Professional Documents
Culture Documents
Bài Ghi Dân S 2
Bài Ghi Dân S 2
- Nguồn văn bản: Hiến pháp, bộ luật, luật, pháp lệnh (quản lý ngoại hối), nghị định
(nghị định 21/2021), văn bản hướng dẫn (thông tư, nghị quyết)
- Nguồn không phải là văn bản: tập quán, án lệ, đạo đức xh
- Nguồn khác: áp dụng tương tự, lẽ công bằng
VẤN ĐỀ 1: NGHĨA VỤ
1. KHÁI QUÁT VỀ NGHĨA VỤ
A. Khái niệm
- Định nghĩa: Điều 274 BLDS 2015
- Đặc trưng:
Nghĩa vụ là một quan hệ có 2 chủ thể trở lên
Quan hệ nghĩa vụ, 1 chủ thể có 1 vai trò nhất định (1 người có quyền và 1 người có
nghĩa vụ tương ứng)
Quan hệ mang tính chất ràng buộc pháp lý
Ranh giới với nghĩa vụ đạo lý
B. Đối tượng
1. Tài sản
2. Làm một công việc
3. Không làm một công việc
C. Chủ thể
- Chủ yếu là cá nhân, pháp nhân
- Phải có quyền hoặc có nghĩa vụ
D. Các loại nghĩa vụ
*Nghĩa vụ riêng lẻ: Điều 287
- Phía người có nghĩa vụ nhiều hơn 1
- Phần của từng người được xác định
=> Hệ quả: Mỗi người có nghĩa vụ chỉ chịu trách nhiệm đối với phần của mình. => có
lợi cho người có nghĩa vụ
*Nghĩa vụ liên đới: Điều 288
- Điểm chung với nghĩa vụ riêng lẻ: là 1 mqh nghĩa vụ, phái người có nghĩa vụ nhiều
hơn 1.
- Khác biệt: mqh với người có quyền, mỗi người phải chịu trách nhiệm toàn bộ với
người có quyền. => có lợi cho người có quyền
Vd: A cho B vay tiền đề phục vụ gia đình của B
Theo LHNGD, B + vợ B liên đới trả tiền
A có thể yêu cầu B hoặc vợ B trả tiền
II. PHÁT SINH CHẤM DỨT NGHĨA VỤ
A. Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ
Điều 275
*Hành vi pháp lý đơn phương
- Theo Đ166, là 1 giao dịch dân sự thể hiện ý chí của 1 người nhầm xác lập, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Trong thực tiễn, HVPLDP khá đa dạng:
+ Di chúc
+ Từ chối nhận tài sản
+ từ bỏ quyền sở hữu
Chịu sự điều chỉnh của các quy định về giao dịch dân sự.
- TH làm phát sinh nghĩa vụ: HVPLDP chỉ tạo nghĩa vụ cho chính tác giả của hv đó.
*Thực hiện công việc không có ủy quyền
- Theo Điều 574
Có 1 người có công việc cần phải thực hiện
1 người khác thực hiện công việc đó -> tự nguyện
Thực hiện vì lợi ích của người có công việc
Người có cv không biết hoặc biết mà không phản đối
- Nghĩa vụ phát sinh: Điều 576 (nghĩa vụ trả chi phí + nghĩa vụ phải trả thù lao)
Thông thường bắt đầu từ quan hệ láng giềng, thân thích.
Ngày nay, không giới hạn, thực tiễn giải quyết trong kinh doanh thương mại.
*Chiếm hữu, được lợi không có căn cứ pháp luật
- Trong TH có chiếm hữu, sử dụng, được lợi mà không có căn cứ pháp luật thì làm
phát sinh ít nhất 3 nghĩa vụ:
● Nghĩa vụ hoàn trả tài sản, khoản lợi (Điều 579, Điều 580)
● Nghĩa vụ hoàn trả hoa lợi, lợi tức (Điều 581). Đây là nghĩa vụ có điều kiện: chỉ
hoàn trả khi không ngay tình
● Nghĩa vụ liên quan đến chi phí phát sinh (Điều 583)
VD: A trả tiền nhầm vào tài khoản của B. Khoản tiền nhận nhận nhầm là “được lợi”
B. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ
Về cơ bản, nghĩa vụ không tồn tại vĩnh viễn
Điều 372
1. Nghĩa vụ được hoàn thành
2. Thỏa thuận giữa các bên
3. Bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ
- NV là quan hệ mang lại lợi ích cho người có quyền => Người có quyền định
đoạt nó
- Căn cứ này được làm rõ ở Đ376
- Miễn thực hiện nghĩa vụ thông thường mang lại lợi ích cho người có nghĩa vụ
nhưng cần có sự đồng ý của người có nghĩa vụ
4. Nghĩa vụ được thay thế bằng nghĩa vụ khác
5. Nghĩa vụ được bù trừ (Đ378)
Để bù trừ thì phải tồn tại ít nhất 2 nghĩa vụ giữa cùng chủ thể
+ 1 người vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ trong 2 mqh nghĩa vụ ấy
+ 2 nghĩa vụ tài sản cùng loại, thông thường là nv trả tiền
+ 2 nv đến hạn cùng lúc
6. Bên có quyền và bên có nv hòa nhập làm 1 (Điều 380)
Vd: Công ty A nợ công ty B một khoản tiền, sau đó công ty A sáp nhập vào
công ty B => hòa nhập
7. Thời hiệu miễn trừ nv đã hết (Điều 381)
Trên thực tế, thời hiệu miễn trừ nv rất hiếm
VD: A nợ B một khoản tiền. Hết thời hiệu 3 năm nhưng B không đòi => B hết
thời hiệu khởi kiện nhưng A không chấm dứt nghĩa vụ.
8. Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nv phải
do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện
=> nv mang tính chất nhân thân không được cụ thể hóa trong BLDS
9. Bên có quyền là cá nhân chết mà quyền yêu cầu không thuộc di sản thừa kế
hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà quyền yêu cầu không được chuyển giao
cho cá nhân khác (Điều 382)
=> Đây là nv mang tính chất nhân thân gắn với người có quyền
=> Khi người có quyền ra đi => Chấm dứt
10. Vật đặc định không còn mà được thay thế bằng nv khác.
Chỉ chấm dứt khi đáp ứng 2 điều kiện:
+ Vật đặc định không còn
+ NV giao vật đặt định được thay thế bằng NV khác
=> Đây là điều luật không chuẩn mực
VD: A trả cho B 1 vật đặc định (xe máy, laptop của B). Trước khi A trả cho B,
vật đặc định bị mưa lũ cuốn trôi. VDD không còn nhưng trong trường hợp bất
khả kháng => NV chấm dứt, có thay thế hay không thì tùy thuộc vào hoản
cảnh. Kết hợp với Đ383.
III. THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
A. Nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (Điều 277 và tiếp theo)
BLDS 2005, có quy định nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ Đ283
BLDS 2015, các nguyên tắc được quy định tại Điều 3
B. Một số quy định chung về thực hiện nghĩa vụ
1. Địa điểm thực hiện nghĩa vụ
- Điều 277
- Thực hiện nv mà không đúng địa điểm => xem như chưa thực hiện.
- Địa điểm thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận.
Thực tế, các bên thường không thỏa thuận về địa điểm thực hiên nv.
- Khi không có thỏa thuận, thực hiện theo quy định của PL:
+ Bất động sản: nơi có BDS
+ Động sản: Nơi cứ trú hay trụ sở của bên có quyền
Quy định này bảo vệ người có quyền nhưng bảo vệ có giới hạn. Nơi cư trú/trụ sở khác
với địa chỉ của người có quyền.
Điều luật này phân loại nv: nv có đối tượng là ĐS và BĐS, tập trung vào tài sản
Nhưng thực tế có nghĩa vụ đối tượng không phải là tài sản.
Khoản 2 chỉ áp dụng khi không có thỏa thuận nhưng BLDS không có quy định về
hình thức thỏa thuận.
2. Thời điểm, thời hạn thực hiện nv
- Điều 278
- Biết được thời hạn, thời điểm => nv có bị vi phạm thời hạn hay không
- Xác định thời hạn, thời điểm thực hiện nv:
+ Trước tiên, được sd trên cơ sở thỏa thuận
Trên thực tế, các bên thường thỏa thuận về thời hạn, thời điểm thực hiện nv
+ Th không có thỏa thuận thì PL có đưa ra thời hạn thực hiện NV
+ Trong thực tiễn còn TH các bên không thỏa thuận, luật chưa quy định
=> K1 Đ278 => quyết định của cơ quan có thẩm quyền
+ Trong một số TH, không có cả 3 căn cứ trên
=> Mỗi bên có thể thực hiện nv hoặc yêu cầu nhưng trong một thời gian hợp lý
(K3 Đ278)
Vậy thế nào là hợp lý? => BLDS chưa quy định
=> áp dụng tương tự PL. NQ01/2019/HDTP liên quan đến hoạt động vay tài
sản
Thì thời gian hợp lý là 3 tháng.
3. Thực hiện nv thông qua người thứ ba
- Điều 283
- Thông thường, NV sẽ do người có NV thực hiện.
Tuy nhiên trong thực tiễn, NV có thể được thực hiện thông qua người thứ 3
- Để thực hiện NV thông qua người thứ 3
+ Cần có sự đồng ý của người có quyền
+ Tạo sự an toàn cho người có quyền
- Giả sự người thứ 3 không thực hiện hoặc thực hiện không đúng NV.
=> người có NV vẫn phải chịu trách nhiệm.
IV. THAY ĐỔI CHỦ THỂ TRONG QHNV
Thông thường nghĩa vụ hình thành và chấm dứt giữa các chủ thể ngay từ đầu. Trong
quá trình thực hiện nghĩa vụ có thể có những biến động về chủ thể:
- Phía người có quyền có thể thay đổi: chuyển giao quyền yêu cầu hay thế quyền
- Phía người có nghĩa vụ: chuyển giao nghĩa vụ từ người này sang người khác hay thế
nghĩa vụ.
1. Chuyển giao quyền yêu cầu
- Quyền yêu cầu có thể chuyển giao từ người này sang người khác trên cơ sở thỏa
thuận hoặc trên cơ sở của pháp luật.
*Chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận: Đ365
- Điều kiện để chuyển giao quyền yêu cầu: chuyển giao theo thỏa thuận, không cần sự
đồng ý của người có nghĩa vụ.
- Có 1 số trường hợp, quyền yêu cầu không được chuyển giao (điểm a K1 Đ365)
- Thông báo chuyển giao quyền yêu cầu
+ Phải thông báo cho người có nghĩa vụ biết
+ Cách thức thông báo: bằng văn bản
+ Nếu không thực hiện thông báo bằng văn bản
=> Hệ quả nếu không thực hiện thông báo bằng văn bản được quy định ở Đ369.
- Điều 368: Trường hợp quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì
việc chuyển giao quyền yêu cầu bao gồm cả biện pháp bảo đảm đó.
*Chuyển giao quyền yêu cầu theo pháp luật:
- Trong thực tiễn, có những chuyển giao quyền yêu cầu không trên cơ sở thỏa thuận
mà do PL quy định.
2. Chuyển giao nghĩa vụ
*Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận
- Khi chuyển giao nghĩa vụ là có sự thay đổi từ phía người có nghĩa vụ => thay đổi
khả năng thực hiện nghĩa vụ => ảnh hưởng trực tiếp đến người có quyền
=> BLDS đòi hỏi khi chuyển giao nghĩa vụ cần phải có sự đồng ý của người có quyền
- Về nguyên tắc, nghĩa vụ có thể được chuyển giao từ người này sang người khác trên
cơ sở thỏa thuận Đ370
Tuy nhiên, có ngoại lệ: trừ quyền nhân thân hoặc pháp luật có quy định.
- Hệ quả của chuyển giao nghĩa vụ:
+ Khi nghĩa vụ được chuyển giao, người nhận chuyển giao trở thành bên có
nghĩa vụ
+ Nếu nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm (Điều 371) => BP bảo đảm chấm dứt
? Vì sao BP bảo đảm chấm dứt
=> Khi chuyển giao nghĩa vụ => thay đổi người thực hiện nghĩa vụ => phải có sự
đồng ý của người có quyền => K cần biện pháp bảo đảm vì đã kiểm tra khả năng thực
hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ.
Tất cả những gì gắn liền với nhân thân, khi chuyển giao nghĩa vụ phải được chuyển
giao theo.
*Chuyển giao nghĩa vụ theo pháp luật:
- Trên thực tế, có những nghĩa vụ được chuyển giao từ người này sang người khác
theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Điều 614
- Có thể xảy ra trường hợp người có nghĩa vụ mới không thực hiện được nghĩa vụ
được giao => Người có quyền có được quay trở lại chuyển giao nghĩa vụ hay không ?
=> Tự trả lời
VẤN ĐỀ 5: TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
1. KHÁI QUÁT
- Là một dạng trách nhiệm dân sự nhưng đây là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
- BLDS có quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng không cho biết khi
nào là btthnhd
=> Thông thường thiệt hại ngoài hợp đồng là thiệt hại phát sinh giữa các chủ thể
không có quan hệ hợp đồng. Chẳng hạn A lái xe vượt ẩu gây tai nạn cho B, một người
hoàn toàn xa lạ so với A. Trong thực tế, thiệt hại vẫn có thể là ngoài hợp đồng mặc dù
giữa các bên có quan hệ hợp đồng.
Tình huống: A cho B thuê nhà để làm trụ sở => giữa A và B tồn tại 1 hợp đồng thuê
tài sản. Do bất cẩn A làm cháy nhà của mình và lan sang nhà B làm hư hỏng văn
phòng của B. => nằm ngoài hợp đồng vì không lq đến hợp đồng thuê tài sản.
2. NGUỒN ĐIỀU CHỈNH
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã tồn tại rất sớm ở VN, trong Bộ
luật Hồng Đức đã có quy định về btthnhd. Sau này khi đất nước thống nhất, Tòa án nd
tối cao ban hành thông tư 172/1973, đặt nền mống của quy định về tnbtthnhd.
- BLDS 1995, BLDS 2005, BLDS 2015
- Luật TNBT của nhà nước 2009 và được sửa đổi 2017
- Dưới luật, Tòa án tối cao đã ban hành nghị quyết số 03/2006 để hướng dẫn áp dụng
blds 2005, Tòa án mới thông qua nghị quyết mới đối với blds 2015
(những quy định chung, những th bt cụ thể, trách nhiệm bt của nhà nước)
PHẦN 1: QUY ĐỊNH CHUNG
I. CĂN CỨ LÀM PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BTTH NGOÀI HỢP ĐỒNG
Đ584
Trên cơ sở Đ584, chúng ta có 2 loại trách nhiệm btth nhd
- Loại 1: Do người gây ra
- Loại 2: Do tài sản gây ra
LOẠI 1: DO NGƯỜI GÂY RA
Hội đủ 3 dk:
- Phải có 1 ng xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Nq số
03/2006/HDTP khái quát điểu kiện như sau: phải có hành vi trái pháp luật => là hv
của con người, trái với quy định của pl. Nếu không có hv trái pháp luật thì k làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho dù có thiệt hại.
- Phải có thiệt hại. Nếu không có thiệt hại thì k làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
cho dù có hv trái pháp luật.
- Có mqh nhân quả giữa hv trái pháp luật và thiệt hại. Nếu không có qh nhân quả thì k
làm phát sinh trách nhiệm bt cho dù có thiệt hại hay hv trái pl. Vậy qh nhân quả là gì?
=> là hv trái pl, là nguyên nhân dẫn tới thiệt hại, là kqua tất yếu của hv trái pl
Trong BLDS 2005 kế thừa BLDS trước đây thì có yêu cầu lỗi của người gây thiệt hại.
“lỗi vô ý hay cố ý” của người gây thiệt hại. Đây là điều kiện gây tranh cãi.
LOẠI 2: DO TÀI SẢN GÂY RA
II. XÁC ĐỊNH TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC BỒI THƯỜNG
Pháp luật VN k đưa ra định nghĩa thiệt hại được bồi thường mà đưa ra liệt kê, căn cứ
vào đối tượng bị xâm phạm (Đ589...)
=> Cách thức liệt kê thiệt hại này có ưu điểm của nó: dễ áp dụng. Tuy nhiên, nhược
điểm: vì liệt kê nên có thể k đầy đủ. Chẳng hạn Đ592 bàn về bồi thường thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Có những đối tượng bị xâm phạm mà k dc
liệt kê vd như xâm phạm hình ảnh, xâm phạm đời sống riêng tư,...
=> Trước những trường hợp chưa được liệt kê thì xử lí như sau: áp dụng tương tự
pháp luật. Tuy nhiên để áp dụng tương tự pháp luật thì phải có quy định tương tự (
Đ585.1)
=> Nhìn 1 cách tổng thể chúng ta có loại thiệt hại được bồi thường, 1 là thiệt hại vật
chất, 2 là tổn thất tinh thần.
1. BỒI THƯỜNG VỀ VẬT CHẤT
Thứ nhất, khi tài sản bị xâm phạm Đ589:
- Theo Đ589 thì thiệt hại khi tài sản bị xâm phạm bao gồm
+ tài sản bị mất
+ tài sản bị hư hỏng
=> chi phí ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại
+ bị hủy hoại
=> giá trị tài sản bị hủy hoại
Thứ hai, sức khỏe bị xâm phạm Đ590:
- Khi sức khỏe bị xâm phạm thì người chịu thiệt hại đầu tiên là người bị xâm phạm,
còn có thể có người khác bị thiệt hại (người chăm sóc,...). Sau một thời gian điều trị
thì cá nhân có sức khỏe bị xâm phạm quay lại được tình trạng ban đầu, tuy nhiên thực
tế cho thấy có những trường hợp sau khi điều trị, cá nhân ấy k thể quay lại trình trạng
ban đầu.
+ Đối với người có sức khỏe bị xâm phạm: Khi 1 cá nhân có sức khỏe bị xâm
phạm, PL ghi nhận 2 loại thiệt hại dc bồi thường (Chi phí hợp lí để khôi phục tình
trạng ban đầu. Nghị quyết số 03/2006, đã chi tiết hóa chi phí này; Bồi thường mất
giảm thu nhập của người bị xâm phạm, cụ thể hóa ở nghị quyết số 03)
+ Đối với người khác: Có thể kéo theo người khác bị thiệt hại (người chăm
sóc mất giảm thu nhập, người thân bỏ chi phí đi thăm,...). Hiện nay BLDS chỉ quan
tâm đến người chăm sóc. Thực tế có trường hợp Tòa án cho phép người thân của
người bị xâm phạm được bồi thường thiệt hại. Đối với người chăm sóc, BLDS theo
hướng người này có thể có thiệt hại là những chi phí hợp lí (chi phí đi lại, mất giảm
thu nhập).
?Một người có sức khỏe bị xâm phạm thì có bao nhiêu người chăm sóc được bồi
thường
=> Nghị quyết số 03 k thể hiện dc rõ nét nhưng có quy định là 1 người thôi.
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án cũng cho phép 2 người chăm sóc được bồi thường.
+ Sau điều trị: Sau thời gian điều trị cá nhân có thể hồi phục như ban đầu => k
đề cập. Tuy nhiên có những trường hợp k thể hồi phục như ban đầu:
- Cá nhân bị mất khả năng lao động: Đ590.1.c => k cho biết khi nào
thuộc trường hợp này. Nghị quyết số 03 đã chi tiết hóa th này tại 1.4 (từ 81% trở lên)
- Cá nhân mất hoàn toàn khả năng lao động: Đ593 => bồi thường đến
khi người đó hi sinh => k cho biết khi nào thuộc TH này và Nghị quyết số 03 cũng
vậy. Trong thực tiễn xét xử thì Tòa án có xu hướng coi người mất khả năng lao động
từ 91% trở lên thuộc trường hợp này.
- Cá nhân bị giảm sút khả năng lao động: BLDS và nghị quyết chưa trả
lời. Trong thực tiễn xét xử thì Tòa án có cho bồi thường, đó là bồi thường giảm sút thu
nhập. Thời gian cho bồi thường là cho đến khi người đó đến tuổi nghỉ hưu
Thứ ba, khi tính mạng bị xâm phạm Đ591:
- Trong thực tế, khi 1 người bị xâm phạm thì người đó có thể bị chết ngay hoặc cá
nhân đó k chết ngay mà một thời gian sau chết và cái chết ấy gắn liền với TH bị xâm
phạm.
+ Giai đoạn trước khi chết: Tùy theo thời gian thiệt hại có thể lớn hay nhỏ.
BLDS 2005 có liệt kê chi phí cứu chữa dc bồi thường, nghị quyết số 03 có bổ sung
mất giảm thu nhập. Cách quy định như BLDS trước đây là chưa đầy đủ. Chúng ta cần
theo triết lý sức khỏe bị xâm phạm. Do đó toàn bộ thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
phải dc áp dụng
+ Giai đoạn sau khi chết: Tính mạng thực sự bị xâm phạm. Cái cần đền bù k
phải là tính mạng mà là hệ quả của việc cái chết gây ra (chi phí mai táng, tiền cấp
dưỡng cho người còn sống). Người được bồi thường tiền cấp dưỡng? Mức tiền cấp
dưỡng là bao nhiêu? => BLDS chưa cho biết, xem nghị quyết 03 => tập trung vào
quan hệ nhân thân. Cấp dưỡng bao lâu? => Điều 593. Thời điểm bắt đầu => BLDS
trước đây chưa cho biết thời điểm bắt đầu, để thống nhất áp dụng pháp luật: từ thời
điểm cá nhân chết. ?Trường hợp đứa trẻ trong bào thai mẹ khi cha chết => quan điểm
về thời điểm hình thành cấp dưỡng khác nhau. Hoặc là ngay thời điểm người cha chết
hoặc là khi thời điểm đứa trẻ sinh ra. => Áp dụng theo hướng khi đứa trẻ sinh ra vì
trong thời gian đứa trẻ chưa sinh ra thì cha chỉ áp dụng cho mẹ đứa bé, và năng lực
dân sự cá nhân chỉ áp dụng từ khi sinh ra.
Thứ 4, khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm: Đ592
- Khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm thì có 2 loại thiệt hại vật chất được bồi
thường: mất giảm thu nhập; chi phí hợp lí
+ mất giảm thu nhập: Trong thực tiễn xét xử, rất hiếm khi TA chấp nhận bồi
thường mất giảm thu nhập trong trường hợp này vì rất khó chứng minh mối quan hệ
nhân quả.
+ chi phí hợp lí: nghị quyết số 03
❖ Khi xem xét thiệt hại vật chất, BLDS thường cho bồi thường chi phí hợp lý:
? Thế nào là hợp lí => nq 03 phần 4 I => Chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với
giá trung bình ở địa phương.
? BLDS và nghị quyết chưa cho biết bỏ ra chi phí mà k hợp lí thì xử lý như thế
nào? => cắt bỏ chi phí bất hợp lí và giữ lại phần hợp lí.
? BLDS ghi nhận chi phí hợp lý và nghị quyết số 03 chi tiết theo phương pháp
liệt kê nhưng liệt kê mở.
❖ Bên cạnh việc bồi thường vật chất thì cũng có quy định về bồi thường về mặt
tinh thần nhưng dc quy định muộn hơn vì các lí do (tổn thất về tinh thần rất khó
xác định, quy đổi bằng tiền như thế nào, là nội tâm gắn liền với chủ thể => tình
cảm k thể đo bằng tiền)
=> PL mang tính chất trải nghiệm, từng bước ghi nhận, k ghi nhận một cách ồ
ạt.
2. BỒI THƯỜNG VỀ MẶT TINH THẦN
Thứ nhất, tài sản bị xâm phạm
- Không có quy định.
Thứ hai, khi sức khỏe bị xâm phạm
- K2 Đ590
- Trước đây, người gây thiệt hại chịu trách nhiệm bồi thường, thực tế cho thấy k
phải do người gây ra mà do tài sản gây ra.
- Chủ thể được bồi thường: người có sức khỏe bị xâm phạm => trong mọi
trường hợp đều phải bồi thường về mặt tinh thần.
- Trong thực tế, k chỉ cá nhân đó bị tổn thất về tinh thần mà có thể cả người
thân của họ cũng bị tổn thất về tinh thần. Tuy nhiên, hiện nay BLDS k nói rõ và nghị
quyết chỉ cho bồi thường người bị xâm phạm.
- Bồi thường bao nhiêu? => Cho các bên tự thỏa thuận, trong trường hợp k tự
thỏa thuận dc thì Tòa án sẽ ấn định, tuy nhiên Tòa án k tự ấn định 1 cách tùy ý mà luật
đưa ra 1 chừng mực nhất định (tối đa k quá 50 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy
định tại thời điểm giải quyết bồi thường).
Thứ ba, khi tính mạng bị xâm phạm
Do người và tài sản chịu trách nhiệm bồi thường
Mức bồi thường: theo thỏa thuận, Theo Tòa án ấn định thì không được vượt qua 100
tháng lương cơ sở
So với BLDS trước đây, mức tối đa được tăng 40 tháng lương
=> TH do tính mạng bị xâm phạm chưa chắc cao hơn TH do sức khỏe bị xâm phạm
=> BLDS 2015 sửa đổi nhằm tăng tính răng đe và bảo vệ gia đình nạn nhân. Chưa ghi
rõ 1 người hay 1 gia đình => BLDS quy định 1 người
Thứ tư, khi danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm
Nghị quyết số 03/2006, trong mọi trường hợp khi xác định có xâm phạm nhân phẩm,
uy tín thì người bị xâm phạm phải được bồi thường
Lưu ý
- Phạm vi áp dụng: BLDS dùng từ “người chịu trách nhiệm” cho nên về mặt lí thuyết
có thể hiểu đó là thiệt hại do người gây ra hoặc tài sản gây ra. Tuy nhiên, ở trường hợp
này chỉ có thể do NGƯỜI gây ra.
- Khác với sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm, chỉ áp dụng cho cá nhân thì danh dự
nhân phẩm, uy tín có thể là của cá nhân hoặc PHÁP NHÂN.
-Nguyên lý xác định tổn thất về tình thần giống với các trường hợp trước: theo thỏa
thuận; khi Tòa án can thiệt thì ấn định tối đa 10 tháng lương. Mức tối đa này không
phù hợp với pháp nhân, tuy nhiên luật chỉ quan tâm đến cá nhân. Trước đây BLDS
không nói rõ tối đa cho đối tượng nào, BLDS 2015 “cho 1 người” => Bổ sung này
nhận được khá nhiều sự phản đối, họ cho rằng “cho 1 người” không cần thiết. Tuy
nhiên, nó thật sự cần thiết, ví dụ khi cả gia đình bị xúc phạm?
Thứ năm, khi thi thể bị xâm phạm
II. CÁC NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
- Điều 585
KHOẢN 1
*Nguyên tắc 1: bồi thường toàn bộ
- Nguyên tắc bồi thường toàn bộ: Nguyên tắc này đã tồn tại trong BLDS trước đây,
tuy nhiên hiểu thế nào là toàn bộ thì lại có cách hiểu khác nhau. Có 2 cách hiểu
+ Toàn bộ là toàn bộ những thiệt hại được pháp luật quy định. Cách hiểu này
thuận lợi cho tòa án bởi vì cứ dựa vào quy định mà xác định nhưng lại rất bất lợi cho
người bị thiệt hại vì có những thiệt hại mà các nhà làm luật chưa quy định.
+ Toàn bộ là toàn bộ thiệt hại trong thực tế, có bao nhiêu thì bồi thường bấy
nhiêu. BLDS 2015 đã được sửa lỗi để củng cố quan điểm thứ hai, Điều 585 khoản 1
đã bổ sung từ “thực tế” để nhấn mạnh quan điểm này.
*Nguyên tắc 2: Thiệt hại phải được bồi thường kịp thời
- Luật không làm rõ thế nào là bồi thường kịp thời. Nghị quyết 03 có nói thêm là Tòa
án phải giải quyết nhanh chóng, có thể áp dụng một trong các biện pháp tạm thời. Nên
hiểu “bồi thường kịp thời” chứ không phải “giải quyết kịp thời” do đó nên hiểu thiệt
hại phải được bồi thường sớm nhất có thể. Chậm bồi thường nên theo hướng phát sinh
lãi chậm trả.
- Về hình thức bồi thường: Theo khoản 1 các bên có thể thỏa thuận bồi thường bằng
tiền, hiện vật hay bằng công việc cụ thể. Ở đây, BLDS lại chưa dự liệu là nếu không
đạt được thỏa thuận thì bồi thường như thế nào. Trong thực tiễn xét xử, Tòa án có xu
thế có xu hướng cho bồi thường bằng tiền.
- Phương thức bồi thường: Các bên có thể thỏa thuận theo khoản 1, bồi thường 1 lần
hay nhiều lần. Chẳng hạn bồi thường 1 lần 1 khoản tiền rồi qh 2 bên chấm dứt. BLDS
chưa dự liệu là bồi thường như thế nào nếu các bên k đạt được thỏa thuận. Tòa án theo
hướng không thỏa thuận thì tiền cấp dưỡng được bồi thường theo định kì.
KHOẢN 2: GIẢM MỨC BỒI THƯỜNG
Thiệt hại mà 1 người phải chịu có thể lớn hơn kinh tế của họ, nếu bắt họ bồi thường
thì họ không có khả năng và có thể đẩy họ vào con đường phạm tội để có tiền bồi
thường. Quy định ở khoản 2 mang tính chất nhân văn cao
- Trước đây, BLDS có quy định làm cho người đọc hiểu rằng chỉ áp dụng cho người
gây ra mà thôi. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường có thể phát sinh do tài sản gây ra.
BLDS 2015 đã được thiết kế cho phép áp dụng cho cả 2 trường hợp là người và tài sản
gây ra.
- Trước đây, để xin giảm mức bồi thường người trách nhiệm trước hết phải chứng
minh mình có lỗi vô ý, do đó nếu có lỗi cố ý thì không bao giờ xin giảm mức bồi
thường được. Khi phân tích ở góc độ lỗi có thể xảy ra 3 trường hợp: lỗi vô ý, lỗi cố ý,
không có lỗi. BLDS 2015 đã bổ sung thêm trường hợp không có lỗi.
- Mức giảm: BLDS chỉ ghi nhận yêu cầu giảm nhưng giảm bao nhiêu thì không cho
biết. Trong thực tế đã có TH Tòa án theo hướng giảm 30%
KHOẢN 3: MỨC BỒI THƯỜNG KHÔNG CÒN PHÙ HỢP VỚI THỰC TẾ
Một khi đã ấn định được mức bồi thường, nhất là của Tòa án, thì các bên phải tuân
thủ. Tuy nhiên có trường hợp không còn phù hợp với thực tế nữa, khi đó các chủ thể
liên quan có thể yêu cầu thay đổi (tăng hoặc giảm)
KHOẢN 4: TRONG TRƯỜNG HỢP NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI
Trong việc phát sinh thiệt hại thì có thể có vai trò của người bị thiệt hại. Trong trường
hợp này, người bị thiệt hại sẽ không được bồi thường toàn bộ, thiệt hại tương ứng với
phần lỗi của họ sẽ không được bồi thường.
BLDS không cho biết việc xem xét lỗi của người bị thiệt hại như thế nào => Tòa án tự
xác định
KHOẢN 5: NGUYÊN TẮC NGĂN CHẶN HẠN CHẾ THIỆT HẠI
Trong thực tế, người bị thiệt hại có thể ngăn chặn hạn chế thiệt hại nhưng họ lại không
tìm cách ngăn chặn hạn chế thiệt hại. Rất nhiều hệ thống đã ghi nhận nghĩa vụ hạn chế
thiệt hại, và BLDS 2015 ghi nhận chính thức tại K5 Đ585
IV. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NHIỀU NGƯỜI GÂY RA
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thông thường là trách nhiệm của 1 chủ thể, tuy nhiên
trong 1 số trường hợp, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường lại nhiều hơn 1 người, đó
là trách nhiệm liên đới. Với trách nhiệm liên đới thì người bị thiệt hại rất có lợi vì có
thể lựa chọn chủ thể có thể thực hiện.
Trong phần bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, có rất nhiều trường hợp hình thành
trách nhiệm liên đới. Trong đó có Điều 587
Điều 587
1. QUAN HỆ VỚI NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI
- Tiêu chí quy trách nhiệm liên đới: Nhiều người cùng gây thiệt hại => BLDS chưa
quy định khi nào là cùng gây thiệt hại. Không được nhầm lần “cùng gây thiệt hại” với
“đều gây thiệt hại”.
- Trong thực tiễn, Tòa án hiểu “cùng gây thiệt hại” theo nghĩa rộng do đó càng phát
sinh trách nhiệm liên đới, có lợi cho người bị hại.
2. QUAN HỆ GIỮA NHỮNG NGƯỜI LIÊN ĐỚI
Trong mối qh giữa những người liên đới, việc xác định mức trách nhiệm của từng
người liên đới là dựa vào mức độ lỗi của từng người. Trong trường hợp không xác
định được mức lỗi của từng người thì chia đều cho mỗi người.
V. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
Điều 586
Người gây thiệt hại thông thường là người chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên có
những người không có khả năng tự chịu trách nhiệm thực hiện => Phát sinh vấn đề
năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
- Trường hợp 1: Người gây thiệt hại đủ 18 tuổi
=> Có đủ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường, K1 khẳng định họ phải tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình. Trong trường hợp này, người thân không phải chịu trách
nhiệm.
=> Trong trường hợp, người đó mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn nhận thức
làm chủ hành vi, BLDS quy định thêm trách nhiệm của người giám hộ.
Các điều kiện quy trách nhiệm cho người giám hộ: Người được giám hộ không có đủ
tài sản, người giám hộ có lỗi trong quản lý. Trong trường hợp người giám hộ không có
lỗi trong quản lý thì không phải chịu trách nhiệm.
- Trường hợp 2: Người gây thiệt hại chưa đủ 18 tuổi
=> quy trách nhiệm của cha mẹ. Khi đó phải phân độ tuổi của người gây thiệt hại:
+ Người gây thiệt hại chưa đủ 15 tuổi: trách nhiệm trước tiên thuộc về cha mẹ.
Nếu cha mẹ không có tài sản mà con có thì con chịu trách nhiệm.
+ Người đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi: Trong trường hợp này, ưu tiên trách nhiệm
của người con. Khi người con không đủ tài sản mới tính tới trách nhiệm của cha mẹ.
So với người giám hộ thì trách nhiệm của cha mẹ năng nề hơn. Khi đó, không cân
phải chứng minh lỗi quản lý của cha mẹ => Khác với người giám hộ vì nếu đòi hỏi
người giám hộ quá cao thì không ai nhận làm người giám hộ cả. Cho dù cha mẹ có ly
hôn thì vẫn phải chịu trách nhiệm với người con. Trong thực tiễn, Tòa án còn theo
hướng, khi li hôn mà con sống với cha thì mẹ vẫn phải tiếp tục liên đới => Hướng giải
quyết thuyết phục. Ở đây không cần chứng minh con có sống với cha mẹ hay không.
VI. THỜI HIỆU KHỞI KIỆN, GIẢI QUYẾT BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI
HĐ
Trách chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thời hiệu khởi kiện hay không?
=> Nếu căn cứ vào Điều 588 thì CÓ.
Tuy nhiên chúng ta đang quan tâm tới tranh chấp TH phát sinh do xâm phạm các yếu
tố nhân thân. Đ156 quy định những TH không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Hiện nay
có 2 quan điểm
+ Bảo vệ quyền nhân thân => Thầy
+ Đối với TH khác có thời hiệu khởi kiện. 1 số điểm lưu ý:
Thứ nhất là về thời hạn: trước đây là 2 năm, sau này là 3 năm
Thời điểm bắt đầu: BLDS trước đây từ thời điểm quyền và lợi ích bị xâm
phạm.
BLDS 2015 theo hướng khi biết quyền và lợi ích bị xâm phạm.
PHẦN 2: MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỤ THỂ
Các quy định chung đôi khi chưa đủ để bảo vệ người bị thiệt hại, vì vậy các nhà làm
luật đã phải thiết kế thêm một số quy định cụ thể để đáp ứng nhu cầu của người bị
thiệt hại. BLDS không phân, tự phân nhóm để dễ nhận biết: 3 nhóm
Nhóm 1. Thiệt hại do người gây ra
Nhóm 2. Thiệt hại do tài sản gây ra
Nhóm 3. Những trường hợp khác
I. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI GÂY RA
Hoặc 1 người chịu trách nhiệm do hành vi mà mình gây ra, hoặc chịu trách nhiệm do
người khác gây ra.
1. Thiệt hại trong trường hợp phòng vệ
- Trong thực tế, 1 người có thể bị tấn công và người đó phòng vệ, trong quá trình
phòng vệ người đó có thể gây ra thiệt hại. Khi phòng vệ, người phòng vệ có thể gây
thiệt hại trong khuôn khổ phòng vệ chính đáng, khi đó theo đoạn 1 Đ594 quy định thì
không cần bồi thường.
- Trong trường hợp vượt qua giới hạn phòng vệ chính đáng, đoạn 2 Đ594 thì người đó
phải chịu trách nhiệm bồi thường. Và có phải bồi thường toàn bộ thiệt hại hay không?
=> Văn bản hiện nay chưa rõ ràng. Quan điểm của các tác giả chưa thống nhất. Theo
giáo trình của trường DH Luật Hà Nội thì người đó phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Tuy nhiên, quan điểm như vậy không thực sự thuyết phục. Đã có Tòa án tuyên không
phải bồi thường toàn bộ.
2. Thiệt hại trong tình thế cấp thiết
Trong thực tế, có trường hợp 1 người gây ra thiệt thại trong tình thế cấp thiết để bảo
vệ lợi ích cao hơn => Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Ngược lại người gây ra tình thế cấp thiết có phải chịu TNBT không thì luật chưa quy
định.
3. Thiệt hại khi dùng chất kích thích
Điều 596
- Khoản 1 quy trách nhiệm cho người dùng chất kích thích sau đó gây ra thiệt hại dù
người này say đến mức k có nhận thức thì vẫn phải chịu TNBT. Quy định này vẫn tồn
tại trong BLDS trước đây và đồng thời bổ sung: BLDS lúc trước có quy định thêm lỗi,
rất khó chứng minh. Tuy nhiên với BLDS 2015 thì K1 này k cần thiết vì BLDS 2015
k đòi hỏi thêm lỗi nhận thức, vì vậy dù có trong tình trạng nhận thức hay k nhận thức
đều phải BT. Nhưng giữ lại cũng k ảnh hưởng gì.
- K2 quy trách nhiệm cho người không trực tiếp gây ra thiệt hại khi họ làm người khác
k nhận thức do chất kích thích gây ra thiệt hại.
=> K1 và K2 có thể kết hợp liên đới đối với người gây ra thiệt hại và người k trực tiếp
gây ra thiệt hại nhưng cố ý làm cho người khác lâm vào tình trạng mất nhận thức.
4. Thiệt hại do người của pháp nhân gây ra và bồi thường thiệt hại do người làm công,
người học nghề gây ra
Điều 597 và Điều 600
- Điều 597 và Điều 600 có điểm chung, đây là trường hợp 1 người gây thiệt hại khi
thực hiện 1 công việc do người khác giao. => Người giao công việc có chịu trách
nhiệm bồi thường hay không? => Có
- Điểm khác biệt giữa 2 điều này là chủ thể giao công việc.
- Điều 597 và điều 600 giải quyết 2 quan hệ:
+ Đối với người bị thiệt hại và người giao việc: Đây là trường hợp BTTH do
người khác gây ra, người gây ra thiệt hại là người thực hiện công việc, người chịu
trách nhiệm là người giao công việc. Để quy trách nhiệm cho người giao công việc thì
phải xác định được người gây thiệt hại họ gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc
(nhiệm vụ) được giao. Xem xét thế nào là công việc được giao? Nếu các chủ thể liên
quan xác định rõ ràng cv được giao thì dựa vào đó mà xem xét. Trong thực tiễn, cv
được giao đôi khi k được xác định rõ ràng. Khi đó, Tòa án quyết định giải thích theo
nghĩa rộng cv được giao.
Ví dụ: khi thuê 1 người thợ, k nói rõ cv được giao, người thợ đó hàn hỏng => xem xét
nghĩa rộng thì hàn vẫn trong cv người thợ.
1 người thuê người dọn cỏ, khi người dọn cỏ đốt cỏ làm cháy nhà => xem xét cv được
giao đốt cỏ cũng coi như dọn cỏ.
Điều 587 và Điều 600 bàn về thiệt hại áp dụng cho bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng chứ k áp dụng cho thiệt hại trong hợp đồng. Chẳng hạn A đến thực tập tại
doanh nghiệp B và gửi xe ở chỗ của B, do sơ suất của nhân viên của B mà A bị mất
xe. Người của B gây thiệt hại khi thực hiện cv được giao nhưng qh giữa A và B k phải
là qh ngoài hợp đồng mà trong hợp đồng gửi giữ => Do đó, k áp dụng Điều 597 hay
Điều 600.
Bên cạnh khả năng quy trách nhiệm cho người giao việc thì có thể quy trách
nhiệm cho cv được giao hay k? Hiện nay điều 597 và Điều 600 k thực sự rõ nét, nếu k
cho phép yêu cầu người gây thiệt hại BT thì chống lại quyền lợi của người bị thiệt hại
trong trường hợp người giao việc k có khả năng chi trả bồi thường. Luật nước ngoài
cho phép người gây thiệt hại và người giao việc liên đới bồi thường => bảo vệ quyền
lợi của người bị thiệt hại
+ Đối với người gây thiệt hại và người giao việc: Sau khi bồi thường thì
người giao việc có quyền yêu cầu người gây thiệt hại bồi hoàn, nhưng chỉ khi người
gây thiệt hại có lỗi, tuy nhiên blds k nói khi nào người gây thiệt hại được coi là có lỗi.
Ở đây chúng ta đang giải quyết mqh nội bộ giữa người giao việc và người thực hiện
công việc, bởi người bị thiệt hại đã được bồi thường rồi.
5. Thiệt hại phát sinh trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân trực tiếp quản
lý
Điều 599
Đề cập đến 3 đối tượng:
*Người dưới 15 tuổi gây ra trong thời gian trường học
- Trong thời gian nhà trường quản lý thì người học có thể gây thiệt hại, do đó câu hỏi
đặt ra nhà trường có phải chịu trách nhiệm bồi thường hay không?
- Để áp dụng 599 thì:
+ Người gây thiệt hại phải là người chưa đủ 15 tuổi
+ Trong BLDS 2005, thì người ch đủ 15 tuổi phải gây thiệt hại trong thời gian
học tại trường. Ví dụ: đang học đánh nhau, ra chơi đánh nhau. Tuy nhiên cái nội hàm
trong thời gian học ở trường quá hẹp bởi vì học sinh có thể không học tại trường
nhưng vẫn chịu sự quản lý của trường. Thay cụm từ đang trong thời gian học bằng
cụm từ “trong thời gian nhà trường trực tiếp quan lý” => xác định thời gian gây thiệt
hại phải trong thời gian nhà trường trực tiếp quản lý hay không.
+ Điều kiện: Nhà trường có lỗi trong quản lý học sinh. Việc học sinh gây thiệt
hại trong thời gian trường trực tiếp quản lý chưa đủ để quy trách nhiệm bồi thường
cho nhà trường mà phải xem xét việc trường có lỗi hay k trong quản lý hs.
- Điều 597 và Điều 600 khác với Điều 599: Điều 599 không được yêu cầu bồi hoàn.
- Trước đây trong BLDS 1995, thì trường và gia đình liên đới bồi thường, nhưng ngày
nay Điều 599 quy trách nhiệm hoặc cho gia đình hoặc cho trường, chứ k có liên đới
với nhau.
*Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại
- Nếu người mất năng lực hành vi dân sự mà được giao cho 1 pháp nhân trực tiếp
quản lý thì phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu người đó gây ra thiệt hại. Tương tự
như trường hợp người dưới 15 tuổi, pháp nhân chỉ chịu TNBT khi có lỗi trong quản
lý. Và ở đây pháp nhân cũng k được yêu cầu bồi hoàn.
II. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN GÂY RA
- Tài sản k phải là chủ thể nhưng khi gây ra thiệt hại thì phải quy trách nhiệm cho
người.
- BLDS trước đây là liệt kê những trường hợp do tài sản gây ra, chẳng hạn: BTTH do
gia súc gây ra, do cây cối gây ra, do công trình xây dựng gây ra,... Quy định như vậy
là chưa đầy đủ, vì vậy BLDS 2015 đưa ra quy định quét những trường hợp còn lại.
- Mặc dù thiệt hại do tài sản gây ra nhưng chủ thể liên quan k thể chịu trách nhiệm,
nếu do lỗi của người bị thiệt hại hay do bất khả kháng gây ra.
1. Trường hợp chịu trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra
*BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Điều 601
- Phạm vi áp dụng: Chế định này áp dụng khi thiệt hại do nguồn ngu hiểm cao độ gây
ra. Vì vậy phải xác định được thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ. BLDS đã cho biết
thé nào là nguồn nguy hiểm cao độ tại Khoản 1. Danh sách nguồn nguy hiểm cao độ
là danh sách liệt kê mở vì có thêm câu “các nguồn khác do pháp luật quy định”. Trên
thực tiễn thì chưa thấy trường hợp khác. Có 2 nguồn nguy hiểm cao độ phổ biến nhất:
phương tiện giao thông vận tải cơ giới (xe máy, xe ô tô, đường bộ, đường thủy) và hệ
thống tải điện.
- Chủ thể chịu trách nhiệm:
Trong thực tiễn, nguồn nguy hiểm cao độ là ô tô, xe máy thường xuyên được sử dụng
bởi con người và người sd k cẩn thận, gây thiệt hại => thiệt hại k thực sự do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra mà do người gây ra (k thể áp dụng Điều 601). Trong thực
tiễn xét xử thì Tòa án vẫn áp dụng chế định này cho thiệt hại do người gây ra nhưng
nguồn nguy hiểm cao độ là công cụ do người đó sd => Tòa án vẫn áp dụng chế định
này nhằm bảo vệ người bị thiệt hại (xác định cả thiệt hại do người gây ra và do tài sản
gây ra). Góc độ văn bản thì những trường hợp này k áp dụng nhưng thực tiễn vẫn áp
dụng chế định này. Nhiều tác giả cho rằng hướng giải quyết như vậy là sai. Tuy nhiên,
hướng của Tòa án như thế chưa thực sự tệ, sai nhưng không xấu vì bảo vệ cho nạn
nhân. Ở nước ngoài (Pháp) có quy định chuyên biệt về vấn đề này.
Theo khoản 2, chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này
phải bồi thường.
Khoản 4: BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật =>
người chiếm hữu, sd trái pháp luật là người chịu trách nhiệm. Tuy nhiên BLDS còn
quy trách nhiệm liên đới cho chủ thể cho chủ thể khác là chủ sở hữu hoặc người được
giao cho chiếm hữu sử dụng nếu người đó có lỗi.
*BTTH do súc vật gây ra
- Phạm vi áp dụng: chế định này áp dụng khi thiệt hại do súc vật gây ra tuy nhiên
BLDS lại chưa cho biết súc vật ở đây là gì. => Súc vật ở đây phải là tài sản. Trong
thực tiễn xét xử, Tòa án hiểu khái niệm súc vật theo khái niệm tương đối rộng. Chẳng
hạn khi trầu bò gây thiệt hại thì Tòa án coi trâu bò là súc vật. Vẫn trong thực tiễn xét
xử, khi con ngỗng gây thiệt hại, Tòa án cũng xác định đây là thiệt hại do súc vật gây
ra. Tương tự khi chó gây thiệt hại thì Tòa án cũng áp dụng chế định này. Chế định này
đã tồn tại ở VN từ rất lâu, trong thông tư 103/1972.
- Xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường: chủ sở hữu. Tuy nhiên, trong thực
tiễn rất khó để xác định ai là chủ sở hữu nên Tòa án phải dựa vào các chứng cứ gián
tiếp xác nhận chủ sở hữu.
- Trong BLDS trước đây, chúng ta chưa bàn tới trường hợp thiệt hại do súc vật gây ra
cho người chiếm hữu, sử dụng. BLDS 2015, nguyên tắc là chủ sở hữu nếu giao cho
người khác chiếm hữu, sd thì người được giao là người chịu trách nhiệm
- Khoản 3, tương tự nguồn nguy hiểm cao độ.
- Ngoài ra BLDS có bàn về trường hợp người thứ 3 hoàn toàn có lỗi.
*BTTH do thiệt hại do cây cối gây ra
- Có những trường hợp không được liệt kê nhưng cây vẫn gây ra thiệt hại, chẳng hạn
cây có rễ mọc lên làm hỏng tường nhà hàng xóm => không đổ, không gãy nhưng vẫn
gây thiệt hại
- Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường: trước đây quy định là chủ sở hữu => bất cập:
có những TH k rõ ai là chủ sở hữu. Thực tế: nếu cây thuộc đồng sở hữu thì các đồng
sở hữu cùng chịu TN.
*BTTH do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra
- Điều 605 BLDS 2015
- Đây cũng là TH thiệt hại do tài sản gây ra
- Đối tượng gây thiệt hại: công tình xây dựng. BLDS k định nghĩa nhưng có thể hiểu
đó là những thứ do con người tạo ra => những thứ gây thiệt hại do tự nhiên thì k phải.
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án hiểu công trình xây dựng tương đối rộng, có thể là nhà,
biển quảng cáo,... Trước đây, BLDS có liệt kê những tình huống mà công trình xd gây
ra thiệt hại: đổ, sụp, lở => Phương pháp liệt kê như vậy k ổn, bởi có những trường hợp
công trình xây ra thiệt hại nhưng k thuộc các điều trên.
- Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường: chủ sở hữu, hoặc người được giao chiếm hữu,
quản lý, sử dụng.
Lưu ý: Thực tế chủ sở hữu có thể có thay đổi, vậy chủ mới hay chủ cũ sẽ chịu TNBT?
=> xác định chủ sở hữu ở thời điểm gây thiệt hại => chuẩn về mặt pháp luật nhưng lại
bất lợi cho người bị thiệt hại.
Trong thực tế, khi công trình xây dựng gây thiệt hại thì có thể có lỗi của những người
tham gia thi công, xây dựng => ngoài chủ sở hữu thì có thể quy trách nhiệm cho người
khác hay không? => Trong BLDS trước đây thì luật k bàn về trách nhiệm liên đới, tuy
nhiên kinh nghiệm thực tiễn nước ngoài cho thấy việc đưa đơn vị thi công để chịu
trách nhiệm liên đới đã được chấp nhận.
BLDS bàn về trách nhiệm liên đới của người thi công nhưng thực tế cho thấy chủ thể
có lỗi có thể k phải là thi công: kiến trúc sư, những nhà cung cấp nguyên vật liệu,...
Do đó ngoài người thi công được quy định ở điều luật này, chúng ta còn có thể quy
trách nhiệm cho các chủ thể khác.
*BTTH do tài sản khác
- Trong thực tế, chúng ta vẫn có thể gặp những trường hợp khác. Ví dụ: A là chủ sở
hữu cát, cát bay ngoài đường bay vào mắt gây nguy hiểm cho người đi đường
=> Bổ sung quy định quét ở K3 Đ584 bàn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra và k giới hạn ở một tài sản cụ thể => do đó nếu 1 trường hợp gây thiệt hại
mà k nằm trong các quy định trên thì có thể áp dụng điều này.
2. Trường hợp KHÔNG phải BTTH do tài sản gây ra
- Có những TH tài sản gây ra thiệt hại, nhưng chủ sở hữu hay người chiếm hữu, quản
lý, sử dụng k phát sinh trách nhiệm bồi thường. Căn cứ theo K2 Đ584 thì có 2 trường
hợp:
*Do sự kiện bất khả kháng: K2 Đ584
- Để không chịu TNBT thì chúng ta phải chứng minh thực sự thiệt hại là do bất khả
kháng.
- Có 3 điều kiện:
1. Khách quan
2. không lường trước được
3. không thể khắc phục được
=> Cần cẩn thận khi dùng sự kiện, hệ quy chiếu để đánh giá
Ví dụ: A xây tường khi tường mới được xây xong thì có mưa lớn nên tường của A đổ
gây thiệt hại cho người hàng xóm là B. A có chịu TNBT không?
=> Đánh giá: k dựa vào mưa to gió lớn được, mà tường đổ mới gây thiệt hại cho B
nhưng có thể lường trước được và có thể tìm cách khắc phục được.
*Do người thiệt hại có lỗi hoàn toàn:
- Trường hợp này trong thực tế rất hiếm xảy ra
- BLDS k phân biệt thì lỗi ở đây có thể là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.
- Đối với nguồn nguy hiểm cao độ thì chỉ đối với lỗi cố ý (Đ601)
III. TRƯỜNG HỢP KHÁC VỀ BTTH
1. BTTH do làm ô nhiễm môi trường
- ô nhiễm ở đây có thể là môi trường đất, nước, không khí,...
- khi môi trường bị ô nhiễm thì có 2 dạng thiệt hại chính:
+ Thứ nhất, thiệt hại cho chính môi trường, BLDS k điều chỉnh, quy định tại
luật bảo vệ môi trường.
Đối tượng bị thiệt hại ở đây là môi trường, môi trường k phải chủ thể cũng k
thuộc sở hữu của 1 ai. Nếu môi trường bị ảnh hưởng trong cấp huyện, quận thì ủy ban
nhân dân huyện, quận yêu cầu. Vượt qua cấp huyện thì tỉnh yêu cầu, quá cấp tỉnh thì
bộ môi trường yêu cầu.
+ Thứ hại, thiệt hại cho người khác. Chẳng hạn: môi trường bị ô nhiễm, hoa
màu bị chết. Đối với trường hợp này thì áp dụng BLDS => ai bị thiệt hại thì người đó
được bồi thường.
=> Khi làm ô nhiễm môi trường thì k chỉ làm thiệt hại cho 1 người mà là nhiều người.
Rất nhiều nước yêu cầu kiện tập thể, để tiết kiệm hơn rất nhiều.
- Để áp dụng Đ602 thì phải chứng minh 2 yếu tố quan trọng:
+ Chứng minh được có sự việc làm ô nhiễm môi trường (tuy nhiên, MT k bất
biến mà luôn thay đổi);
+ Chứng minh thiệt hại do sự việc ô nhiễm môi trường đó gây ra (từ việc làm ô
nhiễm MT đến khi ô nhiễm thì có khoảng thời gian rất xa)
2. BTTH do xâm phạm đến quyền lợi của người tiêu dùng
- Điều 608
- Chế định này đã tồn tại trong BLDS 1995 nhưng rất ít cơ hội được áp dụng.
- Thông thường thiệt hại do hàng hóa gây ra, chẳng hạn khi mua dồ ăn về và bị ngộ
độc do đồ ăn. => k thuộc điều 608, mà theo quy định về hợp đồng nếu giữa người mua
và người bán có quan hệ hợp đồng.
Nếu A mua đem về cho C ăn mà C bị ngộ độc thì là qh ngoài hợp đồng => áp dụng
Đ608
- Đối với trường hợp này thì thiệt hại rất ít với 1 cá nhân. Nhưng nếu tính tổng số
người bị thiệt hại thì rất lớn. => Nên có cơ chế tập thể để tiết kiệm tiền kiện tụng.
- Để áp dụng Đ608 thì phải chứng minh được hàng hóa ấy k đảm bảo chất lượng, thực
tế cho thấy việc xác định hàng hóa k đảm bảo chất lượng k đơn giản.
- Trước đây chế định này áp dụng cho hàng hóa k đảm bảo chất lượng tuy nhiên ở
Đ608 thì chúng ta thấy bên cạnh hàng hóa có thêm từ “dịch vụ”
3. BTTH do xâm phạm thi thể
- Đ606
- Trong thực tế, việc xâm phạm tới thi thể rất phổ biến và một số ví dụ sau đây cho
thấy việc xâm phạm thi thể là rất phổ biến và nghiêm trọng. Vì vậy BLDS đã bổ sung
Đ606
- Thiệt hại được bồi thường:
+ Thiệt hại về vật chất (chi phí để khắc phục hạn chế thiệt hại) => hiện nay
chưa có bất kì hướng dẫn nào để xác định chi phí thực tế. Đối với chi phí mang tính
tâm linh thì không được bồi thường. Chi phí được bồi thường: chi phí tìm thi thể,...
+ Thiệt hại về tinh thần: giống như tính mạng được xâm phạm nhưng chỉ tối đa
30 tháng lương.
- Trong thực tế, xâm phạm tới thi thể cũng gắn liền với xâm phạm tính mạng.
? Vậy có được kết hợp xâm phạm thi thể với xâm phạm tính mạng không
=> BLDS k đề cập đến, cho nên ở góc độ văn bản chúng ta chưa có câu trả lời
- Ở góc độ thực tiễn xét xử, trong vụ án của bác sĩ Cát Tường, Tòa án xử lý: đối với
thiệt hại vật chất thì cho kết hợp với thiệt hại do tính mạng (tiền trợ cấp cho con, tiền
mai táng); Đối với tổn thất về tinh thần, Tòa án cho bồi thường 60 tháng lương nhưng
k thật sự rõ nét có được kết hợp hay không.
- Ở góc độ lý luận, đối với thiệt hại vật chất thì việc cho kết hợp là điều dễ hiểu và dễ
kết hợp; đối với thiệt hại tinh thần, tồn tại những tồn thất về tinh thần khác nhau đối
với xâm phạm tính mạng và xâm phạm thi thể, do tồn tại song song với nhau nên cho
kết hợp.
4. BTTH do xâm phạm đến mồ mã
- Đ607
- Thực tế cho thấy việc xâm phạm tới mồ mã rất phổ biến. Có thể là cố ý (ghét nhau,
trộm,...); Không cố ý (khi xây dựng công trình,...) => tương tự như thi thể, rất khó xác
định việc có xâm phạm tới tài sản hay xâm phạm đến chủ thể nào nên BLDS bổ sung
là hợp lý.
- Thiệt hại về vật chất: những chi phí ngăn chặn thiệt hại về vật chất => chưa có văn
bản hướng dẫn xác nhận => trong thực tiễn có thể là chi phí cho xây dựng lại mồ mã
hay chi phí cho mồ mã quay lại thực trạng ban đầu. BLDS k nói rõ bồi thường cho ai,
trong thực tiễn xét xử, người được bồi thường là gia đình có mồ mã bị xâm phạm,
nhưng người được bồi thường k giới hạn với gia đình có mồ mã mà ai bỏ ra chi phí
xây dựng mồ mã cũng được bồi thường.
- BLDS 2005 k nói tới tổn thất tinh thần nhưng vụ việc ở Hà Đông có khẳng định đến
có tổn thất tinh thần và áp dụng 10 tháng lương. BLDS 2015 bổ sung về bồi thường
tổn thất tinh thần.
+ mức tối đa: 10 tháng lương
+ tối đa ấy áp dụng cho 1 mồ mã bị xâm phạm.
+ bồi thường cho thứ tự hàng thừa kế.
BTTH ngoài hợp đồng tồn tại rất nhiều qua những VB chuyên môn khác, tùy vào đối
tượng bị xâm phạm, chủ thể bị xâm phạm.
PHẦN 3: TRÁCH NHIỆM BT CỦA NHÀ NƯỚC
I. KHÁI QUÁT
- So với TN dân sự nói chung thì trách nhiệm bồi thường của nhà nước xuất hiện
muộn hơn bởi lẽ nhà nước trước đây được thể hiện qua vua, mà vua thì không bao giờ
cho mình là sai -> k bao giờ chịu trách nhiệm cả. Tuy nhiên, tư duy về nhà nước đã
dần dần thay đổi, họ cho rằng nhà nước cũng phải bình đẳng với các chủ thể khác. Với
nhà nước pháp quyền thì nhà nước cũng phải tuân theo pháp luật -> khi sai vẫn phải
chịu TN. Ngày nay, rất nhiều hệ thống đã ghi nhận trách nhiệm bồi thường của nhà
nước, Việt Nam chúng ta cũng theo cơ chế này.
- Hiện nay, Việt Nam đã có chế định TNBT của nhà nước. Nội hàm trách nhiệm bồi
thường của nhà nước:
Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước có dùng từ ngữ lạ: TNBT mà không có từ
“thiệt hại”. Luật này ghi nhận ít nhất 3 loại TNBT của nhà nước:
+ Loại 1: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Với trách nhiệm này thì thiệt hại
đóng vai trò quan trọng, không có thiệt hại thì không làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường và mức độ trách nhiệm lệ thuộc vào thiệt hại. Thông thường, có thời hiệu khởi
kiện.
+ Loại 2: Trách nhiệm hoàn trả tài sản (Điều 30). Lúc này trách nhiệm là trả
lại tài sản cho người bị xâm phạm. Đặc tính của trách nhiệm này là KHÔNG lệ thuộc
vào thiệt hại. Thông thường không có thời hiệu khởi kiện.
+ Loại 3: Trách nhiệm phục hồi danh dự (Điều 31 và Điều 56 đến tt). Đặc
tính không lệ thuộc vào thiệt hại nên không cần chứng minh có thiệt hại. Thông
thường không có thời hiệu khởi kiện.
- ĐẶC ĐIỂM của các loại BTTH mà nhà nước phải chịu
+ Luật trách nhiệm BTTH của nhà nước chỉ đề cập đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người gây ra. Do đó, nếu thiệt hại do tài sản gây ra thì không áp dụng Luật
Trách nhiệm Bồi thường nhà nước mà áp dụng BLDS. Thiệt hại do người gây ra
nhưng không phải là người bất kỳ. Theo Điều 1 LBTTNCNN thiệt hại do người thi
hành công vụ gây ra và đối tượng này đã được khái quát tại khoản 2 Điều 3.
+ TNBT của nhà nước ở luật này có phạm vi bị giới hại ở 2 khía cạnh.
THỨ NHẤT, là hoạt động chịu sự điều chỉnh của luật này. Tại điều 1, luật này
chỉ liệt kê 3 hoạt động (quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án) => quy định này có
lỗ hở là nếu NN gây thiệt hại ở các hoạt động khác thì sao? Ví dụ: quân sự, lập
pháp,...
THỨ HAI, giới hạn về các hành vi trong lĩnh vực. Chẳng hạn liên quan đến thi
hành án thì luật chỉ đề cập đến thi hành án hình sự và dân sự thôi, k hề đề cập đến thi
hành án hành chính. Đối với những hành vi của người thi hành công vụ không được
liệt kê trong luật này thì xử lý ntn? => Trường hợp này không áp dụng được luật này
=> áp dụng BLDS. Tuy nhiên. Khi quay lại BLDS thì không rõ là đang quy trách
nhiệm cho người thi hành công vụ hay cho nhà nước? => Trong trường hợp này, nên
coi nhà nước như 1 pháp nhân, khi đó có thể áp dụng BTTH do người của pháp nhân
gây ra thì có thể quy trách nhiệm cho nhà nước.
- Các quy định BTTN của nhà nước đã tồn tại trong BLDS 1995. Đến 2003, QH ban
hành 1 nghị định trong nhà nước về vấn đề bồi thường do oan sai trong nhà nước. Đến
2009, có luật BT của NN => 2017 thì sửa đổi, bổ sung.
II. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC
Điều 7 Luật TNBTCNN
- Trên cơ sở Khoản 1 Điều 7, ta thấy căn cứ làm phát sinh TNBT của nhà nước có
những điểm tương đồng so với TNBTTT ngoài hợp đồng ở BLDS.
+ Thứ nhất, có phải hành vi gây thiệt hại
+ Thứ hai, có thiệt hại xảy ra do hành vi đó
+ Thứ ba, mqh nhân quả giữa hành vi và thiệt hại xảy ra
- Tuy nhiên, có điểm khác biệt:
+ Đây là hành vi của người thi hành công vụ khi thực hiện công vụ
+ Phải có văn bản xác định hành vi trái pháp luật rồi mới được quyền yêu cầu
bồi thường. Hoặc phải có lồng ghép với các vụ án dân sự, hình sự, hành chính (Điều
8, 9, 10, 11, 12) => Đòi hỏi như vậy rất bất lợi cho người bị thiệt hại, vì phải có thủ
tục xin văn bản xác định hvtpl.
+ Về thiệt hại: phải có thiệt hại theo quy định của luật này theo Điều 7 => nếu
k được quy định thì k được quyền áp dụng luật này.
III. CÁC NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
Điều 4 LTNBTCNN
- So với pháp luật dân sự thì chúng ta có một số nguyên tắc chung:
+ Thiện chí, trung thực, bình đẳng
+ Bồi thường kịp thời
+ Nếu người bị thiệt hại có lỗi thì không được bồi thường toàn bộ.
- So với luật dân sự thì luật TNBT của nhà nước cụ thể hơn: Tại điều 44, có quy định
tạm ứng kinh phí bồi thường; còn BLDS thì k rõ.
- Trong Luật TNBT của nhà nước không tồn tại một số nguyên tắc trong BLDS. Ví
dụ: nguyên tắc bồi thường toàn bộ, nguyên tắc người gây thiệt hại có khó khăn thì
được xin giảm một phần chi phí bồi thường,...
- Ngược lại, có những nguyên tắc không có trong BLDS nhưng có trong LTNBTCNN:
Theo khoản 4, nhà nước giải quyết yêu cầu bồi thường sau khi có văn bản xác định
hvtpl.
IV. THIỆT HẠI ĐƯỢC BỒI THƯỜNG
Cũng như luật dân sự, LTNBTCNN ghi nhận 2 loại thiệt hại được bồi thường, được
quy định tại Điều 22 đến Điều 32.
- THIỆT HẠI VẬT CHẤT:
+ Cơ bản giống luật dân sự. Chẳng hạn, khi bàn về tài sản bị xâm phạm thì dân
sự có tài sản bị mất, tài sản bị hư hỏng,... đây cũng là thiệt hại được bồi thường ở luật
TNNN;...
+ Ở đây chỉ là cơ bản tương đồng thôi, khi phân tích kĩ thì vẫn có sự khác biệt.
Chẳng hạn ở khoản 4 Điều 25 LTNBT, cả BLDS và luật này đều cho bồi thường chi
phí mai táng. Trong LDS thì là chi phí hơn lý còn trong luật này thì theo bảo hiểm xã
hội.
- TỔN THẤT TINH THẦN: Luật TNBT nhà nước tiến bộ hơn rất nhiều.
Ví dụ Điều 27, mức tổn thất về tinh thần có chi phí bồi thường cao hơn dân sự. Ở dân
sự là tối đa 100 mức lương cơ sở. Còn luật BTTHCNN thì xác định là 360 tháng
lương cơ sở.
V. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT BỒI THƯỜNG
- Nếu người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật dẫn đến vụ án hành chính, hình
sự -> yêu cầu giải quyết bồi thường có thể được lồng ghép với vụ án hành chính, hình
sự => được giải quyết luôn 1 lần, điều 55 luật này.
- Còn đối với ngoài tố tụng hành chính, ngoài tố tụng dân sự thì người bị thiệt hại phải
làm các bước sau đây:
+ Bước 1. Tiến hành khiếu nại để có văn bản xác định hvtpl
+ Sau bước 1 thì có 3 năm để yêu cầu bồi thường. Có 2 khả năng:
Hoặc yêu cầu cơ quan quản lý người thi hành công vụ giải quyết (người
làm trong ủy ban gây thiệt hại -> được quyền yêu cầu ủy ban nhân dân chịu tn)
=> nếu cơ quan đó k giải quyết thỏa đáng có thể yêu cầu ra tòa theo thủ tục dân
sự.
Hoặc có thể khởi kiện trực tiếp ra Tòa.
VI. HOÀN TRẢ SAU KHI BỒI THƯỜNG
TNBTTH của nhà nước là trách nhiệm dùng tiền ở ngân sách => sau khi bồi thường
cho người bị thiệt hại thì cơ quan quản lý người thi hành công vụ phải có TRÁCH
NHIỆM yêu cầu người thi hành công vụ gây ra thiệt hại hoàn trả khoản tiền đã bồi
thường.
Quy định Điều 64 -> Điều 72, lưu ý;
- Căn cứ phát sinh nghĩa vụ hoàn trả:
Người thi hành công vụ có lỗi gây thiệt hại. So với luật TNBTNN trước đây đã có sự
thay đổi, trước đây ở lĩnh vực thi hành hình sự, người thi hành công vụ phải có lỗi cố
ý -> theo hướng như vậy vì cho rằng trogn tố tụng hình sự phải phản ứng nhanh mà
phản ứng nhanh thì có thể gây thiệt hại. Ở luật 2017, không phân biệt mức độ lỗi, cứ
có lỗi phải hoàn trả.
- Mức hoàn trả (Điều 65), 2 căn cứ
+ mức độ lỗi của người thi hành công vụ
+ số tiền nhà nước đã bồi thường
=> Thực tế, nghĩa vụ hoàn trả này không thực sự phổ biến.
- Nghĩa vụ hoàn trả: ở đây là nghĩa vụ trả cho nhà nước 1 khoản tiền. Nghĩa vụ này có
thể được coi là nghĩa vụ mang tính chất tà sản. Tuy nhiên, ở luật 2017 lại coi đây là 1
nghĩa vụ mang tính chất nhân thân nhiều hơn (Điều 72)