất việc chuyển nhượng theo quy định tại Điều 4.01 và
4.02 với điều kiện tiên quyết là các bên đồng thời ký các Hợp đồng cầm cố chứng
khoán theo quy định tại Điều 4.03 và Điều Điều 6.01a (tức là hợp đồng ký bởi và
giữa Bên cầm cố - ông Trần Ngọc B , bên được cầm cố/bảo lãnh – nguyên đơn và
bên nhận cầm cố - bị đơn).
Trên cơ sở các quy định của thỏa thuận đặt cọc, Hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần cũng như quy định của pháp luật liên quan, các bên đã trao đổi và thống nhất
về các điều khoản và điều kiện của hợp đồng cầm cố. Để đẩy nhanh việc thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, bị đơn thậm chí đã chủ động soạn thảo hợp đồng
cầm cố và gửi cho nguyên đơn trên cơ sở các nội dung đã trao đổi và thống nhất.
Trên thực tế, bị đơn thậm chí cũng đã ký trước và chuyển cho nguyên đơn hợp đồng

120
Page 121

này cũng như ký ủy quyền theo yêu cầu để nguyên đơn (đại diện của bị đơn tại
Công ty cổ phần DK ký ủy quyền cho người của chị H ) thực hiện một số công việc
tại Hội đồng quản trị của Công ty cổ phần DK .
Do đã có ý định không muốn tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần, nguyên đơn đã ký và gửi lại bị đơn 02 bản Hợp đồng cầm cố chứng khoán đề
ngày 27/3/2017 và 31/03/2017 với những thay đổi rất phi lý đối với một số nội dung
quan trọng mà trước đó các bên đã có trao đổi và thống nhất, bao gồm:
Nguyên đơn yêu cầu thay đổi phạm vi bảo đảm chỉ bao gồm tài sản cầm cố
bổ sung mà không bao gồm lợi tức, cổ tức, các quyền, lợi ích phát sinh từ tài sản
cầm cố bổ sung (Điều 1.3 của Hợp đồng cầm cố chứng khoán do nguyên đơn ký)
trong khi Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần quy định rất rõ ràng rằng Chị Hcó
nghĩa vụ cầm cố tài sản cầm cố bổ sung và “tất cả các quyền và lợi ích liên quan
đến số cổ phần này” (Điều 2.04).
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn chịu 50% chi phí đăng ký giao dịch đảm bảo đối
với việc cầm cố (Điều 3.3 của Hợp đồng cầm cố chứng khoán do nguyên đơn ký)
trong khi Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần quy định rất rõ ràng rằng Chị H“có
nghĩa vụ thanh toán chi phí phát sinh liên quan đến việc cầm cố, lưu ký, phong tỏa,
giải tỏa tài sản đảm bảo” (Điều 5.2c).
Đặc biệt, các bản Hợp đồng cầm cố chứng khoán, nguyên đơn gửi cho bị đơn
chỉ có chữ ký của nguyên đơn mà không hề có chữ ký của chủ sở hữu tài sản cầm
cố bổ sung là ông Trần Ngọc B nên hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Liên quan
đến việc này, bị đơn đã nhiều lần gửi thư yêu cầu và thúc giục Chị Hthực hiện nghĩa
vụ cầm cố tài sản cầm cố bổ sung, cụ thể là yêu cầu Chị Hthu xếp để Bên cầm cố ký
vào Hợp đồng cầm cố chứng khoán mà bị đơn đã ký trước, làm cơ sở để bị đơn bàn
giao các giấy tờ để Chị Hlàm các thủ tục chuyển nhượng cổ phần nhưng nguyên
đơn không thực hiện nghĩa vụ này.
Với tinh thần thiện chí và hỗ trợ, sau khi ký hợp đồng tới hơn 1 năm, do
nguyên đơn không cung cấp được bản Hợp đồng cầm cố chứng khoán có chữ ký
của ông Trần Ngọc B , bị đơn cũng chấp nhận và hướng dẫn cho Chị Hthực hiện
phương án chuyển nhượng thay thế. Cụ thể là, nếu nguyên đơn không thu xếp được
với Bên cầm cố để ký Hợp đồng cầm cố chứng khoán, Chị Hcó thể mua trực tiếp số
Cổ Phần Chuyển Nhượng bằng giao dịch khớp lệnh trên sàn UpCoM. Để thực hiện
được việc này, đương nhiên nguyên đơn phải chủ động chuẩn bị đủ lượng tiền mặt,
tối thiểu bằng với tổng giá trị Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần (thực tế Chị
Hthông báo đã chuẩn bị đủ nguồn tiền để có thể thực hiện giao dịch trên sàn) và nếu
nguyên đơn thực hiện theo phương án này thì bị đơn sẽ hoàn trả lại Tiền Đặt Cọc
sau khi hoàn thành việc khớp lệnh mua bán, nhưng một lần nữa nguyên đơn không
thực hiện theo phương án này.
Trong các công văn nêu trên, bị đơn luôn có cảnh báo nguyên đơn về các hậu
quả pháp lý của việc không thực hiện nghĩa vụ, đồng thời đặt ra các giới hạn về thời
gian cho việc thực hiện các nghĩa vụ của nguyên đơn nhưng nguyên đơn đã cố tình
không thực hiện các nghĩa vụ của mình.

121
Page 122

Bị đơn cho rằng, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần là một loại hợp đồng
song vụ được qui định tại Điều 414, 415 và 417 của Bộ luật dân sự năm 2005.
Như vậy, thu xếp để ký hợp đồng cẩm cố chứng khoán với bên cầm cố - ông
Trần Ngọc B là nghĩa vụ của nguyên đơn và nghĩa vụ này phải được thực hiện
trước hoặc chậm nhất cùng thời điểm khi bị đơn bàn giao cho nguyên đơn các tài
liệu hoàn tất việc chuyển nhượng cổ phần chuyển nhượng. Trong trường hợp này,
rõ ràng là trong khi bị đơn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, nguyên đơn cố tình
không thực hiện các thỏa thuận và cam kết của các bên mặc dù đã được cảnh báo về
các hậu quả pháp lý.
Chúng tôi cho rằng các ý kiến của nguyên đơn cho rằng bị đơn không thực
hiện nghĩa vụ của mình là hoàn toàn vô lý và không có cơ sở. Trong trường hợp
này, bị đơn mới là bên bị vi phạm và chịu thiệt hại do việc chậm trễ thực hiện nghĩa
vụ của nguyên đơn dẫn đến việc không thể bán được Cổ phần chuyển nhượng cho
bên khác tại những thời điểm cổ phần này có giá tốt. Tương ứng với điều này, đáng
lẽ ra bị đơn mới là nguyên đơn tiến hành việc khởi kiện nguyên đơn buộc tiếp tục
thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần và các thỏa thuận liên quan.
Do giá chứng khoán trên toàn thị trường liên tục giảm mạnh, trong đó giá cổ
phần chuyển nhượng xuống thấp và bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt nên việc giao
dịch chỉ được thực hiện vào các phiên giao dịch thứ 6 hàng tuần trên sàn UPCOM
thay sàn HNX. Việc hạn chế giao dịch này không ảnh hưởng tới việc chuyển
nhượng cổ phần của bị đơn cho nguyên đơn do trong trường hợp cụ thể này các bên
thống nhất thực hiện chuyển nhượng theo hình thức thỏa thuận và vẫn hoàn toàn có
thể thực hiện thông qua khớp lệnh trên sàn.
Như vậy, theo quan điểm của bị đơn, bản chất của việc nguyên đơn không
thực hiện nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận đặt cọc và hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần là do giá cổ phần chuyển nhượng giảm. Bên cạnh đó, với việc có được ủy
quyền của đại diện bị đơn như nêu trên đây, nguyên đơn có thể đã đạt được những
lợi ích thông qua việc biểu quyết của người được ủy quyền tại Hội đồng quản trị
Công ty cổ phần DK .
Để có sự đánh giá đúng bản chất của sự việc, cho đến thời điểm này, bị đơn
có thể vẫn sẵn sàng xem xét và chấp nhận việc tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần nếu nguyên đơn chuẩn bị đủ lượng tiền thanh toán tổng giá trị hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần.
Đề nghị của bị đơn: Bị đơn bác bỏ toàn bộ ý kiến và yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của bị đơn, bị đơn đề
nghị Tòa án xem xét và quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên chấm dứt
thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần và hoàn trả khoản tiền đặt cọc;
Tuyên thỏa thuận đặt cọc và Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần là hoàn toàn
hợp pháp, có hiệu lực và có giá trị pháp lý ràng buộc các bên và buộc nguyên đơn
tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần hoặc chịu mất khoản tiền đặt
cọc.

122
Page 123

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Công ty Cổ phần DK trình


bày:
Công ty Cổ phần DK là Công ty đại chúng, có mã chứng khoán DK được
niêm yết công khai theo quy định của pháp luật. Việc các cá nhân thực hiện các giao
dịch chuyển nhượng cổ phiếu phải chịu sự quản lý của Sở giao dịch chứng khoán
Hà Nội và các cơ quan có thẩm quyền, Công ty không quản lý việc giao dịch này.
Vì vậy, Công ty xin vắng mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Công ty cổ phần đầu tư M
có lời khai.
- Tại thời điểm tháng 4 năm 2016, Công ty cổ phần M đang nắm giữ - là chủ
sở hữu hợp pháp của 10.623.914 cổ phiếu phổ thông Công ty cổ phần DK (Mã cổ
phiếu là DK ).
- Do mối quan hệ quen biết trong công việc, Công ty M có được biết chị
Khúc Thị Thanh H có nhu cầu muốn mua 4.350.000 cổ phần phổ thông của Công ty
cổ phần DK (DK ); Số cổ phần này thuộc sở hữu của Công ty Cổ phần Q .
- Để giúp đỡ nhau trong kinh doanh nên Công ty M có nhận bảo lãnh cho
Chị Hmua số cổ phần trên bằng hình thức bảo lãnh của bên thứ 3. Theo đó, Công ty
M sẽ cầm cố 10.623.914 cổ phiếu phổ thông DK (do Công ty cổ phần đầu tư M
nắm giữ) cho Công ty Cổ phần Q để đảm bảo cho khả năng thanh toán tiền của Chị
Htrong thời hạn 18 tháng.
- Ngày 11/4/2016, có ký Hợp đồng đặt cọc để mua 4.350.000 cổ phần phổ
thông tương đương với 8,38% vốn điều lệ của Công ty cổ phần DK (DK ).
- Ngày 23/6/2016, Hợp đồng mua bán chính thức được ký giữa nguyên đơn
và bị đơn. Trong nội dung của Hợp đồng mua bán có thỏa thuận về việc “vào ngày
hoàn tất chuyển nhượng, các bên phải ký hợp đồng cầm cố” (Mục 4.03 Điều 4). Tuy
nhiên, Công ty M đợi mãi mà vẫn chưa thấy bên bán hoàn tất chuyển nhượng cho
chị H .
- Do vậy, ngày 22/7/2016, Công ty M đã chuyển nhượng 10.623.914 cổ
phiếu phổ thông của Công ty cổ phần DK (mã cổ phiếu là DK ) cho chủ sở hữu mới
là ông Trần Ngọc B . Khi chuyển nhượng cho Ông B , phía Công ty M cũng thông
báo bằng lời nói cho Ông B biết sự việc trên, Ông B cũng có nhận thông tin và sẽ
bảo lãnh nếu quyền và lợi ích giữa các bên được đảm bảo theo đúng pháp luật.
Hiện nay, Công ty M đã chuyển nhượng cổ phần cho người khác, nghĩa vụ
bảo lãnh cầm cố theo thỏa thuận đặt cọc và hợp đồng mua bán cổ phần nêu trên là
không còn. Do vậy, Công ty M không có nghĩa vụ gì liên quan đến nghĩa vụ nêu
trên nữa, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Trần Ngọc B có lời khai:
- Ngày 22/7/2016, ông có nhận chuyển nhượng 10.623.914 cổ phiếu phổ
thông của Công ty cổ phần DK (Mã cổ phiếu là DK ) từ Công ty cổ phần M b.
- Khi nhận chuyển nhượng, ông cũng được bên bán thông báo về việc trước
đó có hứa bảo lãnh hợp đồng mua cổ phiếu cho nguyên đơn để đảm bảo thanh toán
đối với bị đơn. Tuy nhiên, ông cũng nói cho nguyên đơn và bị đơn biết rằng, Hợp

123
Page 124

đồng cầm cố ba bên phải đảm bảo đúng pháp luật; bản thân ông phải được cùng các
bên tham gia thương lượng các điều khoản trong hợp đồng đó vì đó là tài sản của
ông. Bị đơn có nghĩa vụ soạn thảo hợp đồng sau đó chuyển lại cho nguyên đơn và
cho ông để các bên cùng thương lượng. Nhưng, trong quá trình thương lượng hợp
đồng cầm cố ba bên, ông nhận thấy bị đơn không tôn trọng ý kiến của ông cũng như
ý kiến của nguyên đơn; cố tình chậm soạn thảo văn bản; cố tình đưa ra các điều
khoản phi lý mà không được sự chấp thuận của ông. Vì thế nên đến nay hợp đồng
này vẫn chưa được ký kết. Các bên chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng dân sự thì
đều có quyền ngang nhau trong việc đưa ra ý kiến của mình. Vậy mà, bị đơn luôn
cho rằng mình là pháp nhân lớn nên không tôn trọng ý kiến của các cá nhân chủ thể
khác, điều này là sự thiếu tôn trọng với ông. Ông cho rằng, giao dịch mua bán cổ
phần giữa nguyên đơn và bị đơn đến thời điểm này không thực hiện được hoàn toàn
do lỗi của bị đơn. Do vậy, đến nay ông không đồng ý cầm cố số cổ phần của ông
cho bị đơn để bảo lãnh thanh toán cho nguyên đơn nữa.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần
yêu cầu khởi kiện: không đề nghị bồi thường đối với số tiền đã đặt cọc. Đề nghị bị
đơn trả lại cho nguyên đơn số tiền đặt cọc là 1.870.500.000 đồng vì ngay sau khi ký
hợp đồng đặt cọc các bên chưa hoàn thành thủ tục chuyển nhượng sang tên cho
nguyên đơn theo như thỏa thuận mà hai bên đã ký kết; số cổ phiếu các bên nhận
chuyển nhượng đã bị hủy niêm yết trên sàn HNX - Sở giao dịch chứng khoán Hà
Nội; Ông B không đồng ý ký hợp đồng bảo lãnh cho nguyên đơn.
Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 27/2018/KDTM-ST ngày
30/11/2018 của Tòa án nhân dân quận C , Thành phố Hà Nội, quyết định:
- Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Khúc Thị Thanh Huyền. Buộc Công ty Cổ
phần Q phải trả lại Chị Hsố tiền 1.870.500.000 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, án phí và quyền
kháng cáo của các đương sự.
+ Ngày 14/12/2018, bị đơn có đơn kháng cáo đối với toàn bộ nội dung bản án
sơ thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân quận C .
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt tại phiên tòa không
có lý do; những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt
và vẫn giữ nguyên lời khai ở cấp sơ thẩm. Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo, không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ gì mới và giữ nguyên toàn bộ lời khai ở
cấp sơ thẩm.
Luật sư Trần Đức S bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn có quan
điểm: Cấp sơ thẩm nhận định nguyên đơn và bị đơn ký hợp đồng chuyển nhượng cổ
phiếu DK đang được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội bên ngoài Sở
giao dịch là vi phạm qui định tại Luật chứng khoán là chưa đầy đủ và chưa chính
xác. Bởi lẽ: căn cứ Quy chế giao dịch chứng khoán và các văn bản hướng dẫn về
hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán thì giao dịch
của 2 bên về ý chí cũng như thỏa thuận tại Điều 4.01 của Hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần là 4.300đ/cổ phần thuộc giao dịch theo phương thức chuyển nhượng ngoài

124
Page 125

biên độ tại Trung tâm lưu ký chứng khoán sau khi được Ủy ban chứng khoán Nhà
nước chấp thuận. Và thực tế, bên bị đơn đã chuẩn bị toàn bộ các giấy tờ cần thiết để
xin UBCKNN chấp thuận giao dịch ngoài biên độ nhưng Bà H đã không thực hiện
nghĩa vụ cầm cố tài sản cầm cố bổ sung nên việc xin thủ tục chuyển quyền sở hữu
UBCKNN để chuyển nhượng qua TTLKCK chưa thể thực hiện được.
Bị đơn không vi phạm nghĩa vụ thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu cho
nguyên đơn mà do nguyên đơn không thực hiện ký Hợp đồng cầm cố chứng khoán
bổ sung theo Điều 6 của Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần nên các bên không thể
thực hiện được nội dung chuyển nhượng theo Điều 4 của Hợp đồng. Mặt khác, Điều
4 của Hợp đồng qui định ngày “hoàn tất chuyển nhượng cổ phần” phải được hiểu là
bao gồm hoàn tất tất cả các thủ tục quy định tại Điều 4 của hợp đồng và các bên
phải ký các hợp đồng cầm cố chứ không phải hoàn tất chuyển nhượng chỉ thuộc về
nghĩa vụ của bên bán.
Cấp sơ thẩm nhận định hợp đồng cầm cố giữa nguyên đơn và bị đơn vô hiệu
cả về hình thức và nội dung là không có cơ sở, bởi lẽ: để nộp hồ sơ và tiến hành các
thủ tục chuyển nhượng cổ phần theo phương thức thỏa thuận giao dịch ngoài biên
độ trong trường hợp này thì việc ký kết hợp đồng cầm có chứng khoán phải được
thực hiện trước. Cấp sơ thẩm nhận định hợp đồng cầm cố giữa bà Huyền, Công ty Q
và ông Trần Ngọc B vô hiệu do không có chữ ký của Ông B là không có căn cứ vì:
căn cứ thỏa thuận của các bên trong hợp đồng thì Bà H phải có nghĩa vụ thu xếp với
bên thứ 3 là Ông B để ký hợp đồng cầm cố cổ phần bổ sung nhưng thực tế Bà H đã
không thực hiện nghĩa vụ này và như vậy hợp đồng này chỉ có chữ ký của Q . Mặc
dù, về nội dung hợp đồng cầm cố bổ sung có nội dung hoàn toàn giống với Hợp
đồng cầm cố cổ phần mà Bà H đã ký nhưng Bà H và Ông B nại ra các lý do không
chính đáng để không ký hợp đồng, dẫn đến Q chưa thể ký các hồ sơ và thực hiện
các thủ tục giao dịch chuyển nhượng theo hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Cấp sơ thẩm nhận định việc Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội ban hành
Quyết định 296 và Thông báo 684 về việc hạn chế giao dịch đối với mã chứng
khoán DK , bị hủy niêm yết trên sàn HNX và chỉ được giao dịch trên sàn Upcom là
“tình huống bất khả kháng” và được coi là “sự thay đổi của các qui định của pháp
luật Việt Nam” là không có căn cứ theo điểm b, khoản 8.01, Điều 8 Hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần dẫn đến việc Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần và các Hợp
đồng cầm cố chứng khoán không có giá trị là nhận định không có căn cứ. Vì: 2 văn
bản trên là văn bản có tính chất cá biệt của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội,
không thể được coi là qui định của pháp luật Việt Nam.
Trong hợp đồng không có điều nào qui định điều kiện cổ phần chuyển
nhượng phải được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và chỉ được
chuyển nhượng qua sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội mà tại Điều 4 của Hợp đồng
còn qui định các bên được chuyển nhượng ngoài biên độ (chuyển dịch ngoài sàn
giao dịch chứng khoán).
Từ những phân tích trên, đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị
đơn, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huyền. Buộc Bà H tiếp tục thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng hoặc chịu mất khoản tiền đặt cọc.

125
Page 126

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa có quan điểm
như sau:
+ Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử và Thư ký phiên tòa đã đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các
đương sự đã được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự.
+ Về nội dung: Ngày 11/4/2016, bà Khúc Thị Thanh H và Công ty Q AM có
ký Biên bản thỏa thuận đặt cọc chuyển nhượng cổ phần. Vào ngày 11/4/2016, Bà H
đã chuyển tiền đặt cọc 10% giá trị hợp đồng theo ủy nhiệm chi cho bên bán. Ngày
23/6/2016, hai bên đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Căn cứ vào Hợp
đồng chuyển nhượng và Biên bản thỏa thuận đặt cọc giữa các bên thì Biên bản thỏa
thuận đặt cọc chuyển nhượng cổ phần là một bộ phận không tách rời của Hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần. Điều 4 Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần qui định các bên
làm thủ tục chuyển quyền sở hữu từ bên bán sang bên mua và làm các thủ tục để
báo cáo UBCKNN chấp nhận vì giao dịch ngoài biên độ, bên mua còn phải ký hợp
đồng cầm cố cổ phần vừa nhận chuyển nhượng và hợp đồng cầm cố cổ phần bổ
sung của Công ty MDH. Tuy nhiên, bên mua đã đưa ra những lý do về nội dung hợp
đồng cầm cố trái với thảo thuận của các bên đã ký trong hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần để không ký hợp đồng cầm cố bổ sung, dẫn đến các bên không thực hiện
được đầy đủ thủ tục chuyển sở hữu cổ phần cho bên mua, lỗi này thuộc về bên mua.
Căn cứ qui định của pháp luật về chứng khoán, căn cứ thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng đặt cọc, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nguyên đơn
phải chịu mất khoản tiền đã đặt cọc cho bị đơn. Đề nghị HĐXX sửa án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Bị đơn là Công ty Cổ phần Q đã nộp tạm ứng án phí kháng
cáo trong hạn luật định là hợp lệ. Nguyên đơn, người đại diện ủy quyền của nguyên
đơn, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (có đơn xin vắng mặt tại phiên
tòa) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 vẫn vắng mặt không có lý do, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử theo Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp với
qui định của pháp luật.
- Về quan hệ pháp luật: Đây là tranh chấp về Hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần giữa bà Khúc Thị Thanh H và Công ty Cổ phần Q , là tranh chấp phát sinh
trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh
doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận nên cấp sơ thẩm xác định quan hệ
pháp luật là Tranh chấp về Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần theo quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp với
qui định pháp luật.
- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn là Công ty Cổ phần Q có trụ sở theo đăng
ký kinh doanh tại tầng 25, tòa nhà Q , lô VP2 YH, phường Y, quận C , Thành phố
Hà Nội nên Tòa án nhân dân quận C thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo
Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

126
Page 127

[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của nguyên đơn đối với toàn bộ bản án sơ
thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1]. Xét Biên bản thỏa thuận đặt cọc chuyển nhượng cổ phần ngày
11/4/2016 và Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 23/6/2016 giữa nguyên đơn
và bị đơn.
+ Xét Biên bản thỏa thuận đặt cọc chuyển nhượng cổ phần: Ngày
11/4/2016 nguyên đơn và bị đơn có ký Biên bản thỏa thuận đặt cọc chuyển nhượng
cổ phần (với tiêu đề như trên nhưng thực chất là Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng
cổ phần ) để mua 4.350.000 cổ phần phổ thông tương đương với 8,38% vốn điều lệ
của Công ty DK . Hai bên đã thỏa thuận về: Số lượng cổ phần chuyển nhượng:
4.350.000 cổ phần phổ thông; Mã chứng khoán: DK ; Niêm yết tại Sở giao dịch
chứng khoán Hà Nội (HNX); Mệnh giá cổ phần: 10.000 đồng/cổ phần; Giá chuyển
nhượng: 4.300 đồng/cổ phần. Tổng giá trị chuyển nhượng: 18.705.000.000 đồng.
- Về số tiền đặt cọc: Trong vòng 01 ngày làm việc kể từ ngày hai bên ký thỏa
thuận đặt cọc, bên mua phải chuyển 10% tổng giá trị chuyển nhượng cổ phần tương
đương số tiền là 1.870.500.000 đồng vào tài khoản của bên bán.
- Về thủ tục chuyển nhượng: Sau khi nhận đủ tiền đặt cọc, hai bên sẽ ký hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần; Bên mua thế chấp bổ sung cổ phiếu DK cho bên bán,
số lượng cổ phiếu 10.623.914 đồng tương đương 20% cổ phần của Công ty DK
thuộc sở hữu của cổ đông lớn Công ty cổ phần đầu tư M . Thủ tục chuyển nhượng
theo qui định của pháp luật và các qui định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Về quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được qui định cụ thể trong hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần.
- Về thanh toán: sau khi hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng số tiền đặt cọc sẽ
được khấu trừ vào tổng giá trị chuyển nhượng mà bên mua đã thanh toán cho bên
bán.
Ngoài ra, hợp đồng còn qui định về thuế, các chi phí khác và điều khoản vi
phạm biên bản thỏa thuận đặt cọc chuyển nhượng cổ phần.
Việc ký biên bản thỏa thuận đặt cọc nêu trên giữa các bên là tự nguyện không
bị ép buộc, lừa dối, do các cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự tham gia ký
kết, thỏa thuận đặt cọc để giao kết và thực hiện hợp đồng, nên thỏa thuận đặt cọc
phát sinh hiệu lực giữa các bên.
Vào ngày 11/4/2016, Bà H đã chuyển tiền đặt cọc theo ủy nhiệm chi cho bên
bán. Hai bên đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, bên mua đã đặt cọc 10%
giá trị hợp đồng theo Điều 2 của Hợp đồng đặt cọc và điểm 1.01 Điều 1 của Hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần. Thỏa thuận đặt cọc đã có giá trị pháp lý và là 1 phần
không tách rời của Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 23/6/2016.
+ Xét Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ký ngày 23/6/2016, Hội đồng xét
xử xét thấy:
Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần được nguyên đơn và bị đơn kí kết ngày
23/6/2016 ghi nhận đầy đủ nội dung của Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng cổ phần,
đồng thời qui định rõ về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên, việc bảo lãnh cầm cố

127
Page 128

cổ phần của bên thứ 3. Hợp đồng được lập thành văn bảndo người cóthẩm quyền
là các cá nhân cóđầy đủ năng lực hành vi kíkết trên cơ sở tự nguyện, không bị ép
buộc lừa ối
d nên cóhiệu lực thi hành đối vớicác bên.
Từthời điểm ký Thỏathuận đặt cọc11/4/2016, chứng khoán của Công ty
DK đang được niêm yết trên sàn HNX (Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội). Hai
bên đã thống nhất về giá mua 1 cổ phần là 4.300đ. Căn cứ Điểm b Khoản1 Điều 41
Luật Chứng khoán; Điều 3 Khoản2 Quy chế giao dịch Chứng khoán niêm yết tại
Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (kèm Quyết định số 345/QĐ-SGDHN ngày
24/7/2013 của Tổng Giám đốc Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội); Điểm c Khoản
2 Điều 3 Thông tư 74/2011/TT-BTC ngày 01/6/2011 của Bộ Tài chínhhướng dẫn về
giao dịch chứng khoán; Điều 19 Thông tư 05/2015/TT- BTC ngày 15/01/2015
hướng dẫnhoạt động đăng ký, lưu ký, bùtrừvà thanh toán giao dịch chứng khoán
[(phụ lục kèm báo cáo) quy định về những trường hợp giao dịch ngoài biên độ]; căn
cứ thỏathuận của các bên tại Điều 4 của Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, xác
định việc mua bán cổ phần giữa nguyên đơn và bị đơn thuộc trường hợp giao dịch
nằmngoài biên độ. Để thực hiện hợp đồng, bên mua và bên bán đồng thời phảithực
hiện nghĩa vụ quy định tại các Điều 2,3,4 và 6 của Hợp đồng để hoàn thiện hồ sơ
chuyển nhượng trình Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán Hà
Nội, Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam chấp thuận, để xin thực hiện giao
dịch chuyển quyền sở hữu chứng khoán của bên bán cho bên mua. Xét đây là thỏa
thuận tự nguyện của các bên và phù hợp với qui định của pháp luật.
Tại Điều 4 của Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, 2 bên đã thỏa thuận bên
bán phải thực hiện hoàn tất hồ sơ và đăng ký chuyển quyền sở hữu cố phần chuyển
nhượng tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho bên mua. Và điểm a, khoản
6.01 Điều 6 của Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần qui định: Cùng với việc ký hợp
đồng chuyển nhượng này, các bên phải ký hợp đồng cầm cố chứng khoán.
Điều 2 của Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần quy định: bên mua phải cầm cố
số cổ phần mà mình cam kết mua; đồng thời phải phải cầm cố bổ sung 10.700.000
cổ phần của bên cầm cố bổ sung để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ và đúng hạn
nghĩa vụ thanh toán (Điều 2.04).
Điều 3 của Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần quy định về thanh toán: trong
đó đợt 1 sau khi hoàn thất thủ tục chuyển nhượng, tiền đặt cọc được khấu trừ vào
tổng giá trị giao dịch đã thanh toán. Đợt 2 số tiền còn lại (90% tổng giá trị giao
dịch) sẽ được thanh toán sau 18 tháng kể từ ngày hai bên ký hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần có hiệu lực.
Như vậy, việc thực hiện nghĩa vụ cầm cố cổ phần của Bà H và nghĩa vụ ký
Hợp đồng cầm cố bổ sung là biện pháp đảm bảo để thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên trong hợp đồng.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên bán chưa thực hiện được
vì bên mua chưa ký Hợp đồng cầm cố cổ phần bổ sung đối với 10.700.000 cổ phần
của ông Trần Ngọc B mà bên bán đã soạn thảo căn cứ vào các nội dung mà các bên
đã thoả thuận và ký kết trong Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, dẫn đến Hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần chưa thực hiện được việc hoàn tất về hình thức là nội dung

128
Page 129

mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Bản án sơ thẩm xác định Hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần vô hiệu cả hình thức và nội dung là không chính xác bởi những
phân tích nêu trên nên có cơ sở chấp nhận nội dung kháng cáo này của bị đơn.
+ Xét các hợp đồng cầm cố chứng khoán ngày 23/6/2016; 26/7/2016,
27/3/2017 và 31/3/2017.
Hồ sơ thể hiện có 4 hợp đồng cầm cố chứng khoán là:
- Hợp đồng cầm cố chứng khoán không số ngày 23/6/2016 (bị đơn và nguyên
đơn đã kí vào hợp đồng – nguyên đơn cầm cố đối với 4.350.000 cổ phần).
- Hợp đồng cầm cố chứng khoán số 02 ngày 26/7/2016 (hợp đồng cầm cố
chứng khoán bổ sung của ông Trần Ngọc B do bị đơn đã ký, nguyên đơn không ký
vào hợp đồng);
- Hợp đồng cầm cố chứng khoán số 27 ngày 27/3/2017 và số 31 ngày
31/3/2017: Nguyên đơn yêu cầu thay đổi phạm vi bảo đảm chỉ bao gồm tài sản cầm
cố bổ sung mà không bao gồm lợi tức, cổ tức, các quyền, lợi ích phát sinh từ tài sản
cầm cố bổ sung (Điều 1.3 của Hợp đồng cầm cố chứng khoán do nguyên đơn ký)
trong khi Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần quy định rất rõ ràng rằng nguyên đơn
có nghĩa vụ cầm cố tài sản cầm cố bổ sung và “tất cả các quyền và lợi ích liên quan
đến số cổ phần này” (Điều 2.04).
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn chịu 50% chi phí đăng ký giao dịch đảm bảo đối
với việc cầm cố (Điều 3.3 của Hợp đồng cầm cố chứng khoán do nguyên đơn ký);
trong khi Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần quy định rất rõ ràng rằng nguyên
đơn“có nghĩa vụ thanh toán chi phí phát sinh liên quan đến việc cầm cố, lưu ký,
phong tỏa, giải tỏa tài sản đảm bảo” (Điều 5.2c).
Như vậy, đối với thỏa thuận cầm cố cổ phần bổ sung theo Điều 2 của Hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần, do 2 bên mới ký Hợp đồng cầm cố chứng khoán đối
với 4.350.000 cổ phần ngày 23/6/2016 của nguyên đơn mua, chưa ký được hợp
đồng cầm cố bổ sung đối với ông Trần Văn B nên các bên chưa tiến hành làm thủ
tục tại các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước về chuyển nhượng cổ phần nên hợp
đồng chưa hoàn tất về mặt thủ tục.
Xem xét việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn và bị đơn thấy
rằng: nguyên đơn hoàn toàn có lỗi trong thực hiện giao dịch liên quan đến việc ký
Hợp đồng cầm cố bổ sung 10.700.000 cổ phần của ông Trần Ngọc B . Thực tế 3 bên
(Công ty Q AM – Ông B – Bà H đã không thể thực hiện việc ký Hợp đồng cầm cố
số cổ phần này để đảm bảo thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày
23/6/2016. Lý do mà nguyên đơn và Ông B không ký hợp đồng là nguyên đơn đã
sửa đổi điều khoản của hợp đồng không đúng với thỏa thuận của các bên như đã
phân tích ở phần trên. Ông B trình bày: quyền và nghĩa vụ của ông chưa được đảm
bảo nên ông không đồng ý ký. Như vậy, lý do mà nguyên đơn và Ông B đưa ra để
không ký hợp đồng cầm cố là không có căn cứ và trái với thỏa thuận của nguyên
đơn và bị đơn trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Mặt khác, Bà H phải có
nghĩa vụ thương thảo với Ông B để Ông B ký Hợp đồng cầm cố chứng khoán 3
bên để đảm bảo cho việc thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.

129
Page 130

Mặt khác, theo thỏa thuận đặt cọc (Điều 3.02) và hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần (Điều 2.04) đã quy định Bà H có nghĩa vụ phải ký được thỏa thuận đặt cọc bổ
sung (được xác định là 1 phần tài sản bảo đảm thực hiện hợp đồng chuyển nhượng,
việc đảm bảo chỉ hết hiệu lực trước khi Bà H hoàn tất nghĩa vụ thanh toán của Hợp
đồng chuyển nhượng theo Điều 2 Hợp đồng).
Bị đơn đã cung cấp cho Tòa án 12 Công văn (từ 10/02/2017 đến 12/12/2017),
theo đó, bị đơn đã yêu cầu Bà H sớm thực hiện việc ký Hợp đồng cầm cố bổ sung,
trường hợp không thực hiện phải chịu hậu quả pháp lý đã thỏa thuận trong Hợp
đồng và mất số tiền đặt cọc. Bà H cũng đã có Công văn (không số) ngày 20/6/2017
phúc đáp Công văn của bị đơn.
Bị đơn cung cấp được bản Hợp đồng cầm cố chứng khoán 3 bên (chỉ có chữ
ký của nguyên đơn, chưa có chữ ký của Ông B ). Về nội dung của hợp đồng 3 bên
cũng có những thay đổi so với hợp đồng cầm cố 4.300.000 cổ phần đã ký giữa
nguyên đơn và bị đơn.
Tuy nhiên, khi lập hợp đồng 3 bên nguyên đơn đã thay đổi điều kiện tài sản
bảo đảm (muc.3) chỉ bao gồm giá trị cổ phần, không bao gồm lợi tức, cổ tức, các
quyền, lợi ích phát sinh từ tài sản bảo đảm. Về nghĩa vụ chịu phí (Điều 3.3 mỗi bên
chịu 50%), phía bị đơn không đồng ý với việc thay đổi này là có cơ sở. Lỗi dẫn đến
hợp đồng cầm cố không thể ký kết được dẫn đến không hoàn thiện về thủ tục
chuyển nhượng cổ phần là hoàn toàn thuộc về nguyên đơn.
- Quá trình hai bên thương thảo hợp đồng cầm cố có sự kiện Trung tâm lưu
ký chứng khoán có Thông báo số 1426/4.5.2017 gửi sở Giao dịch chứng khoán Hà
Nội về việc chuyển cổ phiếu của Công ty DK (mã chứng khoán DK ) từ thị trường
niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) sang thị trường đăng ký giao
dịch tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (sàn UpCOM). Lý do cổ phiếu bị hủy
niêm yết tại HNX theo Quyết định 29 ngày 26/4/2017 của Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội. Hội đồng xét xử xét thấy:
Hồ sơ thể hiện: sau khi ký Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày
23/6/2016, ngày 26/7/2016, bị đơn đã thảo hợp đồng cầm cố, đã ký và chuyển cho
nguyên đơn và nguyên đơn đã ký đối với hợp đồng cầm cố 4.350.000 cổ phần.
Ngày 26/7/2016, nguyên đơn đã soạn thảo, đã ký và chuyển cho bị đơn Hợp
đồng cầm cố bổ sung đối với 10.700.000 cổ phần nhưng nguyên đơn không kí và
đến ngày 27/3/2017 và 31/3/2017 (sau 8 tháng) nguyên đơn mới sửa và ký bản hợp
đồng cầm cố mà bị đơn đưa và những nội dung thay đổi thì trái với thỏa thuận của
các bên trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Bị đơn không đồng ý nội dung sửa
đổi của nguyên đơn và liên tục có 12 Công văn yêu cầu nguyên đơn thực hiện đúng
thỏa thuận của các bên trong hợp đồng và tiếp tục thực hiện hợp đồng. Đến ngày
12/12/2017, Công ty Q AM vẫn có Công văn 359 yêu cầu Bà H thực hiện nghĩa vụ
nhận chuyển nhượng cổ phần. Tại các Công văn 164ngày 20/6/2017; Công văn 165
ngày 21/6/2017; Công văn ngày 07/7/2017, Công ty Q AM đã hướng dẫn Bà H về
việc nếu không thực hiện được Hợp đồng cầm cố bổ sung thì có thể lựa chọn các
phương thức thanh toán ngay số tiền chuyển nhượng cổ phần như đã cam kết, tuy
nhiên, Bà H không đồng ý thực hiện. Việc hai bên không thống nhất được các thỏa

130
Page 131

thuận về cầm cố tài sản bổ sung (trong đó lỗi của bà Huyền), là nguyên nhân chính
dẫn đến việc bị đơn Công ty Q AM không tiến hành bước hoàn thiện hồ sơ xin Uỷ
ban chứng khoán Nhà nước công nhận giao dịch ngoài biên độ.
Bản án sơ thẩm nhận định: việc Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội ban hành
Quyết định 296 và Thông báo 684 về việc hạn chế giao dịch đối với mã chứng
khoán DK , bị hủy niêm yết trên sàn HNX và chỉ được giao dịch trên sàn Upcom là
“tình huống bất khả kháng” và được coi là “sự thay đổi của các qui định của pháp
luật Việt Nam” theo điểm b, khoản 8.01, Điều 8 Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
dẫn đến việc nguyên đơn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần nữa là nhận định không có căn cứ. Bởi lẽ, 2 văn bản trên là văn bản có tính
chất cá biệt của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, điều chỉnh hoạt động chứng
khoán trong phạm vi mình quản lý nên không thể được coi là “sự thay đổi của pháp
luật Việt Nam”. Mặt khác, từ thời điểm 2 bên kí hợp đồng chuyển nhượng đến khi
có văn bản của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội là 10 tháng nhưng cả khoảng thời
gian đó, nguyên đơn đưa ra những lý do như đã phân tích trên để chậm trễ và không
kí hợp đồng cầm cố là lỗi hoàn toàn thuộc về nguyên đơn. Mặt khác, ở giai đoạn xét
xử sơ thẩm cũng như phúc thẩm, bị đơn luôn muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng và
sẵn sàng thống nhất với nguyên đơn thực hiện chuyển nhượng theo hình thức thỏa
thuận và vẫn có thể thực hiện thông qua khớp lệnh trên sàn nhưng nguyên đơn cũng
không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng.
- Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Bản án sơ thẩm chưa
xem xét đầy đủ các nội dung thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên
mua cổ phần tại Hợp đồng, thỏa thuận đặt cọc, chưa đánh giá đầy đủ chứng cứ do 2
đương sự cung cấp trên cơ sở các văn bản pháp luật về chứng khoán để đưa ra nhận
định hợp đồng vô hiệu và tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Khúc Thị
Thanh Huyền, buộc bị đơn phải trả số tiền đặt cọc cho Bà H là đánh giá chứng cứ
chưa phù hợp với tài liệu hồ sơ.
Trong trường hợp này, do hai bên đương sự không đi đến thống nhất việc sẽ
tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, việc chấm dứt Hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần ngày 23/6/2016 giữa Công ty Q AM và bà Khúc Thị Thanh H là có
cơ sở. Do Bà H không thực hiện được nghĩa vụ ký Hợp đồng cầm cố cổ phần bổ
sung là nguyên nhân dẫn đến việc các bên không tiến hành các bước hoàn thiện việc
chuyển quyền sở hữu cổ phần. Vì vậy, căn cứ vào Điều 6.2 Thỏa thuận đặt cọc xác
địnhdo việc chuyển nhượng số cổ phần không thực hiện được do lỗi của bên mua
(bà Huyền), bên bán (Công ty Q AM) sẽ được hưởng toàn bộ số tiền đặt cọc, đồng
thời toàn bộ số cổ phần vẫn thuộc quyền của bên bán là Công ty Q AM.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về yêu cầu
bồi thường tiền đặt cọc, cấp sơ thẩm không đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện
này của nguyên đơn là chưa chính xác.
Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
Về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, bị
đơn không phải chịu án phí phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận.

131
Page 132

Nhận định của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên
tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH
Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 27/2018/KDTM - ST ngày
29,30/11/2018 của Tòa án nhân dân quận C , Thành phố Hà Nội. Cụ thể:
Áp dụng các Điều 26, khoản 1 Điều 35, 38, 39, 147, 148, 271, 273 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015; Luật chứng khoán; ; Điều 3 khoản 2 Quy chế giao dịch
Chứng khoán niêm yết tại Sở GDCK Hà Nội (kèm QĐ 345/24.7.13); Điểm c Khoản
2 Điều 3 Thông tư 74/2011/TT-BTC; Điều 19 Thông tư 05/2015/TT-BTC ngày
15/01/2015 hướng dẫn hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán giao dịch
chứng khoán; Nghị quyết số 326/30.12.2016 của UBTVQH , xử:
1.Chấp nhận kháng cáo của Công ty Cổ phần Q .
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Khúc Thị Thanh H về yêu cầu
Công ty quản lý Quỹ Q bồi thường khoản tiền tương đương với số tiền đặt cọc là
1.870.500.000 đồng.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Khúc Thị Thanh H về việc
chấm dứt thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 23/6/2016 giữa Công ty
Cổ phần Q và bà Khúc Thị Thanh Huyền.
4. Công ty Cổ phần Q được hưởng số tiền 1.870.500.000 đồng bà Khúc Thị
Thanh H đã đặt cọc để ký kết và thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày
23/6/2016 và 4.350.000 cổ phần của Công ty Cổ phần DK .
5. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu 68.115.00đ án phí kinh doanh thương
mại sơ thẩm, được trừ vào 53.610.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 6035 ngày 15/6/2018 tại Chi Cục thi hành án dân sự
quận C , Thành phố Hà Nội, Bà H còn phải nộp 14.505.000đ;
Công ty Cổ phần Q không phải chịu án phí phúc thẩm. Hoàn trả Công ty Cổ
phần Q số tiền 2.000.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 6817 ngày 14/3/2019 tại Chi Cục thi hành án dân sự
quận C , Thành phố Hà Nội.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành
án dân sự.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án, ngày 15/11/2019.

Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND quận C
- VKSND TP Hà Nội; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Chi Cục THADS quận C ;

132
Page 133

- Các đương sự;


- Lưu HS.

Nguyễn Thị Thanh Thủy

133
Page 134

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 55/2019/KDTM - PT


Ngày: 28 – 11 – 2019
V/v Tranh chấp hợp đồng bảo
hiểm.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Văn Hiếu.
Các Thẩm phán: Ông Vũ Việt Dũng.
Ông Trần Hoài Sơn.
- Thư ký phiên tòa: Ông Bùi Duy Đức, là Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Ông Ngô Văn
Hùng, Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Trong các ngày 26 và 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2019/TLPT
– DS ngày 11 tháng 10 năm 2019 về “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm”;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 46/2019/DS – ST ngày 28 tháng 8 năm
2019 của Toà án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/QĐ–PT ngày 07 tháng
11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 50/2019/QĐ – PT ngày 19 tháng
11 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1975, địa chỉ: phường H,
quận H, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Lê Xuân T1, sinh năm
1977, trú tại: quận G, thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền,
theo Giấy ủy quyền số 213/2019/GUQ – TGĐ ngày 10/4/2019.

134
Page 135

Ngày 26/11/2019 Ông T1 có mặt tại phiên tòa, ngày 28/11/2019 ông T1
trực tiếp tham gia phiên tòa, vắng mặt ông T1.
2. Bị đơn: Công ty Bảo hiểm P. địa chỉ: đường Tây Sơn, quận Đ, thành
phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: ông Trương Đỗ Huy P, chức vụ: Phó
Giám đốc Công ty Bảo hiểm P Đà Nẵng và bà Trần Thị Hương G, chức vụ:
chuyên viên Phòng tổng hợp Công ty Bảo hiểm P, người đại diện theo ủy quyền
của ông Đào Nam H, Tổng Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật Công ty
(Giấy ủy quyền số: 213/2019/GUQ–TGĐ ngày 10/4/2019). Ông P, bà G có mặt
tại phiên tòa ngày 26/11/2019, vắng mặt tại phiên tòa ngày 28/11/2019.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
 NLQ1. địa chỉ: đường L, quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp: ông Đỗ Minh P, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng
Quản trị, là người đại diện theo pháp luật.
Tại phiên tòa có ông Nguyễn Văn K, nhân viên NLQ1 tham gia. Ông K
cung cấp Giấy ủy quyền tham gia tố tụng và thi hành án số: 08/2019/UQ-
TPB.HĐQT ngày 14/5/2019 của Chủ tịc HĐQT và Văn bản ủy quyền số:
538/2019/UQ-TPB.RB ngày 28/11/2019, bản potocopy nên không hợp lệ.
 NLQ2, sinh năm 1983, địa chỉ: phường H, quận H, thành phố Đà
Nẵng. Có đơn xin xét xử vắng mặt
 NLQ3, sinh năm 1984, địa chỉ: xã Q, huyện Q, tỉnh Q. Có đơn xin xét
xử vắng mặt
4. Người kháng cáo: Công ty Bảo hiểm P, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/01/2019 và trong quá trình giải quyết vụ
án tại cấp sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn
Văn T trình bày:
Ông Nguyễn Văn T có tham gia mua bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty bảo
hiểm P đối với xe ô tô tải mang biển kiểm soát số BKS 43C – 179.12, hiệu xe
SUZUKI CARY, sản xuất 2017, theo Hợp đồng cam kết ba bên bảo hiểm xe cơ
giới số P18/DNA/CNG/5100/000036 ngày 14/3/2018 và Quy tắc bảo hiểm vật
chất xe ô tô được ban hành theo Quyết định số 108/2015/QĐ/TS/TGĐ ngày

135
Page 136

27/02/2015 của Tổng Giám đốc Công ty bảo hiểm P. Ông T đã hoàn thành nghĩa
vụ đóng phí bảo hiểm đúng thời hạn.
Vào 18 giờ 00 phút, ngày 17/5/2018, khi xe ô tô trên đậu ở bãi xe số 05
QL14B, xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng thì bị cháy và thiệt
hại toàn bộ xe. Ngay khi xảy ra sự cố, ông T đã thông báo với Công ty bảo hiểm
P và cơ quan chức năng để xem xét, giải quyết. Ông T đã hoàn thành tất cả các
thủ tục để yêu cầu Công ty bảo hiểm P bồi thường bảo hiểm vật chất. Tuy nhiên,
Công ty bảo hiểm P không chấp nhận, cho rằng nguyên nhân dẫn đến thiệt hai là
do xe đang chở hàng hóa, chất cháy chủ yếu là xăng dầu. Ông T không đồng ý,
cho rằng: nguyên nhân cháy là do chậm điện tại bình ắc quy của xe gây cháy lan,
căn cứ bản kết luận Điều tra số 236/KL – PC&CCS% ngày 23/5/2018 của Phòng
Cảnh sát PC&CC số 5.
Do đó, ông T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty bảo hiểm P phải bồi
thường bảo hiểm vật chất đối với xe số BKS 43C – 179.12 với số tiền là
317.000.000đ.
* Trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, người đại diện theo ủy
quyền của bị đơn Công ty bảo hiểm P trình bày:
Công ty bảo hiểm P thống nhất về thời gian ký kết và nội dung Hợp đồng
cam kết ba bên bảo hiểm xe cơ giới số P18/DNA/CNG/5100/000036. Công ty
bảo hiểm P không đồng ý với yêu cầu khởi kiển của nguyên đơn vì lý do khi xe
chở những chất dễ cháy nổ là vi phạm quy tắc bảo hiểm theo điểm 7 Điều 11 loai
trừ bảo hiểm của Quyết định số 108/2015/QĐ/TS/TGĐ ngày 27/02/2015 về việc
ban hành quy tắc bảo hiểm vật chất xe ô tô và biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô
của Công ty bảo hiểm P nên không thuộc trường hợp phải bồi thường.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
NLQ1 – chi nhánh Đà Nẵng có ý kiến:
Xe ô tô có BKS 43C – 179.12, hiệu xe SUZUKI CARY là tài sản thế chấp
vay vốn tại NLQ1 – Chi nhánh Đà Nẵng và là đối tượng được bảo hiểm theo hợp
đồng cam kết bảo hiểm ba bên. NLQ1 yêu cầu tòa án xác định rõ trách nhiệm ai
phải bồi thường thiệt hại trong vụ án tai nạn nêu trên theo các hợp đồng đã ký
kết.
NLQ2 trình bày: không có lời khai trong hồ sơ vụ án mà chỉ có các đơn
xin vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm.

136
Page 137

NLQ3 trình bày:


Ông có thuể xe tô tô tải có BKS 43C – 179.12, hiệu xe SUZUKI CARY
của ông T từ ngày 14/3/2018, theo hợp đồng thuê số 2267 lập ngày 14/3/2018.
Ông đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T. Ngoài ra ông không
có yêu cầu gì thêm.
* Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, buộc Công ty bảo hiểm P phải bồi thường bảo hiểm vật chất đối với
xe số BKS 43C – 179.12 với tổng số tiền là 317.000.000.
* Với nội dung vụ án như trên, Bản án dân sự sơ thẩm số: 46/2019/DS –
ST ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Toà án nhân dân quận Hải Châu, thành phố
Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cứ Điều 147, Điều 235, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 385, 401, 405, 415 Bộ luật Dân sự 2015.
Căn cứ các Điều 12, 13, 15, 1 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 được
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010.
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chấp nhận đơn khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” của
ông Nguyễn Văn T đối với Công ty Bảo hiểm P.
Xử: Buộc Công ty Bảo hiểm P phải bồi thường bảo hiểm vật chất đối với
xe số BKS 43C – 179.12 của ông Nguyễn Văn T với số tiền 317.000.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi chậm thi hành án, án phí dân sự
sơ thẩm, quyền kháng cáo của các đương sự và nghĩa vụ thi hành bản án, quyết
định của bản án.
* Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/09/2019, bị đơn Công ty bảo hiểm P có
đơn kháng cáo toàn bộ bản ản sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án
sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:

137
Page 138

Đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty bảo hiểm P giữ nguyên nội dung
kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T.
Đại diện hợp pháp của ông T không đồng ý với kháng cáo của bị đơn, đề
ghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, buộc Công ty bảo hiểm P phải bồi thường bảo
hiểm vật chất đối với xe số BKS 43C – 179.12 của ông Nguyễn Văn T với số
tiền 317.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm:
- Tính có căn cứ và hợp pháp của kháng cáo: Ngày 28/8/2019, Tòa án
nhân dân quận hải Châu xét xử sơ thẩm và ban hành bản án sơ thẩm số
46/2019/DS – ST. Trong thời hạn luật định, bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm, đúng theo quy định tại Điều 271, Điều 272 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật
TTDS.
- Việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại
Chương XVII Bộ luật TTDS; các đương sự đã thực hiện đúng các quy định tại
các Điều 70, 71, 72, 73, 86 và 234 Bộ luật TTDS.
- Quan điểm giải quyết:
Theo bản kết luận điều tra nguyên nhân vụ cháy số 236/KL – PC &CCS5
ngày 23/5/2018 của Phòng CS PC&CC thành phố Đà Nẵng kết luận: “nguyên
nhân được xác định là do chập điện tại bình ắc quy của xe gây cháy lan, nguyên
nhân vụ cháy là do sự cố kỹ thuật hệ thống điện trên xe”. Tại các biên bản ngày
17/5/2018, biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 18/5/2018 thể hiện: “Đám
cháy có diện tích khoản 6m2, chất cháy chủ yếu là xăng dầu, nhựa tổng hợp;
“Tại hiện trường cháy để lại 05 – 06 phuy dầu bị cháy hoàn toàn”. Biên bản
không chứng minh là 05 – 06 phuy dầu trên xe là phuy chứa dầu bên trong như
quy kết của bị đơn mà chỉ là mô tả hiện trạng hiện trường. các phi dầu có thể tích
200 lít/thùng, nếu các thùng phi này chứa dầu thì khi cháy đám cháy sẽ lan rộng
rất lớn chứ không chỉ dừng lại 6m2 như biên bản hiện trường.
Bị đơn cho rằng tại điểm 7 Điều 11 quy tắc bảo hiểm vật chất xe ô tô ban
hành kèm theo quyết định số 108/2015/QĐ/TSC/TGĐ ngày 27/02/2015 của
Công ty Bảo hiểm P quy định loại trừ bảo hiểm: “xe chở các chất nổ, chất gây
cháy, chở hàng trái phép theo quy định của pháp luật” trong khi bị đơn không
chứng minh được bên trong các phuy dầu chứa chất gì. Mặt khác, theo quy định

138
Page 139

tại khoản 2 Điều 16 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 được sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010 quy định: “Điều khoản
loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp đồng bảo
hiểm...”. Tuy nhiên, tại Hợp đồng bảo hiểm cam kết ba bên số
P18/DNA/CNG/5100/000036 ngày 14/3/2018 đã không được phía bị đơn ghi rõ
trong hợp đồng là vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. Như vậy, bị đơn
cho rằng trên xe chở dầu nên thuộc điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
theo điểm 7 Điều 11 quy tắc bảo hiểm để không thực hiện trách nhiệm bồi
thường bảo hiểm vật chất đối với xe của ông T là không có căn cứ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm có nhiều vi phạm cụ
thể sau:
- Đưa NLQ1 – Chi nhánh Đà Nẵng vào tham gia tố tụng là không đảm bảo
tư cách pháp nhân tham gia tại Tòa.
- Theo hợp đồng cam kết ba bên bảo hiểm xe cơ giới thì Ngân hàng là
người được thụ hưởng đầu tiên đối với xe cơ giới được bảo hiểm theo hợp đồng.
Hiện ông T còn nợ Ngân hàng cả gốc và lãi là 168.645.000đ, nhưng không được
cấp sơ thẩm xem xét ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng.
- Xe ô tô BKS 43C-179.12 đã qua sử dụng nhưng không thẩm định, định
giá giá trị còn lại mà tuyên đúng bằng giá trị mua ban đầu là gây thiệt hại cho bị
đơn.
Những nội dung vi phạm nêu trên của cấp sơ thẩm cấp phúc thẩm không thể
khắc phục được, nên đề nghị HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật TTDS:
Tuyên hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1] Các đương sự gồm NLQ2, NLQ3 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng
dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa xét xử phúc thẩm vắng mặt các
đương sự này.
[2] Do sự kiện bảo hiểm xảy ra sau thời điểm Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu
lực pháp luật (ngày 01 tháng 01 năm 2017) nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các
quy định của Bộ luật này để giải quyết vụ án là chính xác. Ngoài ra, Tòa án cấp
sơ thẩm còn áp dụng các quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm số

139
Page 140

24/2000/QH10 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 61/2010/QH12 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm cũng là phù hợp với quan hệ và
nội dung tranh chấp.
[3] Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm có sai lầm trong việc xác định tư cách
tham gia tố tụng của đương sự, cụ thể đưa Chi nhánh tại Đà Nẵng của NLQ1 vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không
phù hợp với quy định tại Điều 68 và 69 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự
tham gia vụ việc dân sự phải có năng lực pháp luật tố tụng dân sự, nếu đương sự
là cơ quan, tổ chức thì phải có tư cách pháp nhân, theo quy định tại Điều 86 Bộ
luật Dân sự. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, không phải là pháp
nhân, nên không có năng lực pháp luật tố tụng dân sự (Điều 84 Bộ luật Dân sự).
Trường hợp này lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải đưa NLQ1 vào tham gia tố tụng
mới đúng pháp luật. Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành
tống đạt đến địa chỉ Chi nhánh, đồng thời người tham gia tố tụng là nhân viên
của Chi nhánh chỉ có giấy giới thiệu mà không được ủy quyền, nên không có cơ
sở xác định NLQ1 đã biết về nội dung vụ án.
[4] Về việc ủy quyền tham gia tố tụng tại tòa án cấp sơ thẩm. Theo quy
định tại khoản 7 Điều 69 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là cơ quan, tổ chức
do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng. Người đại diện trong tố tụng dân
sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền (khoản 2 Điều 86 Bộ
luật Tố tụng dân sự). Như vậy, đối với đương sự là tổ chức, thì người đại diện
theo pháp luật đại diện tổ chức tham gia tố tụng, nếu ủy quyền thì phải có văn
bản với nội dung ủy quyền tham gia tố tụng và người đại diện theo ủy quyền
thực hiện các quyền, nghĩa vụ của đương sự trong phạm vi ủy quyền. Tuy nhiên,
trong hồ sơ vụ án được cấp sơ thẩm xây dựng, Chi nhánh NLQ1 không có văn
bản ủy quyền tham gia tố tụng, mà chỉ có văn bản cử liên hệ làm việc, giấy giới
thiệu... Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ các văn bản này, chấp nhận việc tham gia tố
tụng của người được cử là không đúng quy định của pháp luật như viện dẫn nêu
trên. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện của NLQ1 xác nhận không biết Tòa án
cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án và không được thông báo, triệu tập tham gia
trong quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm nên không được trình bày ý kiến của
Ngân hàng.
Về áp dụng pháp luật nội đung:

140
Page 141

[5] Ông Nguyễn Văn T, Công ty Bảo hiểm P Đà Nẵng trực thuộc Công ty
bảo hiểm P và Chi nhánh NLQ1 có ký kết Hợp đồng cam kết ba bên bảo hiểm xe
cơ giới số P18/DNA/CNG/5100/000036 ngày 14/3/2018. Theo Hợp đồng này thì
đối tượng bảo hiểm là xe ô tô tải mang biển kiểm soát số BKS 43C–179.12, hiệu
xe SUZUKI CARY, sản xuất 2017, đứng tên chủ sở hữu Nguyễn Văn T, do xe ô
tô là tài sản thế chấp theo hợp đồng vay, nên đơn vị thụ hưởng trong trường hợp
xảy ra sự kiện bảo hiểm là NLQ1. Ông Nguyễn Văn T đã hoàn thành việc đóng
phí bảo hiểm và Hợp đồng bảo hiểm phát sinh hiệu lực pháp luật, theo quy định
tại khoản 1 Điều 15 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm là 01 năm,
bắt đầu từ 07 giờ 00 phút ngày 15/03/2018 đến 06 giờ 59 phút ngày 15/3/2019.
[6] Vào lúc 18 giờ 00 phút ngày 17/5/2018 khi xe ô tô nêu trên trên đậu tại
bãi xe số 05 QL14B, xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng thì bị
cháy và thiệt hại toàn bộ giá trị xe. Theo Kết luận Điều tra nguyên nhân vụ cháy
số 236/KL – PC&CCS5 ngày 23/5/2018 của Phòng Cảnh sát PC&CC số 5 thuộc
Cảnh sát Phòng cháy & Chữa cháy thành phố Đà Nẵng thì “nguyên nhân được
xác định là do chập điện tại bình ắc quy của xe gây cháy lan, nguyên nhân vụ
cháy là do sự cố kỹ thuật hệ thống điện trên xe”. Theo Biên bản ghi lời khai của
ông Trần Văn Vinh do Phòng Cảnh sát PC&CC số 5 thuộc Cảnh sát Phòng cháy
& Chữa cháy thành phố Đà Nẵng lập ngày 17/5/2018, thì ngọn lửa xuất phát từ
đầu xe sau đó lan nhanh ra toàn bộ xe. Như vậy, sự kiện bảo hiểm xảy ra một
cách khách quan không thể lường trước được, xuất phát từ nguyên nhân bất khả
kháng, không phải do lỗi cố ý hoặc vô ý của người mua bảo hiểm hoặc người thụ
hưởng; đồng thời sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn được bảo hiểm. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm thì trách nhiệm bảo
hiểm của P đã phát sinh. Do tài sản thiệt hại toàn bộ nên giá trị thiệt hại được
giám định theo nguyên giá còn lại của tài sản là 320.000.000đ. Ông T yêu cầu
Công ty bảo hiểm P bồi thường giá trị trong phạm vi bảo hiểm là 317.000.000đ.
[7] Công ty bảo hiểm P không phản đối kết luận điều tra cũng như nguyên
nhân bất khả kháng xảy ra sự kiện bảo hiểm. Tuy nhiên, Công ty bảo hiểm P cho
rằng khi xảy ra cháy trên xe ô tô tải đang chở hàng hóa, chất cháy chủ yếu là
xăng, dầu (là chất cháy thuộc danh mục hàng nguy hiểm quy định tại Nghị định
số 104/2009/NĐ – CP) và hiện trường để lại 05 – 6 phuy dầu bị cháy hoàn toàn,
nên viện dẫn quy định tại điểm 7 Điều 11 Quy tắc bảo hiểm vật chất xe ô tô được
ban hành theo Quyết định số 108/2015/QĐ/TS/TGĐ ngày 27/02/2015 của Công
ty bảo hiểm P để từ chối trách nhiệm bảo hiểm với lý do thiệt hại của xe ô tô tải

141
Page 142

thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm “xe chở các chất nổ, chất gây
cháy, chở hàng trái phép theo quy định của pháp luật”.
[8] Theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định
“Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp
đồng bảo hiểm...”. Tuy nhiên, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đã
không được bị đơn thể hiện rõ trong Hợp đồng cam kết ba bên bảo hiểm xe cơ
giới số P18/DNA/CNG/5100/000036 ngày 14/3/2018 là vi phạm Luật kinh
doanh bảo hiểm. Ngoài ra, như nhận định tại Mục [6] nguyên nhân cháy được
xác định là do chập điện tại bình ắc quy của xe gây cháy lan, là nguyên nhân bất
khả kháng, không phải do lỗi cố ý hoặc vô ý của người mua bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng. Tại biên bản vụ cháy ngày 17/5/2018 và Biên bản khám
nghiệm hiện trường ngày 18/5/2018 của Phòng Cảnh sát PC&CC số 5 thuộc
Cảnh sát Phòng cháy & Chữa cháy thành phố Đà Nẵng ghi nhận “Đám cháy có
diện tích khoản 6m2, chất cháy chủ yếu là xăng dầu, nhựa tổng hợp; “Tại hiện
trường cháy để lại 05 – 06 phuy dầu bị cháy hoàn toàn” mà không thể hiện các
phuy dầu trên xe là phuy chứa dầu. Do vậy, Công ty bảo hiểm P cho rằng trên xe
chở dầu, thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo quy định tại điểm
7 Điều 11 Quy tắc bảo hiểm vật chất xe ô tô được ban hành theo Quyết định số
108/2015/QĐ/TS/TGĐ ngày 27/02/2015 của P để từ chối trách nhiệm bảo hiểm
là không có cơ sở. Công ty bảo hiểm P phải bồi thường toàn bộ tổn thất, trong
phạm vi bảo hiểm đối với xe ô tô mang biển kiểm soát số BKS 43C–179.12 của
ông T.
[9] Về người thụ hưởng theo hợp đồng bảo hiểm: Xe ô tô BKS 43C –
179.12 tài sản được bảo hiểm là tài sản được NLQ1 nhận thế chấp. Theo quy
định tại khoản 4 Điều 318 Bộ luật Dân sự thì “Tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo
hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Theo quy
định tại điểm d khoản 1 Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm thì “Doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường
cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Theo Hợp đồng cam kết
ba bên bảo hiểm xe cơ giới số P18/DNA/CNG/5100/000036 ngày 14/3/2018 thì
đơn vị thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm là NLQ1; đồng thời các bên có thỏa thuận
tại Điều 4 hợp đồng này rằng “Bên B (ông Nguyễn Văn T) cam kết chuyển quyền
thụ hưởng bảo hiểm vật chất xe cho bên thụ hưởng duy nhất là bên C (NLQ1)
trong phạm vi tương ứng với số tiền mà bên B nợ bên C (bao gồm nợ gốc, lãi vay
và các chi phí khác nếu có). Và bên A (Công ty bảo hiểm P) chấp nhận sự

142
Page 143

chuyển quyền thụ hưởng này. Trường hợp xe ô tô trên bị tổn thất vật chất từ
10.000.000đ trở lên thuộc phạm vi bồi thường của bên A thì số tiền bồi thường
sẽ được chuyển cho đơn vị thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm duy nhất là bên C”.
Đồng thời tại điểm b Giấy xác nhận chuyển quyền thụ hưởng bảo hiểm – xe cơ
giới nêu rõ “Trong trường hợp có tổn thất toàn bộ trong phạm vi bảo hiểm Công
ty Bảo hiểm sẽ thanh toán tiền bảo hiểm cho Người thụ hưởng đầu tiên trong
phạm vi quyền lợi của họ (căn cứ vào số dư nợ gốc, nợ lãi và phí còn lại tại
Người thụ hưởng đầu tiên của Người được cấp tín dụng vào thời điểm thanh
toán tiền bồi thường) nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm”. Trong giai đoạn
giải quyết tại cấp phúc thẩm đại diện NLQ1 và ông T cùng xác nhận, hiện ông T
còn nợ NLQ1 cả gốc và lãi là 168.645.000đ. Như vậy, theo pháp luật về kinh
doanh bảo hiểm, hợp đồng cam kết bảo hiểm ba bên nêu trên thì phải buộc P
thanh toán cho người thụ hưởng đầu tiên là NLQ1 đối với số tiền mà ông T còn
nợ NLQ1rước, khoản tiền còn lại mới thanh toán cho ông T. Nhưng bản án sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu của ông T, tuyên Công ty Bảo hiểm P phải trả toàn bộ
tiền bồi thường cho ông T là không đúng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người thụ hưởng là NLQ1. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện
hợp pháp của ông T còn cho rằng việc cam kết chuyển quyền thụ hưởng bảo
hiểm vật chất xe cho bên thụ hưởng duy nhất là bên NLQ1heo Hợp đồng bảo
hiểm đã hết hiệu lực, nên ông T là người được hưởng toàn bộ tiền bảo hiểm xe
oto do Công ty bảo hiểm bồi thường. Ngân hàng muốn được hưởng khoản tiền
này thì phải khởi kiện bằng vụ kiện khác. Ý kiến của đại diện nguyên đơn là
không đúng quy định thỏa thuận tại Hợp đồng bảo hiểm ba bên đã ký kết và quy
định của Luật kinh doanh bảo hiểm như phân tích trên.
[11] Do Tòa án cấp sơ thẩm xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng
của NLQ1, không giải quyết quyền lợi của người thụ hưởng NLQ1 nên Tòa án
cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, nếu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án
sơ thẩm theo hướng buộc P thanh toán cho người thụ hưởng đầu tiên là NLQ1
đối với số tiền mà ông T còn nợ NLQ1 trước, khoản tiền còn lại mới thanh toán
cho ông T thì sẽ mất quyền kháng cáo của các bên đương sự. Do vậy, HĐXX
phúc thẩm chấp nhận ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà
Nẵng tại phiên tòa, hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm
giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
[13] Về án phí phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm nên Công ty Bảo hiểm
P không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 29

143
Page 144

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu,


miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 46/2019/DS – ST ngày 28 tháng 8 năm
2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” của Toà án nhân dân quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà
Nẵng giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
3. Về án phí phúc thẩm: Công ty Bảo hiểm P không phải chịu án phí
phúc thẩm. Hoàn trả cho Công ty Bảo hiểm P số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
300.000đ, theo biên lai số 7495 ngày 23/09/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND quận Hải Châu;
- Chi cục THA DS quận Hải Châu;
- VKSND Tp. Đà Nẵng;
- Lưu: Hồ sơ vụ án (1b), Tổ nghiệp vụ
- Văn phòng (1b).
Cao Văn Hiếu

144
Page 145

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH THANH HÓA Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 91/2020/HSPT


Ngày: 09/3/2020
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Chinh;
Các Thẩm phán: Bà Lê Thu Hương;
Bà Lê Thị Phương Thanh.
- Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Vân Anh - Thư ký
Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
- Đại diệnViện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa: Ông Vũ
Trọng Trạng - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 3 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 318/2019/HSPT ngày 20 tháng 12
năm 2019, đối với bị cáo Hoàng Văn Q, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án
hình sự sơ thẩm số 319/2019/HSST ngày 04 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân
thành phố Thanh Hóa.
Bị cáo kháng cáo: Hoàng Văn Q, sinh năm 1988 tại Thanh Hoá; KNKTT và
ch ở: thôn ST, xã TL, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lái xe; văn hóa: 12/12;
dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng
Văn V và bà Bùi Thị N; vợ là: Phạm Thị H và 03 con (con lớn sinh năm 2010, con nhỏ
sinh năm 2017 ; tiền án; tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi
nơi cư trú”; có mặt.
Người bào chữa theo yêu cầu của bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn A - Trưởng Văn
phòng Luật sư M - oàn Luật sư Thành phố Hà Nội.
Người bị hại:
1. Ông Trịnh ình C, sinh năm 1954 (chết ;
2. Bà Phạm Thị V, sinh năm 1954 (chết .
ịa chỉ: SN 47 ông Tác, phường ông Thọ, TP.Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện hợp pháp không kháng cáo: Anh Trịnh ình M (vắng).
ịa chỉ: SN 47 ông Tác, phường ông Thọ, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

145
Page 146

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06h25 phút ngày 19 tháng 5 năm 2019, Hoàng Văn Q có giấy phép
lái xe hợp lệ điều khiển xe ô tô BKS 36C - 23279 đi trên đường vành đai phía Tây
thành phố Thanh Hóa theo hướng Bắc - Nam, khi đi đến ngã tư giao nhau với
đường vào Khu công nghiệp G thuộc địa phận xã , thành phố Thanh Hóa, Q đã
nhìn thấy biển cảnh báo nguy hiểm phía trước 100m giao nhau với đường không ưu
tiên, nhưng Q không giảm tốc độ hoặc dừng lại một cách an toàn khi phát hiện thấy
chướng ngại vật đi vào ngã tư dẫn đến gây tai nạn đâm va vào xe mô tô BKS 36B2-
97701 do ông Trịnh ình C điều khiển, chở bà Phạm Thị V cùng ở SN 47 ông
Tác, phường ông Thọ, thành phố Thanh Hóa đi hướng ông - Tây (Khu công
nghiệp G đi chợ N). Hậu quả bà V tử vong tại ch , ông C bị thương nặng được đưa
vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa cấp cứu đến 13h10 phút cùng ngày thì tử
vong.
Sau khi vụ tai nạn xảy ra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh
Hóa cùng với các cơ quan chức năng đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, khám các dấu vết trên hai phương tiện xe ô tô và xe mô tô.
- Về hiện trường:
oạn đường nơi xảy ra tai nạn là ngã tư đường vào khu công nghiệp G giao
nhau với đường vành đai phía Tây, xã , thành phố Thanh Hóa, mặt đường ở đây
bằng phẳng, đường vào khu công nghiệp G rộng 4,5m giao nhau với đường vành đai
phía Tây rộng 11m, đường dùng chung cho hai chiều phương tiện lưu thông, mặt
đường có vạch kẻ phân chia làn đường các hướng có đặt biển báo hiệu đường giao
nhau.
Lấy mép đường giả định phía bên đường vào khu công nghiệp G làm điểm
mốc (đường giả định cắt ngang mặt đường vành đai .
Lấy mép đường phía Tây đường vành đai phía Tây chiều Bắc- Nam làm mép
chuẩn để đo các dấu vết thể hiện như sau:
1- Vết cà + vết dầu KT (5,3 x 0,7 m vết có chiều Bắc Nam, đầu vết cách
điểm mốc về phía Bắc là 2,0m, cách mép chuẩn là 3,0m, cách đầu vết tỳ là 2,5m,
cuối vết tương ứng vị trí giá để chân trước và đầu mút tay nắm bên trái xe mô tô
36B2- 977- 01.
2- Xe mô tô 36B2- 97701 đổ nghiêng bên trái, đầu xe quay hướng Nam, đuôi
xe quay hướng Bắc. Tâm trục bánh sau cách cách mép 3m15, tâm trục bánh trước
cách mép chuẩn là 3m60 và cách đám máu 3,0m.
3- ám máu KT(0,3x 0,3 m, tâm đám máu cách mép chuẩn 3,0m, cách vị trí
đầu nạn nhân 1,8m.

146
Page 147

4- Vị trí nạn nhân trong tư thế nằm nghiêng sấp, đầu quay hướng Bắc, chân
quay hướng Nam.
5- Vết tỳ KT(15x 0,5 m. Vết có chiều Bắc Nam và có hình dạng cánh cung,
đầu vết cách mép chuẩn 2,0m, cuối vết tương ứng vị trí hàng bánh sau bên phải xe ô
tô BKS 36C- 23279.
6- Vị trí xe ô tô BKS 36C- 232 -79, đầu xe quay hướng Nam, đuôi xe quay
hướng Bắc. Tâm trục bánh sau bên phải cách mép chuẩn là 0,7m, tâm trục bánh
trước trùng mép chuẩn.
- Về tử thi:
Tại bản giám định pháp y tử thi số 1251;1252 ngày 22/5/2019 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giám định kết luận: Nguyên nhân chết của bà
Phạm Thị V và ông C là bị đa chấn thương do tai nạn giao thông.
- Về phương tiện:
Tại bản kết luận giám định phương tiện xe ô tô BKS 36C - 23279 và xe mô tô
36B2- 97701 của Phũng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa số 1308 ngày
31/5/2019 kết luận:
1. iểm va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện: Mặt ngoài góc dưới đầu mút
bên trái ba đờ xốc trước, mặt trước ngoài bậc lên xuống bên trái đầu xe ô tô BKS
36C- 23279(ảnh 12,13,14 với mặt trên ngoài bên phải đầu mút trước phần trước
phần trước chắn bùn trước xe mô tô BKS 36B2- 97701(ảnh 30 .
2. Tại thời điểm xảy ra va chạm xe mô tô BKS 36B2- 97701 có hướng chuyển
động cùng chiều, chếch từ trái sang phải so với hướng chuyển động của xe ô tô BKS
36C- 23279, xe ô tô BKS 36C- 23279 ở phía bên phải và có vận tốc lớn hơn xe mô
tô BKS 36B2- 97701.
3. Vị trí va chạm giữa hai phương tiện nằm trước đầu vết cà (1 được thể hiện
trên sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, thuộc phần đường bên
phải theo hướng từ ngã tư H đi xã T và ngay khu vực giao nhau giữa đường vành đai
phía Tây với đường đi vào chợ N.
4. Không đủ cơ sở xác định được vận tốc của các phương tiện.
Sau khi vụ tai nạn xảy ra, bị cáo Hoàng Văn Q và đại diện gia đình nạn nhân
đã thống nhất thoả thuận bị cỏo bồi thường các khoản chi phí cho hai nạn nhân và
sửa chữa xe mỏy tổng số tiền là 250.000.000đ (Hai trăm năm mươi triệu đồng). Gia
đình nạn nhân đó nhận tiền đầy đủ và có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm
hình sự cho bị cáo.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 186/2019/HSST ngày 03/7/2019 của Tòa án
nhân dân thành phố Thanh Hóa đã Q định:
Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội : “Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ”.

147
Page 148

Áp dụng: điểm đ khoản 2 iều 260; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 iều 51;
iều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Hoàng Văn Q 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời gian chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về dân sự: Công nhận giữa bị cáo và gia đình bị hại đã giải Q xong.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và giành quyền kháng cáo.
Ngày 11 tháng 11 năm 2019, bị cáo Hoàng Văn Q có đơn kháng cáo bản án sơ
thẩm với nội dung:
- Kết luận điều tra nêu bị cáo không giảm tốc độ là không đúng, bị cáo đi đúng
tốc độ;
- Cáo trạng của Viện kiểm sát không đúng với hồ sơ vụ án;
- Bản án sơ thẩm xử bị cáo 42 tháng tù giam là quá nặng, xin giảm nhẹ hình
phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo giữ nguyên kháng cáo, xin giảm hình phạt
và xin hưởng án treo.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ điểm b khoản 1 iều 355; điểm c khoản 1
iều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo, sửa bản án sơ
thẩm về hình phạt, giảm cho bị cáo Hoàng Văn Q từ 12 đến 18 tháng tù.
Luật sư bào chữa của bị cáo đề nghị xem xét: Nguyên nhân dẫn đến vụ án do
tình thế bất khả kháng và do l i h n hợp, bản thân người bị nạn khi đi từ đường không
ưu tiên ra đường ưu tiên nhưng không nhường đường; cơ quan tiến hành tố tụng có
thiếu sót không giám định nồng độ cồn của người bị nạn. Bị cáo có nhiều tình tiết
giảm nhẹ, có nhân thân tốt nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm hình phạt và
cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Hoàng Văn Q có đơn kháng cáo bản án sơ
thẩm trong thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, do đó vụ án được xem xét
theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn Q khai nhận:
Khoảng 06h25 phút ngày 19/5/2019, bị cáo điều khiển xe ô tô tải BKS 36C -
23279 (chở đất đá đi trên đường vành đai phía Tây thành phố Thanh Hóa theo
hướng Bắc - Nam, khi đi đến ngã tư giao nhau với đường vào Khu công nghiệp G,
thuộc địa phận xã , TP.Thanh Hóa, bị cáo nhìn thấy Biển cảnh báo phía trước
100m giao nhau với đường không ưu tiên, lúc này xe ô tô đang đi khoảng 40 km/h,
khi đến cách ngã tư khoảng 7-10m thì bị cáo nhìn thấy 01 xe máy do người đàn ông
điều khiển chở phía sau một phụ nữ (ông Trịnh ình C và vợ là Phạm Thị V) qua
đường theo hướng Khu công nghiệp G đi chợ N, lúc này bị cáo đã giảm tốc độ tối đa
nhưng do khoảng cách quá gần, xe máy đi nhanh nên hai phương tiện va vào nhau,
148
Page 149

hậu quả bà Văn tử vong tại ch , ông Côi bị thương nặng được bị cáo đưa đi cấp cứu
đến 13h10 phút cùng ngày thì tử vong.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo và quan điểm của Luật sư cho rằng nguyên nhân
vụ tai nạn là do tình thế bất khả kháng và do l i h n hợp, Hội đồng xét xử phúc thẩm
thấy rằng:
Thời gian xảy ra vụ tai nạn vào lúc 6h 25 phút sáng, trong điều kiện trời sáng
rõ, thời tiết khô ráo, mặt đường rộng thoáng, không có phương tiện giao thông qua
lại và không có người làm chứng. Bị cáo cho rằng mình điều khiển phương tiện đi
đúng tốc độ, khi đến ngã tư phát hiện tình huống nguy hiểm đã giảm tốc độ, nhưng
do xe máy đi quá nhanh tông vào xe của bị cáo nên thuộc trường hợp bất khả kháng.
Tuy nhiên, tại “Giấy báo cáo ngày 19/5/2019 bị cáo khai: “Tôi đi từ hướng
ngã ba Đình Hương đi hướng phía Tây thành phố đến địa phận xã Đ, đến đoạn giao
nhau với đường không ưu tiên (đường đi từ khu Công nghiệp G lên xã Đ) thì tôi phát
hiện hai người đi một chiếc xe mô tô do người nam giới điều khiển đi hướng từ khu
công nghiệp G đến ngã tư thì xe mô tô đi qua đường quá nửa phần đường theo
hướng điều khiển xe ô tô, phát hiện tình huống nguy hiểm tôi không kịp phanh mà
đánh lái về phía bên phải theo chiều đi của mình để cố gắng tránh xảy ra tại nạn
nhưng hai xe vẫn va chạm ..., theo nhận thức của tôi lỗi thuộc về người điều khiển
mô tô, lỗi của tôi không phanh...”(BL48);
Tại Bản tự khai ngày 12/6/2019:“... Khi tôi chạy xe tới gần ngã tư thì thấy xe
máy đi từ đường nhỏ ra và dừng lại, tôi đã quan sát tôi vẫn chạy 50km/h đến ngã tư
thì xe máy tông vào bánh trước bên trái và tôi đánh lái xe về phía bên phải theo
chiều đi của mình ...” (BL54).
Là người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ, bị cáo buộc phải biết khi đi
đến đoạn đường giao nhau, người lái xe phải chú ý quan sát và phải giảm tốc độ thấp
hơn tốc độ tối đa cho phép, để khi có trướng ngại vật có thể dừng lại được một cách
toàn, tuy nhiên khi đã phát hiện biển cảnh báo nguy hiểm phía trước giao nhau với
đường không ưu tiên nhưng bị cáo không giảm tốc độ thấp hơn tốc độ cho phép, đặc
biệt khi đến gần ngã tư, mặc dù đã phát hiện tình huống xe máy đang đi qua đường
theo chiều vuông góc, nhưng do chủ quan cho rằng xe máy sẽ nhường đường nên
vẫn tiếp tục di chuyển (theo bị cáo khai với vận tốc 40 -50km/h), lúc này xe máy đã
đi vào quá nửa ngã tư nhưng bị cáo không làm chủ được tốc độ, không kịp xử lý dẫn
đến xe ô tô của bị cáo va vào xe của ông Côi điều khiển.Theo Sơ đồ hiện trường thì
xe máy đã đi gần hết ngã tư sang đến phần đường giành cho phương tiện thô sơ, đầu
vết cà thể hiện vị trí va chạm giữa hai phương tiện thuộc phần đường bên phải theo
hướng ngã tư đi xã T và ngay khu vực giao nhau giữa đường vành đai phía Tây
với đường đi vào chợ N (BL12).
Như vậy, hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 4 iều 11 Luật Giao thông
đường bộ và khoản 1 iều 5 Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 quy
định các trường hợp bắt buộc phải giảm tốc độ tại nơi có biển cảnh báo nguy hiểm, nơi
có đường bộ giao nhau. Với hậu quả vụ tai nạn làm hai người chết, do đó bị cáo phải

149
Page 150

chịu trách nhiệm hình sự về tội: “Vi phạm quy dịnh về tham gia giao thông đường bộ”
quy định tại điểm đ khoản 3 iều 260 Bộ luật hình sự như bản án sơ thẩm đã xử là có
căn cứ, đúng người, đúng tội. Do đó, kháng cáo của bị cáo cho rằng tai nạn xảy ra
thuộc trường hợp bất khả kháng là không có cơ sở chấp nhận.
Tuy nhiên, trong vụ án này về phía người điều khiển xe máy cũng có một
phần l i, khi đi đến ngã tư không chú ý quan sát để có thể phát hiện và nhường
đường cho phương tiện đi trên đường ưu tiên, ngoài ra việc không giám định được
nồng độ cồn của người bị nạn là có thiếu sót như Luật sư trình bày là đúng, tuy
nhiên trong vụ án này không thể khắc phục được, do đó cũng cần xem xét một phần
khi Q định hình phạt cho bị cáo.
[4] Khi Q định hình phạt, bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét các tình
tiết giảm nhẹ là: Thành khẩn khai báo; tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả;
được gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt (điểm b, điểm s, khoản 1 và khoản 2
iều 51 Bộ luật hình sự . Do có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã nêu, bị cáo đã được
Tòa án cấp sơ thẩm xử 03 năm 06 tháng tù là đã đã được chiếu cố, xem xét do với
quy định của khung hình phạt (từ 03 đến 10 năm tù).
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình một số tình tiết mới như: Bị cáo có ơn
trình bày được Công an xã TL xác nhận trong quá trình sinh sống tại địa phương, bị
cáo là công dân tốt, là đoàn viên mẫu mực, tích cực tham gia các phong trào tình
nguyện xã hội, ngày 04/3/2016 bị cáo tham gia cùng bà con truy đuổi bắt được 02
đối tượng trộm chó được các cấp khen ngợi; UBND xã TL cũng xác nhận hoàn cảnh
gia đình khó khăn, bố mẹ già yếu, bị cáo là lao động chính; năm 2013 bị cáo được
Công ty Cổ phần Ánh Dương tặng giấy khen danh hiệu “Lái xe bảo quản xe tốt hạng
năm Công ty năm 2013”. Ngoài ra cũng cần xem xét sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo đã
khẩn trương bắt xe đưa ông Trịnh ình C đi cấp cứu (bà Văn đã chết . Do bị cáo có
nhiều tình tiết giảm nhẹ mới được xem xét theo khoản 2 iều 51 Bộ luật hình sự,
Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo, giảm hình phạt và cho
bị cáo được hưởng mức án dưới khung như đề nghị của Kiểm sát viên, để bị cáo
thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà tích cực cải tạo sớm trở về với gia
đình và xã hội.
[5] Xét nội dung kháng cáo xin hưởng án treo, thấy rằng: Bản thân
bị cáo có giấy phép lái xe hợp lệ, điều khiển xe ô tô có tải trọng lớn, là nguồn nguy
hiểm cao độ, nhưng do bản thân chủ quan không làm chủ tốc độ để xảy ra va chạm
gây nên vụ tai nạn nghiêm trọng, làm 02 người chết, nguyên nhân xảy ra vụ tai nạn
do l i của bị cáo là chính. ặc biệt trong tình hình hiện nay việc vi phạm an toàn
khi tham gia giao thông đang gây thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội về người và
của, là n i quan tâm lo lắng cho quần chúng nhân dân. Bởi vậy cần phải xử lý
nghiêm minh để trấn chỉnh lại trật tự an toàn cho xã hội. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm
buộc bị cáo phải cách ly một thời gian để cải tạo là phù hợp, đồng thời mới có tác
dụng giáo dục, phòng ngừa chung. Do đó Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận
nội dung kháng cáo xin hưởng án treo.

150
Page 151

[6] Về án phí:Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị
cáo, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự
phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
Q ĐỊNH:
Căn cứ: điểm c khoản 1 iều 355; điểm c khoản 1 iều 357 của Bộ luật tố
tụng hình sự.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn Q, sửa một phần bản
án sơ thẩm số 186/2019/HSST ngày 03/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố
Thanh Hóa về hình phạt.
Áp dụng: điểm đ khoản 2 iều 260; điểm b, điểm s, khoản 1, khoản 2 iều
51; khoản 1 iều 54; iều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn Q 24 (Hai mươi bốn tháng tù về tội “Vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ
ngày bắt thi hành án.
Về án phí: Áp dụng điểm h khoản 2 iều 23 Nghị Q 326/2016/UBTVQH 14
về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Các Q định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Thanh Hoá;
-VKSND TP. Thanh Hóa;
- TAND TP.Thanh Hóa;
- CATP. Thanh Hóa;
- Chi cục THADS TP. Thanh Hóa;
- Bị cáo;
Nguyễn Thị Chinh
- Lưu hồ sơ;VP; Tòa HS.

151
Page 152

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH DƯƠNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 46/2020/DS-PT


Ngày 12-3-2020
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và yêu
cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Duyên Hằng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Trung Dũng
Ông Nguyễn Văn Tài
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Dung – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Đặng Hà Nhung – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 10 và ngày 12 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
39/2020/TLPT-DS ngày 06/02/2020 về việc “tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2019/DS-ST ngày 16/10/2019 của Tòa án
nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 37/2020/QĐPT-DS,
ngày 13/02/2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C; địa chỉ: Khu
phố 3, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đào Duy Hiền P, sinh năm
1983; địa chỉ: Số A2-04-06, chung cư H, đường G, phường H, quận T, Thành
phố Hồ Chí Minh (văn bản ủy quyền ngày 07/5/2018).
- Bị đơn: Bà Huỳnh Ngọc D, sinh năm 1972; địa chỉ: Số 017, lô C2, cư xá
phường 6, đường T, Phường 6, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

152
Page 153

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Phan Viết L, sinh năm: 1976; địa
chỉ: Phòng 302A8B, phường T, quận T, Thành phố Hà Nội (văn bản ủy quyền
ngày 01/11/2018).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản
C, bị đơn bà Huỳnh Ngọc D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện ngày 22/5/2018, lời khai trong quá trình tham gia tố
tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:
Ngày 21/02/2009, Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C (gọi tắt là
Công ty) và bà Huỳnh Ngọc D ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
số 1258/HĐCN/KDCRB, với nội dung: Công ty chuyển nhượng cho bà D phần
đất diện tích 222,44m2 thuộc khu dân cư R, xã A, thị xã B với giá 266.928.000
đồng. Tuy nhiên khi tiến hành đo đạc thực tế thì diện tích đất giảm 0,004m2 so
với diện tích thỏa thuận chuyển nhượng ban đầu. Nên Công ty giảm giá chuyển
nhượng cho bà D xuống còn 266.880.000 đồng.
Thỏa thuận thanh toán làm 05 đợt:
+ Đợt 1: Ngay sau khi ký hợp đồng, thanh toán 25% giá trị hợp đồng tương
đương số tiền 66.730.000 đồng,
+ Đợt 2: Sau 04 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, thanh toán 20% giá trị hợp
đồng tương đương số tiền 53.385.000 đồng,
+ Đợt 3: Sau 08 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, thanh toán 20% giá trị hợp
đồng tương đương số tiền 53.385.000 đồng,
+ Đợt 4: Sau 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, phía Công ty gửi thông báo
giao nền nhà cho bà D, bà D sẽ thanh toán tiếp 25% giá trị hợp đồng tương
đương số tiền 66.730.000 đồng,
+ Đợt 5: Ngay sau khi Công ty giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà
D thanh toán 10% giá trị hợp đồng tương đương số tiền 26.698.000 đồng.
Sau khi ký kết hợp đồng, bà D mới chỉ thanh toán được 02 đợt đầu với tổng
số tiền 120.115.000 đồng thì không tiếp tục thanh toán theo nội dung cam kết
trong hợp đồng, dù đã được Công ty nhắc nhở, thông báo nhiều lần.
Mặc dù bà D vi phạm nghĩa vụ thanh toán nhưng Công ty vẫn thực hiện
đúng nội dung cam kết theo hợp đồng, hoàn tất các thủ tục pháp lý để Ủy ban
nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 817629 (số
vào sổ cấp GCN: CH02714) ngày 08/8/2011 cho bà Huỳnh Ngọc D.
Do bà D vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo nội dung thỏa thuận trong hợp
đồng đã ký kết nên Công ty khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
+ Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 1258/HĐCN/KDCRB
ngày 21/02/2009 giữa Công ty và bà bà Huỳnh Ngọc D. Công ty không phải

153
Page 154

hoàn trả cho bà D số tiền mà bà D đã thanh toán 120.115.000 đồng (một trăm
hai mươi triệu một trăm mười lăm nghìn).
+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số BG 817629, số vào sổ cấp GCN: CH02714 ngày
08/08/2011 do Uỷ ban nhân dân huyện (nay là thị xã) B cấp cho bà Huỳnh Ngọc
D.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên
nội dung yêu cầu khởi kiện. Riêng đối với số tiền bị đơn bà D đã thanh toán là
120.115.000 đồng (một trăm hai mươi triệu một trăm mười lăm nghìn), nếu Hội
đồng xét xử tuyên hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
1258/HĐCN/KDCRB ngày 21/02/2009, thì Công ty đồng ý trả lại cho bị đơn bà
D.
- Bị đơn trình bày:
Thống nhất trình bày của nguyên đơn về việc giao kết hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, nội dung thỏa thuận trong hợp đồng và số tiền đã
thanh toán.
Việc Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C cho rằng bà Huỳnh
Ngọc D vi phạm nghĩa vụ thanh toán là không đúng. Sau khi ký kết hợp đồng,
bà D rất có thiện chí thanh toán cho Công ty. Bằng chứng là bà D cũng đã thanh
toán được 02 đợt, đúng thời hạn. Trước các đợt thanh toán, phía Công ty đều có
gửi thông báo cho bà D đến thanh toán nhưng mấy tháng sau, bà D không thấy
phía Công ty gửi thông báo cho bà D nữa. Bà D có đến địa điểm đã giao dịch
chuyển nhượng tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng văn phòng đó đã chuyển đi
nơi khác. Công ty chuyển địa điểm giao dịch nhưng không thông báo với bà D
mặc dù bà D đã cố gắng liên lạc và nhờ người môi giới liên lạc với phía Công ty
nhưng cũng không được.
Từ năm 2011 đến năm 2017, bà D không nhận được bất kỳ thông báo gì từ
phía Công ty. Đến ngày 27/12/2017, bà D mới nhận được thông báo về việc
thanh lý hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Khu dân cư Rạch Bắp,
huyện B, tỉnh Bình Dương ngày 21/12/2017, yêu cầu bà D thanh toán số tiền
còn lại 146.7654.000 đồng, 2.114.000 đồng tiền phí trước bạ và đo đạc trích lục,
nhưng do bận việc gia đình nên bà D chưa đến thanh toán được. Sau đó, bà D có
liên lạc qua số điện thoại 0274.3507.550 có trong nội dung thông báo để xin đến
thanh toán số tiền còn lại thì người nhận điện thoại không cho thanh toán vì lý
do đã chốt hồ sơ để khởi kiện ra Tòa án.
Bị đơn bà D không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà D yêu
cầu được tiếp tục thực hiện hợp đồng, yêu cầu được thanh toán cho Công ty số
tiền còn lại theo hợp đồng 146.765.000 đồng và tiền lãi theo mức lãi suất
6%/năm tính từ ngày 20/02/2018, yêu cầu được nhận đất và giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.

154
Page 155

Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2019/DS-ST ngày 16/10/2019 của Tòa án


nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương, đã tuyên xử:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015,
Căn cứ các Điều 116, 117, 118, 119, 275, 357, 418, 468, 500 và 688 của Bộ
luật Dân sự năm 2015,
Căn cứ vào Điều 26, 166, 167, 203 của Luật Đất đai năm 2013,
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án,
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ
phần Kinh doanh bất động sản C đối với bị đơn bà Huỳnh Ngọc D về việc
“tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”.
2. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
1258/HĐCN/KDCRB ngày 21/02/2009 giữa Công ty Cổ phần kinh doanh Bất
động sản C và bà Huỳnh Ngọc D là có hiệu lực pháp luật.
- Buộc Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C phải giao cho bà
Huỳnh Ngọc D bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 817629
(số vào sổ cấp GCN: CH02714) do Ủy ban nhân dân huyện B (nay là thị xã B)
cấp ngày 08/8/2011.
- Buộc Công ty Cổ phần kinh doanh bất động sản C phải bàn giao cho bà
Huỳnh Ngọc D thửa đất có diện tích diện tích 222,44m2 thuộc thửa số 1642, tờ
bản đồ số 13, tại xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Đất có tứ cận: Hướng Đông
giáp thửa 1643, hướng tây giáp thửa 1641, hướng bắc giáp thửa 1614, hướng
nam giáp đường Đ20-B (có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
- Bà Huỳnh Ngọc D được quyền quản lý và sử dụng các diện tích đất trên.
- Bị đơn bà Huỳnh Ngọc D có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn
Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C số tiền 400.208.171 đồng (bốn
trăm triệu, hai trăm lẻ tám nghìn, một trăm bảy mươi mốt đồng).
Kể từ ngày án có hiệu lực thi hành và người được thi hành án có đơn yêu
cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán hoặc thanh toán
không đầy đủ, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải thanh toán cho
người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời
gian chậm thi hành án.

155
Page 156

Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá
tài sản, án phí, trách nhiệm thi hành án và quyền kháng cáo.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 28/10/2019, nguyên đơn Công ty Cổ phần
kinh doanh bất động sản C có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 1258/HĐCN/KDCRB
ngày 21/02/2009 giữa Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C và bà Huỳnh
Ngọc D, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 817629 (số vào sổ cấp
GCN: CH02714) do Ủy ban nhân dân huyện B (nay là thị xã B) cấp ngày
08/8/2011; ngày 01/11/2019, bị đơn bà Huỳnh Ngọc D kháng cáo một phần bản
án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về phần trách
nhiệm thanh toán của bị đơn là bị đơn chỉ đồng ý thanh toán số tiền chậm nộp
146.765.000 đồng, tiền thuế trước bạ và tiền đo đạc 2.114.000 đồng, tiền lãi
chậm thanh toán của số tiền 146.765.000 đồng là 1,5%/tháng kể từ sau ngày
20/02/2018 theo nội dung thông báo ngày 21/12/2017 của Công ty.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
yêu cầu kháng cáo; bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các đương sự
không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Các đương sự không tranh chấp hình
thức, chủ thể ký kết. Nguyên đơn đã làm thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho bị đơn, bị đơn đã thanh toán tiền 02 đợt. Trong quá trình thực
hiện hợp đồng thì nguyên đơn và bị đơn đều có lỗi, nguyên đơn cho rằng đã
nhiều lần thông báo cho bị đơn thực hiện thanh toán lần 3, 4, 5 nhưng không
cung cấp chứng cứ chứng minh. Bị đơn cho rằng do nguyên đơn thay đổi văn
phòng đại diện và bị đơn đã thay đổi địa chỉ, khi ký hợp đồng thì ký trực tiếp tại
địa chỉ công ty ở D nhưng bị đơn không chứng minh được việc có đến văn
phòng công ty và trao đổi về vấn đề thanh toán cho các lần tiếp theo. Thực tế các
bên đều có lỗi, tranh chấp đến nay là gần 10 năm, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận
hợp đồng là phù hợp nhưng giá trị chuyển nhượng đến nay đã thay đổi (chuyển
nhượng 1.200.000 đồng/m2, nay là 6.000.000 đồng/m2), Tòa án cấp sơ thẩm chỉ
buộc bị đơn thanh toán tiền lãi là chưa phù hợp, đề nghị chấp nhận kháng cáo
của nguyên đơn, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa án sơ thẩm theo
hướng công nhận hợp đồng, buộc bị đơn thanh toán giá trị chưa thanh toán theo
giá hội đồng đã định giá.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được
thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày
của đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

156
Page 157

[1] Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C được Sở Kế hoạch và Đầu
tư tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 18/6/2008,
có 08 ngành nghề kinh doanh, trong đó có ngành nghề kinh doanh bất động sản.
Ngày 03 tháng 11 năm 2003, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương
ban hành Quyết định số: 4252/QĐ-CT về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết khu
dân cư R, xã A, huyện B, tỉnh Bình Dương giao cho Công ty C. Ngày
14/02/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số:
988/QĐ-UBND điều chỉnh lại cơ cấu sử dụng đất tại Quyết định số: 4252/QĐ-
CT ngày 03 tháng 11 năm 2003 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương.
Ngày 03/9/200, Công ty C chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc dự án khu
dân cư Rạch Bắp cho Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C.
Sau khi nhận chuyển nhượng dự án khu dân cư R thì Công ty tiếp tục tiến
hành các hạng mục bao tiêu dự án và ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho dân, trong đó Công ty ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Huỳnh
Ngọc D, cụ thể: Ngày 21/02/2009, Công ty và bà D có ký Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số 1258/HĐCN/KDCRB với nội dung: Công ty
chuyển nhượng cho bà D phần đất diện tích 222,4m2 thuộc khu dân cư Rạch
Bắp, xã A, thị xã B với giá 266.880.000 đồng, thanh toán thành 05 đợt (đợt 1,
ngay sau khi ký hợp đồng, thanh toán số tiền 66.730.000 đồng; đợt 2, sau 04
tháng kể từ ngày ký hợp đồng, thanh toán số tiền 53.385.000 đồng; đợt 3: Sau
08 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, thanh toán số tiền 53.385.000 đồng; đợt 4:
Sau 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, phía Công ty gửi thông báo giao nền nhà
cho bà D, bà D sẽ thanh toán số tiền 66.730.000 đồng; đợt 5: Ngay sau khi Công
ty giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà D thanh toán số tiền còn lại
26.698.000 đồng). Sau khi ký kết hợp đồng, bà D đã thanh toán được đợt 1, đợt
2 số tiền 120.115.000 đồng, còn lại đợt 3, đợt 4, đợt 5 chưa thanh toán
146.765.000 đồng.
Hợp đồng trên quy định trách nhiệm và phạt vi phạm như sau (Điều 3, Điều
4 của hợp đồng):
- Bên A (Công ty) hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất một
nền nhà cho bên B trong vòng 24 tháng kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu bên A giao
đất không đúng thời hạn thì bên A phải bồi thường cho bên B (bà D) 50% giá trị
hợp đồng và phải hoàn trả lại cho bên B toàn bộ số tiền mà bên B đã nộp cho
bên A và thanh lý hợp đồng.
- Nếu bên B (bà D) vi phạm thời hạn thanh toán tiền dưới 03 tháng, bên B
chịu lãi suất 1,5% tháng trên số tiền thanh toán trễ hạn. Trường hợp bên B thanh
toán trễ hạn quá 03 tháng bất kỳ đợt nào nêu trên, bên A có quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng mà không phải hoàn trả cho cho bên B bất kỳ khoản tiền nào
mà bên B đã thanh toán cho bên A.
Khi nhận được thông báo giao nền nhà của bên A, bên B phải tiến hành nộp
tiền cho bên A trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Trường hợp

157
Page 158

bên B không nhận nền hoặc không trả lời cho bên A biết bằng văn bản trong
thời gian quy định thì bên A được quyền chuyển nhượng nền nhà đó cho đối
tượng khác và bên B sẽ mất toàn bộ số tiền đã nộp cho bên A.
Trong thời gian 18 tháng kể từ ngày bên A giao nền nhà cho bên B, nếu
bên B không tiến hành xây dựng nhà ở, bên A thanh toán lại cho bên B bằng số
tiền mà bên B đã nộp cho bên A và tiến hành thanh lý hợp đồng.
[2] Về nghĩa vụ thanh toán: Quá trình tố tụng, Công ty cho rằng rất nhiều
lần gửi thông báo yêu cầu bà D thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhưng bà D không
thực hiện, ngoài lời trình bày Công ty không có chứng cứ chứng minh đã gửi
thông báo cho bà D; bà D thừa nhận đã chuyển nơi ở khác không thông báo cho
Công ty. Mặc dù, quá thời hạn thanh toán nhưng hai bên vẫn không thanh lý hay
hủy bỏ hợp đồng. Công ty vẫn tiến hành các thủ tục sang tên quyền sử dụng đất
cho bà D.
Nguyên đơn thừa nhận mặc dù bị đơn không thanh toán đúng theo thỏa
thuận đã cam kết tại hợp đồng, nhưng nguyên đơn vẫn chấp nhận tiếp tục thực
hiện hợp đồng với bà D và đồng ý cho bà D thanh toán tiền các đợt còn lại bằng
việc ra “Thông báo thanh lý hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đề
ngày 21/12/2017, với nội dung: Nếu bà D thực hiện việc thanh toán và nhận giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trong thời hạn đến hết ngày 20/02/2018 thì số
tiền chậm nộp sẽ được tính lãi theo mức lãi suất là 6%/năm. Nếu sau ngày
20/02/2018, bà D vẫn không đến nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
thanh lý hợp đồng, Công ty sẽ căn cứ theo điều khoản của hợp đồng đã ký kết,
tính lãi theo mức lãi suất 1,5%/tháng trên số tiền nộp chậm. Bà D nhận được
thông báo này trong thời hạn trên vui lòng phản hồi phương án thanh lý hợp
đồng với Công ty, nếu sau ngày 20/02/2018 thì Công ty để pháp luật giải quyết.
Bị đơn bà D thừa nhận có nhận được thông báo này vào ngày 27/12/2017, đồng
ý thanh toán số tiền còn lại 146.765.000 đồng và 2.114.000 đồng tiền phí trước
bạ + đo đạc trích lục, nhưng do bận việc gia đình nên bà D chưa thanh toán
được, sau đó bà D có liên lạc qua số điện thoại 0274.3507550 có trong nội dung
thông báo để xin thanh toán số tiền còn lại nhưng người nhận điện thoại không
cho thanh toán vì hồ sơ đã khởi kiện ra Tòa án. Theo hồ sơ vụ án thì ngày
22/5/2018 Công ty đã khởi kiện bà D ra Tòa án (trên 03 tháng theo thỏa thuận
của hợp đồng). Do đó, căn cứ Điều 4 của hợp đồng chuyển nhượng nêu trên thì
Công ty có quyền chuyển nhượng đất cho người khác đồng nghĩa việc chấm dứt
hợp đồng chuyển nhượng đất.
[3] Với nhận định trên, xét thấy Công ty và bà D cùng có lỗi một phần dẫn
đến việc chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng tại thời điểm này. Việc chấm dứt
thực hiện hợp đồng một phần cũng do hoàn cảnh đã thay đổi cơ bản (giá trị
quyền sử dụng đất thay đổi so với khi ký kết hợp đồng nhưng hai bên không
thỏa thuận lại) theo quy định tại Điều 420 Bộ luật Dân sự. Để cân bằng lợi ích
cho các bên khi chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng trên, Công ty phải có nghĩa

158
Page 159

vụ trả lại cho bà D giá trị quyền sử dụng đất tương ứng với phần diện tích đất bà
D đã thanh toán theo giá trị tại thời điểm xét xử, cụ thể:
Giá trị hợp đồng chuyển nhượng số 1258/HĐCN/KDCRB ngày 21/02/2009
là 222,4m2 x 1.200.000 đồng/m2= 266.880.000 đồng, bà D đã nộp 120.115.000
đồng, tương đương diện tích đất 100,096m2. Giá đất hiện nay theo kết quả định
giá là 6.000.000 đồng/m2 (các đương sự không có ý kiến về giá đất theo kết quả
định giá của cấp sơ thẩm nên Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ kết quả định giá này
làm cơ sở giải quyết vụ án). Như vậy, giá trị diện tích đất 100,096m2 là
600.576.000 đồng. Công ty có nghĩa vụ trả lại cho bà D 600.576.000 đồng.
[4] Ủy ban nhân dân huyện B (nay là thị xã B) cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BG 817629 (số vào sổ cấp GCN: CH02714) ngày 08/8/2011 do
Ủy ban nhân dân huyện B (nay là thị xã B) cấp cho bà Huỳnh Ngọc D là đúng
quy định pháp luật (cấp giấy chứng nhận trên cơ sở giao dịch giữa các bên, Ủy
ban nhân dân không có lỗi), nên cần kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã B thu hồi.
Từ những phân tích trên, kháng cáo của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận
một phần; kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở chấp nhận, sửa một phần bản
án sơ thẩm, chấm dứt Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty
với bà D số 1258/HĐCN/KDCRB ngày 21/02/2009, Công ty trả lại cho bà D số
tiền 600.576.000 đồng.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại phiên tòa
phúc thẩm là chưa phù hợp.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí không có giá ngạch
đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng, chịu án phí có giá ngạch đối với
nghĩa vụ phải thực hiện.
- Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá: Nguyên đơn phải chịu.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148, khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015,
Căn cứ Điều 420, 422 Bộ luật Dân sự,
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy Ban
Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ
phần Kinh doanh bất động sản C; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị
đơn bà Huỳnh Ngọc D.

159
Page 160

2. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2019/DS-ST ngày 16/10/2019 của Tòa


án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương như sau:
2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về
việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tuyên bố chấm dứt thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
1258/HĐCN/KDCRB ngày 21/02/2009 giữa Công ty Cổ phần Kinh doanh bất
động sản C với bà Huỳnh Ngọc D.
Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C có nghĩa vụ trả lại cho bà Huỳnh
Ngọc D số tiền 600.576.000 đồng (sáu trăm triệu năm trăm bảy mươi sáu nghìn
đồng).
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn
yêu cầu thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm
2015.
2.2. Kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Dương thu hồi Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 817629 (số vào sổ cấp GCN CH02714)
ngày 08/8/2011 do Ủy ban nhân dân huyện B (nay là thị xã B), tỉnh Bình Dương
cấp cho bà Huỳnh Ngọc D.
Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C được quyền sử dụng thửa đất
1642, tờ bản đồ 13, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương và được quyền liên hệ với
cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2.3. Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:
Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C phải chịu 1.607.949 đồng
(một triệu sáu trăm lẻ bảy nghìn chín trăm bốn mươi chín đồng), được khấu trừ
vào tiền tạm ứng chi phí tố tụng đã nộp tại Tòa án.
2.4. Án phí sơ thẩm:
Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C phải chịu 300.000 đồng (ba
trăm nghìn đồng) và 28.033.000 đồng (hai mươi tám triệu không trăm ba mươi
ba nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu
tiền số 0025581 ngày 18/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B, tỉnh
Bình Dương. Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C còn phải nộp
28.033.000 đồng (hai mươi tám triệu không trăm ba mươi ba nghìn đồng).
3. Án phí phúc thẩm:
Trả cho Công ty Cổ phần Kinh doanh bất động sản C 300.000 đồng (ba
trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0042197
ngày 07/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã B, tỉnh Bình Dương.

160
Page 161

Trả cho bà Huỳnh Ngọc D 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm
ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0042242 ngày 21/11/2019 của Chi
cục thi hành án dân sự thị xã B, tỉnh Bình Dương.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Bình Dương; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Chi cục THADS thị xã B;
- TAND thị xã B;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.

Nguyễn Thị Duyên Hằng

161
Page 162

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH NGHỆ AN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số 02/2020/KDTM-PT
Ngày 19 - 02 - 2020
“V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đăng Phồn.
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Hải Minh
Ông Nguyễn Hữu Hà.
- Thư ký phiên tòa: Ông Hồ Ngọc Mạnh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tham gia phiên tòa:
Ông Võ Duy Bảo - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử
phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 22/2019/TLPT-
KDTM ngày 16 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp về đòi lại tài sản”.
Do Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 08/2019/KDTM-ST ngày 30
tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 02/2020/QĐ-PT ngày 07
tháng 01 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xuất nhập khẩu P.
Địa chỉ: Số 01, phố T, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Văn C; chức vụ: Giám đốc; có mặt tại
phiên tòa.
- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A.
Địa chỉ: Bản N, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Phạm Thị Minh H; chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn H1, sinh năm 1981; địa chỉ: Số
nhà 10, Ngách 29/16, phố Đ, phường V, quận B, thành phố Hà Nội và ông Mai
Đức T, sinh năm 1981; địa chỉ: Số 24, Ngõ 463, Phố Đ1, phường V, quận B, thành
162
¬
Page 163

phố Hà Nội; theo Giấy ủy quyền số 26/2019/GUQ-AT ngày 26 tháng 8 năm 2019;
đều có mặt tại phiên tòa.
* Người kháng cáo: Bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A.

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, người đại diện của
nguyên đơn ông Vũ Văn C trình bày:
Ngày 02 tháng 12 năm 2015, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên
Xuất nhập khẩu P (viết tắt là Công ty P) và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng
sản A (viết tắt là Công ty A) đã ký Hợp đồng mua bán thiếc số 02/2015/PITCO-
ATC. Theo đó, Công ty P mua số lượng là 40 tấn thiếc thỏi loại 25 (+/- 2) kg; thời
gian chốt giá trong vòng 175 ngày kể từ ngày giao hàng cho Công ty A; hàng được
giao từng lần là 20 tấn, giao hàng trước ngày 30 tháng 01 năm 2016; còn 20 tấn giao
hàng trước ngày 30 tháng 02 năm 2016. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty P đã
cho Công ty A tạm ứng số tiền 5.372.435.316 đồng. Từ khi Công ty A tạm ứng số
tiền cho đén nay, phía Công ty A chưa giao được số hàng nào cho Công ty P. Công
ty P đã nhiều lần làm văn bản yêu cầu nhưng Công ty A không giao hàng đúng cam
kết và Công ty A cũng đã có văn bản trả lời về việc không giao đúng hợp đồng được.
Đến ngày 10 tháng 4 năm 2018, hai bên đã làm biên bản đối chiếu công nợ và
thỏa thuận lãi suất 8,5%/năm. Đến ngày 31 tháng 3 năm 2018, Công ty A còn nợ
Công ty P số tiền gốc tạm ứng và lãi suất là 6.434.191.973 đồng. Trong đó, số tiền
gốc đã tạm ứng là 5.372.435.316 đồng, tiền lãi của số tiền đã tạm ứng tính đến
ngày 31 tháng 3 năm 2018 là 1.061.756.657 đồng. Sau khi chốt nợ, Công ty A đã
trả cho Công ty P số tiền 40.000.000 đồng.
Nay, Công ty P yêu cầu Tòa án buộc Công ty A trả số tiền tạm ứng gốc và lãi
suất theo thỏa thuận tính đến ngày 30 tháng 7 năm 2019 tổng số tiền là
7.003.270.395 đồng. Trong đó, tiền gốc là 5.332.435.316 đồng, tiền lãi suất là
1.670.835.079 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm đã triệu tập hợp lệ người đại diện của bị đơn đến tham gia
phiên tòa nhưng người đại diện của bị đơn vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án,
người đại diện của bị đơn có bản khai thừa nhận đúng như người đại diện của nguyên
đơn trình bày. Sau khi ký hợp đồng mua bán thiếc, Công ty A chưa giao được số
lượng hàng nào Công ty P, Công ty P đã nhiều lần yêu cầu Công ty A giao hàng
nhưng do thời kỳ đó sản xuất gặp nhiều khó khăn nên không thể giao hàng đúng như
cam kết trong hợp đồng được. Đến ngày 10 tháng 4 năm 2018, hai bên có lập biên bản
đối chiếu công nợ với nhau và thỏa thuận lãi suất là 8,5%/năm. Tính đến ngày 31
tháng 3 năm 2018, Công ty A còn nợ Công ty P số tiền là 6.434.191.973 đồng. Sau đó,

163¬
Page 164

Công ty A đã trả được cho Công ty P 40.000.000 đồng. Nay, Công ty A sản xuất đang
gặp nhiều khó khăn, đề nghị Công ty P giãn thời gian trả nợ và cho trả nợ dần.
Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 08/2019/KDTM-ST ngày 30 tháng
7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An đã quyết định:
Áp dụng Điều 34, Điều 37, Điều 306 của Luật Thương mại; khoản 1 Điều 30,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xuất nhập khẩu P; buộc Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Khoáng sản A có nghĩa vụ trả số tiền tạm ứng và tiền lãi suất tính đến
ngày 30 tháng 7 năm 2019 cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xuất
nhập khẩu P tổng số tiền là 7.003.270.395 đồng. Trong đó, tiền gốc là 5.332.435.316
đồng, tiền lãi suất là 1.670.835.079 đồng. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản
A tiếp tục chịu lãi suất theo thỏa thuận cho đến khi trả hết số tiền tạm ứng trên.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, thời hiệu thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự trong vụ án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23 tháng 8 năm 2019, bị đơn Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Khoáng sản A kháng cáo không chấp nhận toàn bộ bản án sơ thẩm;
đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa
án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm, với lý do:
- Thứ nhất, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa cả 02 người được ủy quyền về
cùng một nội dung vụ việc theo 02 giấy ủy quyền ở hai thời điểm ký khác nhau là
không đảm bảo tố tụng. Về nguyên tắc thì giấy ủy quyền ký ngày 06 tháng 5 năm
2019 cho ông Hoàng Giang L (ký sau) đã thay thế cho giấy ủy quyền ký ngày 15
tháng 10 năm 2018 cho ông Trần Văn H1 (ký trước). Theo đó, ông Trần Văn H1
không được tham gia với tư cách là người đại diện theo ủy quyền;
- Thứ hai, Hợp đồng mua bán thiếc kỳ hạn số 02/2015/PITCO-ATC ký ngày
02 tháng 12 năm 2015 giữa các bên đã vi phạm quy định về quản lý ngoại hối tại
Điều 22 Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH ngày 13 tháng 12 năm
2005 nên vô hiệu ngay tại thời điểm ký;
- Thứ ba, sau khi ký Hợp đồng mua bán thiếc kỳ hạn số 02/2015/PITCO-ATC
ký ngày 02 tháng 12 năm 2015 và nhận tạm ứng thì thị trường thiếc thế giới và Việt
Nam giảm sâu khoảng 23.000 USD/tấn xuống còn 16.000 USD/tấn nên cả hai công
ty sẽ bị lỗ. Mặt khác, theo quy định của Nghị định số 100/2016/NĐ-CP ngày 01
tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định chi thiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sụng
một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật
Quản lý thuế và Thông tư số 130/2016/TT-BTC ngày 12 tháng 8 năm 2016 đã

164
¬
Page 165

khiến cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản bị ảnh hưởng
nghiêm trọng do không được hoàn thuế giá trị gia tăng. Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Khoáng sản A đãtìm cách giải quyết nhưng không thực hiện và phải thuộc
trường hợp bất khả kháng theo Điều V (Điều khoản chung) của hợp đồng đãký.
Theo đó, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A được miễn trừmọi nghĩa vụ
do sự kiện bất khả kháng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn giữ nguyên
nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.
Người đại diện của nguyên đơn không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, đề
nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa:
- Về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng: Trong quá
trình thụ lý vụ án đến khi xét xử phúc thẩm, Thẩm phán được phân công đãthực
hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên tòa đã uân
t theo đúng trình tự, thủ tục phiên tòa.
- Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị
đơn đãchấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 và Điều 294 của Bộ
luật tố tụng dân sự. Quyền tranh tụng của các đương sự tại phiên tòa được bảo đảm.
- Về thủ tục kháng cáo: Bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A
kháng cáo trong thời hạn luật định, có nộp tiền tạm ứng án phí nên được Tòa án cấp
phúc thẩm thụ lý, giải quyết là đúng quy định pháp luật.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Khoáng sản A, giữ nguyên bản án sơ thẩm; buộc Công ty Trách nhiệm
hữu hạn Khoáng sản A phải có nghĩa vụ trả số tiền tạm ứng và tiền lãi suất tính đến
ngày 30 tháng 7 năm 2019 cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xuất
nhập khẩu P tổng số tiền là 7.003.270.395 đồng. Trong đó, tiền gốc là
5.332.435.316 đồng, tiền lãisuất là 1.670.835.079 đồng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ
thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp không chính xác nên cần xác định lại
cho đúng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đãhỏi ý kiến của các đương sự có
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không nhưng các đương sự
không thỏa thuận được. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa theo quy định
của pháp luật.
[2] Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 08/2019/KDTM-ST ngày 30 tháng 7
năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An đã xét xử
165 ¬
Page 166

buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A có nghĩa vụ trả số tiền tạm ứng
và tiền lãi suất tính đến ngày 30 tháng 7 năm 2019 cho Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Một thành viên Xuất nhập khẩu P tổng số tiền là 7.003.270.395 đồng; trong đó,
tiền gốc là 5.332.435.316 đồng, tiền lãi suất là 1.670.835.079 đồng. Sau khi xét xử
sơ thẩm, bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A kháng cáo đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[3] Xét kháng cáo của bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa
thể hiện: Ngày 02 tháng 12 năm 2015, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A
(sau đây gọi tắt là Công ty A) và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên
Xuất nhập khẩu P (sau đây gọi tắt là Công ty P) ký Hợp đồng mua bán thiếc kỳ hạn
số 02/2015/PITCO-ATC về việc mua bán 40 tấn thiếc thỏi xuất khẩu; thời gian
giao hàng cuối cùng là ngày 30 tháng 02 năm 2016. Sau khi ký hợp đồng, Công ty
P đã tạm ứng cho Công ty A số tiền hàng 5.372.435.316 đồng; tuy nhiên, Công ty
A chưa thực hiện đúng nghĩa vụ giao hàng theo đúng thỏa thuận. Ngày 16 tháng 02
năm 2016, Công ty A đã có Công văn số 05/CV-ATC về việc đề nghị Công ty P gia
hạn thời gian giao hàng nhưng vẫn chưa thực hiện theo đúng cam kết.
Tại phiên tòa, người đại điện của bị đơn thừa nhận hợp đồng mua bán thiếc
giữa Công ty A và Công ty P đã được ký kết đúng thẩm quyền, hợp đồng đã phát
sinh hiệu lực kể từ ngày ký. Tuy nhiên, do điều kiện kinh doanh gặp khó khăn,
Công ty A chưa giao hàng đúng thỏa thuận mặc dù đã được Công ty P tạm ứng tiền
hàng. Ngày 10 tháng 4 năm 2018, hai bên đã tiến hành đối chiếu công nợ và thống
nhất tổng số tiền Công ty A còn nợ Công ty P tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2018
là 6.434.191.973 đồng, bao gồm 5.372.435.316 đồng tiền gốc và 1.061.756.657
đồng tiền lãi suất (với mức lãi suất 8,5%/năm). Như vậy, tại thời điểm đó, hai bên
không có tranh chấp gì về hiệu lực của hợp đồng và đã tiến hành đối chiếu công nợ
số tiền hàng tạm ứng cùng số tiền lãi suất phát sinh nhưng Công ty A chưa thực
hiện được việc trả nợ. Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, người đại
diện của bị đơn cũng thừa nhận: Đến ngày 31 tháng 3 năm 2018, Công ty A còn nợ
Công ty P tổng số tiền 6.434.191.973 đồng, trong đó số tiền gốc 5.372.435.316
đồng, tiền lãi phát sinh 1.061.756.657 đồng (bút lục hồ sơ số 70, 71). Do đó, có căn
cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty P buộc Công ty A phải trả nợ. Về
số tiền phải trả, sau khi đối chiếu công nợ, Công ty A đã trả cho Công ty P số tiền
40.000.000 đồng. Số tiền còn lại 5.332.435.316 đồng và tiền lãi phát sinh theo thỏa
thuận 8,5%/năm là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, cần buộc Công ty A

166
¬
Page 167

phải trả số tiền nợ cho Công ty P tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 30 tháng 7
năm 2019) tổng số tiền là 7.003.270.395 đồng; trong đó, tiền gốc là 5.332.435.316
đồng, tiền lãi suất là 1.670.835.079 đồng là đúng pháp luật.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A kháng cáo cho rằng việc Tòa án
cấp sơ thẩm đã đưa cả 02 người được ủy quyền về cùng một nội dung vụ việc theo
02 giấy ủy quyền ở hai thời điểm ký khác nhau là không đảm bảo tố tụng. Xét thấy,
ngày 15 tháng 10 năm 2018, Công ty A (do bà Phạm Thị Minh H, giám đốc và là
người đại diện theo pháp luật) đã ủy quyền cho ông Trần Văn H1 làm đại diện để
tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Ngày 06 tháng 5 năm 2019, Công
ty A có văn bản ủy quyền cho ông Hoàng Giang L làm đại diện để tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án. Tại mục thời gian ủy quyền của hai giấy ủy quyền
đều ghi: “Từ thời điểm ký giấy tờ tới thời điểm nội dung ủy quyền được hoàn tất,
hoặc được thay thế, sửa đổi, chấm dứt bằng văn bản liên quan”. Như vậy, nội dung
giấy ủy quyền không thể hiện rõ việc chấm dứt ủy quyền được thực hiện khi nào và
Công ty A cũng không có văn bản về việc chấm dứt ủy quyền đối với ông Trần Văn
H1. Mặt khác, việc Tòa án cấp sơ thẩm đưa ông Trần Văn H1 và ông Hoàng Giang L
vào tham gia tố tụng không làm thay đổi bản chất của vụ án; nội dung trình bày và
các ý kiến của ông H1 và ông L không mâu thuẫn, đối lập nhau. Tại phiên tòa sơ
thẩm ngày 30 tháng 6 năm 2019 và ngày 30 tháng 7 năm 2019, ông Hòa và ông Linh
đều vắng mặt. Tuy nhiên, tại phiên họp hòa giải ngày 07 tháng 5 năm 2019, ông H1,
ông L có mặt và đều thống nhất về nội dung vụ việc nhưng không có ý kiến phản đối
hay có ý kiến khác về việc ủy quyền tham gia tố tụng(bút lục hồ sơ số 70, 71). Do
đó, không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo này của bị đơn.
Đối với nội dung kháng cáo cho rằng hợp đồng ký kết giữa các bên vi phạm
quy định về quản lý ngoại hối nên vô hiệu tại thời điểm ký, tại Điều I và Điều III
của hợp đồng quy định về giá tạm tính của hàng hóa mua bán là “Giá thiếc MLE-3
tháng - khoản trừ lùi theo thỏa thuận) x 85%” và “Tỷ giá quy đổi là tỷ giá chuyển
khoản USD/VNĐ của Ngân hàng Thương mại Ngoại thương Việt Nam -
Vietcombank công bố tại ngày lấy giá tạm tính cho phần trị giá tạm tính và tại ngày
lấy giá chính thức cho phần giá chốt bổ sung”. Tuy nhiên, cũng tại Điều III của hợp
đồng có quy định: “Phương thức thanh toán: Chuyển khoản VNĐ hoặc bù trừ công
nợ”. Như vậy, việc các bên thỏa thuận giá hàng hóa theo thị trường kim loại màu
London và tỷ giá quy đổi là tỷ giá chuyển khoản USD/VNĐ của Ngân hàng
Thương mại Ngoại thương Việt Nam chỉ là căn cứ để xác định về tổng số tiền hàng
bên mua phải trả cho bên bán còn việc thanh toán phải được thực hiện bằng tiền
Việt Nam đồng. Do đó, việc thỏa thuận của hai bên không thuộc trường hợp hạn
chế sử dụng ngoại hối, không vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý ngoại
167
¬
Page 168

hối. Mặt khác, sau khi ký hợp đồng, Công ty P đã chuyển số tiền tạm ứng bằng tiền
Việt Nam đồng với số tiền 5.372.435.316 đồng, không phải tiền ngoại tệ, Công ty
A đồng ý nhận và không có tranh chấp gì. Quá trình giải quyết vụ án, người đại
diện của bị đơn cũng đồng ý và không có yêu cầu gì. Do đó, không có căn cứ để
chấp nhận nội dung kháng cáo này của bị đơn.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A còn cho rằng việc công ty không
thực hiện giao hàng được thời hạn là do biến động của thị trường thiếc thế giới và
do sự thay đổi của chính sách pháp luật nên thuộc trường hợp bất khả kháng theo
Điều V (Điều khoản chung) của hợp đồng. Xét thấy, hai bên ký hợp đồng với nhau
vào ngày 02 tháng 12 năm 2015 và thời hạn giao hàng chậm nhất là hết tháng 02
năm 2016. Mặc dù Công ty P đã chuyển số tiền tạm ứng nhưng Công ty A đã
không thực hiện đúng thời gian giao hàng như đã cam kết. Công ty P cũng đã đồng
ý gia hạn thời gian giao hàng nhưng Công ty A không thực hiện đúng. Công ty A
cho rằng việc vi phạm thời gian giao hàng thuộc trường hợp bất khả kháng nhưng
không xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do
đó, không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo ngày của bị đơn.
Từ các lập luận và chứng cứ nêu trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng
cáo của bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A, cần giữ nguyên bản
án sơ thẩm như đề nghị Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là đúng pháp luật.
[4] Đối với ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm
xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án không chính xác, xét thấy, Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xuất nhập khẩu P khởi kiện đề nghị Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A trả số tiền hàng tạm ứng và lãi suất phát sinh,
số tiền này hai bên đã thừa nhận và đối chiếu công nợ. Do đó, cần xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về đòi lại tài sản”, Tòa án cấp sơ
thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng mua bán
thiếc” là không chính xác và cần rút kinh nghiệm.
[5] Về án phí: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A kháng cáo không
được chấp nhận nên phải chịu án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm và phúc thẩm
theo quy định pháp luật.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị,
Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,

168
Page 169

QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng
sản A; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Căn cứ Điều 34, Điều 37, Điều 306 của Luật Thương mại; khoản 1 Điều 30,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên
Xuất nhập khẩu P; buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A có nghĩa vụ
trả số tiền tạm ứng và tiền lãi suất tính đến ngày 30 tháng 7 năm 2019 cho Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xuất nhập khẩu P tổng số tiền là
7.003.270.395 đồng (Bảy tỷ, không trăm linh ba triệu, hai trăm bảy mươi nghìn, ba
trăm chín mươi lăm đồng); trong đó, tiền gốc là 5.332.435.316 đồng (Năm tỷ, ba
trăm ba mươi hai triệu, bốn trăm ba mươi lăm nghìn, ba trăm mười sáu đồng), tiền
lãi suất là 1.670.835.079 đồng (Một tỷ, sáu trăm bảy mươi triệu, tám trăm ba mươi
lăm nghìn, không trăm bảy mươi chín đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo
mức lãi suất các đã bên thỏa thuận (8,5%/năm).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 147, Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2
Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp và quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
- Về án phí sơ thẩm: Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A phải
chịu 115.003.270 đồng (Một trăm mười lăm triệu, không trăm linh ba nghìn, hai
trăm bảy mươi đồng) án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm; trả lại cho Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xuất nhập khẩu P 56.755.000 đồng (Năm
mươi sáu triệu, bảy trăm năm mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo Biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số 0007112 ngày 13 tháng 7 năm 2018.

169
¬
Page 170

- Về án phí phúc thẩm: Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoáng sản A
phải chịu 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) án phí Kinh doanh thương mại phúc
thẩm nhưng được khấu trừ 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) số tiền tạm ứng án phí
đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo Biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0002675 ngày 28 tháng 8 năm 2019.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- VKSND tỉnh Nghệ An; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- TAND huyện Quỳ Hợp;
- Chi cục THADS huyện Quỳ Hợp;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA.

Nguyễn Đăng Phồn

170
¬

You might also like