You are on page 1of 22

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT

NGHĨA VỤ
Bộ môn: Hợp đồng và bồi thường ngoài hợp đồng
Giảng viên: PGS. Tiến sĩ Lê Minh Hùng
Lớp: CLC45C
Nhóm: 02
Danh sách thành viên:
Họ và tên MSSV Nhiệm vụ
Phan Gia Hân 2053801014001 Nhóm trưởng
Nguyễn Hoàng Lan 2053801014118 Thành viên
Nguyễn Thành Đạt 2053801014034 Thành viên
Lê Thị Tuyết Nhung 2053801015093 Thành viên
Vũ Quỳnh Trang 2053801015156 Thành viên

Võ Thị Cẩm Tú 2053801013185 Thành viên

Ngô Thị Quỳnh Trang 2053801015152 Thành viên

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 09 năm 2021

1
MỤC LỤC

MỤC LỤC
BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM……………………………………………….3
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN………….4
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN
TIỀN)…………………………………………………………………………..9
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN…………12
DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO……………………………………..21

2
BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM

Phan Gia Hân Vấn đề 1 (5 câu)


Lê Thị Tuyết Nhung

Nguyễn Hoàng Lan


Vấn đề 2 (5 câu)
Nguyễn Thành Đạt

Vũ Quỳnh Trang
Võ Thị Cẩm Tú Vấn đề 3 (10 câu)
Ngô Thị Quỳnh Trang

Nhận xét: Các bạn nộp bài đúng thời hạn, hoàn thành đúng yêu cầu được phân
công, sôi nổi đóng góp ý kiến trong quá trình thảo luận hoàn thành bài thảo
luận.

3
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN
1.1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Điều 574 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) quy định khái niệm “thực hiện
công việc không có ủy quyền” như sau:
“Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực
hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”
1.2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ?
- Cơ sở pháp lý: Điều 274, khoản 3 Điều 275 BLDS 2015.
- Giải thích: Điều 274 BLDS 2015 quy định: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một
hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao
vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc
không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ
thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”. Có thể thấy, bản chất của quá
trình thực hiện công việc có ủy quyền cũng là việc một bên tự nguyện thực
hiện công việc của người khác, vì lợi ích của người đó, ý thức rằng nếu không
có ai thực hiện công việc này thì người có công việc bị thiệt hại một số lợi ích
vật chất nhất định. Mục đích cuối cùng của hành vi này là nhằm mang lại lợi
ích cho người có công việc. Như vậy, quá trình này đương nhiên là căn cứ để
phát sinh nghĩa vụ cho cả hai bên.Trong trường hợp này, xuất phát từ yếu tố
chủ động và tự nguyện khi thực hiện công việc, pháp luật không buộc người
thực hiện tạo ra lợi ích thực tế, nhưng buộc người có công việc thực hiện
nghĩa vụ trả tiền thù lao, thanh toán các chi phí hợp lý mà người thực hiện
công việc đã bỏ ra, ngay cả khi kết quả công việc được thực hiện đó không
như ý muốn (theo Điều 576 BLDS 2015). Bên cạnh đó, thực hiện công việc
không có ủy quyền còn làm phát sinh nghĩa vụ thực hiện và nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại cho chính người thực hiện công việc. Bằng việc tự ý, tự
nguyện thực hiện phần việc của người khác, người thực hiện công việc sẽ có
những nghĩa vụ nhất định đối với chính công việc mình thực hiện, cũng như
với người có công việc được thực hiện (theo Điều 575, 577 BLDS 2015).
Tuy không bắt buộc phải tạo ra kết quả mà đối phương mong muốn đạt được,
bản thân người thực hiện công việc phải cố gắng thực hiện tốt nhất có thể, cũng như

4
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, v.v. để tránh trường hợp những quy định này
bị lợi dụng nhằm mục đích tiêu cực riêng.
1.3. Cho biết điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự
năm 2005 về chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền.
Nhìn chung, chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” ở BLDS 2015 so với
BLDS 2005 có hai điểm mới nổi bật như sau:
+ Thứ nhất, BLDS 2015 đã bỏ đi từ “hoàn toàn” khi quy định về khái niệm “thực
hiện công việc không có ủy quyền”. BLDS 2005 yêu cầu công việc được thực hiện
phải “ hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện ” (Điều 594 BLDS
2005). Cách quy định này có thể được hiểu theo hai nghĩa: “Nghĩa thứ nhất là người
thực hiện công việc hoàn toàn không có lợi ích trong công việc mà họ thực hiện và
tất cả phải vì lợi ích của người có công việc được thực hiện.” hoặc “Nghĩa thứ hai là
việc thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện
không ngoại trừ khả năng người tiến hành công việc cũng có lợi ích từ việc thực
hiện”.
Trong thực tiễn xét xử, đã có nhiều trường hợp người có công việc được thực
hiện dựa vào hai chữ “ hoàn toàn ” này để lý giải theo nghĩa thứ nhất, đưa ra cơ sở
rằng việc thực hiện không có ủy quyền đó vẫn có yếu tố vì lợi ích của người thực
hiện công việc. Đây là cách giúp người có công việc chối bỏ nghĩa vụ thanh toán của
mình, tạo nên bất cập lẫn thiệt thòi cho người thực hiện công việc trong quá trình xét
xử.
Chính vì vậy, việc BLDS 2015 bỏ đi hai chữ “hoàn toàn” là để củng cố cho cách
hiểu thứ hai, nhằm tăng cường bảo đảm quyền lợi cho người thực hiện công việc.
Đồng thời, đây cũng là cơ sở để Tòa án linh hoạt hơn trong việc xét xử các vụ việc
liên quan đến “ thực hiện công việc không có ủy quyền”, hạn chế tranh cãi, nhập
nhằng trong quá trình xét xử.
Thứ hai, BLDS 2015 đã phân định rõ đối tượng thực hiện công việc có ủy quyền
có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Tại khoản 4 Điều 575 quy định về “nghĩa vụ thực
hiện công việc” (Điều 595 BLDS 2005) và khoản 4 Điều 578 về “chấm dứt thực hiện
nghĩa vụ” (Điều 598 BLDS 2005), với sự xuất hiện của “cá nhân” và “pháp nhân”
(làm rõ các đối tượng “người thực hiện nghĩa vụ”). Việc bổ sung này góp phần tăng
thêm tính cụ thể, chi tiết của Bộ luật Dân sự, giúp cho quá trình xét xử được diễn ra
thuận lợi, chính xác và nhanh chóng hơn.
Như vậy, tuy không có nhiều điểm mới so với BLDS 2005, BLDS 2015 đã thành
công khắc phục điểm hạn chế (lỗ hổng) khi quy định về chế định “ thực hiện nghĩa
vụ không có ủy quyền”. Từ đó, BLDS 2015 đã củng cố bảo vệ quyền lợi cho người
thực hiện công việc, giúp Tòa án có cơ sở giải quyết tranh chấp một cách hợp lý, đưa
pháp luật dân sự Việt Nam phát triển bắt kịp xu hướng với luật pháp các nước tiến bộ
trên thế giới.

5
1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “ thực hiện công việc không có ủy
quyền ” theo Bộ luật Dân sự năm 2015? Phân tích từng điều kiện.
BLDS 2015 không có điều khoản riêng để quy định về điều kiện áp dụng chế
định “thực hiện công việc không có ủy quyền”. Tuy nhiên, từ khái niệm được
nêu ra ở Điều 574 BLDS 2015, chúng ta có thể suy ra những điều kiện cơ bản
sau đây:
Đối với người thực hiện công việc.
- Người thực hiện công việc không có nghĩa vụ:
Khi quy định người thực hiện công việc không có ủy quyền là “người không có
nghĩa vụ thực hiện công việc”, BLDS 2015 đã tạo ra hai hướng giải thích khác nhau.
Có quan điểm cho rằng, quy định này nói đến “người hoàn toàn không có nghĩa vụ
phải thực hiện công việc đó những đã thực hiện công việc đó”. Nghĩa vụ ở đây là
nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ do các bên thỏa thuận.
Song, cách hiểu này lại dẫn đến những bất cập nhất định trong thực tiễn xét xử.
Đơn cử như trường hợp “công việc được thực hiện theo yêu cầu của người thứ ba
hay theo thỏa thuận của người thứ ba, hay theo luật định”, thì chúng ta có được áp
dụng chế định này hay không? Trong nhiều vụ việc xảy ra trong thực tế, khi xảy ra
trường hợp như trên, Tòa án vẫn áp dụng chế định này để tiến hành xét xử. Như vậy,
cách hiểu phù hợp nhất cho điều kiện này phải là không có nghĩa vụ thực hiện “giữa
người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện”, mà không xét đến
sự tồn tại nghĩa vụ giữa người thực hiện với bên thứ ba hay theo luật định (nếu có).
Mặt khác, chúng ta cũng cần làm rõ rằng, nếu trong một số trường hợp người
thực hiện nghĩa vụ có căn cứ pháp luật, nhưng không biết về quy định pháp luật
tương ứng mà làm vì sự tự nguyện, lòng nhân ái, thì điều kiện “không có nghĩa vụ”
này còn được đảm bảo hay không?
 Có ý kiến cho rằng, BLDS 2015 đã có quy định về bồi thường thiệt hại do
tình thế cấp thiết để “tạo cơ chế ràng buộc người gây ra thiệt hại phải bồi
thường cho thiệt hại mà họ gây ra” (ở đây là người có công việc được thực
hiện với người thực hiện công việc). Song, giả sử như không thể chứng
minh được yếu tố “tình huống cấp thiết”, và thực hiện công việc đó vẫn
được xem là nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, thì trong khi tổ chức,
thực hiện công việc nếu có tốn kém chi phí, việc đơn phương tạm ứng tiền
riêng của mình để trả chi phí cũng có thể coi được là thực hiện công việc
không có ủy quyền.
- Thực hiện công việc một cách tự nguyện:
Một trong những điều kiện chủ chốt để xác định có nghĩa vụ phát sinh từ thực
hiện công việc không ủy quyền, là khi một chủ thể thực hiện công việc của người
khác. Xét trong tương quan với hành vi pháp lý đơn phương (cùng là hành động xuất

6
phát từ một phía), BLDS 2015 không đặt ra yêu cầu về năng lực chủ thể cho người
thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong khi đó, để hành vi pháp lý đơn
phương được pháp luật công nhận, nó phải đảm bảo thỏa điều kiện có hiệu lực của
một giao dịch dân sự theo điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS 2015:
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực dân sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
a. Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, năng lực
hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.
Như vậy, “ ai cũng có thể là người thực hiện công việc không có ủy quyền ”.
Mặt khác, thực hiện công việc không có ủy quyền lại đòi hỏi về tính “ tự nguyện
”, tương tự như quy định tại điểm b khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 về điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự: “ Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự
nguyện”. Điểm cần lưu ý ở đây là, nếu người thực hiện công việc một cách “ ngẫu
nhiên, không có chủ ý, hoặc thiếu tự nguyện (ví dụ do bị ép buộc hay nhầm lẫn)”, thì
sẽ không được xem là thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong trường hợp đó,
nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được thực hiện cho người thực hiện công
việc chỉ được phát sinh nếu người có công việc nhận được lợi ích (trong trường hợp
này được xem là không có căn cứ pháp luật). Đây là nghĩa vụ hoàn trả theo khoản 2
Điều 579 BLDS 2015, khác biệt với nghĩa vụ thanh toán của người có công việc
được thực hiện không có ủy quyền, được quy định tại Điều 576 Bộ luật này.
Đối với người có công việc được thực hiện:
- Không yêu cầu đối phương thực hiện công việc:
Điều kiện này có thể hiểu rằng giữa người thực hiện công việc và người có
côngviệc được thực hiện “không tồn tại một hợp đồng, không có ủy quyền”. Nếu
giữa hai bên đã có sự thỏa thuận trước đó, hoặc có thể hiện sự đồng ý song phương
thì “vẫn được xem như có sự tạo lập hợp đồng”. Mặt khác, trong trường hợp ban đầu
người có công việc không ủy quyền cho bên thứ ba nhân danh họ xác lập giao dịch
với người được thực hiện công việc, mà bên thứ ba vẫn xác lập giao dịch, sau đó
người có công việc mới biết và đồng ý, thì không được xem là “thực hiện công việc
không có ủy quyền”. Đây là trường hợp “xác lập giao dịch do không có quyền đại
diện”, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ với người được đại diện (mà ở đây là người có
công việc được thực hiện) theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015.
- “Không biết hoặc biết mà không phản đối”:
Đây là điều kiện được suy ra từ khái niệm ở Điều 574 BLDS 2015. Điều kiện
này tương ứng với khoản 1 Điều 578 Bộ luật này về Chấm dứt thực hiện công việc
không có ủy quyền theo yêu cầu của người có công việc được thực hiện. Trong
trường hợp bị phản đối mà vẫn tiếp tục thực hiện thì “không thuộc chế độ này”. Khi
đó, việc cố tình tiếp tục thực hiện có thể bị xem là hành vi “trái pháp luật”, phải bồi
thường thiệt hại dựa trên quy định tại khoản 7 Điều 8 BLDS 2015.

7
Bên cạnh đó, việc quy định “không phản đối” ở đây không đồng nghĩa với “đồng
ý”, vì không được quy định trong pháp luật dân sự hiện hành. Cần phân biệt rằng,
trong trường hợp xác lập giao dịch do không có quyền đại diện, luật quy định “người
được đại diện biết mà không phản đối trong thời hạn hợp lý” thì vẫn được xem là
“đồng ý”, “tức làm phát sinh hệ quả pháp lý với hành vi đại diện”. Như vậy, khác với
trường hợp “thực hiện công việc không có uỷ quyền” (chỉ cần có sự phản đối thì phải
chấm dứt thực hiện); việc phản đối một “giao dịch do không có quyền đại diện”
nhưng quá thời hạn (khi công việc đã được thực hiện gần xong hoặc xong) thì không
được chấp nhận, và giao dịch đó vẫn được xem là có hiệu lực. Có thể thấy rằng, điều
kiện “không phản đối” trong chế định “thực hiện công việc không có uỷ quyền” có
tínhtuyệt đối cao hơn hẳn các chế định khác.
Đối với công việc: “vì lợi ích của người có công việc”
Như đã phân tích ở câu 3, điểm mới khi quy định về vấn đề này giữa BLDS 2015
so với BLDS 2005 (bỏ đi chữ “hoàn toàn”), đã mở rộng phạm vi đối tượng nhận
được lợi ích từ việc “thực hiện công việc không có thẩm quyền”. Ở đây, pháp luật
dân sự không hạn chế sự lợi ích (nếu có) của người thực hiện công việc, bên thứ ba
hoặc cộng đồng. Tức là, chỉ cần đảm bảo “khi thực hiện công việc chủ yếu là vì lợi
ích của người có công việc, thì hành vi đó được coi là thực hiện công việc không có
uỷ quyền”.
Mặt khác, căn cứ xác định có tồn tại yếu tố lợi ích ở đây, không cần là một kết
quả xác định, phù hợp với mong muốn của người có công việc được thực hiện. Nói
cách khác, chỉ cần việc thực hiện công việc này xuất phát từ sự tự nguyện, nhằm đem
lại lợi ích cho người có công việc cần thực hiện, đảm bảo các quy định về nghĩa vụ
thực hiện công việc (quy định tại Điều 575 BLDS 2015), thì người có công việc phải
thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình, kể cả khi “công việc không đạt được kết quả
theo ý muốn của mình” (khoản 1 Điều 576 BLDS 2015).
1.5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có
thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy
định của chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong Bộ luật
Dân sự năm 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực
hiện nghĩa vụ theo quy định của chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”,
mà cụ thể ở đây là nghĩa vụ thanh toán theo Điều 576 BLDS 2015.
Cơ sở pháp lý: Điều 574 đến Điều 576 BLDS 2015.
Ở vụ việc trên, để chứng minh rằng A có nghĩa vụ thanh toán cho C theo quy
định tại Điều 576 BLDS 2015, ta cần làm rõ việc xây dựng công trình của C có thuộc
trường hợp “thực hiện công việc không có ủy quyền” hay không? Như lập luận phân
tích của nhóm trong câu 4, việc làm C đáp ứng đầy đủ các điều kiện để áp dụng chế
định “thực hiện công việc không có ủy quyền” (Điều 574 BLDS 2015).

8
- Về phía nhà thầu C:
+ Trong hợp đồng ký kết giữa B và C không nêu rõ B đại diện cho A, cũng như A
chưa từng ủy quyền cho B thực hiện giao kết hợp đồng này với C, chưa từng thể hiện
sự đồng ý của mình với giao dịch này (dữ liệu không hề đề cập đến việc C đồng ý).
Vì vậy, kể cả khi C và B đã cùng nhau thiết lập hợp đồng xây dựng, hợp đồng chỉ
làm phát sinh nghĩa vụ giữa B (bên thứ 3) và C, không hề có sự ràng buộc về nghĩa
vụ của C đối với A theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015. Điều này thỏa mãn yếu tố
người thực hiện công việc “không có nghĩa vụ thực hiện công việc”, vì nghĩa vụ phát
sinh giữa C (người thực hiện công việc) với B (bên thứ 3), nếu có, cũng không được
tính trong điềukiện này.
+ Đồng thời, C thực hiện công việc này mà không có bất kỳ sự ép buộc, cưỡng
chế nào từ phía A.
- Về phía chủ đầu tư A:
+ A thành lập ra Ban quản lý B để tiến hành xây dựng công trình công cộng. Song,
A lại không ủy quyền cho B để ký hợp đồng với nhà thầu là C. Như vậy, A chưa
từng yêu cầu C phải thi công xây dựng công trình mà mình mong muốn.
+ Nếu A không biết về vụ việc này cho đến khi C thực hiện xong công trình, A
nghiễm nhiên thỏa mãn điều kiện “không biết” theo quy định tại Điều 574 BLDS
2015. Tuy nhiên, với vai trò là chủ đầu tư, A hoàn toàn có khả năng biết và phải biết
về việc thi công công trình công cộng của C. Kể cả trong trường hợp đó, việc C có
thể xâydựng xong công trình chính là minh chứng cho điều kiện “biết mà không
phản đối” (Điều 576 BLDS 2015). Bởi vì, nếu như có bất kì sự phản đối nào từ A, C
đã phải chấm dứt thực hiện công việc theo quy định tại khoản 1 Điều 578 BLDS
2015.
- Về công việc mà C thực hiện:
Đây là công việc đem lại lợi ích cho A với tư cách là một chủ đầu tư dự án.
Chính vì điểm mới trong BLDS 2015 (bỏ đi chữ “hoàn toàn” khi quy định về vấn đề
này, kể cả khi C tiếp tục thực hiện công việc xuất phát một phần từ lợi ích của chính
mình, thì lợi ích lớn nhất khi công việc được hoàn tất vẫn thuộc về A. Khi lợi ích
phần lớn vẫn thuộc về người có công việc, thì dù cho người thực hiện công việc được
lợi một phần (như C được lợi từ hợp đồng với B), điều kiện “vì lợi ích của người có
công việc” (Điều 574 BLDS 2015) vẫn được công nhận.Như vậy, nếu C hoàn thành
xong công việc theo đúng nghĩa vụ của mình ghi nhận tại Điều 575 BLDS 2015, C
đương nhiên có quyền yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo quy định tại
Điều 576 BLDS 2015. Cần nhấn mạnh rằng, các chi phí hợp lý mà C đã bỏ ra trong
khi thực hiện công việc chắc chắn sẽ được hoàn trả mà không cần xét đến kết quả
công việc có đáp ứng nguyện vọng, mong muốn của A hay không (trong điều kiện C
đã làm hết khả năng của mình khi thực hiện công việc này). Thậm chí, A còn có thể

9
phải thanh toán thù lao cho C nếu việc thực hiện công việc của C được đánh giá là
“chu đáo” và “có lợi” cho A (khoản 2 Điều 576 BLDS 2015).
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN
TIỀN)
Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/03/2018:
- Vụ việc: Tranh chấp nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng chuyển nhượng nhà và
quyền sử dụng đất giữa: Cụ Ngô Quảng Bảng và bà Mai Hương
- Nguyên đơn: Cụ Ngô Quang Bảng
- Bị đơn: Bà Mai Hương
- Tại bản án số 03/2015/DS-ST ngày 8/6/2015, Tòa án quyết định: Buộc bà Mai
Hương phải trả tổng số tiền 2.710.000 đồng, trong đó tiền gốc là 1.000.000
đồng, tiền lãi 1.710.000 đồng.
- Tại bản án số 38/2015/DS-PT ngày 22/09/2015 quyết định: Không chấp nhận
kháng cáo của cụ Ngô Quang Bảng, giữ nguyên bản án sơ thẩm
- Nhận định của của Tòa án: Năm 1991 cụ Bảng chuyển nhượng đất và nhà cho
bà Hương với tổng diện tích 1.010m2 số tiền là 5.000.000 đồng.Bà Hương trả
trước 3.000.000 đồng, ngày 16/4/1992 bà Hương trả tiếp 1.000.000 đồng còn
nợ lại 1.000.000 đồng. Căn cứ vào các giấy biên nhận tòa xác định bà Hương
còn nợ 1.000.000 đồng tương đương 1/5 giá trị đất. Do đó bà Hương phải
thanh toán số nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm
xứt xử sơ thẩm, và cách giải quyết của tòa sơ thẩm và phúc thâm là không
đúng và không bảo vệ được quyền lợi của đương sư.Dó đó, kháng nghi của
chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội là có căn cứ
- Quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Bà Hương phải thanh
toán cho cụ Bảng số nợ tương đương 1/5 giá trị nhà đất theo định giá tại thời
điểm xét xử sơ thẩm.
2.1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như
thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Theo thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao,
Việt kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn về việc xét xử
và thi hành án về tài sản cho phép tính lãi giá trị khoản tiền phải thanh toán như sau:
Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền
lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi,
tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
+ Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày
1/7/1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến
thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các
khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt
là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo

10
đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về
tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.
+ Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1/7/1996
hoặc tuy xảy ra trước ngày 1/7/1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây
thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không
tăng hay tuy có hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm
trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự,
trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử toà án chỉ
quyết định mức tiền cụ thể mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói
trên.
Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các
khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước
quy định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp toà án đều không phải quy đổi
các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh
toán số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao dịch cho
đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy
định.
 Qua Thông tư trên, chúng ta thấy rằng tài sản trung gian được dùng để tính lại
giá trị khoản tiền phải thanh toán là giá gạo.
2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và
thi hành án về tài sản ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền là:
- Trong tình huống này, thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa ông Qưới và
bà Cô trước ngày 1/7/1997. Bên cạnh đó, trong thời gian gây ra thiệt hại và phát sinh
nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm gia gạo đã tăng quá 20%.
+ Sau đó ta quy đổi khoản tiền thế chân 50.000đ ra gạo với giá trị tại thời điểm
phát sinh nghĩa vụ: 50000 : 137 = 365 kg.
+ Chúng ta tính 365kg gạo thành tiền theo giá tại thời điểm bà Cô yêu cầu ông
Qưới hoàn lại tiền thế chân: 365 . 9000 = 3.285.000đ.
→ Vậy số tiền ông Quới phải trả cho bà Cô là 3.285.000đ.
2.3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không?
Vì sao?

11
- Thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
- Vì đối tượng điều chỉnh của Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng
dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản và các quy định liên quan khác chỉ điều
chỉnh 2 TH:
+ Đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là tiền, vàng.
+ Đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là hiện vật.
2.4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán cho
cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
- Đối với tình huống trỏng Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng cụ
thể là 339.552.000đ
- Vì theo nhận định của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội: “ bà Hương phải
thanh toán cho cụ Bảng số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá
tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục
2, phần II Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao”.
2.5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. Đấy là
quyết định GĐT-09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ án tranh chấp nhà đất và đòi
nợ”:
- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Lại.
- Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân.
- Nội dung vụ án: Năm 1994 bà lại cho ông Xuân vay 11.500.00đ (giấy ghi nợ
không ghi rõ ngày tháng năm những hai bên đều thống nhất thời gian cho vay
là năm 1994)
+ Ngày 12/02/1996 bà Lại cho ông Xuân vay tiếp 128.954.00đ.
+ Ngày 08/8/1996, hai bên thống nhất số tiền nợ (lẫn lãi) là 188.600.000đ, đồng
thời thỏa thuận chuyển nhượng căn nhà số 19 Chu Văn An cho bà Lai với giá
188.600.00đ. Do vợ chồng ông Xuân không thanh toán nợ và không giao nhà mà vẫn
quản lý ngôi nhà nên bà Lai vẫn tính lãi của số tiền trên.

12
+ Ngày 05/8/1997, vợ chồng ông Xuân và vợ chồng bà Lại tiếp tục chố nợ gốc
vầ lãi từ 188.600.000đ lên 250.000.000đ; hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng
quyền sự dụng đất với giá 250.000.000đ trong thời gian 2 tháng thành 6.000.000 để
cộng dồn vào số tiền 44.000.000đ bà Lai đã cho ông Xuân vay vào ngày 6/11/1997
thành 50.000.000đ
 Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
- Vụ tranh chấp phải giải quyết cả hai quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà
đất.
- Xác minh, thu thập các chứng cứ chứng minh rằng liệu thủ tục làm giấy tờ
mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có theo quy trình pháp luật
quy định hay không.
- Trường hợp xác định được việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất là hợp pháp
và bên mua chưa trả đủ tiền thanh toán thì phần còn thiếu sẽ được đính kèm
thông qua giá trị của tài sản chuyển nhượng tại thị trường địa phương tại thời
điểm xét xử. Đây chính là nội dung của tiền lệ cho hướng giải quyết của Tòa
án nhân dân cấp cao.
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN
Nghiên cứu:
- Điều 370 và Điều 371 BLDS 2015 (Điều 315, 316, 317 BLDS 2005) và các
quy định liên quan (nếu có);
- Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Châu
Đốc, tỉnh An Giang.
Đọc:
- Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương
1;
- Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb.
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2020 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 61-
64;
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Tóm tắt bản án 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã
Châu Đốc, tỉnh An Giang:
Về vụ việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản, bà Tú từ đầu năm 2003 vay của
Ngân hàng cho bà Phùng Thị Ngọc Phượng vay lại số tiền 555.000.000đ, có biên
nhận, lãi suất 1.8%/tháng. Đến tháng 4 năm 2004 sau khi đã trả hết số tiền đó bà tiếp
tục vay thêm 615.000.000đ lại suất 1.8%/tháng, thời hạn vay 12 tháng. Đến tháng 4
năm 2005, bà Tú vay nóng giúp bà Phượng trả cho Ngân hàng khi đến hạn và giảm
lãi suất xuống 1.3%. Bà Tú tiếp tục nhận lãi đến tháng 5 năm 2005 thì bà Phượng
không trả lãi như đã thoả thuận. Đồng thời vào thời điểm ngày 12/5/2005 bà Tú đã
13
chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh. Do đó, Toà xét thấy việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán
nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận và bà Tú phải hoàn trả lại cho bà Phượng
giấy chứng mình hải quan. Cuối cùng, Toà quyết định : Buộc bà Phùng Thị Bích
Ngọc có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị Cẩm Tú số tiền 651.981.000đ.
3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?

14
Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ

Cơ sở pháp lý Điều 365, điều 370 BLDS 2015 Điều 371, điều 372 BLDS 2015

- Có ít nhất ba chủ thể


- Đều dẫn tới hiệu quả pháp lý là làm thay đổi chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ,
theo đó, chấm dứt tư cách chủ thể của chủ thể đã chuyển giao, xác lập tư
Giống nhau cách chủ thể của chủ thể cho người nhận chuyển giao.
- Đều được thể hiện bằng văn bản hoặc lời nói.
- Không được chuyển giao khi quyền yêu cầu/nghĩa vụ gắn liền với nhân thân
của bên chuyển giao.

Đối
tượng
có Bên có quyền là người có quyền Bên có nghĩa vụ là người thực hiện việc
quyền chuyển giao. chuyển giao.
chuyển
giao
Việc chuyển giao quyền yêu cầu
không cần sự đồng ý của bên có nghĩa
Nguyên vụ.
tắc Người chuyển giao quyền yêu cầu Việc chuyển giao nghĩa vụ bắt buộc phải
chuyển phải thông báo bằng văn bản cho bên được bên có quyền đồng ý.
giao có nghĩa vụ về việc chuyển giao
Khác
nhau quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.

Hiệu
lực của Trường hợp quyền yêu cầu thực hiện
Biện pháp bảo đảm chấm dứt khi nghĩa vụ
biện nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì
có biện pháp bảo đảm được chuyển giao,
pháp việc chuyển giao yêu cầu bao gồm cả
trừ
bảo biện pháp bảo đảm đó.
đảm

15
3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho
bà Tú?
Thông tin trong bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú là:
“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực
tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và theo biên
nhận ngày 27/4/2004 thì thể hiện bà phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền
615.000.000đ. Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc
thỏa thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào
tháng 4 năm 2004, do phía bà Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà
Tú để trả vốn vay ngân hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền
trả cho ngân hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú”.
3.3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn trong bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh: “ Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà
Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện
qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng
cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể
từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì
nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ
của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký”.
3.4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
Căn cứ khoản 1 Điều 370 BLDS 2015: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao
nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp
nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định
không được chuyển giao nghĩa vụ”.
Tuy văn bản pháp luật không nêu rõ hình thức chuyển giao nghĩa vụ là gì, nhưng
đọc bán án, xét thấy bà Tú đã đồng ý cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh, và bà Tú cũng đã lập hợp đồng cho vay đối với bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh. Vì vậy đánh giá của Toà án là có căn cứ.
3.5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa
vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khoản 2 Điều 370 BLDS 2015 quy định: “Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì
người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”. Điều luật này không nói rõ bên có
nghĩa vụ ban đầu có còn phải chịu trách nhiệm hay không. Nhưng căn cứ vào Điều
283 BLDS 2015: “Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền
cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với
bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa

16
vụ”, thì lại thấy rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn phải chịu trách nhiệm với người
có quyền nếu bên thứ ba không thực hiện nghĩa vụ. Vậy nên ta sẽ chia thành hai
trường hợp:
1. Người có nghĩa vụ ban đầu vẫn còn trách nhiệm đối với người có quyền: điều
này sẽ xảy ra khi người thế nghĩa vụ không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ.
Lúc này người có nghĩa vụ ban đầu vẫn sẽ chịu trách nhiệm đối với người có
quyền về việc thực hiện nghĩa vụ của người thế quyền (Khoản 2 Điều 370
BLDS 2015).
2. Người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền:
điều này có nghĩa là, sau khi được người có quyền chấp thuận thì trách nhiệm
của người có nghĩa vụ ban đầu với người có quyền sẽ chấm dứt, đồng thời
người thế nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm độc lập trong việc thực hiện nghĩa
vụ đối với người có quyền. Mặc dù BLDS hiện hành chưa có quy định rõ về
vấn đề này, tuy nhiên thực tiễn xét xử cho thấy, Tòa án đã giải phóng cho
người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Điều này có
thê ngầm hiểu thông qua việc quy định chuyển giao nghĩa vụ cần có sự đồng ý
của người có quyền. Bởi nếu hiểu theo nghĩa người có nghĩa vụ ban đầu vẫn
còn trách nhiệm đối với người có quyền thì việc quy định chuyển giao nghĩa
vụ cần có sự đồng ý của bên có quyền sẽ trở nên không cần thiết vì dù sao,
người có nghĩa vụ ban đầu vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa
vụ của người thế nghĩa vụ.
3.6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả
mà anh/chị biết.
- Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao
- Quan điểm của PGS.TS Đỗ Văn Đại là: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban
đầu vẫn có trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau
giữa chuyển giao nghĩa vụ với thực “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ
ba”. Do vậy, để chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện
nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải
phóng người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có bên có thỏa thuận khác”. Để chứng
minh quan điểm trên tác giả đã đưa ra ví dụ cụ thể như hướng giải quyết bằng trọng
tài thương mại trong vụ việc Công ty Việt Nam và công ty Hồng Kông hay quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm trong Bản án số 913/2006/DS-PT ngày 06-09-2006 của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó tác giả một lần nữa khẳng
định “khi có chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận thì người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm với người có quyền đối với nghĩa vụ hay phần nghĩa vụ được

17
chuyển giao” thông qua hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định
số 361/2019/DS-GĐT ngày 13-8-2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
- Tác giả phân tích thêm “Trong trường hợp người có nghĩa vụ cam kết với bên
có quyền với nội dung đến hạn nghĩa vụ, người nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện
không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ, người với nghĩa vụ ban đầu thực hiện nghĩa vụ
thay người nghĩa vụ tư cách chủ thể người có nghĩa vụ ban đầu xác định người có
bảo lãnh cho việc thực hiện nghĩa vụ”
 Từ quan điểm trên cho ta thấy rõ người có nghĩa vụ ban đầu không có trách
nhiệm bên có quyền hai bên
- Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài: “trên cơ sở thỏa thuận, với sự đồng ý của
bên có quyền, người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành người có
nghĩa vụ mới hay gọi là người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ
mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu
lực, người có quyền chỉ được phép yêu cầu người thế nghãi vụ thực hiện nghĩa vụ
nên người đã chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ”. Bên cạnh đó, khi đặt hai chế định chuyển giao nghĩa
vụ và thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba lên bàn cân so sánh, tác giả
nhận định “đối với việc ủy quyền, người được ủy quyền không thể trở thành một bên
chủ thể độc lập trong quan hệ nghĩa vụ chính mà người này chỉ được thực hiện nghĩa
vụ theo sự ủy quyền của người ủy quyền, nhân danh người ủy quyền và vì lợi ích
người ủy quyền”.
3.7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn trong phần Xét thấy của bản án cho thầy Tòa án theo hướng người có
nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền: “Xét hợp đồng vay
tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ
vay….Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Phương
và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm
phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng
vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phương có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là
không có căn cứ chấp nhận”.
“Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía bà
Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại cho bà Phượng
giấy chứng minh Hải quan”.
3.8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
- Xét về điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý:

18
Sự đồng ý của bên có quyền là điều kiện cần thiết để chuyển giao nghĩa vụ theo
thỏa thuận có giá trị pháp lý, cũng như để đảm bảo quyền lợi của bên có quyền.
Không chỉ pháp luật nước ta mà pháp luật nước ngoài cũng xây dựng chế định tương
tự để quy định về vấn đề này.
+ Điều 9.2.3 Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Việc chuyển giao nghĩa vụ theo
thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải có sự đồng
ý của người có quyền”
+ Khoản 1 Điều 12:101 Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng châu Âu (PECL) về hợp
đồng quy định: “ Với sự đồng ý của người có quyền và người có nghĩa vụ, người thứ
ba có thể cam kết thay thế người có nghĩa vụ”
- Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan:
Thực tế cho thấy, quy định trong các hệ thống Luật tương đối khác nhau. Ở Châu
Âu, một số nước quy định người có nghĩa vụ ban đầu được giải phóng hoàn toàn
nhưng một số nước lại quy định ngược lại theo hướng người thứ ba là người có nghĩa
vụ bổ sung.
+ Theo Điều 9.2.5 của Bộ nguyên tắc Unidroit:
“1) Người có quyền có thể giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu
2) Người có quyền cũng có thể quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là
người có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới không thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình.
3) Trong mọi trường hợp khác, người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa
vụ mới phải liên đới chịu trách nhiệm”
Như vậy theo khoản 1, người có quyền có thể giải phóng hoàn toàn nghĩa vụ cho
người có nghĩa vụ ban đầu. Khoản 2 có nghĩa là người có quyền có thể lựa chọn một
khả năng khác, đó là chấp thuận việc chuyển giao nghĩa vụ mới, nhưng người có
quyền cũng có thể bảo lưu quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu. Khoản
3 thể hiện rõ là giải pháp cuối cùng cũng là giải pháp được áp dụng trong trường hợp
người có quyền không có quyền quyết định nào. Nói cách khác nếu người có quyền
không nêu rõ ý định giải phóng, người có nghĩa vụ ban đầu cũng không quyết định là
người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải chịu trách nhiệm liên đới
về việc thực hiện nghĩa vụ.
Tuy nhiên theo Bộ nguyên tắc hợp đồng châu Âu thì việc chuyển giao nghĩa vụ
giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu (Điều 12:101): “Người có nghĩa vụ ban đầu
không bị rang buộc bởi các nghĩa vụ của họ”
3.9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Theo tôi, hướng giải quyết trên của Toà án là hoàn toàn hợp lý. Vì những lý do sau:

19
 Thứ nhất:
Căn cứ Điều 370 BLDS 2015:
“ 1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu
được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của
bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có
nghĩa vụ”.
Tuy Điều 370 BLDS 2015 chưa xác định rõ nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã
hoàn toàn mất đi hay chưa, nhưng có thể nhận định hành vi pháp lý chuyển giao
nghĩa vụ từ bà Phượng - bên có nghĩa vụ sang bà Ngọc,bà Loan và ông Thạnh – bên
thế nghĩa vụ là hợp pháp và có cơ sở chấp nhận. Do đã được bà Tú – bên có quyền
đồng ý thể hiện qua việc “ bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền
465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào
ngày 12/5/2005”.
 Thứ hai:
Chính phiên toà đã phân định và trả lời được câu hỏi sau khi chuyển giao nghĩa vụ
bà Phượng có còn trách nhiệm với người có quyền là bà Tú hay không. Đáp án thể
hiện rất rõ ở chỗ “Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc,
bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm
dứt…Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không
có căn cứ chấp nhận” và “ Phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc
bà Tú hoàn trả lại cho bà Phượng giấy chứng minh Hải quan”. Có nghĩa là bà
Phượng không còn bị ràng buộc hay còn bất kì nghĩa vụ nào với bà Tú.
 Thứ ba:
Nếu không theo hướng giải quyết của Toà – nghĩa vụ của bà Phượng hoàn toàn
mất đi, thì ta sẽ không thể thấy “chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với
chế định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba”.
 Từ đó, có thể thấy rằng pháp luật dân sự khi đào sâu vào chi tiết khó tránh khỏi
còn nhiều kẽ hở.

3.10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người
thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh sẽ chấm dứt.
Cơ sở pháp lý: Điều 335, Khoản 1 Điều 343, Điều 371 BLDS 2015

20
Theo Điều 335 BLDS 2015:
1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa
vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Khi “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp
bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác” ( Điều 371 BLDS 2015).
Bên cạnh đó, Khoản 1 Điều 343 BLDS 2015 cũng xác định rõ: “Bảo lãnh chấm dứt
trong trường hợp sau đây:
1. Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt.”
Và trong trường hợp này khi nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm của bà Phượng đối với
bà Tú đã được chuyển giao và nghĩa vụ của bà Phượng – được bảo lãnh đã chấm dứt
nên biện pháp bảo đảm sẽ chấm dứt.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Bộ luật Dân sự năm 2005.
2. Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Thông tư liên tịch 01/TTLT của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân
tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài
sản.
GIÁO TRÌNH
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ
sung), Đỗ Văn Đại, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
SÁCH
21
1. Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam –
Bản án và Bình luận bản án (Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba) (Tập 1), Nxb.
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
2. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Sách tình huống Pháp luật
hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Bình luận án), Lê Minh Hùng,
Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.

22

You might also like