You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA QUẢN TRỊ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT


NGHĨA VỤ

Bộ môn: Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Giảng viên: Th.S Nguyễn Tấn Hoàng Hải

Lớp: Quản trị - Luật 47A.2

Nhóm: 01

Thành viên:

1 Huỳnh Công Hiếu 2253401020077


2 Bùi Thị Kiều Hường 2253401020087
3 Phan Huỳnh Quốc Khang 2253401020095
4 Vy Anh Khoa 2253401020099
5 Nguyễn Phan Hoàng Mai 2253401020132
6 Nguyễn Hoàng Thảo My 2253401020137
7 Trần Nguyễn Quỳnh Nga 2253401020142
8 Đoàn Thị Bích Ngọc 2253401020157

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 8 tháng 3 năm 2024


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN ....................1
Câu 1.1: Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền? ...................................1
Câu 1.2: Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?
.....................................................................................................................................1
Câu 1.3: Cho biết điểm mới của bộ luật dân sự 2015 so với bộ luật dân sự 2005 về
chế định “ thực hiện công việc không có uỷ quyền “. ................................................1
Câu 1.4: Các điều kiện để áp dụng chế định “ thực hiện công việc không có uỷ quyền”
theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện. ...............................................................4
Câu 1.5: Trong Bản án nêu trên, Tòa án áp dụng quy định về “thực hiện công việc
không có ủy quyền” có thuyết phục không? Vì sao? ..................................................5
Câu 1.6: Việc Tòa án tính lãi đối với nghĩa vụ trả tiền như trong Bản án có thuyết
phục không? Vì sao? ...................................................................................................6
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN) 6
Câu 2.1: Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì? ...............................................................................6
Câu 2.2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ..............................................7
Câu 2.3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao? ...7
Câu 2.4: Đối với tình huống trong quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ
thể là bao nhiêu? Vì sao?.............................................................................................7
Câu 2.5: Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)? ............................................................................................8
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN......................9
Câu 3.1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?....................................................................................9
Câu 3.2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho
bà Tú? ........................................................................................................................10
Câu 3.3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển
sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh? .............................................................. 11
Câu 3.4: Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Toà án? .................................... 11
Câu 3.5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .............................................................. 11
Câu 3.6: Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết. ....12
Câu 3.7: Đoạn nào của bản án cho thấy Toà án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền? ......................................................13
Câu 3.8: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Toà án. .......................13
Câu 3.9: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm
dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý. .............................................................................14
DANH MỤC THAM KHẢO ..................................................................................15
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN

Câu 1.1: Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Điều 574 BLDS 2015 quy định : “ Thực hiện công việc không có ủy quyền là
việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện
công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không
biết hoặc biết mà không phản đối.”

Câu 1.2: Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh
nghĩa vụ?
Thực hiện công việc không có uỷ quyền là một trong 6 căn cứ phát sinh nghĩa
vụ được quy định tại Khoản 3 Điều 275 BLDS 2015.

Căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là những sự kiện xảy ra trong
thực tế, được pháp luật dân sự dự liệu, thừa nhận là có giá trị pháp lý, làm phát sinh
quan hệ nghĩa vụ dân sự.

Việc thực hiện công việc không có uỷ quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân
sự vì khi thực hiện công việc không có uỷ quyền theo Điều 574 sẽ phát sinh một trong
các nghĩa vụ được quy định tại Điều 274 BLDS 2015 của chủ thể thực hiện đối với
bên được thực hiện.

Ngoài ra, người được thực hiện còn có thể có nghĩa vụ thanh toán, người thực
hiện có thể có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo Điều 576, Điều 577 BLDS 2015.

Việc quy định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện công
việc và người có công việc được thực hiện và nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm
bảo quyền lợi của người thực hiện công việc cũng như đối với người có công việc
được thực hiện.

Câu 1.3: Cho biết điểm mới của bộ luật dân sự 2015 so với bộ luật dân sự 2005
về chế định “ thực hiện công việc không có uỷ quyền “.
* BLDS 2005

Chủ thể:

Chủ thể người có công việc được thực hiện chỉ có cá nhân

Cơ sở pháp lý: Điều 595, Điều 598 BLDS 2005

1
Cụ thể Điều 595 BLDS 2005:

“3. Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải báo cho người có công
việc được thực hiện về quá trình, kết quả thực hiện công việc nếu có yêu cầu, trừ
trường hợp người có công việc đã biết hoặc người thực hiện công việc không có ủy
quyền không biết nơi cư trú của người đó.

4. Trong trường hợp người có công việc được thực hiện chết thì người thực
hiện công việc không có ủy quyền phải tiếp tục thực hiện công việc cho đến khi người
thừa kế hoặc người đại diện của người có công việc được thực hiện đã tiếp nhận.”

Cụ thể Điều 598 BLDS 2005:

“Điều 598. Chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền

...

4. Người thực hiện công việc không có uỷ quyền chết.”

Mục đích thực hiện:

Cơ sở pháp lý: Điều 594 BLDS 2005

Cụ thể Điều 594 BLDS 2005 quy định về người thực hiện công việc “ hoàn
toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện.”

=> Hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện, không có mục
đích khác.

* BLDS 2015

Chủ thể:

Chủ thể người có công việc được thực hiện bao gồm cả cá nhân và pháp
nhân => Mở rộng phạm vi chủ thể hơn so với BLDS 2005

Cơ sở pháp lý: Điều 575, Điều 578 BLDS 2015.

Cụ thể Điều 575 BLDS 2015:

“3. Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải báo cho người có công
việc được thực hiện về quá trình, kết quả thực hiện công việc nếu có yêu cầu, trừ

2
trường hợp người có công việc đã biết hoặc người thực hiện công việc không có ủy
quyền không biết nơi cư trú hoặc trụ sở của người đó.

4. Trường hợp người có công việc được thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc
chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân thì người thực hiện công việc không có ủy quyền
phải tiếp tục thực hiện công việc cho đến khi người thừa kế hoặc người đại diện của
người có công việc được thực hiện đã tiếp nhận.”

Cụ thể Điều 578 BLDS 2015:

“Điều 578. Chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền

...

4. Người thực hiện công việc không có ủy quyền chết, nếu là cá nhân hoặc
chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân.”

Mục đích thực hiện:

Cơ sở pháp lý: Điều 574 BLDS 2015

Cụ thể Điều 574 BLDS 2015 quy định:

“Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ
thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người
có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”

=> Vì lợi ích của người có công việc được thực hiện nhưng cũng có thể vì mục
đích khác nhưng không được làm trái với lợi ích của người có công việc được thực
hiện và các chủ thể khác.

Kết luận:

=> BLDS 2015 có sự thay đổi về chủ thể cụ thể là mở rộng phạm vi chủ thể.
Việc bổ sung thêm pháp nhân là chủ thể là hợp lý, bởi vì có rất nhiều mối quan hệ
phát sinh giữa cá nhân và pháp nhân.

=> Để đảm bảo tính công bằng giữa 2 bên thực hiện nghĩa vụ thì BLDS 2015
đã bỏ đi “ hoàn toàn” thay vì “ hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực
hiện” như BLDS 2005.

3
Câu 1.4: Các điều kiện để áp dụng chế định “ thực hiện công việc không có uỷ
quyền” theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Căn cứ theo Điều 574 BLDS 2015 quy định về việc thực hiện công việc không
có uỷ quyền:

“ Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa
vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người
có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”

=> Cần phải thỏa mãn 5 điều kiện sau để áp dụng chế định “ thực hiện công
việc không có uỷ quyền”.

(1) Người thực hiện công việc không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó.
Nghĩa vụ ở đấy là nghĩa vụ pháp lý do luật định hoặc do các bên thỏa thuận.

(2) Người thực hiện công việc phải thực hiện công việc một cách tự nguyện
mặc dù pháp luật không quy định và chủ công việc không yêu cầu. Việc làm này hoàn
toàn là tự nguyện, trên cơ sở là tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc gặp khó khăn
nên họ không có mối quan hệ pháp lý nào về công việc được thực hiện trước đó.

(3) Việc thực hiện công việc phải thật sự cần thiết, sự cần thiết này thể hiện ở
chỗ nếu công việc đó không được thực hiện kịp thời sẽ gây thiệt hại cho người có
công việc.

(4) Người thực hiện công việc thực hiện công việc vì lợi ích của người có công
việc được thực hiện. Người thực hiện công việc không có uỷ quyền phải tự ý thức
rằng nếu công việc không có ai thực hiện thì người có công việc sẽ bị thiệt hại về lợi
ích vật chất ở một khoảng nhất định.

(5) Người có công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà không phản
đối. Trường hợp nếu như người có công việc phản đối mà bên còn lại vẫn làm thì sẽ
không áp dụng chế định này.

* Tóm tắt bản án 94/2021/DS-PT ngày 03 – 11 – 2021 V/v Tranh chấp đòi tài sản

Bà Phạm Thị Kim V (nguyên đơn) và ông Phạm Văn H (bị đơn) là chị em ruột,
bà Nguyễn Thị Đ là vợ ông H (bị đơn) nhưng đã ly hôn năm 2008. Nguyên năm 2006,
ông H và bà Đ vay vốn tại Quỹ TDTW chi nhánh Sóc Trăng số tiền 100 triệu đồng
và thế chấp căn nhà (nhà thờ cúng ông bà tổ tiên) và đất số 204, đường P, ấp H, thị

4
trấn M, huyện M tỉnh Sóc Trăng. Vì không thanh toán nợ nên Quỹ TDTW chi nhánh
Sóc Trăng yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Bà V sợ bị phát mãi căn
nhà đã đứng ra thanh toán thay nhưng sau đó ông H, bà Đ không thanh toán trả tiền
lại cho bà V. Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà V thừa nhận
ông H có trả 35 triệu đồng và thống nhất ông H và bà M đã ly hôn nên ông H còn nợ
30 triệu và bà Đ nợ 59.590.800 đồng. Tòa án nhận định bà V thực hiện nghĩa vụ trả
nợ thay nên các bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền mà bà V đã
trả thay. Sau khi thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay mà bà V không yêu cầu các bị đơn
thanh toán mãi cho đến ngày 28/01/2020 (trước ngày khởi kiện 06 tháng) bà V mới
yêu cầu nên lãi các bị đơn phải trả do chậm thực hiện nghĩa vụ được tính từ ngày
28/01/2020 đến ngày 13/05/2021 (ngày xét xử sơ thẩm).

Câu 1.5: Trong Bản án nêu trên, Tòa án áp dụng quy định về “thực hiện công
việc không có ủy quyền” có thuyết phục không? Vì sao?
Trong Bản án số 94/2021/DS-PT của TAND tỉnh Sóc Trăng, Tòa án áp dụng
quy định về “thực hiện công việc không có ủy quyền” rất thuyết phục. Vì theo quy
định tại Điều 574 BLDS 2015 quy định về các điều kiện của một người được xem là
“thực hiện công việc không có ủy quyền.”

Người có công việc: ông H và bà Đ phải trả tiền nợ cho Quỹ TDTW chi nhánh
Sóc Trăng số tiền 124.590.800 đồng (nợ gốc 100.000.000 đồng và nợ lãi 24.590.800
đồng)

Người không có nghĩa vụ thực hiện công việc: bà V không có nghĩa vụ trả nợ
cho Quỹ TDTW chi nhánh Sóc Trăng lại tự nguyện thực hiện trả nợ thay cho ông H
và bà Đ.

Thực hiện vì lợi ích của người có công việc: ông H và bà Đ vay tiền tại Quỹ
TDTW chi nhánh Sóc Trăng, khi đến hạn lại không có khả năng trả tiền. Vì không để
cho Quỹ TDTW chi nhánh Sóc Trăng xử lý tài sản thế chấp, nên bà V mới thực hiện
việc trả nợ thay này cho ông H và bà Đ.

Tuy giữa vợ chồng ông H và bà V không có hợp đồng ủy quyền nhưng khi bà
V thực hiện việc trả nợ thay này cũng báo cho ông H, bà Đ biết và hai người cũng
không phản đối.

5
Vậy nên, việc Tòa án xác định rằng việc bà V trả nợ thay cho vợ chồng ông H
là bà V thực hiện công việc không có ủy quyền là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với
quy định của Pháp luật.

Câu 1.6: Việc Tòa án tính lãi đối với nghĩa vụ trả tiền như trong Bản án có
thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án tính lãi đối với nghĩa vụ trả tiền là phù hợp. Theo đó thời gian tính
lãi được Tòa xác định “...từ ngày nguyên đơn yêu cầu (ngày 28/01/2020 đến ngày xét
xử sơ thẩm (ngày 13/05/2021) tính tròn là 15,5 tháng. Bị đơn H phải có nghĩa vụ trả
lãi cho nguyên đơn số tiền 3.873.450 đồng (số tiền 30.000.000₫ x 10%/12 tháng x
15,5 tháng). Bị đơn Đ phải có nghĩa vụ trả lãi cho nguyên đơn số tiền 7.694.000 đồng
(số tiền 59.590.800 đồng x 10%/12 tháng x 15,5 tháng)”. Việc xác định lãi của Tòa
vừa bảo vệ quyền lợi cho bà V theo khoản 1 Điều 576 BLDS 2015 vì bà đã tự nguyện
thanh toán khoản nợ thay cho ông H, bà Đ nên bà phải được thanh toán các khoản chi
phí hợp lý chính là khoản lãi phát sinh từ khoản nợ 124.590.800 đồng. Đồng thời việc
xác định này của Tòa vừa bảo vệ quyền lợi cho ông H, bà Đ. Vì theo yêu cầu trả lãi
của bà V thì sẽ gây bất lợi cho phía bị đơn do bà V tự định ra mức lãi.

VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)

Câu 2.1: Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán
như thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Căn cứ theo điểm a, b Mục 1 Chương I của Thông tư 01/ TTLT năm 1997 thì
giá trị khoản tiền phải thanh toán được cho phép tính lại như sau:

“a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày
1-7-1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến
thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các
khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt
là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng
gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ
về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.”

“b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày
1-7-1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến
thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các

6
khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt
là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng
gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ
về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.”

Giá trị khoản tiền phải thanh toán được tính lại qua trung gian là gạo.

Câu 2.2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Xét theo điểm a Mục 1 Chương I Thông tư 01/TTLT năm 1997 thì ông Quới
sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là 5.475.000đ

Giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg. Tại thời điểm bà Cô trả tiền thế
chân tương ứng số lượng gạo là 50.000đ/137đ = 365 kg.

Giá gạo trung bình hiện nay là 15.000đ/kg cho nên số tiền ông Quới cần trả
cho cho bà Cô là 15.000đ x 365 kg = 5.475.000đ.

Câu 2.3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng
chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT
không? Vì sao?
Thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT bởi vì Thông tư chỉ
điều chỉnh việc thanh toán tiền trong các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền
công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay
không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính.

Câu 2.4: Đối với tình huống trong quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị
nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì,
theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh
toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh
toán cho cụ Bảng số tiền còn nợ có giá trị tương ứng bằng 1/5 tổng giá trị nhà, đất
theo định giá tài sản của Tòa án cấp sơ thẩm sao cho đúng với hướng dẫn tại điểm
b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

7
Nếu giá trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ, số tiền còn nợ tương ứng
1/5 giá trị nhà đất thì bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng số tiền còn nợ là 1/5 ×
1.697.760.000đ = 339.552.000đ

Câu 2.5: Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Với hướng như trên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. Đó là
Quyết định Giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ án tranh chấp
nhà đất và đòi nợ”.

*Tóm tắt Quyết định Giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ
án tranh chấp nhà đất và đòi nợ”

Năm 1994, bà Phạm Thị Lai (nguyên đơn) cho ông Phạm Thanh Xuân (bị đơn)
Xuân vay 11.500.000đ (giấy ghi nợ không ghi rõ ngày tháng năm nhưng hai bên đều
thống nhất thời gian cho vay là năm 1994). Ngày 12/02/1996, bà Lai cho ông Xuân
vay tiếp 128.954.000đ. Ngày 8/8/1996, hai bên thống nhất số tiền nợ (lẫn lãi) là
188.600.000đ, đồng thời thỏa thuận chuyển nhượng căn nhà số 19 Chu Văn An cho
bà Lai với giá 188.600.000đ. Do vợ chồng ông Xuân không thanh toán nợ và không
giao nhà mà vẫn quản lý ngôi nhà nên bà Lai vẫn tính lãi của số tiền 188.600.000đ.
Ngày 05/8/1997, vợ chồng ông Xuân và vợ chồng bà Lai tiếp tục chốt nợ gốc và lãi
từ 188.600.000đ lên 250.000.000đ sau đó hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất với giá 250.000.000đ. Sau khi lập hợp đồng, bà Lai vẫn tính lãi số tiền
250.000.000đ trong thời gian 02 tháng thành 6.000.000đ để cộng dồn vào số tiền
44.000.000đ bà Lai đã cho ông Xuân vay vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ. Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định vụ tranh chấp phải giải quyết cả
hai quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà đất. Trường hợp xác định được việc mua
bán, chuyển nhượng nhà đất là hợp pháp và bên mua chưa trả đủ tiền thanh toán thì
phần còn thiếu sẽ được tính thông qua giá trị của tài sản chuyển nhượng tại thị trường
địa phương tại thời điểm xét xử. Đây chính là nội dung của tiền lệ cho hướng giải
quyết của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.

8
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN

Câu 3.1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
* Giống nhau

Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/ bên có quyền nếu chuyển giao quyền/
chuyển giao nghĩa vụ.

Không được chuyển giao trong trường hai bên đã thỏa thuận không chuyển
giao hoặc pháp luật có quy định về việc không được chuyển giao, như nghĩa vụ gắn
liền với nhân thân, quyền yêu cầu cấp dưỡng, bồi dưỡng do xâm phạm tới tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân thân, uy tín.

Hậu quả pháp lí là làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao quyền
và nghĩa vụ, làm phát sinh tư cách chủ thể, quyền và nghĩa vụ dân sự ở người được
chuyển giao.

Sau khi chuyển giao quyền và nghĩa vụ, bên có quyền ban đầu chấm dứt toàn
bộ quan hệ nghĩa vụ với bên có nghĩa vụ và ngược lại.

Xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên.

Chỉ áp dụng đối với các nghĩa vụ quan hệ đang còn hiệu lực.

Hình thức thực hiện: bằng văn bản hoặc bằng lời nói trừ trường hợp pháp luật
có quy định việc chuyển giao phải được lập thành văn bản, phải có công chứng hoặc
chứng thực, phải đăng ký, xin phép thì mới tuân thực hiện theo quy định đó. (Điều
310, Điều 316 BLDS 2015)

*Khác nhau

Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa
thuận
Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần Việc chuyển giao nghĩa vụ bắt buộc
có sự đồng ý của của người có nghĩa vụ phải có sự đồng ý của bên có quyền
Sau khi chuyển giao quyền yêu cầu, biện Sau khi chuyển giao nghĩa vụ thì biện
pháp bảo đảm vẫn duy trì pháp bảo đảm chấm dứt, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác.

9
Người chuyển giao không phải chịu trách Trách nhiệm của người có nghĩa vụ
nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của ban đầu về việc thực hiện nghĩa vụ
bên có nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ không được
quy định rõ
*Tóm tắt: Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã
Châu Đốc, tỉnh An Giang.

Từ đầu năm 2003, bà Tú cho bà Phượng vay tổng số tiền 555.000.000 đồng có
làm biên nhận, lãi suất 1.8%/tháng. Ngày 27/4/2004, bà Tú tiếp tục vay ngân hàng và
cho bà Phượng vay lại với số tiền là 615.000.000 đồng, có làm biên nhận. Đến tháng
4/2005 bà Phượng không có tiền trả nên nhờ bà Tú vay nóng bên ngoài để trả ngân
hàng khi đến hạn. Bà Phượng đồng ý trả khoản tiền lãi 2.5% trên vốn vay 615.000.000
đồng, đồng thời bà Phượng xin giảm lãi xuống còn 1.3% sau đó đến tháng 5/2005 bà
Phượng ngưng trả lãi. Bà Phượng đã cho 2 người chị của mình vay lại gồm: Phùng
Thị Bích Ngọc vay 465.000.000 đồng và Phùng Thị Bích Loan cùng chồng là Trần
Phú Thạnh vay 150.000.000 đồng. Bà Tú đã lập hợp đồng vay với bà Ngọc, vợ chồng
bà Loan ông Thạnh. Sau đó, bà Ngọc, vợ chồng bà Loan ông Thạnh không trả vốn và
lãi cho bà Tú, Bà Tú đã kiện để lấy lại số tiền đã cho vay và tiền lãi.

Câu 3.2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán
cho bà Tú?
Thông tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú
là:

“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là
người trực tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và
theo biên nhận ngày 27/4/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số
tiền 615.000.000đ. Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc
thỏa thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào
tháng 4 năm 2004, do phía bà Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà
Tú để trả vốn vay ngân hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền
trả cho ngân hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà
Tú.”

10
Câu 3.3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là: “Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc
bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà
Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời
điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ
trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký.”

Câu 3.4: Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Toà án?
Đánh giá của Toà án về nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là có căn cứ vì theo quy định tại khoản 1 Điều
370 BLDS 2015 quy định về việc chuyển giao nghĩa vụ thì “bên có nghĩa vụ có thể
chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý”.

Vào ngày 12/05/2005, bà Ngọc ký hợp đồng vay với bà Tú trên vốn vay là
465.000.000đ và tiền lãi theo thoả thuận 1,3%/tháng, thế chấp tài sản là diện tích đất
toạ lạc tổ 34, khóm Châu Long 6, phường Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc. Tương tự, Bà
Tú cũng đã lập hợp đồng vay với vợ chồng bà Loan, ông Thạnh trên vốn vay
150.000.000đ. Khi xác lập hợp đồng giữa các bên, ta thấy rằng bà Tú đã đồng ý việc
bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Hạnh.

Câu 3.5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm
đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Điều 370 BLDS 2015.

Nhìn từ góc độ văn bản, BLDS 2015 không quy định rõ liệu người có nghĩa
vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao hay không, mà chỉ quy định là “khi được chuyển
giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”. Trong trường hợp
này, có thể hiểu theo cả 2 nghĩa sau:

11
Người có nghĩa vụ ban đầu vẫn còn trách nhiệm đối với người có quyền: Khi
người thế nghĩa vụ không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thì người có nghĩa vụ ban
đầu vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm đối với người có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ
của người thế quyền.

Người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền:
sau khi được người có quyền chấp thuận thì trách nhiệm của người có nghĩa vụ ban
đầu với người có quyền sẽ chấm dứt, đồng thời người thế nghĩa vụ phải chịu trách
nhiệm độc lập trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền. Mặc dù BLDS
hiện hành chưa có quy định rõ về đề này, tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, Toà án
đã bảo vệ quyền lợi cho người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi các bên có thoả thuận
khác thông qua việc quy định chuyển giao nghĩa vụ cần có sự đồng ý của người có
quyền.

Câu 3.6: Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu
có còn trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà
anh/chị biết.
Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa
vụ được chuyển giao, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn
có trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa
chuyển giao nghĩa vụ với “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do
vậy, để chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ
dân sự thông qua người thứ ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng
người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có bên có thoả thuận khác.” Tác giả đưa ra những
ví dụ cụ thể như hướng giải quyết của Trọng tài trong vụ việc Công ty Việt Nam và
công ty Hồng Kông hay quyết định của Toà án cấp sơ thẩm trong Bản án số
913/2006/DS-PT ngày 06-09-2006 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, tác giả một lần nữa khẳng định, “khi có chuyển giao nghĩa vụ theo thoả
thuận thì người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm với người có quyền đối
với nghĩa vụ hay phần nghĩa vụ được chuyển giao” thông qua hướng giải quyết của

12
Toà giám đốc thẩm trong Quyết định số 361/2009/DS-GĐT ngày 13-8-2009 của Toà
dân sự Toà án nhân dân tối cao.

Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài: “Trên cơ sở thỏa thuận, với sự đồng ý của
bên có quyền, người thứ 3 thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành người có
nghĩa vụ mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ
mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu
lực, người có quyền chỉ được phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ
nên người đã chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ.” Khi đặt hai chế định chuyển giao nghĩa vụ và thực
hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba lên bàn cân so sánh, tác giả nhận định
“đối với việc uỷ quyền, người được uỷ quyền không thể trở thành một bên chủ thể
độc lập trong quan hệ nghĩa vụ chính mà người này chỉ được thực hiện nghĩa vụ theo
sự uỷ quyền của người uỷ quyền, nhân danh người uỷ quyền và vì lợi ích của người
uỷ quyền.”

Câu 3.7: Đoạn nào của bản án cho thấy Toà án theo hướng người có nghĩa vụ
ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn của bản án cho thấy Toà án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền: “Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp
đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đối
với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh
đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách
nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận”; “Việc bà Tú giữ giấy
chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía bà Phượng không có
nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà Phượng giấy chứng minh Hải
quan.”

Câu 3.8: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Toà án.
Hướng giải quyết trên của Toà án là hợp lý.

Toà công nhận sự chuyển giao nghĩa vụ từ bà Phượng (bên có nghĩa vụ) sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh (bên thế nghĩa vụ). Căn cứ theo Điều 370 BLDS
2015 Tòa chứng minh thông qua việc khẳng định việc chuyển giao nghĩa vụ trên là
hoàn toàn có sự chấp thuận của bà Tú (bên có quyền). Cụ thể: “Phía bà Tú đã chấp
nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông

13
Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ
và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005.”.
Như vậy, khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa
vụ.

Tòa khẳng định bà Phượng không còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ đã được
chuyển giao. Cụ thể: “Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà
Ngọc, và Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng đối với bà Tú đã
chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú
theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh
toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận” “Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải
quan của bà Phượng theo và thỏa thuận. Phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ
cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà Phượng giấy chứng minh Hải quan”. Điều này
không chỉ có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi cho bà Phượng, mà còn thể hiện cách giải
quyết hợp lý của Toà án khi phân định “chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập
với chế định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba” trong tình thế pháp luật nước
nhà chưa quy định rõ ràng về vấn đề này

Câu 3.9: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện
pháp bảo lãnh của người thứ ba thì nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý.
Cơ sở pháp lý: Điều 335, điểm a khoản 1 Điều 343, Điều 371 BLDS 2015.

Trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của
người thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh sẽ chấm dứt. Vì
“bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền
(sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh)”. Khi chuyển giao nghĩa vụ, người phải chịu trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ thay đổi, thì nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh (người có
nghĩa vụ ban đầu) chấm dứt. Bên cạnh đó, xét điểm a khoản 1 Điều 343, bảo lãnh
chấm dứt khi “nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt”, mà bảo lãnh chính là một trong
những biện pháp bảo đảm nên “nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được chuyển
giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt”. Tuy nhiên, ngành luật dân sự với phương
pháp điều chỉnh đặc thù là tôn trọng quyền tự định đoạt, tự do ý chí của các bên chủ
thể, nên nếu các bên có thoả thuận khác thì phải thực hiện theo thoả thuận đó.

14
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2015

2. Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 1

15

You might also like