You are on page 1of 14

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH


BỘ MÔN: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
GIẢNG VIÊN: LÊ THANH HÀ
Buổi thảo luận thứ nhất: Nghĩa vụ
Thực hiện: Nhóm 3
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Võ Viết Bảo 2153801014029
2 Bùi Ngọc Cẩm 2153801014033
3 Nguyễn Thị Như Bình 2153801014032
4 Trần Hiền Ân 2153801014025
5 Trương Quốc Bảo 2153801014028
6 Bạch Gia Bảo 2153801014026
7 Lê Hoàng Thiên Ân 2153801014024
8 Nguyễn Thế Đức 2153801014057
9 Chế Nguyễn Hà Giang 2153801014058
10 Nguyễn Hồ Phương Điệp 2153801014053
TP.HCM, THÁNG 9 NĂM 2022

Mục lục
Vấn đề 1 : Thực hiện công việc không có ủy quyền.............................................................................4
1.1 Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?...............................................................4
1.2 Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ ?......................4
1.3 Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện công việc
không có ủy quyền"...............................................................................................................................4
1.4 Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền" theo BLDS
2015? Phân tích từng điều kiện.............................................................................................................5
1.5 Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ
đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc
không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.....................5
Vấn đề 2 : Thực hiện nghĩa vụ (thanh toán một khoản tiền)..............................................................6
2.1 Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào? Qua
trung gian là tài sản gì?.........................................................................................................................7
2.2 Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là
bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.........................................................................................7
2.3 Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động
sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?........................................................8
2.4 Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất được xác
định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?....................8
2.5 Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu một tiền lệ
(nếu có)?.................................................................................................................................................9
Vấn đề 3 : Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận...............................................................................9
3.1 Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ
theo thỏa thuận?....................................................................................................................................9
3.2 Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú?..........10
3.3 Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?.......................................................................................................11
3.4 Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?..............................................................11
3.5 Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người có
quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời................................................................................................................................11
3.6 Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao?
Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết............................................................................12
3.7 Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiệm đối với người có quyền?.................................................................................................13
3.8 Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án..........................................................13
3.9 Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người
thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở
pháp lý khi trả lời................................................................................................................................13
Vấn đề 1 : Thực hiện công việc không có ủy quyền
1.1 Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?

- Căn cứ vào Điều 574 Bộ luật Dân sự 2015 thì : “Thực hiện công việc không có ủy
quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự
nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện
khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”

1.2 Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ ?

-  Cơ sở pháp lý Theo Khoản 3 Điều 275: “Căn cứ phát sinh nghĩa vụ gồm Thực hiện
công việc không có ủy quyền”.

- Theo Điều 574: Thực hiện công việc không có ủy quyền có 4 điều kiện: Người thực
hiện Không có nghĩa vụ thực hiện công việc, Đã tự nguyện thực hiện công việc đó. Vì lợi
ích của người có công việc được thực hiện. Người có công việc không biết hoặc biết mà
không phản đối.  

→ Do đó thực tế mục đích cuối cùng của việc thực hiện công việc không có ủy quyền là
cho rằng không ai thực hiện công việc này thì người có công việc sẽ bị thiệt hại về một
vấn đề nào đó nhất định. Cho nên đây là hành vi mang lại lợi ích cho người có công việc.
Vì thế đây là căn cứ cho việc phát sinh nghĩa vụ của việc thực hiện công việc không có
ủy quyền.  

- Việc thực hiện công việc không có ủy quyền được pháp luật quy định tại chương XVIII
Điều 574 đến Điều 578 Bộ luật Dân sự 2015, do trong các trường hợp thực tế việc thực
hiện công việc không có ủy quyền rất nhiều.

1.3 Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện
công việc không có ủy quyền".

- Về khái niệm: Điều 574 BLDS 2015 đã lượt bỏ từ “hoàn toàn” trong khái niệm về “thực
hiện công việc không có ủy quyền”  So với Điều 594 BLDS 2005 đã quy định là “ hoàn
toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện”. Việc lượt bỏ đi hai chữ “ hoàn
toàn” để bảo vệ quyền lợi cho người thực hiện công việc trong trường hợp họ cũng có lợi
ích từ việc thực hiện công việc không có ủy quyền đó.
- Về nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền: Khoản 4 Điều 575 đã bổ sung
thêm đối tượng thực hiện công việc có thể là pháp nhân mà trong Khoản 4 Điều 595 đã
không nêu rõ ra.

-  Về việc chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền quy định tại Khoản 4 Điều
598 BLDS 2005 “ Người thực hiện công việc không có ủy quyền chết “. Thì tại Khoản 4
Điều 578 BLDS 2015 đã phân rõ và cụ thể hơn các đối tượng thực hiện công việc “Người
thực hiện công việc không có ủy quyền chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là
pháp nhân”.

→ Việc bổ sung thêm một vài điểm mới về chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền” của BLDS 2015 đã tăng thêm tính chặt chẽ hơn so với BLDS 2005. Giúp cho
đảm bảo được các quyền lợi cho người thực hiện công việc đó. Và làm cho quá trình xét
xử chính xác, nhanh chóng hơn.

1.4 Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền"
theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.

         Thứ nhất, người thực hiện công việc là người hoàn toàn không có nghĩa vụ khi
thực hiện công việc đó. Tức là công việc được thực hiện nằm ngoài phạm vi thẩm quyền
của người đó khi xác lập nghĩa vụ với người được đại diện.

         Thứ hai, việc thực hiện công việc đó hoàn toàn là vì lợi ích của người có công việc
được thực hiện vì có một vài trường hợp người được đại diện có công việc đột suất bất
khả kháng không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ đó đối với bên có công việc được thực
hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Đối với trường hợp nếu là vì lợi ích của cá
nhân hoặc của một chủ thể khác không phải các bên liên quan thì không thể áp dụng chế
định này.

         Thứ ba, người có công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà không phản
đối đối việc thực hiện đó. Khi xác lập một giao dịch sẽ có những trường hợp hai bên
không kiểm tra giấy chứng nhận ủy quyền của đối phương có tồn tại hay còn hiệu lực hay
không vậy cho nên sẽ dẫn đến trường hợp kí hợp đồng mà bên có công việc được thực
hiện không biết về giới hạn thẩm quyền của đối phương. Hoặc trường hợp khác là bên có
công việc được thực hiện biết mà không phản đối vì chế định của thực hiện công việc
không có ủy quyền là vì lợi ích của mình. Vậy cho nên nếu bên có công việc được thực
hiện đã phản đối mà bên kia vẫn thực hiện thì không được áp dụng chế định này.

1.5 Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể
yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của
chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không?
Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

         Việc Ban quản lí B không đủ tài sản để thanh toán cho nhà thầu C đã vi phạm
nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền. Cụ thể là Khoản 1 Điều 575, Ban quản
lí B khi kí hợp đồng phải dự tính được công việc đã giao kết đó phù hợp với khả năng,
điều kiện của mình. Ta có thể thấy nhà thầu C đã bị thiệt hại; việc làm của Ban quản lí B
đã vi phạm quy định vì “việc kí hợp đồng với nhà thầu C là công việc của nhà đầu tư A.”.

         Trong đoạn “Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không nêu rõ
trong hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền của A”. Theo em, Ban quản lí B
đã cố ý che giấu việc đại diện không có ủy quyền để kí hợp đồng với A.

         Tại Khoản 1 Điều 142, Khoản 1 Điều 143 BLDS 2015
Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện (và đối với phần giao dịch
được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện), trừ một trong các trường hợp:
a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc
không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình
không có quyền đại diện.

Theo Điều 577, BLDS 2015 cũng nêu rõ người thực hiện công việc không có ủy
quyền gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người có công việc được thực hiện, nếu là do
vô ý thì có thể căn cứ vào hoàn cảnh để giảm mức bồi thường.

         Hơn nữa, trên đề bài có ghi “nếu công trình đã hoàn thành xong, nhà thầu C có thể
yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ” cũng tức là nhà thầu C đã biết được rằng
Ban quản lí B không phải là chủ thể được ủy quyền trong phạm vi mà cả hai đã kí kết
nhưng đã đợi cho đến khi công trình hoàn thành xong mới yêu cầu chủ đầu tư A thực
hiện nghĩa vụ chứ không thông báo trong một thời gian hợp lí cho A.
Kết luận, theo em nhà thầu C không thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện tiếp nghĩa
vụ mà Ban quản lí B đã kí với C.

Vấn đề 2 : Thực hiện nghĩa vụ (thanh toán một khoản tiền)


Tóm tắt: 
Nguyên đơn: Cụ Ngô Quang Bảng 
Bị đơn: Bà Mai Hương 
Ngày 26/11/1991 cụ Bảng thỏa thuận chuyển nhượng nhà, đất cho vợ chồng ông Thịnh,
bà Hương với số tiền là 5.000.000 đồng. Hai bên đã xảy ra tranh chấp nghĩa vụ trả tiền
trong hợp đồng chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất, căn cứ vào “Giấy biên nhận
tiền” thì bà Hương mới thanh toán cho cụ Bảng được 4.000.000 đồng trong tổng số tiền
5.000.000 đồng phải thanh toán. Như vậy, số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà đất.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc bà Hương phải trả cho cụ Bảng khoản
tiền nợ là 1.000.000 đồng cùng với lãi suất 1.710.000 đồng. Tòa án Nhân dân cấp cao tại
Hà Nội quyết định hủy Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm do không đảm bảo được
quyền lợi của đương sự
2.1 Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?

Trường hợp đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là các khoản tiền, vàng:

1- Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền
chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu
thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:

a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và
trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá
gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt
hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm
xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số
tiền đó.

b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy ra
trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát
sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng
ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải
thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền nói
trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà
nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy
định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.

2.2 Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Tình huống: Ngày 15/11/1973, ông Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế chân của bà
Cô 50.000đ. Nay, ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà. Bà Cô đồng ý trả nhà và yêu cầu ông
Quới hoàn trả tiền thế chân (Lưu ý: giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg và giá
gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính Tp. HCM là 18.000đ/kg).

Năm 1973 giá gạo là 137đ. Tiền thế chân của bà Cô là 50.000đ nên quy ra số kí gạo thì
được 364,96kg gạo.

Đến nay, 1kg gạo có giá 18.000đ nên số tiền mà ông Quới phải hoàn trả là: 18.000 x
364,96 = 6.558.480đ

2.3 Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì
sao? 

Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 điều chỉnh:

- TRƯỜNG HỢP ĐỐI TƯỢNG CỦA NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN LÀ CÁC KHOẢN
TIỀN, VÀNG

+ các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền
bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu
lợi bất chính.

+ các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử toà án chỉ quyết định mức
tiền cụ thể mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.
+ các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng.

+ các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ hạn) ở ngoài tổ chức
Ngân hàng, tín dụng.
 + vàng.

- TRƯỜNG HỢP ĐỐI TƯỢNG CỦA NGHĨA VỤ VỀ TÀI SẢN LÀ HIỆN VẬT

➔  Thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng
bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.

2.4 Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ
Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao? 

Trong bản án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có ghi “bà Hương phải thanh toán cho
cụ Bảng số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm xét xử
sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết số
02/2004/NQ - HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”

➔ Theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho
cụ Bảng cụ thể là :

1.697.760.000 × 1/5 = 339.552.000đ

2.5 Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội đã có tiền lệ
Quyết định Giám đốc thẩm số: 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005
Tóm tắt
Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Lai 
Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân
Năm 1994 ông Xuân vay bà Lai 11.500.000 đồng. Ngày 12/2/1996 ông Xuân vay tiêp bà
Lai 128.954.000 đồng. Ngày 8/8/1996 bà Lai thống nhất với ông Xuân tổng số nợ gốc và
lãi là 188.600.000 đồng và hai bên lập giấy nhượng nhà với nội dung vợ chồng ông Xuân
chuyển nhượng nhà cho bà Lai. Ngày 5-8-1997 ông Xuân và vợ là bà Trần Thị Minh viết
đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất và lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của căn nhà cho bà Lai với giá 250.000.000 đồng. Theo ông Xuân thì tuy làm
giấy tờ mua bán nhưng thực chất không có việc mua bán vì giá trị nhà là 500.000.000đ,
ông bà buộc phải làm thủ tục mua bán để chuộc chồng bà Lai. Theo bà Lai việc mua bán
nhà là có thật, tự nguyện. Bà đã trả đủ tiền và còn cho ông Xuân vay thêm 50.000.000đ
vào ngày 6/11/1997 để đi thuê chỗ ở khác. Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông Xuân giao nhà
cho bà Lai,ông Xuân phải trả bà Lai 44.000.000 đồng. Tòa án cấp phúc thẩm bác kháng
cáo của ông Xuân và giữ nguyên các quyết định của bán án sơ thẩm. Tòa án Nhân dân
cấp cao tại Hà Nội quyết định hủy Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án
cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử lại sơ thẩm.

Vấn đề 3 : Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận


Tóm tắt Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Châu
Đốc, tỉnh An Giang.
Bà Tú và bà Phượng xác lập quan hệ vay tiền, có thỏa thuận lãi suất. Bà Tú nhận tiền lãi
đến tháng 5/2005 thì bên vay không trả tiền lãi như đã thỏa thuận. Tuy nhiên, phía bà Tú
đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh. Tòa án xét rằng, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú chấm dứt, làm phát
sinh nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ theo hợp đồng vay tiền đã ký.

3.1 Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Cơ sở pháp lý điều 365, 370,371 của blds năm 2015
 Điểm giống nhau: 
 Cả hai đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/ bên yêu cầu quyền nếu chuyển
giao quyền , chuyển giao nghĩa vụ.
 Có ít nhất ba chủ thể.
 Đều dẫn tới hậu quả pháp lý là làm thay đổi chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ, theo
đó, chấm dứt tư cách chủ thể của chủ thể đã chuyển giao, xác lập tư cách chủ thể
cho người nhận chuyển giao.
 Không được chuyển giao khi hai bên đã thỏa thuận không chuyển giao hoặc pháp
luật có quy định về việc không được chuyển giao, như nghĩa vụ gắn liền với nhân
thân, quyền yêu cầu cấp dưỡng, bồi thường do xâm phạm tới tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín.
 Hậu quả pháp lý là làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao
quyền/nghĩa vụ, làm phát sinh tư cách chủ thể, quyền và nghĩa vụ dân sự ở người
được chuyển giao.
 Sau khi chuyển giao quyền/nghĩa vụ, bên có quyền/nghĩa vụ ban đầu chấm dứt
toàn bộ quan hệ nghĩa vụ với bên có nghĩa vụ/quyền
 Xuất phát từ sự thoả thuận giữa các bên.
 Chỉ áp dụng đối với các quan hệ nghĩa vụ đang còn hiệu lực.
 
 Điểm khác nhau: 
       CHUYỂN GIAO QUYỀN YÊU CẦU: theo khoản 2 điều 365 của BLDS 2015 “ khi
bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế
quyền trở thành bên có quyền yêu cầu.”
       Người chuyển giao quyền có nghĩa vụ đối với người thế quyền: người chuyển giao
quyền yêu cầu vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin và chuyển giao giấy tờ có liên quan
cho người thế quyền mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại quy định tại điều 366
BLDS 2015.
       Phạm vi: Đối với chuyển quyền yêu cầu có các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ thì việc chuyển giao quyền yêu cầu bao gồm cả các biện pháp bảo đảm đó theo điều
368 BLDS 2015.
       CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ: quy định tại khoản 2 điều 370 của BLDS 2015 “ khi
được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ.”
Phạm vi: Đối với chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo đảm sẽ
đương nhiên chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo điều 371 BLDS 2015.
       Không quy định về nghĩa vụ của người chuyển giao nghĩa vụ đối với người thế nghĩa
vụ, không có quy định bắt buộc về mặt hình thức.
3.2 Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú?
       Trong bản án có đoạn: “ Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà
Phượng là người tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và
theo biên nhận ngày 27/04/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhân số tiền
615.000.000đ. Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa
thuận vay tiền. Ngoài ra,acũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4 năm 2004 do
phía bà Loan, ông Thạch và bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay Ngân
hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho Ngân hàng. Xác
định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền của bà Tú”
     Qua đoạn xét thấy của Tòa  án thì có thể thấy bà Phượng là người xác lập quan hệ vay
tiền với bà Tú nên bà Phượng phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú. 

3.3 Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh? 
     Trong bản án có đoạn: “ Xét hợp đồng vay tiền của bà Phượng và bà Tú, phía bà
Phượng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú lẽ ra phía bà
Phượng phải có trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú chấp nhận cho bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú
đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh
vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/05/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập
hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng
và bà Tú đã chấm dứt làm phát sinh nghĩa vụ của bà Loan, bà Ngọc và ông Thạnh đối với
bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán
nợ cho bà Tú là không có căn cứ chấp nhận” 

3.4 Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án? 
      Đánh giá của Tòa án là hoàn toàn hợp lý. Vì căn cứ vào Điều 370 BLDS 2015; Điều
315 BLDS 2005  quy định về chuyển giao nghĩa vụ 
“ 1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên
có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ
hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ.” 
    Trong trường hợp này khi bà Phượng yêu cầu chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh thì được bà Tú chấp nhận bằng việc xác lập hợp đồng vay với bà
Ngọc, bà Loan, ông Thạnh và thỏa mãn điều kiện chuyển giao theo luật định 
3.5 Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Cơ sở pháp lý: Điều 283,370 BLDS 2015.
 Từ góc độ văn bản, BLDS 2015 không quy định rõ liệu người có nghĩa vụ ban đầu
có còn trách nhiệm đối với người có quyền  khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao hay không, mà chỉ quy định là “khi được chuyển
giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”. Để làm sáng tỏ
điều này, ta xét hai trường hợp sau:

(1) Trường hợp người có nghĩa vụ ban đầu vẫn còn trách nhiệm đối với người có
quyền: hệ quả pháp lý của trường hợp này sẽ giống như hệ quả của quy định “khi
được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ ba thay
mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền, nếu
người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”. Như vậy,
quy định chuyển giao nghĩa vụ và  quy định thực hiện nghĩa vụ thông qua người
thứ ba sẽ không độc lập với nhau.
(2) Trường hợp người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người
có quyền: hệ quả pháp lý là sẽ chấm dứt trách nhiệm của người có nghĩa vụ ban
đầu với người có quyền, đồng thời người thế nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm độc
lập trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền. Như vậy thì mới có sự
khác nhau giữa hai chế định chuyển giao nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ thông qua
người thứ ba.

3.6 Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị
biết.

 Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài, “trên cơ sở thỏa thuận, với sự đồng ý
của bên có quyền, người thứ 3 thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở
thành người có nghĩa vụ mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ. Người có
nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi
việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có quyền chỉ được phép yêu
cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao nghĩa
vụ không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ.” [1]Bên cạnh đó, khi đặt hai chế định chuyển giao nghĩa vụ và
thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba lên bàn cân so sánh, tác
giả nhận định “đối với với việc uỷ quyền, người được uỷ quyền không thể
trở thành một bên chủ thể độc lập trong quan hệ nghĩa vụ chính mà người
này chỉ được thực hiện nghĩa vụ theo sự uỷ quyền của người uỷ quyền,
nhân danh người uỷ quyền và vì lợi ích của người uỷ quyền”[2]

[1] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp
luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1,
có sửa đổi và bổ sung), Đỗ Văn Đại, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.64 

[2] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp
luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1,
có sửa đổi và bổ sung), Đỗ Văn Đại, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.64
3.7 Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn của bản án cho thấy Toà án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền:
“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và
ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh
nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký
Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ
chấp nhận.”
“Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía
bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà Phượng giấy
chứng minh Hải quan.”
3.8 Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa án.
Theo em, với hướng giải quyết trên của Tòa là hoàn toàn hợp lý. Theo Khoản 2 Điều 315
BLDS 2005 quy định: “Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành
bên có nghĩa vụ.”
Nếu cho người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có trách nhiệm với người có quyền thì chúng ta
sẽ không thấy được sự khác nhau giữa chuyển giao nghĩa vụ tại Điều 315, Điều 316,
Điều 317 với Điều 293 BLDS 2005 về thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba.
Từ đó, muốn chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa
vụ thông qua người thứ ba, chúng ta cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng
người có nghĩa vụ ban đầu trừ trường hợp có thỏa thuận khác, vì vậy ngươi nghĩa vụ ban
đầu là bà Phượng và bà không còn nghĩa vụ khi chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý.

3.9 Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người
thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh cũng chấm dứt. Vì biện
pháp bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm nên chúng ta sẽ căn cứ theo Điều 317 BLDS
2005 thì biện pháp bảo lãnh sẽ chấm dứt nếu không có thỏa thuận khác.

You might also like