You are on page 1of 25

KHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

LỚP: CLCQTL45B
BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG
CHỦ ĐỀ: NGHĨA VỤ
Bộ môn: Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Giảng viên: DS-Đặng Thái Bình
Nhóm: 04
Danh sách thành viên:

STT HỌ VÀ TÊN MSSV LỚP

1 Nguyễn Ngân Hà 2053401020045 CLCQTL45B

2 Nguyễn Việt Hà 2053401020049 CLCQTL45B

3 Phạm Trần Nguyên Khiêm 2053401020084 CLCQTL45B

4 Nguyễn Huỳnh Khánh Linh 2053401020096 CLCQTL45B

5 Nguyễn Uyên Phương 2053401020169 CLCQTL45B

6 Đặng Thị Ngọc Tài 2053401020184 CLCQTL45B

7 Ngô Minh Thùy 2053401020212 CLCQTL45B


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

STT HỌ VÀ TÊN NHIỆM VỤ ĐÁNH GIÁ

Hoàn thành tốt, nộp bài


1 Nguyễn Ngân Hà
Vấn đề 1 (3 câu) đúng hạn.

Hoàn thành tốt, nộp bài


2 Nguyễn Việt Hà
đúng hạn.

Phạm Trần Nguyên Vấn đề 2 + 3 ( 5 câu) Hoàn thành tốt, nộp bài
3
Khiêm + Tổng hợp và chỉnh đúng hạn.
sửa thể thức.

Nguyễn Huỳnh Khánh Hoàn thành tốt, nộp bài


4
Linh đúng hạn.

Hoàn thành tốt, nộp bài


5 Nguyễn Uyên Phương
Vấn đề 3 (7 câu) đúng hạn.

Hoàn thành tốt, nộp bài


6 Đặng Thị Ngọc Tài
đúng hạn.

Vấn đề 3 (7 câu) + Hoàn thành tốt, nộp bài


7 Ngô Minh Thùy
Tổng hợp đúng hạn.
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN
TÌNH HUỐNG:
Chủ đầu tư A lập ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một công trình công
cộng. Khi triển khai, B đã kí hợp đồng với nhà thầu C mà không nêu rõ trong hợp đồng B
đại diện A và cũng không có ủy quyền của A. Trong khi đó, theo quy định, B không được
tự ký hợp đồng với C vì đây là công việc của chủ đầu tư A (thực tế ban quản lý dự án B
không có nhiều tài sản để thanh toán cho C).
TRẢ LỜI CÂU HỎI:
1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
CSPL: Điều 574 BLDS 2015
Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực
hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công
việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.
2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?
CSPL: Điều 274 và khoản 3 Điều 275 BLDS 2015
Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có
nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện
công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều
chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Và khoản 3 điều 275 BLDS 2015 quy
định về Căn cứ phát sinh nghĩa vụ: “3. Thực hiện công việc không có ủy quyền.”
Thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ là bởi vì nó
được xuất phát từ sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Về bản chất, khi một
người không có nghĩa vụ phải đi thực hiện công việc của người khác mà họ tự nguyện
thực hiện thì quan hệ nghĩa vụ sẽ phát sinh giữa người có công việc và người thực hiện
công việc. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ tương xứng với nhau.
Trong trường hợp này, xuất phát từ yếu tố chủ động và sự tự nguyện khi thực hiện
công việc, pháp luật không buộc người thực hiện công việc không có ủy quyền tạo ra lợi
ích thực tế đúng theo mong muốn của người có công việc nhưng buộc người có công việc
được thực hiện phải có nghĩa vụ thanh toán các chi phí hợp lý cho người thực hiện công
việc không có ủy quyền đã bỏ ra, ngay cả khi kết quả công việc được thực hiện đó không
như ý muốn (Điều 576 BLDS năm 2015).
Bên cạnh đó, việc thực hiện công việc không có ủy quyền cũng làm phát sinh
nghĩa vụ thực hiện và nghĩa vụ bồi thường đối với người thực hiện công việc. Bằng việc
tự ý, tự nguyện thực hiện phần việc của người khác, người thực hiện công việc phải có
những nghĩa vụ nhất định đối với công việc mình thực hiện cũng như đối với người có
công việc được thực hiện (căn cứ theo Điều 575, 577 BLDS năm 2015). Tuy không bắt
buộc phải tạo ra kết quả hoàn hảo theo ý nguyện của người có công việc được thực hiện,
nhưng người thực hiện công việc phải cố gắng thực hiện tốt nhất có thể cũng như chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu cố ý hoặc vô ý gây ra thiệt hại để tránh trường hợp
những quy định này bị lợi dụng nhằm mục đích tiêu cực riêng.
3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện công
việc không có ủy quyền”

BLDS 2005 BLDS 2015

KHÁI - Điều 594 quy định: - Điều 574 quy định:


NIỆM "Thực hiện công việc không có ủy "Thực hiện công việc không có ủy quyền
quyền là việc một người không có là việc một người không có nghĩa vụ
nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện
tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn thực hiện công việc đó vì lợi ích của
toàn vì lợi ích của người có công việc người có công việc được thực hiện khi
được thực hiện khi người này không người này không biết hoặc biết mà
biết hoặc biết mà không phản đối". không phản đối"
Trên thực tế, đã có nhiều trường hợp
người có công việc được thực hiện dựa
vào hai chữ “hoàn toàn”, đưa ra cơ sở
cho rằng việc thực hiện không có ủy
quyền đó vẫn có yếu tố vì lợi ích của
người thực hiện công việc. Đây là một
kẽ hở giúp người có công việc được thực
hiện chối bỏ nghĩa vụ thanh toán chi phí
của mình, tạo nên những bất cập lẫn
thiệt thòi cho người thực hiện công việc
trong quá trình xét xử.
=> Việc bỏ đi cụm từ “hoàn toàn” ở
BLDS 2015: là để củng cố cho cách
hiểu “Việc thực hiện công việc
hoàn toàn vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện nhưng
không ngoại trừ khả năng người
tiến hành công việc cũng có lợi ích
từ việc thực hiện.”
=> Nhằm tăng cường sự bảo đảm về
quyền lợi cho người thực hiện công việc,
hạn chế tối đa sự nhập nhằng trong quá
trình xét xử.

- Điều 595 quy định: - Điều 575 quy định:


3. Người thực hiện công việc 3. Người thực hiện công việc không
không có ủy quyền phải báo cho có ủy quyền phải báo cho người có
người có công việc được thực hiện công việc được thực hiện về quá
về quá trình, kết quả thực hiện trình, kết quả thực hiện công việc
công việc nếu có yêu cầu, trừ nếu có yêu cầu, trừ trường hợp
trường hợp người có công việc đã người có công việc đã biết hoặc
biết hoặc người thực hiện công người thực hiện công việc không có
việc không có ủy quyền không biết ủy quyền không biết nơi cư trú hoặc
NGHĨA
nơi cư trú của người đó.” trụ sở của người đó.” Người thực
VỤ
hiện không có ủy quyền có thể là tổ
THỰC
chức chứ không chỉ là cá nhân nên
HIỆN thêm cụm trụ sở.
4. Trong trường hợp người có công
4. Trường hợp người có công việc được
việc được thực hiện chết thì người thực
thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc
hiện công việc không có ủy quyền phải
chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân thì
tiếp tục thực hiện công việc cho đến
người thực hiện công việc không có ủy
khi người thừa kế hoặc người đại diện
quyền phải tiếp tục thực hiện công việc
của người có công việc được thực hiện
cho đến khi người thừa kế hoặc người
đã tiếp nhận.
đại diện của người có công việc được
thực hiện đã tiếp nhận.

CHẤM - Điều 598 quy định: - Điều 578 quy định:


DỨT 4. Người thực hiện công việc không có 4. Người thực hiện công việc không có
THỰC ủy quyền chết. ủy quyền chết, nếu là cá nhân hoặc
HIỆN chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân.”

- Bổ sung thêm Điều 686


“Các bên được thỏa thuận lựa chọn
THỰC pháp luật áp dụng cho việc thực hiện
HIỆN công việc không có ủy quyền. Trường
CÔNG hợp không có thỏa thuận thì pháp luật
VIỆC áp dụng là pháp luật của nước nơi
thực hiện công việc không có ủy
quyền.”

Không quy định rõ đối tượng thực Đối tượng thực hiện công việc có
hiện công việc có uỷ quyền. ủy quyền có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân. Quy định tại khoản 4
Điều 575 BLDS 2015 quy định về
“nghĩa vụ thực hiện công việc”
(Điều 595 BLDS 2005) và khoản 4
Điều 578 BLDS 2015 về “chấm dứt
thực hiện nghĩa vụ” (Điều 598
BLDS 2005).
=> Việc bổ sung này góp phần tăng
ĐỐI thêm tính cụ thể, chi tiết của Bộ luật
Dân sự, giúp cho quá trình xét xử được
TƯỢNG
diễn ra thuận lợi, chính xác và nhanh
chóng hơn, khắc phục điểm hạn chế (lỗ
hổng) khi quy định về chế định “thực
hiện nghĩa vụ không có ủy quyền”. Từ
đó, BLDS 2015 đã củng cố bảo vệ
quyền lợi cho người thực hiện công
việc, giúp Tòa án có cơ sở giải quyết
tranh chấp một cách hợp lý, đưa pháp
luật dân sự Việt Nam phát triển bắt kịp
xu hướng với luật pháp các nước tiến
bộ trên thế giới.
4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” theo
BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.

CSPL: Điều 574 BLDS 2015

- Để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”, cần thỏa mãn các điều
kiện sau:

+ Người thực hiện công việc tự nguyện thực hiện công việc dù pháp luật không quy
định và người có công việc được thực hiện không yêu cầu. Nói cách khác, việc thực hiện
công việc không phải là nghĩa vụ do các bên thỏa thuận cũng như do pháp luật quy định.

+ Người thực hiện công việc thực hiện công việc vì lợi ích của người có công việc
được thực hiện. Trong một số trường hợp người thực hiện công việc cũng được một phần
lợi nào đó.

+ Người có công việc được thực hiện không biết việc có người khác đang thực hiện
công việc cho mình hoặc biết nhưng không phản đối việc thực hiện công việc đó. Việc
biết nhưng không phản đối (trong một thời hạn hợp lý) không được xem là đồng ý, trong
một số trường hợp người có công việc được thực hiện không kịp phản đối thì công việc đã
hoàn thành.

+ Ví dụ: A phơi đồ nhưng vắng nhà, đột nhiên trời mưa, B tự nguyện lấy đồ vào giúp
mà A không hề nhờ trước đó, nếu không thì quần áo A sẽ bị ướt, hành động này vì lợi ích
của A. A không biết về việc có người giúp lấy đồ khi đi vắng. Vậy A là người có công
việc được thực hiện và B là người thực hiện công việc không có ủy quyền.

5. Quy định về “thực hiện công việc không có uỷ quyền” của một hệ thống pháp luật
nước ngoài

CSPL: Điều 686 BLDS 2015 và Điều 1372 BLDS Cộng Hòa Pháp

Theo điều 686 BLDS 2015: “Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp
dụng cho việc thực hiện công việc không có ủy quyền. Trường hợp không có thỏa thuận
thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi thực hiện công việc không có ủy quyền”
Qua đây ta có những quy định sau về “thực hiện công việc không có uỷ quyền” của
một hệ thống pháp luật nước ngoài (Pháp, Thái,…):

1) Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn áp dụng pháp luật để điều chỉnh quan hệ.

2) Trường hợp nếu không có thoả thuận thì pháp luật của nước nơi mà thực hiện công
việc sẽ được áp dụng là pháp luật được áp dụng trong công việc này.

Khi nói về sự tự nguyện của người thực hiện công việc thi sự tự nguyện được hiểu
là làm công việc với chủ ý, xuất phát từ sự thiện chí, ý muốn giúp đỡ, tương trợ, mang lại
lợi ích cho người có công việc. BLDS Cộng Hòa Pháp cũng có quy định tương tự: Điều
1372 BLDS Cộng hòa Pháp quy định: “Khi tự nguyện làm công việc không có ủy quyền,
dù người có công việc có biết việc ấy hay không thì người thực hiện công việc không có
ủy quyền đó mặc nhiên cam kết tiếp tục thực hiện và hoàn thành công việc cho đến khi
chính người có công việc có thể tự đám nhận; người thực hiện công việc không có ủy
quyền cũng phải đảm nhận tất cả các phần phụ của công việc ấy..."

6. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu
cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định
“thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.

CSPL: Điều 574 BLDS 2015.

Trong suốt quá trình thực hiện công trình, A không có dấu hiệu phản đối nên có
thể được xem là không biết hoặc biết nhưng không phản đối.

Nhà thầu C thực hiện công việc là do ký hợp đồng với B. Đối chiếu với người có
công việc được thực hiện (chủ đầu tư A), nhà thầu C không có nghĩa vụ nào (giữa họ
không có hợp đồng và không có quy định nào buộc C làm việc cho A) nhưng thực chất
công việc mà C tiến hành là theo thỏa thuận với chủ thể khác (ban quản lý dự án B). Theo
thực tiễn xét xử, điều kiện “không có nghĩa vụ thực hiện công việc’’ dường như chỉ được
xem xét trong quan hệ giữa người thực hiện công việc và người có công việc được thực
hiện; nếu công việc này được thực hiện theo yêu cầu của người thứ ba hay theo thỏa thuận
với người thứ ba thì vẫn có thể vận dụng chế định thực hiện công việc không có ủy quyền
(Quyết định số 23/2003/HĐTP-DS ngày 29-7-2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao). Như vậy điều kiện người không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó đã thỏa
mãn.

Theo quy định tại Điều 574 BLDS 2015 thì chúng ta áp dụng chế định thực hiện
công việc không có ủy quyền khi người thực hiện công việc tiến hành công việc này vì lợi
ích của người có công việc được thực hiện, tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng người
tiến hành công việc cũng có lợi ích từ việc thực hiện vì nhà thầu C làm việc để thu lợi
nhuận. (Trường hợp tương tự trong Quyết định số 23/2003/HĐTP-DS ngày 29-7-2003).
Như vậy điều kiện này cũng được đảm bảo.

Như vậy, khi nhà thầu C đã hoàn thành công việc thì có thể yêu cầu Chủ đầu tư A
thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc
không có ủy quyền”.
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)

TÌNH HUỐNG:

Ngày 15/11/1973, ông Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế chân của bà Cô
50.000đ. Nay, ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà. Bà Cô đồng ý trả nhà và yêu cầu ông
Quới hoàn trả tiền thế chân (Lưu ý: giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg và giá
gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính Tp.HCM là 15.000đ/kg).

TÓM TẮT QUYẾT ĐỊNH 15/2018/QĐ-GĐT:

Cụ Ngô Quang Bàng kiện bà Mai Hương về vấn đề bà không chịu thanh toán 1/5
số tiền đất, nhà còn lại mà cụ Quang đã bán cho bà Hương. Ông yêu cầu toà án buộc bà
Hương phải trả số tiền đất, nhà mà bà nợ ông theo giá đất hiện thời là 1.697.750.000đ.

Toà sơ thẩm chỉ buộc bà Hương trả 2.710.000đ gồm tiền gốc và lãi. Cụ kháng cáo
nhưng toà phúc thẩm giữ nguyên bản án, nên cụ đề nghị xem xét bản án phúc thẩm theo
thủ tục giám đốc thẩm.

Nhận định của toà giám đốc thẩm: xét nội dung của 2 "Giấy biên nhận tiền" của cụ
Bàng và bà Hương, căn cứ theo điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần 2 Nghị quyết
02/2004/NQ - HĐTP thì việc toà sơ thẩm, phúc thẩm cho rằng hợp đồng chuyển nhượng
được giải quyết bằng bản án có hiệu lực để xác định số nợ của bà Bàng là 2.710.000đ là
không đúng và không bảo vệ được quyền lợi của đương sự. Vì lẽ trên, toà huỷ hai bản án
sơ thẩm và phúc thẩm.

TRẢ LỜI CÂU HỎI:

1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào?
Qua trung gian là tài sản gì?

CSPL: Điểm a, b khoản 1, Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính thống nhất hướng dẫn
việc xét xử và thi hành án về tài sản.
Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền
chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu
thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:

Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và
trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá
gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt
hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm
xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số
tiền đó.

Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy
ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát
sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng
ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải
thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền nói
trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà
nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy
định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.

Thông tư trên cho phép ta tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán qua tài sản trung
gian là gạo.

2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền
cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

CSPL: Điểm a, khoản 1, Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính thống nhất hướng dẫn
việc xét xử và thi hành án về tài sản.

TÌNH HUỐNG:

Ngày 15/11/1973, ông Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế chân của bà Cô
50.000đ. Nay, ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà. Bà Cô đồng ý trả nhà và yêu cầu ông
Quới hoàn trả tiền thế chân (Lưu ý: giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg và giá
gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính Tp. HCM là 15.000đ/kg).

Trong tình huống này, do thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-
7-1996 nên căn cứ tại điểm a khoản 1 Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án
nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính thống nhất
hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về để giải quyết tình huống:

Cụ thể là ngày 15/11/1973, ông Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế chân của
bà Cô 50.000đ. Nay, ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà. Bà Cô đồng ý trả nhà và yêu cầu
ông Quới hoàn trả tiền thế chân. Giá gạo vào năm 1973 là 137 đồng/kg, 50.000đ quy đổi
ra được số lượng gạo là 365 kg. được biết giá gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính
TP. HCM là 15.000đ/kg, thì tương ứng ông Quới phải trả cho bà Cô số tiền là 5.474.500
đồng (365 kg x 15.000 đồng/ kg = 5.474.500 đồng).

3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất
động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?

Thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong tình huống thứ hai vì, đối tượng tài sản do thông tư này
điều chỉnh là tiền, vàng và hiện vật, cụ thể là tại khoản 1 của thông tư có nêu: “Đối với
nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài
sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền
truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau.”

Vậy nên đối với việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như
trong quyết định số 15/2018/DS-GĐT không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư
01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính thống nhất hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản.

4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất được
xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao
nhiêu? Vì sao?

Tại phiên tòa Giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận kháng nghị
của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội; sửa bản án phúc thẩm buộc bà Hương
phải trả cho cụ Bảng số tiền tương đương 1/5 giá trị quyền sử dụng đất nhận chuyển
nhượng theo định giá của Tòa án cấp sơ thẩm là 1.697.760.000 đồng. Sở dĩ, Toà án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội quyết định như vậy là vì theo quy định tại phần 2 Mục b.2 Nghị
quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 về "việc giải quyết tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất":

"b.2) Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất; bên chuyển
nhượng đã giao toàn bộ diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất
đó. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng mới trả một phần tiền chuyển nhượng
đất, bên chuyển nhượng mới giao một phần diện tích đất, thì có thể công nhận phần hợp
đồng đó căn cứ vào diện tích đất đã nhận. Nếu công nhận phần hợp đồng trong trường
hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì
Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng phần chênh
lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ đã
nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị
trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời buộc các bên phải làm thủ tục chuyển
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà bên nhận chuyển nhượng đã nhận. Trong
trường hợp bên nhận chuyển nhượng đã giao số tiền lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận
mà Toà án chỉ công nhận phần hợp đồng tương ứng với diện tích đất mà họ đã nhận thì
bên chuyển nhượng phải thanh toán khoản tiền đã nhận vượt quá giá trị diện tích đất đã
giao tính theo giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm".

Như vậy, Tòa án đã buộc bên nhận chuyển nhượng là bà Hương phải thanh toán
cho bên chuyển nhượng là cụ Bảng khoảng chênh lệch giữa số tiền mà bà Hương đã trả là
4.000.000 đồng so với diện tích đất thực tế mà bà Hương nhận là 1,010 m 2 tại thời điểm
giao kết hợp đồng vào năm 1991 theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá trị thị trường
tại thời điểm xét xử sơ thẩm vào năm 2015.

5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu một
tiền lệ (nếu có)?
Hướng giải quyết như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ.
Đó là Quyết định số 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ án tranh chấp nhà đất và đòi
nợ”

Tóm tắt bản án:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Lai.

Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân.

Năm 1994, bà Lai cho ông Xuân vay 11.500.000đ (giấy ghi nợ không ghi rõ ngày
tháng năm nhưng hai bên đều thống nhất thời gian cho vay là năm 1994). Ngày
12/02/1996, bà Lai cho ông Xuân vay tiếp 128.954.000đ. Ngày 08/8/1996, hai bên thống
nhất số tiền nợ (lẫn lãi) là 188.600.000đ, đồng thời thỏa thuận chuyển nhượng căn nhà số
19 Chu Văn An cho bà Lai với giá 188.600.000đ. Do vợ chồng ông Xuân không thanh
toán nợ và không giao nhà mà vẫn quản lý ngôi nhà nên bà Lai vẫn tính lãi của số tiền
188.600.000đ. Ngày 05/8/1997, vợ chồng ông Xuân và vợ chồng bà Lai tiếp tục chốt nợ
gốc và lãi từ 188.600.000đ lên 250.000.000đ; hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất với giá 250.000.000đ. Sau khi lập hợp đồng, bà Lai vẫn tính lãi số tiền
250.000.000đ trong thời gian 02 tháng thành 6.000.000đ để cộng dồn vào số tiền
44.000.000đ bà Lai đã cho ông Xuân vay vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ.

Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Vụ tranh chấp phải
giải quyết cả hai quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà đất. Xác minh, thu thập các
chứng cứ chứng minh rằng liệu thủ tục làm giấy tờ mua bán nhà, chuyển nhượng quyền
sử dụng đất có theo quy trình pháp luật quy định hay không. Trường hợp xác định được
việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất là hợp pháp và bên mua chưa trả đủ tiền thanh toán
thì phần còn thiếu sẽ được tính thông qua giá trị của tài sản chuyển nhượng tại thị trường
địa phương tại thời điểm xét xử.

Đây chính là tiền lệ cho hướng giải quyết cho Tòa án nhân dân cấp cao của Hà Nội
tại Quyết định số 28/2018/DS-GĐT.
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN

TÓM TẮT BẢN ÁN 148/2007/DS-ST:

Bà Tú và bà Phượng xác lập quan hệ vay tiền, có thỏa thuận lãi suất. Bà Tú nhận
tiền lãi đến tháng 5/2005 thì bên vay không trả tiền lãi như đã thỏa thuận. Tuy nhiên, phía
bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và
ông Thạnh. Tòa xét rằng, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú chấm dứt, làm phát
sinh nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ theo hợp đồng vay tiền đã ký.

TRẢ LỜI CÂU HỎI:

1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao
nghĩa vụ theo thỏa thuận?

CSPL: Điều 365, 370 và 371 BLDS 2015

* Điểm giống nhau:

- Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/ bên có quyền nếu chuyển giao quyền/ chuyển
giao nghĩa vụ.

- Đều xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên.

- Chỉ áp dụng với các quan hệ nghĩa vụ đang còn hiệu lực.

- Không được chuyển giao trong trường hợp hai bên đã thỏa thuận không chuyển giao
hoặc pháp luật có quy định về việc không được chuyển giao, như nghĩa vụ gắn liền với
với nhân thân, quyền yêu cầu cấp dưỡng, bồi thường do xâm phạm tới tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín.

- Hậu quả pháp lý là làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao quyền/ nghĩa
vụ, làm phát sinh tư cách chủ thể, quyền và nghĩa vụ dân sự ở người được chuyển giao.

- Sau khi chuyển giao quyền/ nghĩa vụ, bên có có quyền/ nghĩa vụ ban đầu chấm dứt toàn
bộ quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền/ nghĩa vụ.
* Điểm khác nhau
Tiêu Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ
chí

- Bên có quyền có quyền chuyển giao - Bên có nghĩa vụ có thể chuyển


Chủ
quyền cho sang bên thứ ba (người thế nghĩa vụ cho bên thứ ba (người thế
thể
quyền) nghĩa vụ).

- Người chuyển giao quyền yêu cầu - Người đã chuyển giao nghĩa vụ phải
không phải chịu trách nhiệm về khả chịu trách nhiệm về khả năng thực
năng thực hiện nghĩa vụ của bên có hiện nghĩa vụ của mình đối với bên
Quyền
nghĩa vụ nên việc chuyển giao quyền có quyền nên để bảo vệ lợi ích của
hạn
không cần có sự đồng ý của bên có bên có quyền, việc chuyển giao nghĩa
nghĩa vụ (khoản 2 Điều 365 BLDS). vụ phải được sự đồng ý của bên có
quyền (khoản 1 Điều 370 BLDS).

- Đối với chuyển quyền yêu cầu có - Đối với chuyển giao nghĩa vụ có
các biện pháp bảo đảm thực hiện biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo
nghĩa vụ thì việc chuyển giao quyền đảm sẽ đương nhiên chấm dứt, trừ
yêu cầu bao gồm cả các biện pháp trường hợp có thỏa thuận khác (Điều
bảo đảm đó (Điều 368 BLDS). 371 BLDS).

- Người chuyển giao quyền có nghĩa - Không quy định về nghĩa vụ của
Phạm
vụ đối với người thế quyền: người người chuyển giao nghĩa vụ đối với
vi
chuyển giao quyền yêu cầu vi phạm người thế nghĩa vụ.
nghĩa vụ cung cấp thông tin và
chuyển giao giấy tờ có liên quan cho
người thế quyền mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường thiệt hại (Điều 366
BLDS).

- Bằng văn bản và phải thông báo - Không có quy định bắt buộc về mặt
cho bên có nghĩa vụ biết về việc hình thức.
chuyển quyền để tránh việc bên có
Hình nghĩa vụ phải từ chối việc thực hiện
thức nghĩa vụ đối với người thế quyền hay
thực hiện nghĩa vụ bổ sung, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.
(khoản 2 Điều 365).
2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú?

Thông tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú là:

“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực
tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và theo biên nhận
ngày 27/4/2004 thì thể hiện bà Phương nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền 615.000.000đ.
Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền với
bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4 năm 2004, do phía bà
Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay ngân hàng nên bà
đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho ngân hàng. Xác định bà Phượng
là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.”

3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?

Đoạn của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh:

“Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc và Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số
tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào
ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng và bà Tú đã chấm dứt, làm
phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay
tiền đã ký.”

4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?

CSPL: Khoản 1 Điều 370 Bộ luật Dân sự 2015

Đánh giá trên của Tòa án về nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là có căn cứ vì: Theo quy định tại khoản 1 Điều 370
Bộ luật Dân sự 2015: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa
vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên
có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ”. Bà Ngọc đã
ký hợp đồng vay với bà Tú trên vốn vay là 465.000.000 đồng và tiền lãi theo thoả thuận
1,3%/tháng, thế chấp tài sản là diện tích đất toạ lạc tổ 34, khóm Châu Long 6, phường
Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc. Bà Tú cũng đã lập hợp đồng vay với vợ chồng bà Loan, ông
Thạnh trên vốn vay 150.000.000 đồng. Đồng nghĩa với việc bà Tú đã đồng ý việc bà
Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh.

5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển
giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

CSPL: Theo Điều 370, Điều 371 Bộ luật Dân sự 2015

Dưới góc độ văn bản, Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về việc chuyển giao nghĩa
vụ dân sự theo thỏa thuận tại Điều 370, Điều 371 Bộ luật Dân sự 2015 tuy nhiên những
quy định này không cho biết rằng liệu người đã chuyển giao nghĩa vụ cho một người khác
có còn có trách nhiệm đối với người có quyền trong trường hợp người được chuyển giao
nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ đó hay không.

Tuy Điều 370 Bộ luật Dân sự 2015 không nói rõ, nhưng theo tinh thần Điều này
thì có thể hiểu khi đã chuyển giao nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ sẽ không còn nghĩa vụ với
bên có quyền nữa. Vì cũng theo Điều này, việc chuyển giao nghĩa vụ phải được bên có
quyền đồng ý thì bên có nghĩa vụ mới được chuyển nghĩa vụ đó cho người thế nghĩa vụ.
Hơn nữa, khoản 2 Điều này cũng nói rõ: “Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế
nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”. Như vậy, bên có nghĩa vụ đã chấm dứt nghĩa vụ, mà
nghĩa vụ hiện tại là do bên thế nghĩa vụ thực hiện.

6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.

Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài trong giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì:
“Người có nghĩa vụ dân sự không chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của
người thế nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

... Người có nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền.
Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có quyền chỉ được phép yêu cầu
người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao nghĩa vụ không phải
chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ”[1].

Tác giả còn phân tích thêm: “Trong trường hợp người có nghĩa vụ cam kết với bên
có quyền với nội dung khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ, nếu người thế nghĩa vụ không thực
hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ, người có nghĩa vụ ban đầu sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay người thế nghĩa vụ thì tư cách chủ thể của người có nghĩa vụ ban đầu
được xác định là người bảo lãnh cho việc thực hiện nghĩa vụ”[2].

Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách
nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao. Theo tác giả thì: “Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà
Phượng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía
bà Phượng phải có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà
Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua
việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đồng và hợp đồng cho
bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đồng vào 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời
điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ
vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan
và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng
có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận”.

[1] Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 1.

[2] Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 1.

7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
“Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng và bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm
nghĩa vụ

thanh toán nợ vay, không trả vốn, lại cho và Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có trách
nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa
vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng
cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền
150.000.000 đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy tại thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay
với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng với bà Tú đã chấm
dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp
đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà
là không có căn cứ chấp nhận.”

8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có nghĩa vụ ban
đầu và người có quyền.

Xét về điều kiện chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý:

- Sự đồng ý của bên có quyền là điều kiện cần thiết để chuyển giao nghĩa vụ theo
thoả thuận có giá trị pháp lý, cũng như để đảm bảo quyền lợi của bên có quyền. Không
chỉ pháp luật nước ta mà pháp luật nước ngoài cũng xây dựng chế định tương tự để quy
định về vấn đề này. Ví dụ:

- Như Điều 9.2.3 Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Việc chuyển giao nghĩa vụ
theo thoả thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải có sự
đồng ý của người có quyền”.

- Khoản 1 Điều 12 của 101 Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng (PECL) quy
định:“Với sự đồng ý của người có quyền và người có nghĩa vụ, người thứ ba có thể cam
kết thay thế người có nghĩa vụ”.

Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan:

- Thực tế thì quy định trong các hệ thống luật tương đối khác nhau. Ở châu Âu,
một số nước quy định người có nghĩa vụ ban đầu được giải phóng hoàn toàn nhưng một
số nước lại quy định ngược lại theo hướng người thứ ba là người có nghĩa vụ bổ sung.
- Theo Khoản 1 Điều 9.2.5 Bộ nguyên tắc Unidroit: “Người có quyền có thể giải
phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu”, nghĩa là người có quyền có thể hoàn
toàn giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu dựa theo mong muốn, ý chí của
mình.

- Khoản 2 Điều 9.2.5 “Người có quyền cũng có thể quyết định là người có nghĩa
vụ ban đầu vẫn là người có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới không thực
hiện đúng nghĩa vụ của mình.” Điều đó có nghĩa là người có quyền có thể lựa chọn một
khả năng khác, đó là chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ mới, nhưng người có quyền
bảo lưu quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu.

- Điều đó có nghĩa là người có quyền có thể lựa chọn một khả năng khác, đó là
chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ mới, nhưng người có quyền bảo lưu quyền yêu cầu
đối với người có nghĩa vụ ban đầu.

- Vẫn theo Bộ nguyên tắc Unidroit: “ Trong mọi trường hợp khác, người có nghĩa
vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải liên đới chịu trách nhiệm”. Quy định tại điều
này thể hiện rõ là giải pháp cuối cùng cũng là giải pháp được áp dụng trong trường hợp
người có quyền không có quyền quyết định nào. Nói cách khác, nếu người có quyền
không nêu rõ ý định giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu cũng không quyết định là
người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải chịu trách nhiệm liên đới về
việc thực hiện nghĩa vụ.

- Tuy nhiên, theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng thì việc chuyển giao nghĩa
vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu (Điều 12 của 101 Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp
đồng (PECL) quy định): “Người có nghĩa vụ ban đầu không còn bị ràng buộc bởi các
nghĩa vụ của họ.”

- Ví dụ: A bán cho C một tác phẩm nghệ thuật được các bên coi là tác phẩm nghệ
thuật Trung Quốc thời Trung cổ với giá 20.000 euro và thỏa thuận rằng C thay thế A với
tư cách là người có nghĩa vụ đối với ngân hàng B. Sau khi nhận được thông báo của A,
ngân hàng B đồng ý việc thế nghĩa vụ này. Nhưng ít lâu sau, có chứng cứ rõ ràng A bán
cho C tác phẩm nghệ thuật giả. Theo quy định của Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng
thì sự việc này không làm ảnh hưởng đến việc chuyển giao nghĩa vụ.
- Thiết nghĩ nên xem xét theo hướng này nhằm đảm bảo quyền lợi của người có
quyền. Bởi lẽ trong BLDS thì trong trường hợp nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm
được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt. Để bù trừ việc chấm dứt các biện
pháp bảo đảm này, chúng ta không cho phép viện dẫn mối quan hệ giữa người có nghĩa
vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới để cản trở hiệu lực của việc chuyển giao nghĩa vụ.

- Như đã nói ở trên, nội dung của nghĩa vụ được chuyển giao không bị thay đổi
mặc dù người thực hiện nghĩa vụ thay đổi. Do vậy, mặc dù BLDS hiện hành không có
quy định rõ ràng nhưng nên cho phép người có nghĩa vụ mới viện dẫn những đối kháng
mà người có nghĩa vụ ban đầu có thể viện dẫn để đối kháng với người có quyền. Ở đây,
chuyển giao nghĩa vụ thì chuyển giao cả những nghĩa vụ và quyền gắn liền với nghĩa vụ
này. Chẳng hạn, nếu trước đây, người có nghĩa vụ ban đầu có quyền tạm đình chỉ hoặc từ
chối thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền trên cơ sở áp dụng các biện pháp phòng
vệ (nếu người có quyền không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình) thì người có quyền có
nghĩa vụ mới cũng có thể áp dụng các biện pháp phòng vệ đó đối với người có quyền.

9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án

CSPL: Điều 370 BLDS 2015

Hướng giải quyết trên của Tòa án hợp lý và có căn cứ. Theo Điều 370 BLDS bên
có nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý thì có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế
nghĩa vụ, với bản án trên rõ ràng bà Tú đã đồng ý cho bà Phương chuyển giao nghĩa vụ
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh bằng cách xác lập hợp đồng mới, cũng từ đây nghĩa
vụ của bà Phương đối với bà Tú đã chấm dứt. Theo khoản 4 Điều 372 cũng nêu rõ nghĩa
vụ chấm dứt khi nghĩa vụ được thay

thế bằng nghĩa vụ khác

10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh
của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt
không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

CSPL: Điều 370,371 Bộ luật Dân sự 2015


Một là, Điều 370 Bộ luật Dân sự 2015: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa
vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý”.

Hai là, Điều 371 Bộ luật Dân sự 2015: “ Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo
đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác”.

Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của
người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt.

Bản án số 148/2007/DS-ST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Châu Đốc,
tỉnh An Giang ghi nhận: Bà Tú và bà Phượng xác lập quan hệ vay tiền, có thỏa thuận lãi
suất. Bà Tú nhận tiền lãi đến tháng 5/2005 thì bên vay không trả tiền lãi như đã thỏa
thuận. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh. Tòa xét rằng, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp
đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với
bà Tú chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ theo hợp đồng vay tiền đã
ký.

Như vậy người có nghĩa vụ ban đầu không chịu trách nhiệm về việc thực hiện
nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ trước và người có quyền chấm dứt
toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Trường
Đại học Luật TP.HCM;

Bộ luật Dân sự 2015;

Bộ luật Dân sự 2005;

Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 2004;

Quyết định Giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS;

Bản án và Bình luận bản án Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ -
PGS.TS Đỗ Văn Đại.

You might also like