You are on page 1of 24

VẤN ĐỀ 1.

THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN


Nghiên cứu:
- Khoản 3 Điều 275, Điều 574 đến Điều 578 BLDS 2015 (khoản 3 Điều 281, Điều 594
đến Điều 598 BLDS 2005) và các quy định liên quan (nếu có);
- Tình huống: Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một công
trình công cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không nêu rõ trong
hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền của A trong khi đó, theo quy định, B
không được tự ký hợp đồng với C vì đây là công việc của chủ đầu tư A (thực tế Ban quản
lý dự án B không có nhiều tài sản để thanh toán cho C).
Và cho biết:
Câu 1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Trả lời:
Căn cứ theo Điều 574 BLDS 2015 thì: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là
việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện
công việc đó, vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết
hoặc biết mà không phản đối.”
Như vậy, ta có thể hiểu, theo quy định của pháp luật thì thực hiện công việc không
có ủy quyền là việc một người tự ý thực hiện công việc của người khác, vì lợi ích của
người khác mà không dựa trên cơ sở hợp đồng thực hiện công việc đó. Người được thực
hiện công việc không biết hoặc biết nhưng không phản đối.
Ví dụ: Ông C và ông D là hàng xóm của nhau. Một hôm, sau khi ông C phơi đồ
ngoài sân thì phải đi ra ngoài do có việc gấp cần phải giải quyết, không có nhà. Nhưng
hôm đó đột nhiên trời mưa, ông D thấy vậy, chạy qua sân nhà ông C đem đồ của ông C
vào nhà để tránh đồ của ông C bị ướt.
Câu 2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ là phát sinh
nghĩa vụ dân sự?
Trả lời:
Căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là những sự kiện xảy ra trong thực tế,
được pháp luật dân sự dự liệu, thừa nhận là có giá trị pháp lý, làm phát sinh quan hệ
nghĩa vụ dân sự.
Việc quy định chế định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện công
việc và người có công việc được thực hiện; nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo
quyền lợi của người thực hiện công việc cũng như đối với người có công việc được thực
hiện.
Do đó, thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh Nghĩa vụ
dân sự. Và trong thực tế cũng có các trường hợp thực hiện công việc không có ủy quyền,
BLDS 2005 đã dự liệu điều này tại:
- Chương XIX: Thực hiện công việc không có ủy quyền;
- Khoản 7 Điều 13: Căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự là thực
hiện không có ủy quyền;
- Khoản 3 Điều 281: Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là thực hiện công
việc không có ủy quyền.
BLDS 2015 quy định điều này tại:
- Chương XVIII: “Thực hiện công việc không có ủy quyền”;
- Khoản 3 Điều 275: “Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là Thực hiện
không có ủy quyền”.
Ví dụ: Bà A và bà B là hàng xóm. Một hôm, bà C đến mua rau nhà bà A nhưng bà
A do có công việc đột xuất nên không có mặt ở nhà. Do đó, bà B đã thay mặt bà A bán
cho bà C bó rau:
Trường hợp 1: Việc bà B thực hiện công việc không có ủy quyền cho bà A (bán
rau) không gây phương hại và làm phát sinh lợi ích cho bà A. Bởi thế, việc bà A có nghĩa
vụ trả công cho bà B bằng tài sản hay bất cứ hình thức nào khác đều phù hợp với quy
định của pháp luật. Chiếu theo Khoản 1 Điều 576 BLDS 2015.
Trường hợp 2: Bà B bán bó rau cho bà C với giá thấp hơn bà A dự tính. Do đó,
gây thiệt hại cho bà A. Vì vậy, bà B phải bồi thường cho bà A theo Điều 577 BLDS
2015.
Câu 3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực
hiện công việc không có ủy quyền”.
Trả lời:

MỤC ĐÍCH CỦA NGƯỜI THỰC HIỆN CÔNG VIỆC

BLDS 2005 BLDS 2015

Điều 594 BLDS 2005: Điều 574 BLDS 2015:


“Thực hiện công việc không có uỷ “Thực hiện công việc không có ủy
quyền là việc một người không có nghĩa quyền là việc một người không có nghĩa
vụ thực hiện công việc nhưng đã tự vụ thực hiện công việc nhưng đã tự
nguyện thực hiện công việc đó, hoàn nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích
toàn vì lợi ích của người có công việc của người có công việc được thực hiện
được thực hiện khi người này không biết khi người này không biết hoặc biết mà
hoặc biết mà không phản đối.” không phản đối.”
Nhận xét:
Điều 574 BLDS 2015 đã kế thừa gần như toàn bộ quy định tại Điều 594
BLDS 2005 chỉ có khác biệt là quy định tại Điều 574 BLDS 2015 bỏ đi từ “hoàn
toàn” để mở rộng phạm vi điều chỉnh của Điều 574 BLDS 2015.
BLDS 2005 quy định thực hiện công việc không có uỷ quyền là “hoàn toàn
vì lợi ích của người có công việc được thực hiện” – “hoàn toàn” có nghĩa nhấn
mạnh là vì lợi ích của một người. Cho nên việc thực hiện công việc đó phải hoàn
toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện, không có mục đích khác.
Trong khi đó, BLDS 2015 lại quy định: “Thực hiện công việc đó vì lợi ích
của người có công việc được thực hiện”, “vì lợi ích” của người có công việc được
thực hiện không còn là “hoàn toàn” như được quy định trong BLDS 2005, nên có
thể hiểu vì lợi ích của người có công việc được thực hiện nhưng cũng có thể vì mục
đích khác. Tuy nhiên việc thực hiện công việc này không được làm trái với lợi ích
của người có công việc được thực hiện và các chủ thể khác.

CHỦ THỂ

BLDS 2005 BLDS 2015


Khoản 3 Điều 595 BLDS 2005:
“Người thực hiện công việc không có ủy Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015:
quyền phải báo cho người có công việc “Người thực hiện công việc không có ủy
được thực hiện về quá trình, kết quả quyền phải báo cho người có công việc
thực hiện công việc nếu có yêu cầu, trừ được thực hiện về quá trình, kết quả
trường hợp người có công việc đã biết thực hiện công việc nếu có yêu cầu, trừ
hoặc người thực hiện công việc không trường hợp người có công việc đã biết
có ủy quyền không biết nơi cư trú của hoặc người thực hiện công việc không
người đó” có ủy quyền không biết nơi cư trú hoặc
Khoản 4 Điều 595 BLDS 2005: trụ sở của người đó.”
“Trong trường hợp người có công việc Khoản 4 Điều 575 BLDS 2015:
được thực hiện chết thì người thực hiện “Trường hợp người có công việc được
công việc không có ủy quyền phải tiếp thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc
tục thực hiện công việc cho đến khi chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân thì
người thực hiện công việc không có ủy
quyền phải tiếp tục thực hiện công việc
người thừa kế hoặc người đại diện của cho đến khi người thừa kế hoặc người
người có công việc được thực hiện đã đại diện của người có công việc được
tiếp nhận” thực hiện đã tiếp nhận”

Nhận xét:
BLDS 2005 không quy định rõ người có công việc là cá nhân hay pháp nhân
nhưng với việc các nhà lập pháp sử dụng từ “chết” ở Khoản 4 Điều 595 BLDS
2005, chúng ta có thể ngầm hiểu rằng chủ thể được nhắc đến trong chế định này chỉ
là cá nhân. Trong khi đó, BLDS 2015 đã cụ thể hóa chủ thể, bao gồm cả cá nhân và
pháp nhân, được bổ sung ở Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015 với cụm từ “nếu là cá
nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân”.
Sự bổ sung này là hợp lý vì người có công việc có thể là cá nhân hoặc pháp
nhân. Hơn nữa, đối với pháp nhân, khái niệm “chết” không tồn tại mà thay vào đó
là “chấm dứt tồn tại”. Điều này làm rõ hơn nghĩa vụ thực hiện công việc không
được ủy quyền, đảm bảo được quyền của của chủ thể có công việc được thực hiện
hơn so với BLDS 2005 cũng như mở rộng phạm vi chủ thể. Đây là một sự thay đổi
phù hợp với thực tiễn giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra, với một pháp nhân thì sẽ không tồn tại khái niệm “nơi cư trú” như
ở Khoản 3 Điều 595 BLDS 2005 mà là khái niệm “trụ sở”, tức nơi đặt cơ quan
điều hành của pháp nhân đó, nên Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015 phải bổ sung
thêm cụm từ “trụ sở” để phù hợp với thực tế này.

ĐIỂM MỚI BỔ SUNG

BLDS 2005 BLDS 2015

Điều 686 BLDS 2015


“Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp
luật áp dụng cho việc thực hiện công
Không quy định về điều này việc không có ủy quyền. Trường hợp
không có thỏa thuận thì pháp luật áp
dụng là pháp luật của nước nơi thực hiện
công việc không có ủy quyền”

Nhận xét:
Phần 7 BLDS 2005 trước đây không quy định xung đột pháp luật (có nghĩa là
ấn định luật pháp nước nào cần áp dụng để giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài mỗi khi có sự kiện pháp lý phát sinh cụ thể) đối với quan hệ nghĩa vụ
phát sinh từ việc thực hiện công việc không có ủy quyền có yếu tố nước ngoài.
BLDS 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng nguyên tắc thoả thuận chọn luật đối với
quan hệ thực hiện công việc không có uỷ quyền. Việc mở rộng phạm vi áp dụng
của nguyên tắc thoả thuận chọn luật áp dụng là phù hợp với xu thế phát triển của tư
pháp quốc tế Việt Nam trong giai đoạn sắp tới, bởi lẽ nguyên tắc này đã được ghi
nhận rất rộng rãi trong pháp luật ở nhiều nước, đặc biệt là những nước đã ban hành
đạo luật riêng về tư pháp quốc tế.

Câu 4. Các điều kiện để áp dụng chế định “Thực hiện công việc không có ủy
quyền” theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Trả lời:
Cơ sở pháp lý: Điều 574 BLDS 2015: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là
việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện
công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết
hoặc biết mà không phản đối.”
Căn cứ Điều 574 BLDS 2015 cần phải thỏa mãn các điều kiện sau mới được áp
dụng quy định pháp luật về thực hiện công việc không có ủy quyền:
(1) Người thực hiện là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó.
Nghĩa vụ là gì?
Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ pháp lý do luật định hoặc do các bên thỏa thuận với
nhau.
Trong thực tế có những trường hợp một người hoàn toàn tự nguyện làm thay công
việc cho người khác trên tinh thần tương thân, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, giữa họ không
có mối quan hệ pháp lý nào về công việc thực hiện. Công việc được thực hiện trong quan
hệ này không phải là một nghĩa vụ pháp lý có tính chất bắt buộc. Tức họ có thực hiện hay
không thực hiện công việc đó thì cũng không phải gánh chịu bất kỳ chế tài nào. Trước
thời điểm thực hiện công việc, giữa hai bên không có bất kỳ ràng buộc pháp lý hay thỏa
thuận nào. Trong BLDS 2015 hiện tại không quy định rõ về năng lực hành vi của người
thực hiện công việc nhưng trên thực tế người đó phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
phù hợp để thực hiện công việc không được ủy quyền mà không gây bất lợi có người có
công việc được thực hiện hoặc chủ sở hữu. Khi đã thực hiện thì người thực hiện phải có
thiện chí và phải tuân thủ quy định về Nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền.
Ví dụ: Đang vụ mùa thu hoạch, thóc lúa phơi trên sân nhà anh A chưa kịp dọn vào
nhà, trời lại sắp mưa, và anh A hiện không có ở nhà. Trong hoàn cảnh đó, anh B là hàng
xóm của A đã sang nhà thu dọn thóc giúp anh A.
Trong ví dụ này, A hoàn toàn không hề biết rằng B đã thu dọn thóc lúa cho A. A
cũng không hề nhờ vả, hay thuê mướn B làm công việc trên, mà B đã tự nguyện thực
hiện công việc để bảo vệ vật chất của A không bị mất mát.
(2) Người thực hiện công việc hoàn toàn tự nguyện khi thực hiện công việc.
Điều kiện này có thể được hiểu rằng, việc thực hiện công việc đó không phải là
nghĩa vụ bắt buộc của người thực hiện công việc. Người thực hiện công việc đã tự
nguyện thực hiện công việc dù pháp luật không quy định và chủ công việc không yêu
cầu. Nói cách khác, việc thực hiện công việc đối với người thực hiện công việc không có
ủy quyền hoàn toàn không phải là nghĩa vụ do các bên thỏa thuận cũng như do pháp luật
quy định.
Ví dụ: A mượn tiền B, đến hạn A phải trả đủ tiền cho B. Tuy nhiên, A không có đủ
khả năng chi trả số nợ mà A đã nợ B; B cũng đã nhiều lần đến nhà đòi và yêu cầu A phải
nhanh chóng trả tiền, nếu không sẽ kiện ra tòa. C là bạn của A đã đứng ra thay A trả số
nợ đó cho B, vì nếu không A sẽ chịu sự trừng trị của pháp luật, đồng thời ảnh hưởng đến
danh dự. Vậy, mặc dù C không có nghĩa vụ phải trả nợ thay A nhưng vì lợi ích của A, C
đã tự nguyện thực hiện công việc đó.
(3) Việc thực hiện công việc phải vì lợi ích của người có công việc.
Trước khi tiến hành công việc, người thực hiện công việc phải ý thức được nếu
công việc đó không có ai thực hiện có thể gây thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc người có
công việc. Chủ sở hữu hoặc người có công việc sẽ mất đi một số lợi ích vật chất nhất
định. Người thực hiện công việc phải xuất phát từ lợi ích của người có công việc để thực
hiện những hành vi phù hợp. Tuy nhiên, khi thực hiện công việc mà biết trước hoặc đoán
được ý định của người có công việc thì phải thực hiện đúng ý định đó.
BLDS 2015 đã bỏ cụm từ “hoàn toàn” khi quy định về thực hiện công việc không
có ủy quyền: “Thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện”.
Nên có thể hiểu bên cạnh vì lợi ích của người có công việc, người thực hiện công việc
cũng có thể vì mục đích khác.
Ví dụ: Trong kì nghỉ hè, ông Hiếu đã tranh thủ thời gian đến thăm nhà con cháu và
ở lại 1 tháng. Trong thời gian ông Hiếu vắng nhà thì có bão về, chính quyền địa phương
đã ban hành thông báo mọi người nhanh chóng thực hiện các biện pháp phòng chống bão.
Ông Nguyên là hàng xóm nhà ông Hiếu để ý cây nhãn nhà ông Hiếu tán rộng chum qua
đường dây điện của cả xóm. Ông Nguyên sợ bão to nếu cành nhãn gãy có thể làm đứt dây
điện gây nguy hiểm nên ông Nguyên đành phải chặt hộ cành nhãn ở nhà ông Hiếu để
tránh nguy cơ cành nhãn gãy làm đứt dây điện. Nếu ông Nguyên không chặt cành nhãn
nhà ông Hiếu, khi cành nhãn làm đứt dây điện không chỉ gây nguy hiểm cho nhà ông
Hiếu mà còn cho nhà ông Nguyên và các nhà hàng xóm xung quanh.
(4) Người có công việc không biết hoặc biết mà không phản đối về việc thực hiện
công việc
Bản chất của việc thực hiện công việc không có ủy quyền là sự giúp đỡ người khác
vượt qua những khó khăn, tránh những thiệt hại không đáng có. Trong đó, người có công
việc có thể rơi vào hai trường hợp:
- Không có mặt tại nơi thực hiện công việc nên không thể thực hiện công việc đó.
- Có mặt và biết việc người khác thực hiện công việc có lợi cho họ – mà ngay tại
thời điểm đó họ không thể tự thực hiện công việc, thì phần lớn có thể sẽ không phản đối.
Tuy nhiên, trong trường hợp người có công việc phản đối, thì người thực hiện công
việc không được tiếp tục thực hiện nữa. Nếu cố tình thực hiện sẽ bị coi là vi phạm và phải
chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật tại Khoản 1 Điều 577 BLDS 2015.
(5) Việc thực hiện công việc phải thực sự cần thiết.
Thông thường, công việc được thực hiện mà không có ủy quyền là những công việc
có tính chất khẩn cấp và cần thiết cho việc bảo toàn các quyền lợi của người có công việc
được thực hiện.
“Sự cần thiết” thể hiện ở chỗ: Trước khi tiến hành công việc, người thực hiện công
việc phải ý thức được nếu công việc đó không có ai thực hiện có thể gây thiệt hại cho chủ
sở hữu hoặc người có công việc. Chủ sở hữu hoặc người có công việc sẽ mất đi một số
lợi ích vật chất nhất định. Người thực hiện công việc coi đó là bổn phận của mình và phải
xuất phát từ lợi ích của người có công việc để thực hiện những hành vi phù hợp.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp chủ thể thực hiện công việc mà người có công
việc không biết và làm phát sinh các chi phí mà người có công việc phải thanh toán,
nhưng chính bản thân người có công việc không đồng ý vì họ không có mong muốn để
chủ thể khác thực hiện công việc thay mình. Do đó, chủ thể chỉ được thực hiện công việc
không có ủy quyền khi cảm thấy việc thực hiện đó thực sự cần thiết.
Kết luận: Nếu thỏa mãn được năm điều kiện trên đây sẽ được áp dụng chế định
thực hiện công việc không có ủy quyền. Nếu vi phạm một trong năm điều kiện trên thì
không được áp dụng chế định này.
Câu 5. Quy định về “thực hiện công việc không có ủy quyền” của một hệ thống
pháp luật nước ngoài.
Trả lời:

Theo chương thứ hai “xác lập nghĩa vụ” mục 1.3.2 trang 61, 62 “Giáo trình Luật La
Mã” của TS. Nguyễn Ngọc Điện 1 đã trình bày như sau:
Thực hiện công việc không có ủy quyền
Khái niệm:
Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người can thiệp vào công việc
của người khác vì lợi ích của họ trong điều kiện giữa hai người không có hợp đồng ủy
quyền.
Điều kiện:
Quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền được xác lập khi có một công việc
được thực hiện (chứ không chỉ đơn giản là có một ý định thực hiện công việc hình thành
trong đầu một người). Người có lợi ích trong việc người khác thực hiện công việc đó có
thể biết hoặc không biết sự việc; nhưng quan trọng là người này không phản đối việc
người khác thực hiện công việc cho mình. Người thực hiện công việc, về phần mình, phải

1
Nguồn: https://amilawfirm.com/wp-content/uploads/2020/03/Lu%E1%BA%ADt-La-M%C3%A3-C
%E1%BA%A7n-Th%C6%A1-2009.pdf
thực hiện công việc với ý thức làm phát sinh một nghĩa vụ của người có lợi ích trong việc
thực hiện công việc đó, nghĩa vụ đối với mình. Nếu người thực hiện công việc hoàn toàn
vì lòng hảo tâm, thì không có quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền.
Hiệu lực:
Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải thực hiện công việc như là công
việc của mình; phải báo cáo cho người có công việc được thực hiện về kết quả công việc
và phải giao lại cho người sau này tất cả những gì thu được từ công việc. Khác với người
được ủy quyền, người thực hiện công việc vẫn có thể tiếp tục thực hiện công việc sau khi
người có công việc được thực hiện chết.
Người có công việc được thực hiện phải hoàn trả cho người thực hiện công việc các
chi phí, mà người này đã bỏ ra để thực hiện công việc và phải đảm nhận tất cả những
nghĩa vụ, mà người thực hiện công việc đã xác lập trong quá trình thực hiện công việc
phù hợp với lợi ích của mình.

GIẢI THÍCH THÊM NẾU CẦN

Luật La Mã là hệ thống luật cổ, được xây dựng cách đây khoảng hơn 2000 năm (năm 449
trước Công Nguyên), đánh dấu sự ra đời và phát triển của Nhà nước La Mã cổ đại. Đây là hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh nhất của nhà nước chiếm hữu nô lệ. Do vậy, Luật La Mã, đặc biệt là các chế
định pháp luật về dân sự của Luật La Mã đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của pháp luật và
các học thuyết pháp lý của các nước châu Âu lục địa.

Gắn liền với việc hình thành và phát triển Nhà nước là sự ra đời của Luật La Mã. Ở La Mã,
Luật dân sự (jus civile) là luật áp dụng đối với các công dân La Mã, phân biệt với Luật chung (jus
gentium) áp dụng cho tất cả những ai không có tư cách công dân La Mã. Cả Luật dân sự và Luật
chung đều tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh trong quan hệ giữa người và người. Luật
dân sự và Luật chung được bổ sung bởi các quy tắc được các thẩm phán rút ra từ hoạt động xét xử
và các quy tắc này tạo thành một hệ thống gọi là Luật thực hành (jus praetorium). Đến thời Justinian
(Hoàng đế Đông La Mã) khi mà những người không phải là công dân La Mã hoàn toàn bình đẳng với
công dân La Mã về phương diện dân sự, thì jus civile và jus gentium được hợp nhất thành một hệ
thống duy nhất gọi là Luật dân sự La Mã.

Luật dân sự có nguồn từ luật 12 Bảng, luật cổ xưa nhất của La Mã, được ban hành vào khoảng năm
451 đến 449 trước công nguyên. Đó là Bộ luật do các pháp quan xây dựng và được khắc trên 12 bảng
bằng đồng, là văn bản luật đầu tiên của Nhà nước La Mã. Luật 12 Bảng tập hợp một cách hệ thống
So sánh với quy định “Thực hiện công việc không có ủy quyền” theo Điều 574,
575 BLDS 2015 đang hiện hành ở Việt Nam hiện nay. Ta có thể thấy như sau:
- Dù có khác nhau về điều kiện và hoàn cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội nhưng cả hai
chế định đều có một số điểm tương đồng như: điều kiện phát sinh, nghĩa vụ thực hiện,
hậu quả pháp lý…
- Có thể nói Luật La Mã ảnh hưởng sâu sắc đến pháp luật Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, những nhà làm luật của chúng ta không tiếp nhận hoàn toàn một cách thụ động,
rập khuôn máy móc mà là tiếp thu có chọn lọc. Bên cạnh đó, luôn tích cực bổ sung, đổi
mới một cách cụ thể và rõ ràng hơn để phù hợp với tình hình thực tiễn của xã hội Việt
Nam. Bằng chứng là BLDS 2015 đã của ta đã có sự mở rộng phạm vi chủ thể bao gồm cả
cá nhân và pháp nhân, so với Luật La Mã và cả BLDS 2005 trước đó.
 Xuất phát nguồn gốc của các nhà làm luật xưa các luật gia Việt Nam sẽ điều chỉnh
và phát triển hơn cho phù hợp với tình hình của Quốc gia. Hơn hết, thông qua việc tìm
hiểu hệ thống pháp luật La Mã, một điều mà ta có thể luôn khẳng định là sự tiến bộ của
các luật gia trong hành trình lập pháp lúc bấy giờ.
Các quy định về việc “thực hiện công việc không có ủy quyền” thường được biết tới
trong các hệ thống pháp luật nước ngoài bằng cụm từ “Negotiorum gestio”, hay ở bộ luật
Dân sự Nhật Bản (1986)1, các điều luật mang tính chất “thực hiện công việc không có
ủy quyền” được quy định tại phần III, chương III, từ Điều 697 tới Điều 702 với cái tên
“事務管”, nghĩa là “Quản lý công việc kinh doanh”.
Chapter 3 Negotiorum Gestio (Management of Business))
Chương III. Quản lý công việc kinh doanh
(事務管理)
(Negotiorum Gestio (Management of Business))
第六百九十七条 義務なく他人のために事務の管理を始めた者(以下この章にお
いて「管理 者」という。)は、その事務の性質に従い、最も本人の利益に適合
する方法によって、その事 務の管理(以下「事務管理」という。)をしなけれ
ばならない。
Article 697 
(1) A person who commences the management of a business for another
person without being obligated to do so (hereinafter in this Chapter referred to as
"Manager") must manage that business (hereinafter referred to as "Management of
Business") in accordance with the nature of the business, using the method that be
st conforms to the interests of that another person (the principal)
Điều 697
(1) Một người bắt đầu quản lý công việc kinh doanh cho người khác mà không có
nghĩa vụ thực hiện công việc (sau đây gọi tắt trong chương này là “người quản
lý”) phải quản lý công việc kinh doanh đó một cách phù hợp với bản chất của
công việc, sử dụng các phương pháp mang lại lợi ích tốt nhất cho bên còn lại (sau
đây gọi tắt là “người ủy quyền”).

(管理者の通知義務)
(Obligation of Managers to Give Notice)
第六百九十九条 管理者は、事務管理を始めたことを遅滞なく本人に通知しなけ
ればならな
い。ただし、本人が既にこれを知っているときは、この限りでない。
Article 699
A Manager must notify the principal that the Manager has commenced the
Management of Business; provided, however, that this shall not apply if the
principal already knows of the same.
Điều 699 (Nghĩa vụ thông báo của người thực hiện)
Người thực hiện phải thông báo cho người ủy quyền ngay lập tức việc người thực hiện tự
nguyện tham gia vào công việc kinh doanh của người ủy quyền; Tuy nhiên điều lệ trên sẽ
không được không áp dụng nếu người ủy quyền đã biết về việc thực hiện đó.
Câu 6. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có
thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế
định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì sao? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tình huống:
Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một công trình công cộng.
Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không nêu rõ trong hợp đồng B đại
diện A và cũng không có ủy quyền của A trong khi đó, theo quy định, B không được tự
ký hợp đồng với C vì đây là công việc của chủ đầu tư A (thực tế Ban quản lý dự án B
không có nhiều tài sản để thanh toán cho C).
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 574 BLDS 2015 về thực hiện công việc không có ủy
quyền thì: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ
thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.” cho ta
thấy được các điều kiện để áp dụng chế định thực hiện công việc không có ủy quyền:
1. Người thực hiện là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó.
Việc xây dựng một công trình công cộng là công việc của chủ đầu tư A và nhà thầu C
không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó.
2. Người thực hiện công việc hoàn toàn tự nguyện khi thực hiện công việc.
Người thực hiện công việc là C và hoàn toàn tự nguyện khi thực hiện công việc đó.
3. Việc thực hiện công việc phải vì lợi ích của người có công việc.
Việc thực hiện công việc xây dựng công trình công cộng là mong muốn của bên chủ đầu
tư A và nhà thầu C là người thực hiện công trình.
4. Người có công việc không biết hoặc biết mà không phản đối về việc thực hiện
công việc.
Chủ đầu tư A có thể không biết hoặc đã biết nhưng không phản đối việc xây dựng công
trình này của nhà thầu C.
Trong trường hợp trên, nhà thầu C đã thực hiện công việc không ủy quyền vì thỏa
mãn Điều 574 BLDS 2015. Cùng một tình huống, nhưng có nhiều trường hợp có thể xảy
ra:
+ Trường hợp 1: Chủ đầu tư A đã được biết và không phản đối.
Khi nhà thầu C đã hoàn thành công việc mà chủ đầu tư A vẫn biết về việc kí kết hợp
đồng giữa B và C. Khi đó, C có thể yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ thanh toán dựa trên quy
định tại Điều 576 BLDS 2015 về nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được
thực hiện:
“1. Người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực
hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc và thanh toán các chi phí hợp lý
mà người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả
trường hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình.
2. Người có công việc được thực hiện phải trả cho người thực hiện công việc
không có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi
cho mình, trừ trường hợp người thực hiện công việc không có ủy quyền từ chối.”
+ Trường hợp 2: Chủ đầu tư A đã được biết nhưng phản đối.
Khi nhà thầu C đã hoàn thành công việc mà chủ đầu tư A vẫn không biết về việc kí
kết hợp đồng giữa B và C. Khi đó, C có thể yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Nhưng A từ chối việc thanh toán cho C do B đã tự ý ký hợp đồng với nhà thầu C mà
không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền của A trong khi
đó, theo quy định, B không được tự ký hợp đồng với C vì đây là công việc của chủ đầu tư
A. Và chưa chắc chủ đầu tư A có muốn ký hợp đồng với nhà thầu C hay không. Nên việc
B thực hiện công việc không có ủy quyền, gây thiệt hại cho chủ đầu tư A sẽ được xử dựa
theo Điều 577. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
“1. Khi người thực hiện công việc không có ủy quyền cố ý gây thiệt hại trong khi
thực hiện công việc thì phải bồi thường thiệt hại cho người có công việc được thực hiện.
2. Nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền do vô ý mà gây thiệt hại
trong khi thực hiện công việc thì căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận công việc, người đó có
thể được giảm mức bồi thường.”
VẤN ĐỀ 2. THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)
Nghiên cứu:
- Điều 280 BLDS 2015 (Điều 290 BLDS 2005); Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính
hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản và các quy định liên quan khác (nếu có);
Tình huống: Ngày 15/11/1973, ông Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế chân của
bà Cô 50.000đ. Nay, ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà. Bà Cô đồng ý trả nhà và yêu cầu
ông Quới hoàn trả tiền thế chân (Lưu ý: giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg và
giá gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính Tp. HCM là 18.000đ/kg).
- Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội.
Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội:
Nguyên đơn: cụ Ngô Quang Bảng
Bị đơn: bà Mai Hương
Nguyên nhân tranh chấp: việc tranh chấp nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng nhà và quyền sử dụng đất
Nội dung: Năm 1991, cụ Bảng chuyển nhượng lại nhà cho bà Hương với giá là
5.000.000đ, bà Hương đã trả 4.000.000đ, còn nợ 1.000.000đ. Vào năm 1996, bà Hương
đã chuyển nhượng lại toàn bộ nhà, đất cho vợ chồng ông Chinh bà Sáu nhưng vẫn không
trả số nợ trước kia cho cụ Bảng mặc dù cụ Bảng đã rất nhiều lần yêu cầu bà Hương thanh
toán trước đây nhưng bà Hương có đưa ra lí do là chồng ốm đau, không có tiền. Vì đã đòi
nhiều lần nhưng bà Hương không trả nên Cụ Bảng đã kiện bà Mai Hương, yêu cầu bà trả
cho cụ số tiền còn thiếu tương đương 1/5 giá trị nhà, đất với sồ tiền là 1.697.760.000đ
(theo định giá tài sản của Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh) và nếu bà
Hương không thanh toán thì phải trả lại 1/5 diện tích đất mà bà Hương chưa thanh toán,
tương đương với 188,6m2 trong tổng là 1.010m2 tại thửa đất đã chuyển nhượng trên. Về
phía bà Mai Hương, bà thừa nhận là còn nợ cụ Bảng 1.000.000đ. Tuy nhiên vào thời
điểm nhà, đất được chuyển lại cho ông Chinh và bà Sáu thì hai người có gặp cụ Bảng để
trả tiền nhưng cụ Bảng không nhận. Bà Sáu xác định nợ cụ Bảng số tiền đó, đồng ý chi
trả cả tiền gốc lẫn lãi và không đồng ý yêu cầu khởi kiện của cụ Bảng và việc trả lại 1/5
diện tích đất cho cụ.
Quyết định của Tòa án: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2015 ngày 08/6/2015,
Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh quyết định: buộc bà Mai Hương
phải trả cho cụ Ngô Quang Bảng tổng số tiền 2.710.000đ (trong đó tiền nợ gốc là
1.000.000đ, tiền lãi là 1.710.000đ). Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án
phí và quyền kháng cáo theo quy định. Ngày 19/06/2015, cụ Bảng kháng cáo toàn bộ Bản
án sơ thẩm. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 38/2015/DS-PT ngày 22/09/2015, Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của cụ Ngô Quang
Bảng, giữ nguyên các quyết định của Bản án sơ thẩm. Sau khi xét xử phúc thẩm, cụ Bảng
có đơn đề nghị xem xét Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Và cho biết:
Câu 1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Trả lời:
- Theo thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán thì:
Nếu như thời điểm phát sinh nghĩa vụ trước hoặc sau ngày mà giá gạo tăng từ 20%
trở lên thì phải quy đổi khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo trung bình ở địa phương lúc bấy
giờ, sau đó tính số lượng gạo đó thành tiền và bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng số
tiền ấy.
Nếu như thời điểm phát sinh nghĩa vụ trước hoặc sau ngày mà giá gạo tăng nhưng
dưới 20% thì bên có nghĩa vụ chỉ phải thanh toán khoản tiền do Tòa án xác định.
- Qua tài sản trung gian là giá gạo.
Câu 2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Ở thời điểm ông Quới hoàn trả lại tiền thế chân cho bà Cô thì giá gạo đã tăng hơn
20% (cụ thể là tăng: (15000 – 137) / 137 x 100 = 10848.9%) nên áp dụng mục a Khoản
1 thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao –
Bộ Tư pháp – Bộ Tài chính số 01/TTLT ngày 19/6/1977 hướng dẫn việc xét xử và thi
hành án về tài sản, giá gạo năm 1973 là 137đ/kg thì 50.000đ = 365 kg gạo; giá gạo trung
bình hiện nay theo Sở tài chính Tp. HCM là 15.000đ/kg, vậy ông Quới sẽ phải trả cho bà
Cô số tiền là: 365 x 15000 = 5.475.000đ
Mục a Khoản 1 TTLT
“1- Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền
lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền
truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày
1/7/1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời
điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền
đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo")
tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền
theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh
toán và chịu án phí theo số tiền đó.”
Câu 3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?
Trả lời:
Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 đã ghi rõ chỉ điều chỉnh các trường hợp đối
tượng của nghĩa vụ là:
“- Tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền
bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu
lợi bất chính.
- Tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí.
- Tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng.
- Các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ hạn) ở ngoài tổ
chức Ngân hàng, tín dụng.
- Đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng.
- Đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là hiện vật.”
Việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết
định số 15/2018/DS-GĐT không thuộc các trường hợp đã được nêu trên. Vì vậy, Thông
tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động
sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
Câu 4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ
thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Trả theo giá trị nhà đất hiện tại.
Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội nhận định:“...bà Hương phải thanh toán cho cụ
Bảng số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ
thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2, tiểu 9 mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết
số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao”. Căn cứ vào điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II của Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP thì bà Hương phải thanh toán theo giá trị quyền sử dụng đất tính
theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sở thẩm là: 1.697.760.000 x 1/5 = 339.552.000đ
Câu 5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Trả lời:
Hướng giải quyết như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. Đó
là Quyết định giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về vụ án “Tranh chấp
nhà đất và đòi nợ” của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao 2.
Tóm tắt bản án như sau:

2
Nguồn: http://www.hongha.vn/news/pdf/quyet-dinh-giam-doc-tham-so-09-hdtp-ds-ngay-24-02-2005-ve-vu-
an-tranh-chap-nha-dat-va-doi-no--1863.pdf
Nguyên đơn là bà Bùi Thị Lai, bị đơn là ông Phạm Thanh Xuân, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: bà Trần Thị Minh – vợ ông Phạm Thanh Xuân và ông
Hoàng Minh Khoa – chồng bà Bùi Thị Lai.
Năm 1994 bà Lai cho ông Xuân vay 11.500.000đ. Ngày 12/2/1996 bà Lai cho ông
Xuân vay 128.954.000đ. Do ông Xuân không có khả năng thanh toán nên ngày 8/8/1996,
hai bên viết giấy tay tính lãi, chốt nợ là 188.600.000đ, đồng thời hai bên thoả thuận
chuyển nhượng căn nhà số 19 Chu Văn An, phường Hoà Lạc, thị xã Móng Cái nói trên
với giá 188.600.000đ. Tuy hai bên chốt nợ và thoả thuận chuyển nhượng căn nhà trên với
giá 188.600.000đ, nhưng gia đình ông Phạm Thanh Xuân không thanh toán nợ, cũng
không giao nhà mà vẫn quản lý, sử dụng nhà nên bà Bùi Thị Lai tiếp tục tính lãi của số
tiền 188.600.000đ. Đến ngày 5/8/1997 vợ chồng ông Phạm Thanh Xuân, bà Trần Thị
Minh với vợ chồng bà Bùi Thị Lai, ông Hoàng Minh Khoa lại chốt nợ gốc và lãi của số
tiền 188.600.000đ lên thành 250.000.000đ, đồng thời vợ chồng ông Phạm Thanh Xuân,
bà Trần Thị Minh với vợ chồng bà Bùi Thị Lai, ông Hoàng Minh Khoa lại thoả thuận viết
đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất và lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với giá 250.000.000đ. Sau khi lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
vào ngày 5/8/1997, vợ chồng bà Lai vẫn tính lãi số tiền 250.000.000đ trong thời gian 2
tháng thành 6.000.000đ để cộng vào số tiền 44.000.000đ vợ chồng ông Phạm Thanh
Xuân vay vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ.
Tòa nhận định quan hệ mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ
chồng ông Phạm Thanh Xuân, bà Trần Thị Minh với vợ chồng bà Bùi Thị Lai, ông
Hoàng Minh Khoa xuất phát từ quan hệ vay nợ với lãi suất cao (khoảng 6%/tháng) khi
bên vay không có tiền trả nợ thì hai bên có thoả thuận việc mua bán nhà, chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Vụ án này phải giải quyết cả quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà,
đất. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 199 ngày 25/12/2001 của Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 02 ngày 10/5/2000 của Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh để giải quyết lại khoản vay nợ, tính lại lãi suất của số tiền gốc
mà bà Bùi Thị Lai đã cho vợ chồng ông Phạm Thanh Xuân vay theo đúng quy định pháp
luật. Đồng thời xác minh, thu thập chứng cứ về quá trình làm thủ tục giấy tờ mua bán
nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên có được tiến hành theo đúng trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định không. Trong trường hợp có đủ căn cứ xác định việc
mua bán chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất là hợp pháp và công nhận hợp đồng
mua bán nhà đất giữa các bên thì phải lấy giá nhà, đất thoả thuận trong hợp đồng trừ đi số
tiền nợ gốc và lãi; trường hợp còn thiếu bên mua chưa trả đủ thì phần còn thiếu (tính theo
tỷ lệ % giá trị nhà đất) bên mua phải thanh toán cho bên bán theo giá thị trường tại địa
phương ở thời điểm xét xử sơ thẩm lại.
Như vậy, trong Quyết định giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS, Tòa án cấp sơ thẩm
và phúc thẩm chỉ tập trung xem xét tính hợp pháp của quan hệ mua bán nhà, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà chưa xem xét giải quyết quan hệ vay nợ theo quy định của
pháp luật. Ngược lại, ở Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, Tòa sơ thẩm và phúc thẩm lại
cho rằng hợp đồng chuyển nhượng đất đã được giải quyết và xác định khoản tiền mà bà
Hương chưa thanh toán cho cụ Bảng là tiền nợ, buộc bà Hương phải trả số tiền này cùng
lãi suất. Tuy nhiên, cả hai vụ việc trên đều không thể bỏ bớt hay tách rời hai yếu tố quan
hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà, đất giữa các chủ thể; phải giải quyết song song cả hai
loại quan hệ thì mới triệt để và bảo đảm quyền, lợi của các bên liên quan. Do đó, Tòa
giám đốc thẩm đã ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giải quyết lại từ sơ
thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

VẤN ĐỀ 3. CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN


Nghiên cứu:
- Điều 370 và Điều 371 BLDS 2015 (Điều 315, 316, 317 BLDS 2005);
- Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Châu Đốc, tỉnh
An Giang.
Và cho biết:
Câu 1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Trả lời:
Định nghia:
- Chuyển giao quyền yêu cầu:
Chuyển giao quyền yêu cầu là sự thỏa thuận giữa người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ
với người thứ ba nhằm chuyển giao quyền yêu cầu cho người thứ ba đó. Người thứ ba
trong trường hợp này gọi là người thế quyền, trở thành người có quyền, được quyền yêu
cầu người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ theo phạm vi quyền yêu cầu được chuyển
giao.
- Chuyển giao nghĩa vụ:
Chuyển giao nghĩa vụ là sự thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ với
người thứ ba trên cơ sở có sự đồng ý của người có quyền nhằm chuyển nghĩa vụ cho
người thứ ba đó. Người thứ ba gọi là người thế nghĩa vụ trở thành người có quyền trong
phạm vi nghĩa vụ đã được xác định.
Giống nhau:
- Về chủ thể: đều có ít nhất 3 chủ thể tham gia.
- Về nguyên tắc chuyển giao:
+ Không được chuyển giao quyền yêu cầu/nghĩa vụ trong trường hợp khi quyền yêu
cầu/nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên chuyển giao; hoặc pháp luật có quy định
không được chuyển giao quyền yêu cầu/nghĩa vụ.
+ Chỉ áp dụng đối với quan hệ nghĩa vụ đang còn có hiệu lực.
+ Người có quyền trước/ có nghĩa vụ trước sẽ chấm dứt mối quan hệ với người có
nghĩa vụ/ có quyền và không phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của
người có nghĩa vụ (đối với việc chuyển giao quyền yêu cầu) hay của người thế nghĩa vụ
(đối với hành vi chuyển giao nghĩa vụ dân sự)
- Về hậu quả pháp lý:
Đều dẫn tới hậu quả pháp lý là làm thay đổi chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ, theo đó,
chấm dứt tư cách chủ thể của chủ thể đã chuyển giao, xác lập tư cách chủ thể cho người
nhận chuyển giao.
- Về hình thức chuyển giao:
Bằng văn bản hoặc bằng lời nói; trường hợp pháp luật quy định phải được thể hiện bằng
văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép thì phải tuân
theo các quy định đó; (theo Điều 310 và Điều 316 BLDS năm 2005);
Khác nhau:

Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ

Cơ sở pháp lý Điều 365 BLDS 2015 Điều 370 BLDS 2015

Đối tượng có Bên có quyền là người có quyền Bên có nghĩa vụ là người có


quyền chuyển chuyển giao quyền yêu cầu cho quyền chuyển giao.
giao người thế quyền.

Nguyên tắc - Việc chuyển giao quyền yêu - Việc chuyển giao nghĩa vụ bắt
chuyển giao cầu không cần có sự đồng ý của buộc phải được bên có quyền
bên có nghĩa vụ (khoản 2 Điều đồng ý (khoản 1 Điều 370
365 BLDS năm 2015). BLDS năm 2015).

- Người chuyển giao quyền yêu - Người chuyển giao nghĩa vụ


cầu phải báo bằng văn vản cho không cần thông báo cho bên
bên có nghĩa vụ về việc chuyển người có quyền.
giao quyền yêu cầu, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác (khoản
2 Điều 365 BLDS năm 2015).

Hiệu lực của Trường hợp quyền yêu cầu thực Biện pháp bảo đảm chấm dứt khi
biện pháp đảm hiện nghĩa vụ có biện pháp đảm nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm
bảo bảo thì việc chuyển giao quyền được chuyển giao, trừ trường hợp
yêu cầu bao gồm cả biện pháp có thỏa thuận khác (Điều 371
bảo đảm đó. (Điều 368 BLDS BLDS năm 2015).
năm 2015).

Câu 2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán
cho bà Tú?
Câu 3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Câu 4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Toà án?
Câu 5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm
đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Từ góc độ văn bản, Điều 370 và Điều 371 BLDS 2015 (Điều 315 và Điều 317
BLDS 2005) thì BLDS 2015 có đề cập tới việc chuyển giao nhưng không quy định rõ
liệu người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người có quyền trong trường
hợp người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao hay không, mà theo
Khoản 2 Điều 370 BLDS 2015 về việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự theo thỏa thuận
chỉ quy định là: “Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có
nghĩa vụ” và Điều 371 BLDS 2015 quy định về chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp
bảo đảm: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp
bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Đồng thời, pháp luật cũng đã quy định chỉ được chuyển giao nghĩa vụ khi bên có
quyền đồng ý. Nghĩa là bên có quyền có thể xem xét về khả năng thực hiện nghĩa vụ của
người thế nghĩa vụ để đảm bảo quyền lợi của mình. Vì vậy, trong thực tiễn xét xử, việc
cân nhắc về vấn đề chấm dứt hoàn toàn trách nhiệm giữa người có nghĩa vụ đối với người
có quyền sau khi thực hiện chuyển giao nghĩa vụ trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác là có căn cứ.
Sở dĩ như thế là vì nghĩa vụ dân sự khi được chuyển giao thì “nó” không chấm dứt
mà “nó” được chuyển giao từ chủ thể này sang chủ thể khác thông qua thỏa thuận giữa
người có quyền và người có nghĩa vụ. Khi người có quyền đã đồng ý, thì người thế nghĩa
vụ sẽ trở thành bên có nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ đã được chuyển giao. Mặc dù pháp
luật chưa quy định minh thị, nhưng có thể ngầm hiểu rằng khi nghĩa vụ đã được chuyển
giao, người có nghĩa vụ ban đầu không còn nghĩa vụ đối với người có quyền nữa và cũng
không chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
Câu 6. Nhìn từ góc độ quan điểm của tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.
Trả lời:
Nhìn từ góc độ quan điểm của tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách
nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao, trừ trường có thỏa thuận khác.
Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có
trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa chuyển
giao nghĩa vụ với “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do vậy, để
chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự
thông qua người thứ ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa
vụ ban đầu, trừ khi có bên có thoả thuận khác 3.

Bên cạnh đó, theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài: “Trên cơ sở thỏa thuận, với sự đồng
ý của bên có quyền, người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành người có
nghĩa vụ mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ mối
quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người
có quyền chỉ được phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã
chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế
nghĩa vụ.” 4

3
Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án
(Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba) (Tập 1), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí
Minh, tr.73-74, tr.642.
4
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Đỗ Văn Đại, Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.64.
Câu 7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Câu 8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
Trả lời:
Thực tế cho thấy các quy định trong các hệ thống luật của các nước tương đối khác
nhau.
Khoản 1 Điều 12:101 Bộ nguyên tắc của Luật hợp đồng châu Âu quy định:
“Với sự đồng ý của người có quyền và người có nghĩa vụ, người thứ ba có thể cam
kết thay thế người có nghĩa vụ, với hiệu lực là người có nghĩa vụ ban đầu không còn bị
ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ.”
Điều 9.2.3 Bộ nguyên tắc Unidroit (PICC) quy định:
“Việc chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và
người có nghĩa vụ mới phải có sự đồng ý của người có quyền.”
Như vậy, cả PECL và PICC đều quy định rằng phải có sự đồng ý của bên có quyền
thì bên có nghĩa vụ mới được chuyển giao nghĩa vụ. Đây cũng như để bảo đảm quyền lợi
của bên có quyền.
Tuy nhiên, PECL quy định rằng sau khi bên có quyền đồng ý cho bên có nghĩa vụ
ban đầu chuyển giao nghĩa vụ cho người thứ ba thì “người có nghĩa vụ ban đầu không
còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ.” (Khoản 1 Điều 12:101 Bộ nguyên tắc của
Luật hợp đồng châu Âu). Có nghĩa là sau khi chuyển giao nghĩa vụ thì người có nghĩa
vụ ban đầu không còn trách nhiệm với người có quyền nữa.
Trong khi đó Điều 9.2.5 Bộ nguyên tắc Unidroit quy định:
“1) Người có quyền có thể giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu.
2) Người có quyền cũng có thể quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là
người có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới không thực hiện đúng nghĩa
vụ của mình.
3) Trong mọi trường hợp khác, người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ
mới phải liên đới chịu trách nhiệm.”
Theo Khoản 1 Điều 9.2.5 Bộ nguyên tắc Unidroit, sau khi đồng ý cho người có
nghĩa vụ chuyển giao nghĩa vụ cho người thứ ba, người có quyền có thể giải phóng hoàn
toàn nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu. Hoặc là theo Khoản 2 thì người có quyền
có thể lựa chọn một khả năng khác, đó là chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ mới,
nhưng người có quyền sẽ bảo lưu quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu để
khi người thế nghĩa vụ không thể thực hiện đúng nghĩa vụ thì người có quyền có thể
quyết định người có nghĩa vụ ban đầu tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.
Và tại Khoản 3 Điều 9.2.5 Bộ nguyên tắc Unidroit cũng thể hiện rõ, trong trường
hợp người có quyền không nêu rõ ý định giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban
đầu, cũng không quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn còn trách nhiệm thực hiện,
thì người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải chịu trách nhiệm liên đới về
việc thực hiện nghĩa vụ.
Câu 9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Câu 10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có
chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

You might also like