Professional Documents
Culture Documents
06 THAOLUAN01 Hopdong-2
06 THAOLUAN01 Hopdong-2
Bộ môn: Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Giảng viên: Đặng Thái Bình
Nhóm: 06
VẤN ĐỀ 01:
THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN
Tình huống 01:
Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một công trình
công cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không nêu rõ trong
hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền của A trong khi đó, theo quy
định, B không được tự ý ký hợp đồng với C vì đây là công việc của chủ đầu tư A
(thực tế Ban quản lí dự án B không có nhiều tài sản để thanh toán cho C).
1.1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Căn cứ theo Điều 574 BLDS 2015, “Thực hiện công việc không có ủy quyền
là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực
hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này
không biết hoặc biết mà không phản đối.”
1.2. Vì sao công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?
Cơ sở pháp lý: Khoản 3 Điều 275 BLDS 2015.
Theo đó, công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ.
Công việc không có ủy quyền xuất phát từ sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
trong cuộc sống. Về bản chất, khi một người không có nghĩa vụ phải thực hiện công
việc của người khác mà họ tự nguyện thực hiện thì quan hệ nghĩa vụ phát sinh giữa
người có công việc và người thực hiện công việc. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa
vụ tương xứng với nhau.
VD: Bà X và bà Y là hàng xóm của nhau. Do có việc phải đi vắng, bà X vắng
nhà 02 tuần. Trong thời gian bà X đi vắng có một gói bưu kiện gửi tới nhà bà X nên
bà Y ra nhận dùm.
Từ đó, phát sinh nghĩa vụ của bà Y là bảo quản gói bưu kiện thật cẩn thận để
giao lại nguyên vẹn gói hàng cho bà X và phải thông báo cho bà X về việc này nếu
có khả năng liên lạc.
1.3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực
hiện công việc không có ủy quyền.”
Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện công
việc không có ủy quyền.”
Thứ nhất, về chủ thể:
- BLDS 2005 quy định: Chủ thể người có công việc được thực hiện chỉ có cá
nhân.
- BLDS 2015 quy định: Chủ thể người có công việc được thực hiện bao gồm
cả cá nhân và pháp nhân (mở rộng phạm vi chủ thể).
Thứ hai, về mục đích thực hiện:
- BLDS 2005 quy định: “Hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được
thực hiện” (hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện, không có
mục đích khác, dẫn đến cách hiểu người có nghĩa vụ không được quyền có lợi ích gì
sau khi thực hiện nghĩa vụ).
- BLDS 2015 quy định: “Thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công
việc được thực hiện”. BLDS 2015 đã bỏ cụm từ “hoàn toàn”. Cho nên, lúc này
người thực hiện công việc không có ủy quyền có thể vì lợi ích của người có công
việc được thực hiện nhưng cũng có thể vì mục đích khác tuy nhiên không được làm
trái pháp luật và trái với lợi ích của người có công việc được thực hiện (mở rộng
động cơ thực hiện).
1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “Thực hiện công việc không có ủy
quyền” theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Căn cứ pháp lý: Điều 574 BLDS 2015.
Thứ nhất, điều kiện đối với người có công việc được thực hiện:
- Không biết hoặc biết nhưng không phản đối.
Thứ hai, điều kiện đối với người thực hiện công việc:
- Tự nguyện.
- Vì lợi ích của người có công việc được thực hiện.
Thứ ba, quan hệ giữa người có công việc được thực hiện và người thực hiện
công việc:
- Không có thoả thuận.
3
1
Từ đây về sau gọi tắt là Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
5
Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước
ngày 01/07/1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa
vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì quy đổi các
khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương, tại thời điểm gây
thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo
tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và
chịu án phí theo số tiền đó. Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra
sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời
gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thi Toà án chỉ
xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền.
Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên còn phải
trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước
quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy
định tại Khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác.
Việc tính lại khoản giá trị tiền phải trả qua trung gian là gạo.
2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ pháp lý: Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét
xử và thi hành án về tài sản.
Trong tình huống này, thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa ông Qưới và
bà Cô trước ngày 1/7/1997. Bên cạnh đó, trong thời gian gây ra thiệt hại và phát
sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm giá gạo đã tăng quá 20%.
Do đó, ta quy đổi khoản tiền thế chân 50.000đ ra gạo với giá trị tại thời điểm
phát sinh nghĩa vụ: 50.000 : 137 =365 kg.
Chúng ta tính 365 kg gạo thành tiền theo giá tại thời điểm bà Cô yêu cầu ông
Qưới hoàn lại tiền thế chân: 365 × 15000= 5.475.000đ.
Vậy ông Quới phải trả cho bà Cô khoản tiền là 5.475.000đ.
2.3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhưng bất động sản như trong tình huống thứ hai không? Vì sao?
Thông tư 01/TTLT ngày 19/06/1997 không điều chỉnh việc thanh toán tiền
trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản trong tình huống trên. Thông tư trên
điều chỉnh nghĩa vụ tài sản là các khoản tiền, vàng (là các khoản tiền, tiền hoàn trả,
tiền công, tiền lương, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính) và nghĩa
vụ tài sản là hiện vật, chứ không nêu về việc điều chỉnh việc thanh toán tiền trong
hợp đồng chuyển nhượng bất động sản.
2.4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GDT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000d như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm, thì theo
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho
cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Căn cứ tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết số
02/2004/NQ-HĐTP2 thì bà Hương thanh toán có cụ Bảng số tiền nợ tương đương
1/5 giá trị nhà, đất theo định giá hiện tại. Vì đề nêu điều kiện hơi mâu thuẫn nên
nhóm em sẽ chia ra 2 trường hợp:
- Thứ nhất, giá trị nhà, đất được xác định là 1.697.000 đ (theo câu hỏi): thì bà
Hương phải thanh toán khoản tiền bằng 1.697.000 đ x 1/5.
- Thứ hai, giá trị 1/5 nhà, đất bằng khoản tiền 1.697.000 đ (theo định giá tại
thời điểm sơ thẩm) thì khoản tiền bà Hương phải trả bằng khoản tiền này.
2.5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Hướng như trên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội là chưa có tiền lệ.
2
Tại điểm b2 quy định: “…Nếu công nhận phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện
tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho
bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so với diện tích đất
thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường
tại thời điểm xét xử sơ thẩm…”
7
VẤN ĐỀ 03:
CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN
Tóm tắt Bản án sơ thẩm số 148/2007/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2007
của Tòa án nhân dân Thị xã Châu Đốc.
Nguyên đơn trong vụ án là bà Tú khởi kiện bị đơn là bà Phượng với bà Ngọc
về vụ việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Bà Tú cho bà Phượng vay từ tiền vay ngân hàng. Theo biên nhận thì bà
Phương là người nhận số tiền vay. Bà Phượng cho rằng bà chỉ giới thiệu bà Ngọc,
bà Loan và ông Thạnh vay tiền của bà Tú nhưng lại không cung cấp được chứng cứ
xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền với bà Tú. Xét hợp đồng tiền giữa bà Phượng
và bà Tú thì bà Phượng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Tuy nhiên bà Tú đã chấp
nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh. Trong đó chỉ yêu cầu Tòa xem xét khoản vay đã chuyển nhượng cho bà
Ngọc.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và quyết
định chuyển giao nghĩa vụ thanh toán nợ, lãi suất và lãi từ khoản vay ngân hàng từ
bà Phượng sang bà Ngọc và yêu cầu bà Ngọc có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú.
3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ dân sự
Hình thức thực hiện: bằng văn bản hoặc bằng lời nói trừ trường
hợp pháp luật có quy định việc chuyển giao phải được lập thành
Giống văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký, xin
phép thì mới tuân thực hiện theo quy định đó;
Không chuyển giao quyền, nghĩa vụ gắn với nhân thân.
Khác Người chuyển giao quyền yêu Việc chuyển giao nghĩa vụ dân
cầu không phải chịu trách nhiệm sự bắt buộc phải có sự đồng ý
về khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên có quyền;
của bên có nghĩa vụ; Sau khi chuyển giao nghĩa vụ
Người chuyển giao quyền yêu thì BPBĐ chấm dứt, trừ trường
cầu phải báo cáo bằng văn bản hợp có thỏa thuận khác;
cho bên có nghĩa vụ về việc Trách nhiệm của người có
chuyển giao quyền yêu cầu; nghĩa vụ ban đầu về việc thực
hiện nghĩa vụ của người thế
nghĩa vụ không được quy định
rõ;
Người có nghĩa vụ dân sự
không phải báo cáo bằng văn
bản cho bên có quyền về việc
chuyển giao nghĩa vụ dân sự.
3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán
cho bà Tú?
Đoạn 02 và đoạn 03 phần Xét thấy của bản án có ghi nhận:
“Theo lời khai của bà Tú thì chính bà Phượng yêu cầu cho Phượng vay tiền
để kinh doanh […] bà Phượng có làm đơn nhận tiền với bà Tú.”
“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là
người trực tiếp nhận tiền của bà Tú […] Phía bà Phượng không cung cấp được
chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền của bà Tú. Cũng theo lời khai của
bà Phượng, tháng 4/2014 do bà Loan, ông Thạnh, bà Ngọc không có tiền trả cho
bà Tú để trả Ngân Hàng nên bà Phượng cùng bà Tú vay nóng bên ngoài để trả
Ngân Hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.”
3.3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã chuyển
giao cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn 04 phần Xét thấy của bản án có ghi nhận:
Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao
nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp
đồng cho bà Ngọc vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12.5.2005. Kể từ thời điểm bà
Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc. bà Loan, ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay
của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt.
3.4. Suy nghĩ của anh (chị) về đánh giá trên của Tòa án?
Theo nhóm em, đánh giá trên của Tòa án là hoàn toàn hợp lý.
9
Theo tinh thần của BLDS 2015, Tòa án xác định nghĩa vụ trả nợ của bà
Phượng đã được chuyển giao sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là có căn
cứ. Bởi lẽ, theo Điều 370 BLDS 2015 thì bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa
vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý và người thế nghĩa
vụ sẽ trở thành bên có nghĩa vụ. Trong trường hợp này, phía bà Tú đã chấp nhận
cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện
qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng
cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Điều đó thể
hiện người có quyền là bà Tú đã đồng ý với việc chuyển giao này. Khi đã chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận, người có nghĩa vụ ban đầu là bà Phượng sẽ được giải
phóng hoàn toàn, không phải chịu trách nhiệm liên đới. Thay vào đó bà Ngọc, bà
Loan và ông Thanh sẽ trở thành người thay thế nghĩa vụ, có trách nhiệm trả số nợ
còn thiếu cho bà Tú.
3.5. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiê ̣m đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực
hiê ̣n nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị
biết.
Nhìn từ góc đô ̣ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiê ̣m đối với người có quyền khi người thế ngĩa vụ không thực hiê ̣n nghĩa vụ
được chuyển giao. Quan điểm của tác giả Đỗ Văn Đại về vấn đề này là:
Khi có chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận, người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiê ̣m với người có quyền nên người có quyền không thể yêu
cầu người có nghĩa vụ ban đầu thực hiê ̣n nghĩa vụ khi người thế nghĩa vụ không
thực hiê ̣n nghĩa vụ được chuyển giao. Nếu có nghĩa vụ chuyển giao theo pháp luật
mà khi chuyển giao người có nghĩa vụ ban đầu chết hay chấm dứt (như do sáp nhập
hay hợp nhất) thì hiển nhiên người có quyền cũng sẽ không thể yêu cầu người có
nghĩa vụ ban đầu thực hiê ̣n nghĩa vụ.
3.6. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án có theo hướng người có nghĩa vụ
ban đầu không còn trách nhiê ̣m đối với người có quyền?
Đoạn 04 từ dưới lên thuộc phần Xét thấy của bản án cho thấy Tòa án có theo
hướng người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiê ̣m đối với người có quyền là:
“Viê ̣c của bà Tú giữ chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía bà
Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại cho bà
Phượng giấy chứng minh Hải quan”.
3.7. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền?
Thực tế cho thấy quy định trong các hệ thống luật tương đối khác nhau. Ở
châu Âu, một số nước quy định người có nghĩa vụ ban đầu được giải phóng hoàn
toàn nhưng một số nước lại quy định ngược lại theo hướng người đó có nghĩa vụ bổ
sung.
Tuy nhiên, theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng về việc chuyển giao
nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu (Điều 12:101): “người có nghĩa vụ
ban đầu không còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ” và Bộ nguyên tắc
Unidroit (Điều 9.2.5): “Người có quyền có thể giải phóng nghĩa vụ cho người có
nghĩa vụ ban đầu.”
3.8. Suy nghĩ của anh (chị) về hướng giải quyết trên của Tòa án?
Theo nhóm em, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, phù hợp với tinh
thần của BLDS 2015. Theo đó Khoản 2, Điều 370 quy định: “Khi được chuyển
giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.
Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có trách nhiệm đối với người có
quyền thì chúng ta sẽ không thấy sự khác nhau giữa chuyển giao nghĩa vụ được quy
định tại Điều 370 BLDS với thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba Điều
286 BLDS, theo đó “khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy
quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng vẫn phải chịu
trách nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ dân sự”.
Do vậy để chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực
hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải
phóng người có nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có thỏa thuận khác. Ở đây, người có nghĩa
vụ ban đầu là bà Phượng đã không còn nghĩa vụ khi việc chuyển giao nghĩa vụ có
giá trị pháp lý.
11
3.9. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh chấm dứt theo quy định
tai
Điều 371 BLDS 2015: “Trong trường hợp nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm
được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, nếu không có thoả thuận
khác”