You are on page 1of 4

BÀN VỀ CƠ CẤU CỦA QUY PHẠM PHÁP LUẬT

Quy phạm pháp luật là "tế bào" của hệ thống pháp luật, nó đóng vai trò như là những "viên gạch" để
xây nên "tòa nhà" pháp luật, do đó việc tạo ra các quy phạm pháp luật hoàn chỉnh và có cơ sở khoa học
mang ý nghĩa thiết thực đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Quy phạm pháp luật có cấu trúc
chặt chẽ nên việc nghiên cứu cơ cấu của quy phạm pháp luật sẽ giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn
bản chất của pháp luật đồng thời nó tạo ra cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu các vấn đề khác có
liên quan như thực hiện và áp dụng pháp luật, cơ chế điều chỉnh pháp luật, soạn thảo và ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Trong khoa học pháp lí, nhất là trong lí luận về nhà nước và pháp luật, có nhiều quan điểm khác
nhau về cơ cấu của quy phạm pháp luật cũng như các thành phần cụ thể của quy phạm pháp luật. Có
quan điểm cho rằng, quy phạm pháp luật bao gồm đầy đủ ba bộ phận là giả định, quy định và
chế tài. Có quan điểm thì đồng nhất quy phạm pháp luật với điều luật được ghi trong các văn
bản quy phạm pháp luật vì thế mà có quy phạm pháp luật thì có đầy đủ ba bộ phận, có quy
phạm pháp luật thì có hai bộ phận, thậm chí có quy phạm pháp luật chỉ có một bộ phận là quy
định.
Để giải quyết vấn đề này, trước hết chúng ta hãy xem xét một vài khía cạnh của khái niệm quy phạm
pháp luật. Quan điểm xuất phát từ khái niệm chung về pháp luật cho rằng quy phạm pháp luật là
quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và được đảm bảo
thực hiện bằng sự cưỡng chế của nhà nước.
Chúng ta biết rằng pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện,
chính vì thế mà một trong những đặc trưng cơ bản của pháp luật là tính nhà nước. Nhưng cưỡng chế
không phải là phương pháp duy nhất mà nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của
mình. Bên cạnh việc sử dụng biện pháp cưỡng chế thì thuyết phục cũng là phương pháp hoạt động cơ
bản của nhà nước đặc biệt là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện,
ngoài biện pháp bắt buộc bằng sức mạnh cưỡng chế, nhà nước còn đưa ra biện pháp khuyến khích về
vật chất và tinh thần cũng như biện pháp giáo dục, động viên mọi người tôn trọng và tự giác thực hiện
pháp luật. Vì vậy, nếu chúng ta cho rằng pháp luật chỉ được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế
của nhà nước và theo đó mà "tế bào" của nó (quy phạm pháp luật) cũng được đảm bảo bằng sự
cưỡng chế của nhà nước thì không hoàn toàn chính xác,
Mặt khác, pháp luật mang tính bắt buộc chung là do các "tế bào" của nó có mối liên hệ mật
thiết với nhau tạo thành hệ thống thống nhất, do đó nếu có quy phạm pháp luật nào đó xác định
quyền của chủ thể này thì sẽ có quy phạm pháp luật tương ứng với nó xác định nghĩa vụ của chủ
thể khác. Nếu có chủ thể pháp luật được hưởng quyền nào đó thì chủ thể khác cũng đồng thời có khả
năng được hưởng quyền như thế và họ có nghĩa vụ tôn trọng các quyền của nhau đã được pháp luật ghi
nhận. Nhưng nếu xét quy phạm pháp luật cụ thể nào đó (điều này không có nghĩa là làm mất đi tính
chất hệ thống của các quy phạm pháp luật) mà cho rằng mỗi quy phạm pháp luật cũng có tính chất bắt
buộc chung như là toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật thì không hoàn toàn chính xác bởi vì nếu quy
phạm pháp luật đó xác định cho chủ thể được phép thực hiện hành vi nào đó (quy phạm pháp luật cho
phép) thì rõ ràng nó chỉ đòi hỏi các chủ thể khác phải tôn trọng quyền đó còn chính chủ thể được xác
định không bắt buộc phải thực hiện quyền của mình. Do đó, việc các chủ thể của pháp luật tôn trọng
các quyền của chủ thể nào đó tức là họ đã xử sự theo những quy phạm mà trong đó xác định
nghĩa vụ của họ chứ không phải là thực hiện quy phạm pháp luật xác định quyền cho chủ thể
kia. Có những quy phạm pháp luật lại chỉ xác định một loại chủ thể đặc biệt nào đó mà thôi. Vì vậy,
không thể cho rằng tất cả quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc chung đối với mọi người.
Vì những lí do nêu trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về quy phạm pháp luật như sau:
Quy phạm pháp luật là tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhằm
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Trên cơ sở nhận thức đó, chúng ta đi xem xét cấu trúc của các quy phạm pháp luật.
Quan điểm chung cho rằng bộ phận giả định của quy phạm pháp luật xác định điều kiện và hoàn
cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống mà khi gặp điều kiện và hoàn cảnh đó, các chủ thể sẽ xử sự
theo cách thức nhất định mà nhà nước đã đặt ra. Nó trả lời các câu hỏi: Cá nhân nào? tổ chức
nào? khi nào? trong những hoàn cảnh hay điều kiện nào?
Bộ phận quy định trả lời cho câu hỏi: Được làm gì? không được làm gì? phải được làm gì? và làm
như thế nào? Nói cách khác, bộ phận quy định xác định cách xử sự cho chủ thể mà nội dung đó là
quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
Vì vậy, nếu chúng ta cho rằng bộ phận quy định nêu lên cách xử sự buộc chủ thể phải tuân theo khi
gặp điều kiện và hoàn cảnh được nêu ra ở phần giả định của quy phạm pháp luật là không hoàn toàn
chính xác bởi vì nếu phần quy định chỉ xác định quyền cho chủ thể thì rõ ràng nó không thể được coi là
chủ thể bắt buộc phải tuân theo như đã phân tích ở trên. Do đó, bộ phận quy định xác định khuôn
mẫu hành vi cho chủ thể khi họ ở vào điều kiện hay hoàn cảnh đã được xác định trong phần giả
định của quy phạm pháp luật. Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà chúng ta có thể xác
định là khuôn mẫu hành vi đó có bắt buộc chủ thể phải tuân theo hay không.
Bộ phận chế tài theo quan điểm chung là bộ phận xác định biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến
áp dụng đối với chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh được nêu trong phần quy định của quy phạm
pháp luật. Thực chất, chế tài là biện pháp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ pháp lí của
chủ thể. Tuy nhiên, đó không phải là biện pháp duy nhất mà nhà nước sử dụng để đảm bảo sự
tôn trọng pháp luật của chủ thể như đã phân tích ở trên.
Với những nội dung đó thì quy phạm pháp luật thường có ba bộ phận là giả định, quy định và chế
tài. Thực tế, có nhiều cách trình bày các quy phạm pháp luật trong các văn bản mà khi nghiên
cứu điều luật cụ thể chúng ta thường thấy không có đầy đủ cả ba bộ phận nêu trên. Sở dĩ như vậy
là vì nội dung nào đó có thể sử dụng chung cho nhiều quy phạm pháp luật thì việc lặp đi lặp lại
nội dung đó là không cần thiết hoặc do tính chất của cấu trúc ngôn ngữ mà bộ phận nào đó của
quy phạm pháp luật có thể được trình bày "ẩn". Tuy nhiên, nếu chúng ta loại trừ những trường
hợp nêu trên thì cũng vẫn có quy phạm pháp luật không có bộ phận chế tài nếu xét theo góc độ
logic của nội dung quy phạm pháp luật. Chúng ta hãy nghiên cứu hai trường hợp sau đây:
- Thứ nhất, phần quy định của quy phạm pháp luật chỉ xác định quyền của chủ thể (quy phạm
pháp luật cho phép)
Có nghĩa là trong hoàn cảnh hay điều kiện nhất định, chủ thể được pháp luật xác định quyền nào đó,
nếu chủ thể từ chối việc thực hiện quyền của mình thì bộ phận chế tài có cần thiết được đặt ra không?
Thực tế hoạt động xây dựng pháp luật cho thấy không có quy phạm pháp luật cho phép nào xác
định phần chế tài đối với chủ thể nếu chủ thể không thực hiện quyền của mình. Và thực tiễn hoạt
động áp dụng pháp luật cũng không bao giờ truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể từ chối
việc thực hiện quyền của mình cả. Ví dụ, Điều 57 Hiến pháp 1992 quy định: "Công dân có quyền tự
do kinh doanh theo quy định của pháp luật"; Điều 1 Luật khiếu nại, tố cáo ghi: "Công dân, cơ quan, tổ
chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước,
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành
vi đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình"; hoặc trong trường hợp công dân
từ chối thực hiện quyền kháng cáo bản án hay quyết định nào đó của toà án nhân dân theo quy
định của pháp luật.
Rõ ràng, chúng ta thấy trong những trường hợp trên thì phần chế tài của quy phạm pháp luật
không cần phải đặt ra và như vậy quy phạm pháp luật đó không có phần chế tài chứ không thể nói
rằng nó được quy định ở điều luật khác hay văn bản quy phạm pháp luật khác như chúng ta vẫn
thường nói.
- Thứ hai, quy phạm pháp luật mà nội dung của nó liên quan đến thủ tục pháp lí hoặc trường
hợp mà nội dung của nghĩa vụ gắn liền với lợi ích của chủ thể pháp luật
Trong một số trường hợp quy phạm pháp luật quy định về thủ tục pháp lí nhất định mà khi
thực hiện những hành vi này, nếu chủ thể của pháp luật không làm đúng những yêu cầu của
pháp luật thì cũng không có biện pháp chế tài nào được đặt ra. Ví dụ, điểm a khoản 2 Điều 17 Luật
khiếu nại, tố cáo quy định về nghĩa vụ của người khiếu nại: "Khiếu nại đến đúng người có thẩm
quyền". Nếu người khiếu nại không làm đúng như vậy thì có biện pháp chế tài nào không hay là hậu
quả pháp lí của việc không làm đó chỉ là sự từ chối giải quyết khiếu nại của cơ quan nhận được đơn
khiếu nại và trả lại đơn cho người khiếu nại vì lí do không đúng thẩm quyền. Trong trường hợp như
vậy, chúng ta thấy rằng nếu chủ thể pháp luật xử sự theo đúng yêu cầu của pháp luật thì mới có thể đảm
bảo cho thủ tục pháp lí xuất hiện hoặc tiếp tục diễn ra các giai đoạn tiếp theo còn ngược lại thì thủ tục
pháp lí sẽ không xuất hiện hoặc không tồn tại các giai đoạn tiếp theo nữa.
Trong trường hợp nghĩa vụ của chủ thể gắn liền với lợi ích của họ, nếu chủ thể không thực
hiện nghĩa vụ thì lợi ích của họ có thể bị thiệt hại. Ví dụ, trong các quy định của pháp luật về thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự, lao động hay kinh tế đều có quy phạm quy định về nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ để bảo về lợi ích của mình. Điều 2 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động quy
định: "Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình". Như vậy, nếu các đương sự không thực hiện hành vi này thì cũng không cần biện pháp chế tài
nào bởi vì nghĩa vụ này gắn liền với lợi ích của chính họ.
Bên cạnh đó, trên thực tế có những quy phạm pháp luật xác định nghĩa vụ của chủ thể pháp
luật nhưng không đặt ra phần chế tài do nhiều lí do khác nhau. Có thể chúng ta chưa có cơ chế hợp
lí cho việc áp dụng chế tài pháp luật, cũng có thể nhà làm luật chưa lường trước được biện pháp chế tài
cần thiết. Hoặc trong một số trường hợp, nhà nước thấy rằng để đảm bảo cho các quy phạm pháp
luật được thực hiện thì việc sử dụng biện pháp thuyết phục sẽ có hiệu quả hơn so với việc sử
dụng các biện pháp bắt buộc cứng rắn như các chế tài của pháp luật. Vì vậy, phần chế tài của
pháp luật không được đặt ra trong các quy phạm pháp luật đó. Ví dụ: Điều 153 Bộ luật lao động
quy định: "ở những doanh nghiệp đang hoạt động chưa có tổ chức công đoàn thì chậm nhất sau sáu
tháng kể từ ngày Bộ luật lao động có hiệu lực và ở những doanh nghiệp mới thành lập thì chậm nhất
sau sáu tháng kể từ ngày doanh nghiệp bắt đầu hoạt động, liên đoàn lao động tỉnh phải thành lập tổ
chức công đoàn lâm thời tại doanh nghiệp để đại diện, người lao động và tập thể lao động". Trong
trường hợp này, nếu liên đoàn lao động tỉnh không thực hiện nghĩa vụ của mình thì cũng không có chế
tài nào có thể áp dụng. Những quy định về nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với
con cái trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng không cần phải đặt ra chế tài.
Như vậy, không phải bất kì nghĩa vụ pháp lí nào cũng cần phải có chế tài để đảm bỏ cho nó
được thực hiện mà nghĩa vụ đó có thể có thể được đảm bảo bằng biện pháp thuyết phục (khen
thưởng) hoặc việc thực hiện nghĩa vụ đó gắn với lợi ích trực tiếp của chính chủ thể có nghĩa vụ.
Một vài điểm được phân tích trên cho chúng ta thấy tính chất phức tạp của vấn đề cấu trúc
của quy phạm pháp luật. Nó tạo ra hướng nghiên cứu mới cho chúng ta về các quy phạm pháp luật
nhằm xác định sự cần thiết của việc tồn tại những thành phần khác nhau gắn liền với những điều kiện
và hoàn cảnh cụ thể của mỗi quy phạm pháp luật. Không phải bất kì trong trường hợp nào chúng ta
cũng có được các quy phạm có đầy đủ cả ba bộ phận giả định, quy định và chế tài. Điều đó có ý
nghĩa rất lớn đối với việc nghiên cứu và làm sáng tỏ các hình thức khác nhau của điều chỉnh
pháp luật cũng như những thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật.

You might also like