You are on page 1of 28

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT QUỐC TẾ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM


TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM
HỢP ĐỒNG
Bộ môn: Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Lớp: TMQT47.2
Giảng viên hướng dẫn: Trần Nhân Chính
NHÓM 02

ST
Họ và Tên MSSV
T
1 Nguyễn Quỳnh Trang 2253801090095
2 Nguyễn Phương Nhi 2253801090064
3 Nguyễn Thị Yến Nhi 2253801090065
4 Lê Như Quỳnh 2253801090077
5 Lê Trường Thành 2253801090082
6 Phạm Thị Phương Thùy 2253801090089
7 Trần Khánh Trân 2253801090094
8 Nguyễn Huỳnh Hạ Vy 2253801090108
9 Nguyễn Thị Như Ý 2253801090110
10 Trần Thanh Yên 2253801090111
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 09 năm 2023
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS 2005 Bộ luật Dân sự năm 2005

BLDS 2015 Bộ luật Dân sự năm 2015

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

BTTH Bồi thường thiệt hại


MỤC LỤC
Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra............5
Tình huống..................................................................................................................5
1.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng..................................5
1.2.Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn
không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã hội đủ
chưa? Vì sao?.............................................................................................................6
1.3.Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp đồng gây
ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời................................................7
1.4..........BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời...........................................7
1.5. Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh thần
không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời........................................................7
Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng.............................................................................10
Tóm tắt Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án nhân dân TP.
Hồ Chí Minh.............................................................................................................10
Tóm tắt Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao..................................................................................10
2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.........10
2.2. Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng................................11
2.3. Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội dung
của phạt vi phạm hợp đồng?.....................................................................................12
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền
trả trước 30%............................................................................................................12
2.5. Cho biết điểm giống và khác nhau giữa thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng và
thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.................................13
2.6.......Theo Toà án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định
của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng hay thỏa
thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?..........................14
2.7. Theo Toà giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thỏa thuận được nêu tại mục 4
phần Nhận định của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp
đồng hay thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?. .15
2.8. Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng thẩm
phán?.........................................................................................................................15
Vấn đề 3: Sự kiện bất khả kháng..............................................................................17
Tình huống................................................................................................................17
3.1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các bên
có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu rõ
cơ sở khi trả lời.........................................................................................................17
3.2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do
sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi..............................17
3.3. Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các
điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên..............................18
3.4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường cho
anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................19
3.5. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công ty
bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản
và thực tiễn xét xử.....................................................................................................19
Vấn đề 4: Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản..............................22
Tóm tắt Bản án số 07/2022/DS-PT ngày 24/2/2022 của Toà án nhân dân tỉnh
Quảng Nam...............................................................................................................22
4.1..Điểm giống và khác nhau giữa sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi khi
thực hiện hợp đồng (về sự tồn tại và hệ quả pháp lý của hai trường hợp này)........22
4.2.Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong một hệ
thống pháp luật nước ngoài......................................................................................23
4.3.Đoạn nào trong Bản án cho phép hiểu rằng Tòa án đã áp dụng quy định về
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản?...............................................24
4.4.Việc áp dụng quy định về Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
cho hoàn cảnh như trong Bản án có phù hợp không? Vì sao?.................................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng
gây ra

Tình huống: Ông Lại (bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ) và bà Nguyễn thỏa
thuận phẫu thuật ngực với 4 yêu cầu: Lấy túi ngực ra, thâu nhỏ ngực lại, bỏ túi nhỏ
vào, không được đụng đến núm vú. Ba ngày sau phẫu thuật, bà Nguyễn phát hiện thấy
núm vú bên phải sưng lên, đau nhức và đen như than. Qua 10 ngày, vết mổ hở hết
phần vừa cắt chỉ, nhìn thấy cả túi nước đặt bên trong và ông Lại tiến hành mổ may lại.
Được vài ngày thì vết mổ bên tay phải chữ T lại hở một lỗ bằng ngón tay, nước dịch
tuôn ướt đẫm cả người. Sau đó ông Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực
tế bà Nguyễn mất núm vú phải.
1.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với
BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng.

BLDS 2015 không có điều luật quy định rõ về trách nhiệm BTTH trong hợp
đồng. Tuy nhiên, khi xét trên nhiều yếu tố và đặc điểm của hợp đồng, ta có thể rút ra
03 điều kiện chính dẫn đến phát sinh trách nhiệm, cụ thể: phải có thiệt hại xảy ra, có
hành vi vi phạm có lỗi và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt
hại xảy ra. Như vậy, nếu giữa các đối tượng có thực hiện một giao dịch dân sự, và
giao dịch dân sự đó được đảm bảo, hay giao kết bằng hợp đồng ràng buộc trách nhiệm
và nghĩa vụ, thì khi một bên không thực hiện đúng hợp đồng, hoặc vi phạm trách
nhiệm dân sự, thì sẽ dẫn đến phát sinh trách nhiệm BTTH hợp đồng.

Một số loại trách nhiệm bồi thường được quy định trong BLDS 2015: trách
nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ (Điều 353); trách nhiệm do không thực hiện nghĩa
vụ giao vật (Điều 356); trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (Điều 357);
trách nhiệm do không thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc (Điều 358)
và trách nhiệm do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 359).

Những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005:

BLDS 2015 quy định tại Điều 360: Trách nhiệm BTTH do vi phạm nghĩa vụ:
“Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định
khác”.

5
BLDS 2005 quy định tại Điều 307: Trách nhiệm BTTH: “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm
bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần”.

Tại khoản 1 Điều 302: “Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”; khoản 3
Điều 302: “Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh
được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền”.

BLDS 2005 BLDS 2015


Điều 302, 307 Điều 360
Điều 307 chỉ đề cập “trách nhiệm bồi
thường thiệt hại” nhưng không nêu rõ
những yếu tố cấu thành nên trách nhiệm - Yếu tố được xác định là “có thiệt hại”.
đó. - Nêu rõ cách thức xác định là “có thiệt
Kết hợp Điều 302 và 307 thì xác định hại do vi phạm nghĩa vụ”.
được yếu tố cần thiết là: có thiệt hại, có
lỗi.

Đề cập yếu tố lỗi: người không thực hiện


hoặc không được thực hiện nghĩa vụ phải Loại bỏ yếu tố lỗi.
có lỗi

1.2. Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn đã hội đủ chưa? Vì sao?

Trong tình huống trên không có việc xâm phạm đến yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn. Vì căn cứ theo khoản 3 Điều 33 BLDS 2015: “Việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy
ghép mô, bộ phận cơ thể người; thực hiện kỹ thuật, phương pháp khám, chữa bệnh
mới trên cơ thể người; thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất cứ hình thức thử
nghiệm nào khác trên cơ thể người phải được sự đồng ý của người đó và phải được tổ
chức có thẩm quyền thực hiện”. Trong tình huống này, việc phẫu thuật ngực có sự
đồng ý của bà Nguyễn (ông Lại và bà Nguyễn thỏa thuận phẫu thuật ngực), đồng thời
ông Lại cũng là bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ, nên hoàn toàn có đủ cơ sở và
thẩm quyền để thực hiện.

Các yếu tố căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH phải đạt đủ 03 yếu tố: phải có
thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm có lỗi và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra. Ở đây ta nhận thấy: thiệt hại xảy ra là bà Nguyễn bị
mất núm vú phải, hành vi vi phạm có lỗi và mối quan hệ nhân quả: việc bà Nguyễn

6
thỏa thuận phẫu thuật ngực có yêu cầu không đụng đến núm vú nhưng cuối cùng lại
mất núm vú. Từ đó, ta nhận thấy căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường cho bà
Nguyễn đã hội đủ.

1.3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp
đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Khoản 2 Điều 361 BLDS 2015 quy định về thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ:
“Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về
tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút”. Ta nhận thấy một số loại thiệt hại về vật chất như: tài sản bị
mất, hủy hoại, bị hư hỏng, chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại, lợi ích
gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản cùng với hoa lợi, lợi tức; thiệt hại về tinh
thần bao gồm: tổn thất về danh dự, uy tín, nhân phẩm.

1.4. BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
BLDS cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi phạm
hợp đồng, được thể hiện rõ ở các điều khoản sau:
Thứ nhất, khoản 1 Điều 307 BLDS 2005 quy định: “Trách nhiệm BTTH bao
gồm trách nhiệm BTTH về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh
thần.”
Thứ hai, Điều 360 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”.
Thứ ba, khoản 1 Điều 361 BLDS 2015 quy định: “Thiệt hại do vi phạm nghĩa
vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.”.
Theo đó, bên cạnh quy định bồi thường tổn thất về vật chất, cả BLDS 2005 và
BLDS 2015 đều có quy định buộc người vi phạm nghĩa vụ có trách nhiệm bồi thường
tổn thất về tinh thần cho người bị vi phạm khi có hành vi xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của họ.
1.5. Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh
thần không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn được bồi thường tổn thất về tinh thần. Vì:
Thứ nhất, pháp luật hiện hành quy định bà Nguyễn có quyền yêu cầu BTTH về
tinh thần khi bên có nghĩa vụ là ông Lại vi phạm nghĩa vụ.

7
Ở tình huống trên, giữa ông Lại và bà Nguyễn có thỏa thuận phẫu thuật ngực
và bà có yêu cầu ông Lại là không được đụng đến núm vú. Theo quy định tại Điều
385 BLDS 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” thì thỏa thuận trên được xem là một hợp
đồng vì đã xác lập nghĩa vụ dân sự của ông Lại là phẫu thuật ngực theo yêu cầu của bà
Nguyễn. Theo khoản 1 Điều 275 BLDS 2015 thì hợp đồng là một trong các căn cứ
phát sinh nghĩa vụ.
Theo như thỏa thuận, nghĩa vụ của ông Lại là phẫu thuật ngực cho bà Nguyễn
nhưng không được đụng đến núm vú. Tuy nhiên, sau ca phẫu thuật, núm vú bên phải
của bà Nguyễn xảy ra nhiều vấn đề và sau khi thực hiện các biện pháp khắc phục thì
thực tế là bà Nguyễn đã mất núm vú phải.
Theo khoản 1 Điều 351 BLDS 2015 định nghĩa thì: “Vi phạm nghĩa vụ là việc
bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.”.
Căn cứ vào đây có thể thấy, việc ông Lại phẫu thuật ngực nhưng để xảy ra hậu
quả là bà Nguyễn mất núm vú phải là đã thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ
theo thỏa thuận, tức là đã vi phạm nghĩa vụ. Căn cứ theo khoản 3 Điều 419 BLDS
2015 quy định về thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng thì “Theo yêu cầu
của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ BTTH về tinh thần cho
người có quyền.”. Như vậy, bà Nguyễn có thể yêu cầu Tòa án buộc ông Lại BTTH về
tinh thần vì đã vi phạm nghĩa vụ.
Thứ hai, pháp luật hiện hành quy định khi có thiệt hại xảy ra do vi phạm nghĩa
vụ, cụ thể là tổn thất về tinh thần thì ông Lại phải có trách nhiệm bồi thường cho bà
Nguyễn.
Căn cứ theo Điều 360 BLDS 2015 quy định về trách nhiệm BTTH do vi phạm
nghĩa vụ thì: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác.”.
Từ quy định này, có thể thấy trong trường hợp việc vi phạm nghĩa vụ có xảy ra
thiệt hại thì bên có nghĩa vụ có trách nhiệm phải bồi thường toàn bộ thiệt hại nếu
không có thỏa thuận hoặc luật không quy định khác.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 361 BLDS 2015 quy định thì thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Theo khoản 3 Điều
này định nghĩa thì: “Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến
8
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của
một chủ thể.”.
Theo quy định này, trong trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ mà gây
ra tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín và các lợi ích nhân thân khác cho bên có quyền thì bên có quyền được bồi
thường tổn thất về tinh thần.
Trong tình huống này, có cơ sở để bà Nguyễn cho rằng mình có tổn thất về tinh
thần vì sức khỏe của bà đã bị xâm phạm do ông Lại vi phạm nghĩa vụ, cụ thể:
“Ba ngày sau phẫu thuật, bà Nguyễn phát hiện thấy núm vú bên phải sưng lên,
đau nhức và đen như than. Qua 10 ngày, vết mổ hở hết phần vừa cắt chỉ, nhìn thấy cả
túi nước đặt bên trong và ông Lại tiến hành mổ may lại. Được vài ngày thì vết mổ bên
tay phải chữ T lại hở một lỗ bằng ngón tay, nước dịch tuôn ướt đẫm cả người. Sau đó
ông Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực tế bà Nguyễn mất núm vú
phải.”
Như vậy, trong trường hợp này, ông Lại không những đã vi phạm nghĩa vụ mà
còn gây ra thiệt hại về tinh thần do đã xâm phạm đến sức khỏe của bà Nguyễn. Vì thế,
như đã phân tích ở trên, bà Nguyễn được bồi thường tổn thất về tinh thần theo quy
định hiện hành.

9
Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng

Tóm tắt Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án nhân dân
TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Tân Việt.
- Bị đơn: Công ty TNHH Tường Long.
- Nội dung: Công ty Tân Việt và Công ty Tường Long đã ký Hợp đồng số 01-
10/TL-TV ngày 01/10/2010 và phụ lục hợp đồng ngày 07/10/2010 để mua vải thành
phẩm. Nội dung thanh toán ngay sau khi ký hợp đồng, Công ty Tân Việt thanh toán
trước 30% đơn hàng gọi là tiền đặt cọc, thanh toán 40% giá trị đơn hàng ngay sau khi
bên Công ty Tường Long giao hoàn tất và 30% còn lại thanh toán trong vòng 30 ngày
kể từ ngày thanh toán cuối cùng. Ngày 19/10/2010 Công ty Tân Việt đã thanh toán
30%, ngày 12/11/2010 Công ty Tường Long giao lô hàng mẫu. Sau đó Công ty Tường
Long có công văn gửi cho Công ty Tân Việt yêu cầu tăng giá nhưng Công ty Tân Việt
không đồng ý và đã gửi công văn phản hồi. Ngày 3/12/2010 Công ty Tường Long
thông báo hủy bỏ hợp đồng. Công ty Tân Việt yêu cầu Công ty Tường Long thanh
toán tiền phạt cọc và phạt hợp đồng là 509.769.640 đồng (bao gồm tiền phạt cọc
406.920.000 đồng và tiền phạt do hủy hợp đồng là 102.849.604 đồng). Sau khi nghiên
cứu tài liệu, Tòa án buộc Công ty Tường Long có trách nhiệm thanh toán tiền phạt
102.849.604 đồng cho Công ty Tân Việt.

Tóm tắt Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn.
- Bị đơn: Công ty cổ phần Yến Việt.
- Nội dung vụ việc: Tháng 10/2010 công ty của nguyên đơn và bị đơn ký hợp
đồng phân phối độc quyền ra phía Bắc. Trong đó, hai bên có thỏa thuận rằng nếu bên
nào vi phạm cam kết trong hợp đồng sẽ BTTH 10.000.000.000 đồng. Sau khi ký hợp
đồng, công ty Yến Sào nhập 3 lô hàng để phân phối và thực hiện các cam kết giữa các
bên. Tuy nhiên công ty Yến Việt đã thành lập chi nhánh tại Hà Nội và thiết lập cửa
hàng để phân phối sản phẩm trên thị trường miền Bắc mà không trao đổi với công ty
Yến Sào. Cho rằng hành vi của công ty Yến Việt gây thiệt hại đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty Yến Sào nên yêu cầu bồi thường thiệt hại như thỏa thuận
trong hợp đồng.
- Nhận định của tòa án: Tại mục 4, căn cứ theo các điều 300, 301, 302, 303, 304
Luật Thương mại 2005, Tòa án cấp sơ thẩm và Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân
cấp cao tại TP. HCM nhận định bị đơn phải bồi thường thiệt hại 10.000.000.000 đồng
là không đúng với quy định của pháp luật.

10
2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
Cơ sở pháp lý: Điều 422 BLDS 2005; Điều 418 BLDS 2015.

Về mức phạt, BLDS 2005 quy định “mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận”
(khoản 2 Điều 422) còn BLDS 2015 theo hướng “mức phạt vi phạm do các bên thỏa
thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác” (khoản 2 Điều 418). BLDS
2015 đã bổ sung thêm điều kiện “trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác” với
lý do hiện nay vẫn có quy định khác về mức phạt như Luật xây dựng (khoản 2 Điều
146 Luật Xây dựng 2014), Luật Thương mại (Điều 301 Luật Thương mại 2005) có
quy định về mức phạt tối đa (tức các bên không hoàn toàn tự do thỏa thuận về mức
phạt). Hơn nữa, đối với những quan hê dân sự được Luật Thương mại 2005 điều chỉnh
thì mức phạt vi phạm tối đa đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt
đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá
trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp vi phạm hợp đồng dịch vụ
giám định theo Điều 266 Luật Thương mại năm 2005.

Trước đây, khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 theo hướng “các bên có thể thỏa
thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi
thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại nếu
không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”. Ngày nay, tại khoản 3 Điều
318 BLDS 2015 quy định “các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ
chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu
phạt vi phạm vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thoả thuận về
phạt vi phạm nhưng không thoả thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải
bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Điều kiện
“nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn
bộ thiệt hại” của quy định cũ đã được bỏ vì đây là vấn đề BTTH và đã có quy định
khác điều chỉnh.

Về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và BTTH, BLDS 2015 vẫn theo hướng nếu
không có thỏa thuận cụ thể về việc kết hợp hai chế tài này thì thỏa thuận phạt vi phạm
loại trừ trách nhiệm BTTH (có thoả thuận về phạt vi phạm mà không có thoả thuận về
sự kết hợp thì chỉ áp dụng phạt vi phạm). Tuy nhiên, quy định của BLDS 2005 có
cách hành văn chưa mạch lạc nên đã dẫn tới các cách hiểu khác nhau. Để hạn chế việc
hiểu khác nhau về cùng một điều luật, tại khoản 3 Điều 318 đoạn“Trường hợp các
bên có thoả thuận về phạt vi phạm nhưng không thoả thuận về việc vừa phải chịu phạt
vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt
vi phạm” đã có những thay đổi so với quy định tương ứng cũ.

11
Đối với vụ việc thứ nhất
2.2. Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng.
Về đối tượng thực hiện: là khoản tiền buộc phải nộp cho một bên;
Về hình thức: đều được lập thành văn bản (cụ thể ở đây là hợp đồng đặt cọc và
hợp đồng giao dịch);
Về hậu quả pháp lý: bên vi phạm có nghĩa vụ phải nộp cho bên kia một khoản
tiền (mức phạt vi phạm hoặc phạt cọc), và không căn cứ vào thiệt hại thực tế (phải trả
cho bên kia tài sản đặt cọc và một khoản tiền có giá trị tương ứng với tài sản, tức là
gấp 2 lần khoản cọc hoặc phải nộp cho bên kia số tiền phạt vi phạm đã ghi trong thỏa
thuận).

2.3. Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của phạt vi phạm hợp đồng?
Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc thể hiện trong
phần “Xét thấy” của Bản án có đoạn:
“Xét thấy, theo khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh tế số 01-10/TL-TV từ ngày
01/10/2010 các bên đã thoả thuận: Ngay sau khi ký hợp đồng, bên mua (Công ty Tân
Việt) phải thanh toán trước cho bên bán (công ty Tường Long) 30% giá trị đơn hàng -
gọi là tiền đặt cọc, 40% giá trị đơn hàng thành toán ngay sau khi bản Công ty Tường
Long giao hàng hoàn tất, 30% còn lại sẽ thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ ngày
thanh toán cuối cùng. Do vậy số tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng
(406.920.000 đồng) được xác định là tiền đặt cọc. Việc đặt cọc này là phù hợp khoản
7 Điều 292 Luật Thương mại và Điều 358 Bộ luật dân sự. Việc đặt cọc này là việc
đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng.”

2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền trả trước 30%.
Theo nhóm tác giả, cách giải quyết của Tòa án là chưa hợp lí và chưa có sự
thống nhất trong cách giải quyết. Đối với khoản tiền trả trước 30%, Tòa án đã xác
định đây là tiền đặt cọc dựa vào khoản 7 Điều 292 Luật Thương mại và Điều 358
BLDS. Khoản tiền này dùng để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng.
Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 2 Điều 358 BLDS: “2. Trong trường hợp hợp
đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc
hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết,
thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên
nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên
đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.” Tòa án nhận định rằng bị đơn không hề từ chối
thực hiện hợp đồng thể hiện ở chỗ bị đơn đã giao hàng đợt 1 cho nguyên đơn và

12
tranh chấp phát sinh khi phía bị đơn yêu cầu thay đổi đơn giá, 2 bên không đạt được
thỏa thuận nên mới khởi kiện tại Tòa án. Dẫn đến việc Tòa án bác bỏ kháng cáo của
nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn bồi thường khoản tiền này.
Cách giải quyết nhiều mâu thuẫn như trên của Tòa án đã khiến quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn không được đảm bảo.
Thứ nhất, việc Tòa án xác định bị đơn đã thực hiện việc giao kết hợp đồng thể
hiện ở chỗ đã giao hàng lần thứ nhất và mâu thuẫn không nằm ở việc bị đơn không
thực hiện hợp đồng mà là do cả hai không thỏa thuận do bị đơn yêu cầu tăng giá nên
cho rằng yêu cầu của nguyên đơn bồi thường số tiền đặt cọc không đúng là chưa hợp
lý, chưa có sự thống nhất trong cách giải quyết. Tòa án chưa làm rõ được lý do vì sao
đây là tiền đặt cọc nhưng nguyên đơn căn cứ vào khoản 2 Điều 258 để yêu cầu bị đơn
thanh toán khoản tiền 406.920.000 đồng là chưa thuyết phục. Theo nhóm tác giả, khi
Tòa án đã nhận định số tiền 30% là số tiền đặt cọc thì khi hợp đồng không thể thực
hiện được nữa tức bên bị đơn đã không tiếp tục thực hiện hợp đồng công ty Tường
Long (bị đơn) phải bị phạt cọc là hợp lý.
Thứ hai, tại đây có sự phân biệt giữa khái niệm “thanh toán trước” và “đặt
cọc”, hai hành vi này dẫn đến hai hậu quả pháp lý hoàn toàn khác nhau, do đó khi xác
định Tòa án cần xác định rõ số tiền 30% là tiền thanh toán trước hay tiền đặt cọc. Nếu
là tiền thanh toán trước đơn hàng đợt 1 thì hai bên chỉ cần hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận, cụ thể ở đây bị đơn sẽ trả lại cho nguyên đơn số tiền đã thanh toán dư vì hợp
đồng không còn tiếp tục được thực hiện. Tuy nhiên, trong hợp đồng mua bán vải cả
hai công ty đều có thỏa thuận số tiền 30% trên là “tiền đặt cọc” nên không thể xem
đây là khoản tiền thanh toán trước, do đó việc Tòa án không chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn là không đảm bảo được quyền lợi của nguyên đơn, không tôn trọng thỏa
thuận ban đầu mà cả hai đã đặt ra.

Đối với vụ việc thứ hai


2.5. Cho biết điểm giống và khác nhau giữa thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng
và thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
* Giống nhau:
- Đều là hình thức chế tài trong thương mại áp dụng đối với các chủ thể tham
gia giao kết hợp đồng;
- Đều có căn cứ phát sinh trách nhiệm là hành vi vi phạm hợp đồng;
- Đều mang tính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên;
- Đều được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau:
+ Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
+ Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
+ Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;

13
+ Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng.

* Khác nhau:
Tiêu chí Phạt vi phạm BTTH

Là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên Là việc bên vi phạm bồi thường
vi phạm trả một khoản tiền phạt do những tổn thất do hành vi vi phạm
Khái niệm vi phạm hợp đồng nếu trong hợp hợp đồng gây ra cho bên bị vi
đồng có thỏa thuận (Điều 300 Luật phạm (Điều 302 Luật Thương mại
Thương mại 2005). 2005).

- Có sự thỏa thuận của các bên trong - Có hành vi vi phạm hợp đồng;
hợp đồng (Nếu hai bên không thỏa - Có thiệt hại thực tế;
thuận thì sẽ không phát sinh); - Hành vi vi phạm hợp đồng là
Căn cứ áp
- Có hành vi vi phạm theo thỏa thuận nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt
dụng
trong hợp đồng; hại.
- Không cần thiết phải có thiệt hại
xảy ra.

- Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ


Bao gồm giá trị tổn thất thực tế,
hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối
trực tiếp mà bên bị vi phạm phải
với nhiều vi phạm do các bên thỏa
chịu do bên vi phạm gây ra và
Mức thuận trong hợp đồng; khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi
phạt/Mức phạm đáng lẽ được hưởng nếu
bồi
- Không quá 8% giá trị phần nghĩa không có hành vi vi phạm.
thường
vụ hợp đồng bị vi phạm. (Điều 302, 305 Luật Thương mại
2005)
(Điều 301 Luật Thương mại 2005)

- Bảo vệ quyền lợi của cả hai bên; - Bảo vệ lợi ích bên bị vi phạm;
- Ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi - Nhằm khôi phục, bù đắp những
Mục đích phạm hợp đồng có thể xảy ra; lợi ích vật chất bị mất của bên vi
- Tăng ý thức của các bên phải thực phạm.
hiện nghiêm túc các thỏa thuận.

14
2.6. Theo Toà án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận
định của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp
đồng hay thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì
sao?
Theo Tòa án cấp phúc thẩm, thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định
của Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng.
Bởi vì: tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 01/2017/KDTM-PT
ngày 11/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận quyết định không chấp nhận yêu
cầu Công ty cổ phần Yến Việt bồi thường khoản tiền 10.000.000.000 đồng cho Công
ty TNHH Yến Sào Sài Gòn do vi phạm Hợp đồng nguyên tắc số 02/HĐNT. Xét thấy
sự thỏa thuận nêu tại mục 4 phần Nhận định của Tòa án trong Quyết định số 10 là
hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, và phù hợp với quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều 418 BLDS 2015 về phạt vi phạm. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ
buộc Công ty cổ phần Yến Việt bồi thường 5.050.300.000 đồng là không có cơ sở,
cần buộc Công ty cổ phần Yến Việt phải bồi thường cho Công ty TNHH Yến Sào Sài
Gòn 10.000.000.000 đồng theo như thỏa thuận của Hợp đồng số 02. Điều này cho
thấy Tòa án cấp phúc thẩm xem thỏa thuận trên là thỏa thuận về phạt vi phạm hợp
đồng.

2.7. Theo Toà giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thỏa thuận được nêu tại
mục 4 phần Nhận định của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận
phạt vi phạm hợp đồng hay thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng? Vì sao?
Theo Tòa giám đốc thẩm, thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của
Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng. Mặc dù các bên
có thỏa thuận rằng bên vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bên bị vi
phạm 10.000.000.000 đồng. Nhưng đây là thỏa thuận về mức phạt vi phạm hợp đồng
chứ không phải mức BTTH. Nếu xác định các bên có thỏa thuận BTTH thì Tòa án
phải làm rõ căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH bao gồm đủ các yếu tố: Có hành vi vi
phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực
tiếp gây ra thiệt hại và bên yêu cầu BTTH phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất
do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu có hành vi vi phạm. Tại thời điểm thỏa thuận thì những tổn thất này chưa
được xác định nên thỏa thuận về trách nhiệm BTTH trong hợp đồng thực chất là thỏa
thuận phạt vi phạm hợp đồng.

2.8. Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng
thẩm phán?
Tại Điều 11 Hợp đồng nguyên tắc số 02, hai bên thỏa thuận: “...nếu trong quá
trình thực hiện Hợp đồng, bên nào vi phạm các điều kiện đã cam kết trong Hợp đồng

15
thì bên vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bên kia số tiền là
10.000.000.000 đồng”. Theo nhóm tác giả, việc Toà án nhận định đây là trường hợp
thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng là hợp lý.
Thứ nhất, Toà án đã phân biệt rạch ròi hai khái niệm phạt vi phạm hợp đồng và
BTTH do vi phạm hợp đồng.
Căn cứ theo các cơ sở pháp lý như sau:
Khoản 1 Điều 422 BLDS 2005: “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên
trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi
phạm.”
Điều 300 Luật Thương mại 2005: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có
thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật
này.”
Điều 302 Luật Thương mại 2005:
“1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi
phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi
phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng
lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.”
Cụ thể, Tòa án cho rằng, phạt vi phạm là việc các bên thỏa thuận bên vi phạm
phải trả một khoản tiền phạt được xác định trước (nhưng không được vượt quá 8% giá
trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm). Trong khi đó, BTTH là việc các bên thỏa
thuận bên vi phạm hợp đồng bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng
gây ra cho bên bị vi phạm, nhưng những tổn thất này chưa xác định được tại thời
điểm thoả thuận. Như vậy, theo nhận định trên của Tòa án, hai bên đã có thỏa thuận
trước một mức phạt cụ thể (10 tỷ đồng) nhằm xử lý hành vi vi phạm hợp đồng. Ngoài
ra, bồi thường do vi phạm hợp đồng là nhằm bù đắp cho những thiệt hại mà hành vi vi
phạm hợp đồng gây ra, tuy nhiên mức bồi thường là bao nhiêu thì chưa xác định tại
thời điểm thoả thuận, khác với việc ấn định mức phạt khi thỏa thuận đối với phạt vi
phạm hợp đồng. Như vậy, xét về bản chất hai khái niệm trên, việc Tòa án xác định
thỏa thuận trên là phạt vi phạm hợp đồng là hợp lý.
Thứ hai, để củng cố thêm cho nhận định của mình, Toà án đã chứng minh vì
sao thỏa thuận trên không phải là bồi thường do vi phạm hợp đồng. Trong bản án, Tòa
cho rằng: “Nếu xác định các bên có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì Toà án phải
làm rõ căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm đủ các yếu tố: có
hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên
nhân trực tiếp gây ra thiệt hại và bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh
tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà các bên
bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Nhận định này phù
hợp với quy định tại Điều 303 Luật Thương mại 2005 về các căn cứ làm phát sinh

16
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Như vậy, trong trường hợp này, các căn cứ làm phát
sinh trách nhiệm BTTH chưa được làm rõ hay chứng minh. Ngoài ra, số tiền 10 tỷ bồi
thường không phải được xác định từ thiệt hại thực tế do việc một bên vi phạm hợp
đồng mà là do các bên thỏa thuận từ trước nhằm phạt bên vi phạm hợp đồng. Như
vậy, số tiền đó không được dùng để bồi thường, bù đắp cho những thiệt hại xảy ra trên
thực tế nên thỏa thuận trên sẽ không được coi là thỏa thuận bồi thường do vi phạm
hợp đồng.
Vấn đề 3: Sự kiện bất khả kháng

Tình huống: Anh Văn nhận chuyển hàng cho anh Bình bằng đường thủy. Anh Văn có
mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên
đường vận chuyển, tàu bị gió nhấn chìm và hàng bị hư hỏng toàn bộ.

3.1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết
các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả
kháng không? Nêu rõ cơ sở khi trả lời.
Theo khoản 1 Điều 156 BLDS 2015, để một sự kiện được coi là sự kiện bất khả
kháng thì phải thỏa mãn đủ 3 điều kiện sau: (i) sự kiện xảy ra một cách khách quan,
bất ngờ; (ii) sự kiện xảy ra không thể lường trước được, không nằm trong ý chí chủ
quan của con người và (iii) sự kiện không thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy định như sau: “Trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu
trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác”. Và khoản 3 Điều 541 BLDS 2015: “Trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài
sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên
vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Như vậy, các bên hoàn toàn có thể
thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng. Theo quy định, nếu có sự
kiện bất khả kháng xảy ra thì bên có nghĩa vụ sẽ không phải chịu trách nhiệm dân sự
hoặc trách nhiệm BTTH; tuy nhiên, nếu các bên có dự liệu trong hợp đồng về khả
năng xảy ra sự kiện bất khả kháng thì bên có nghĩa vụ có thể vẫn sẽ phải chịu trách
nhiệm dân sự hoặc trách nhiệm BTTH khi xảy ra tổn hại do sự kiện bất khả kháng.
Từ đó cho thấy, các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện
bất khả kháng xảy ra.

3.2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
Hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự
kiện bất khả kháng trong BLDS 2015 được quy định tại khoản 2 Điều 351: “Trường

17
hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì
không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.”
Hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự
kiện bất khả kháng được thể hiện ở phạm vi rộng hơn trong Luật Thương mại 2005:
Căn cứ vào Điều 294, Điều 296, Điều 300, Điều 303 Luật Thương mại 2005,
hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự kiện bất
khả kháng là việc bên vi phạm được miễn trách nhiệm (tại điểm b khoản 1 Điều 294),
cụ thể là miễn trách nhiệm BTTH (Điều 303), miễn trách nhiệm phạt vi phạm (Điều
300). Trong đó tại Điều 296 còn quy định về biện pháp khắc phục bằng cách kéo dài
thời hạn, từ chối thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng:
“1. Trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận
được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng
thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục
hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây:
a) Năm tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch
vụ được thỏa thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;
b) Tám tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch
vụ được thỏa thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.
2. Trường hợp kéo dài quá các thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, các
bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia
bồi thường thiệt hại.
3. Trường hợp từ chối thực hiện hợp đồng thì trong thời hạn không quá mười
ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này bên từ chối phải
thông báo cho bên kia biết trước khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng.
4. Việc kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng quy định tại khoản 1
Điều này không áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có
thời hạn cố định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ.”

3.3. Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các
điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
Theo nhóm tác giả, số hàng trên không bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng.
Việc tàu bị gió nhấn chìm là một sự kiện khách quan, không thể lường trước được và
nó cũng nằm ngoài ý chí chủ quan của anh Văn. Tuy nhiên, trong tình huống trên lại
không hề đề cập đến việc anh Văn có áp dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ số
hàng hóa hay không. Như vậy, sự kiện tàu bị gió nhấn chìm trong tình huống trên chỉ
mới thỏa mãn 2 điều kiện theo khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 và không được xem là
sự kiện bất khả kháng.

18
Để sự kiện này được xem là sự kiện bất khả kháng thì tình huống trên cần được
bổ sung thêm tình tiết là anh Văn có thực hiện mọi biện pháp và khả năng cho phép để
bảo vệ cho số hàng hóa không bị hư hỏng hay không. Nếu anh Văn đã áp dụng mọi
biện pháp nhưng số hàng hóa vẫn bị hư hỏng thì số hàng này có thể được xem là bị hư
hỏng do sự kiện bất khả kháng.
Ngoài ra, do số hàng trên không bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng nên anh
Văn sẽ có trách nhiệm BTTH cho anh Bình. Tuy nhiên, anh Văn đã mua bảo hiểm
trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình nên theo quy định tại
khoản 2 Điều 59 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 1 thì trong phạm vi giới hạn trách
nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải thay anh Văn trả số tiền BTTH này
cho anh Bình.

3.4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Theo khoản 3 Điều 541 BLDS 2015: “Trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài
sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên
vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Như vậy, nếu hàng hóa bị hư hỏng do
sự kiện bất khả kháng thì anh Văn sẽ không phải BTTH cho anh Bình về việc hàng
hóa bị hư hỏng.
Tuy nhiên, trường hợp trong hợp đồng vận chuyển mà 2 bên đã thỏa thuận
trước rằng “nếu bên vận chuyển (anh Văn) để hàng hóa bị hư hỏng thì phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp sự kiện bất khả kháng
xảy ra” thì lúc này mặc dù hàng hóa bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng nhưng anh
Văn vẫn sẽ phải BTTH cho anh Bình.

3.5. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu
Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn
từ góc độ văn bản và thực tiễn xét xử.
Nhìn từ góc độ văn bản, căn cứ theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015: “2.
Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng
thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.” Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 541 BLDS 2015:
“3. Trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị
hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
1
“2. Trong phạm vi giới hạn trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ nước ngoài phải trả cho người được bảo hiểm những khoản tiền mà theo quy định của pháp luật
người được bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba.”

19
khác.” Vậy căn cứ theo quy định tại 2 Điều trên, anh Văn sẽ không phải BTTH trong
trường hợp này, nhưng nếu anh Văn có thỏa thuận BTTH với anh Bình thì anh Văn có
trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường đúng theo thỏa thuận. Nhưng trước đó
anh Văn có mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển của mình. Trường
hợp này, anh Văn có quyền yêu cầu Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền bồi
thường này cho mình theo khoản 1 Điều 58 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022: “Trách
nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
nước ngoài chỉ phát sinh nếu người thứ ba yêu cầu người được bảo hiểm bồi thường
do có hành vi gây thiệt hại cho người thứ ba trong thời hạn bảo hiểm.” Trong tình
huống nêu trên, vì anh Văn và Bình có thỏa thuận với nhau về việc BTTH khi có sự
kiện bất khả kháng xảy ra nên khi sự kiện bất khả kháng này xảy ra anh Bình có
quyền yêu cầu anh Văn phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường, và chỉ khi anh Bình yêu
cầu anh Văn thực hiện nghĩa vụ bồi thường thì anh Văn mới có quyền yêu cầu công ty
bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm. Bên cạnh đó, anh Văn cũng chỉ có quyền yêu
cầu công ty bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời hạn bảo hiểm.
Nhìn từ góc độ thực tiễn qua 2 trường hợp sau:
Thứ nhất là Bản án số 110/2006/DSPT ngày 5-5-2006:
Tóm tắt vụ việc: Anh Lê Văn Khen nhận chở thuê hàng bằng đường thủy.
Trước đó anh Khen có mua bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc
vận chuyển bằng tàu của mình. Trên đường vận chuyển, tàu bị gió lốc nhấn chìm và
gây thiệt hại đến tài sản hàng hóa. Trong hợp đồng nhận chuyển hàng, anh Khen tự
thỏa thuận chịu trách nhiệm và đã bồi thường cho chủ hàng anh chở thuê số tiền
40.950.000 đồng. Nay anh yêu cầu công ty Bảo Việt Trà Vinh phải bồi hoàn lại cho
anh số tiền anh thay công ty bồi thường cho các chủ hàng. Tại bản án, Tòa án nhân
dân tỉnh Trà Vinh khẳng định nguyên nhân gây thiệt hại cho các chủ hàng là do sự
kiện bất khả kháng. Vì vậy, anh Khen phải tự gánh chịu hậu quả cho việc nhận bồi
thường trên.
Thứ hai là Quyết định số 105/GĐT-DS Ngày 30 tháng 5 năm 2003 của Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao:
Tóm tắt vụ việc: Ông Khóm vận chuyển 2600 con vịt cho ông Điền và ông
Trình vào ngày 16/8/1999. Đêm ngày 16/8/1999 do mưa gió to, nước chảy mạnh, tàu
va vào chân cầu bị chìm. Tổn thất mất và chết 2260 con vịt, chỉ còn lại 340 con. Tổng
số thiệt hại các bên xác định là 79.100.000 đồng. Ông Khóm tham gia bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ tàu với mức trách nhiệm là 100 triệu đồng tại Bảo Việt An
Giang. Do ông Khóm có thỏa thuận với ông Trinh và ông Điền nên đã bồi thường số
tiền trên cho hai ông. Nay ông Khóm yêu cầu Bảo Việt An Giang hoàn trả ông số tiền
nói trên. Nhưng Công ty Bảo Việt An Giang từ chối việc giải quyết bồi thường cho
ông Khóm vì cho rằng bên phía công ty không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
sự kiện bất khả kháng.

20
Đối với trường hợp 2: Ông Khóm không cố ý để xảy ra thiệt hại. Mặt khác
theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm về những loại trừ trong bảo
hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu thì không có thỏa thuận nào về việc Bảo Việt An
Giang được từ chối trách nhiệm do tai nạn tàu bị chìm vì gió bão. Vì vậy, Bảo Việt An
Giang từ chối trách nhiệm là không đúng. Ông Khóm là chủ tàu chuyên vận chuyển
hàng hóa. Đáng ra, theo những quy định trích dẫn ở phần trên, ông Khóm không có
nghĩa vụ bồi thường. Nhưng ông đã thỏa thuận với bên có quyền là ông chịu trách
nhiệm bồi thường. Thỏa thuận bồi thường này là phù hợp với quy định của BLDS
2015. Khi xảy ra tranh chấp, Tòa án cũng thừa nhận giá trị pháp lý của thỏa thuận. Cụ
thể, theo Điều 549, Điều 546 BLDS 2005 vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê
vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm BTTH ngay cả trong trường hợp bất khả
kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ông Khóm và ông Trinh, ông Điền là không trái pháp
luật.
Đối với trường hợp 1: Trong trường hợp của anh Khen, Tòa án địa phương
theo hướng “anh Khen tự thỏa thuận, tự bồi thường thiệt hại” và “do đó, bản thân
anh Khen phải tự chịu trách nhiệm”. Vì vậy Tòa đã bác bỏ đơn yêu cầu kháng cáo của
anh Khen.
Nhìn theo góc độ thực tiễn xét xử dựa trên hai trường hợp trên cho thấy đây
vẫn là vấn đề chưa được quy định rõ theo văn bản và khi xử lý trong thực tế còn nhiều
sự lúng túng. Để xác định trong trường hợp của anh Văn rằng công ty bảo hiểm có
trách nhiệm chi trả trong trường hợp thiệt hại do sự kiện bất khả kháng hay không còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Để tránh trường hợp xảy ra sự lúng túng trong xét xử các
trường hợp tương tự thì các bên giữa công ty bảo hiểm và người mua bảo hiểm nên
thỏa thuận trước với nhau rằng việc chi trả trong trường hợp này là có hay không.2

2
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam
2017 (xuất bản lần thứ sáu), Tr.526.

21
Vấn đề 4: Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản

Tóm tắt Bản án số 07/2022/DS-PT ngày 24/2/2022 của Toà án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Ngọc D.
- Bị đơn: bà Phạm Yến H.
- Nội dung vụ án:
Sự kiện pháp lý: Ngày 24/3/2020, bà D và bà H ký hợp đồng thuê nhà số 61 P,
phường S, thành phố H với thời hạn 5 năm.Bà D đã thanh toán đầy đủ tiền thuê
nhà 3 năm đầu là 2.460.000.000 đồng. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và
thiên tai, cơ sở kinh doanh của bà D tại nhà số 61 P không thể hoạt động được từ
ngày 27/3/2020 đến ngày 01/3/2021. Bà D đã thông báo chấm dứt hợp đồng thuê
nhà kể từ ngày 01/3/2021.
Quan điểm các bên: Bà D cho rằng bà có quyền chấm dứt hợp đồng thuê nhà
trước hạn do các lý do bất khả kháng. Bà yêu cầu bà H trả lại tiền thuê nhà và bồi
thường thiệt hại. Bà H cho rằng bà D không có quyền chấm dứt hợp đồng thuê nhà
trước hạn. Bà không đồng ý trả lại tiền thuê nhà và bồi thường thiệt hại cho bà D.
Phán quyết của Tòa án: Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà D. Tuyên bố hợp
đồng thuê nhà số 61 P, phường S, thành phố H chấm dứt hiệu lực từ ngày
01/3/2021. Buộc bà H hoàn trả cho bà D số tiền 1.907.500.000 đồng. Buộc bà H
bồi thường cho bà D số tiền 552.000.000 đồng.
Giải thích bản án: Theo khoản 2 Điều 132 Luật Nhà ở 2014, bên thuê nhà có
quyền chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước thời hạn khi bên cho thuê nhà có hành vi
vi phạm hợp đồng. Theo khoản 3 Điều 132 Luật Nhà ở 2014, bên thuê nhà có
quyền chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước thời hạn khi bên cho thuê nhà có hành vi
cản trở, gây khó khăn cho bên thuê nhà trong việc sử dụng nhà ở theo hợp đồng.
Trong vụ án này, bà H đã cản trở, gây khó khăn cho bà D trong việc sử dụng nhà ở
theo hợp đồng do nhà số 61 P không thể hoạt động được do ảnh hưởng của đại
dịch Covid-19 và thiên tai. Do đó, bà D có quyền chấm dứt hợp đồng thuê nhà
trước hạn. Bà H có nghĩa vụ trả lại tiền thuê nhà cho bà D theo quy định tại khoản
2 Điều 132 Luật Nhà ở 2014. Bà D có nghĩa vụ bồi thường cho bà H thiệt hại theo
quy định tại khoản 3 Điều 132 Luật Nhà ở 2014.

22
4.1. Điểm giống và khác nhau giữa sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay
đổi khi thực hiện hợp đồng (về sự tồn tại và hệ quả pháp lý của hai trường
hợp này).
*Giống nhau:
- Cùng là những sự kiện xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng;
- Cùng có thể làm cho một bên hoặc cả hai bên không thể thực hiện được nghĩa
vụ của mình theo hợp đồng;
- Cùng có thể dẫn đến việc thay đổi các quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng.

*Khác nhau:

Sự kiện bất khả


Yếu tố Hoàn cảnh thay đổi
kháng

Cơ sở pháp lý Điều 156 BLDS 2015. Điều 420 BLDS 2015.

Là sự kiện xảy ra một Là sự kiện xảy ra làm


cách khách quan, cho nghĩa vụ của một
không thể lường bên trở nên quá khó
trước được và không khăn hoặc tốn kém
thể khắc phục được, hơn so với khi giao
Định nghĩa mặc dù đã áp dụng kết hợp đồng, mà
mọi biện pháp cần bên đó không thể
thiết và khả năng cho biết trước hoặc
phép. không thể tính đến
khi giao kết hợp
đồng.

Có 3 yếu tố: khách Có 2 yếu tố: làm cho


quan, không thể nghĩa vụ của một bên
lường trước được và trở nên quá khó khăn
không thể khắc phục hoặc tốn kém hơn so
được. với khi giao kết hợp
Yếu tố cấu thành
đồng và bên đó
không thể biết trước
hoặc không thể tính
đến khi giao kết hợp
đồng.

Hệ quả pháp lý Bên có nghĩa vụ Các bên có quyền yêu


không phải chịu trách cầu đàm phán lại hợp
nhiệm do vi phạm đồng hoặc chấm dứt
nghĩa vụ, trừ trường hợp đồng.

23
hợp các bên có thỏa
thuận khác.

4.2. Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong một
hệ thống pháp luật nước ngoài.
Luật Hợp đồng của Anh quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi cơ bản tại Điều 63 của Bộ luật Thương mại 1999. Theo quy định này, nếu sau khi
hợp đồng được giao kết mà hoàn cảnh thay đổi cơ bản đến mức nếu các bên biết trước
sẽ không giao kết hợp đồng hoặc sẽ giao kết hợp đồng khác đi, thì hợp đồng có thể
được sửa đổi trong phạm vi hợp lý căn cứ hoàn cảnh liên quan.
Để xác định một hoàn cảnh có phải là hoàn cảnh thay đổi cơ bản hay không,
cần xem xét các yếu tố sau:
- Sự thay đổi về hoàn cảnh có đáng kể đến mức làm cho việc thực hiện hợp
đồng trở nên bất hợp lý hay không?
- Liệu bên có lợi ích bị ảnh hưởng có thể biết trước hoặc tính đến sự thay đổi
đó khi giao kết hợp đồng hay không?
- Liệu bên có lợi ích bị ảnh hưởng có thể khắc phục được sự thay đổi đó hay
không?
Nếu một hoàn cảnh được xác định là hoàn cảnh thay đổi cơ bản, thì bên có lợi
ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng. Nếu các bên
không thể đạt được thỏa thuận, thì bên có lợi ích bị ảnh hưởng có thể chấm dứt hợp
đồng.

4.3. Đoạn nào trong Bản án cho phép hiểu rằng Tòa án đã áp dụng quy định về
Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản?
Trong Toà án đã áp dụng quy định về Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi “Như vậy, tại thời điểm các bên ký kết Hợp đồng thuê nhà ngày 24/3/2020, Thủ
tướng Chính phủ chưa ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg và Chỉ thị số 16/CT-TTg nên
nguyên đơn không lường trước được hết diễn biến phức tạp của dịch bệnh, đe dọa
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ con người và kinh tế - xã hội của đất nước,
cũng như các biện pháp phòng, chống dịch bệnh nghiêm ngặt mà địa phương phải áp
dụng theo Chỉ thị số 15/CT-TTg, Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Điều này phù hợp với lời khai của bị đơn tại phiên tòa phúc thẩm, đó là: “khi ký kết
Hợp đồng thuê nhà, nguyên đơn cho rằng dịch bệnh Covid-19 chỉ giống như dịch cúm
mùa nên sẽ không ảnh hưởng gì đến việc ký hợp đồng”. Do đó, sau khi ký kết Hợp
đồng thuê nhà, nguyên đơn liên tục bị tạm dừng hoạt động kinh doanh để phòng,
chống dịch bệnh Covid-19 theo yêu cầu của chính quyền địa phương; đồng thời, do
ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid-19 nên nguyên đơn cũng không thể tổ
chức hoạt động kinh doanh được. Xét thấy, việc chấm dứt Hợp đồng thuê nhà ngày
24/3/2020 giữa nguyên đơn và bị đơn không phải do lỗi chủ quan của nguyên đơn mà
do yếu tố khách quan, đó là tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, không

24
thể lường trước được và tỉnh Quảng Nam cũng như thành phố H nhiều lần thực hiện
cách ly xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg và giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 15/CT-
TTg của Thủ tướng Chính phủ.”
4.4. Việc áp dụng quy định về Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ
bản cho hoàn cảnh như trong Bản án có phù hợp không? Vì sao?
Theo nhóm tác giả, việc áp dụng quy định về Thực hiện hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi cơ bản cho hoàn cảnh như trên là chưa hợp lý. Vì để được xem là Thực
hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản phải đáp ứng các điều kiện theo khoản 1
Điều 420 BLDS năm 2015. Thứ nhất, phải có sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản do nguyên
nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng, ở đây “sau khi giao kết hợp đồng”
tức là sự thay đổi hoàn cảnh phải được diễn ra sau khi hợp đồng được giao kết và sự
thay đổi của hoàn cảnh trong vụ việc đã đáp ứng điều kiện thứ nhất với sự xuất hiện
của dịch bệnh covid-19 và các Chỉ thị số 15/CT-TTg, Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ. Mặc dù dịch bệnh covid 19 đã xuất hiện trước khi hai bên giao kết
hợp đồng nhưng yếu tố quan trọng nhất để dẫn đến sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh
là các Chỉ thị số 15/CT-TTg, Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã được
ban hành sau khi hai bên ký kết hợp đồng. Thứ hai, tại thời điểm giao kết hợp đồng
các bên không thể lường trước được về sự thay đổi của hoàn cảnh, dịch bệnh covid-19
xuất hiện, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ tính mạng của cộng đồng nhưng yếu tố ảnh
hưởng quyết định đến việc thực hiện hợp đồng là các Chỉ thị số 15/CT-TTg, Chỉ thị số
16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các chỉ thị của địa phương. Bởi nếu dịch
covid xuất hiện, nhưng không có các chỉ thị trên thì hợp đồng vẫn được thực hiện bình
thường, nên có thể xem hướng xác định về tính “không lường trước” của Toà án là
hợp lý. Thứ ba, hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp
đồng đã không được giao kết hoặc giao kết với nội dung hoàn toàn khác, tại vụ việc
này Toà án lại không nêu rõ về điều kiện này khi chỉ nêu “sau khi ký kết Hợp đồng
thuê nhà, nguyên đơn liên tục bị tạm dừng hoạt động kinh doanh để phòng, chống
dịch bệnh Covid-19 theo yêu cầu của chính quyền địa phương; đồng thời, do ảnh
hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid-19 nên nguyên đơn cũng không thể tổ chức
hoạt động kinh doanh được”, trong khi bị đơn có trình bày “giá thuê chỉ bằng một
nửa giá trước khi dịch bệnh xảy ra.”, chính vì vậy có thể cho thấy nguyên đơn đã tận
dụng thời điểm dịch bệnh để thuê nhà với giá rẻ hơn bình thường và là khó để chỉ ra
nếu nguyên đơn biết trước là có những chỉ thị đó thì nguyên đơn có thuê hay không?,
nên nhóm chúng em thấy rằng việc Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
cho hoàn cảnh như trong Bản án là chưa đáp ứng điều kiện này. Thứ tư, việc tiếp tục
thực hiện hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên, tại vụ việc này Toà án
chỉ xác định “đồng thời, do ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid-19 nên
nguyên đơn cũng không thể tổ chức hoạt động kinh doanh được” và không xác định là
nguyên đơn chỉ chịu thiệt hại “nghiêm trọng” như thế nào?. Thứ năm, bên có lợi ích
ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với
tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi
ích, thì trong bản án này Toà án cũng chưa chứng minh rõ nét điều này.3

3
Đỗ Văn Đại, “Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi”, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận
bản án (tập 2), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam (tái bản lần thứ 9), Tr.1052-1061

25
26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14 tháng 06 năm 2005;
2. Bộ Luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24 tháng 11 năm 2015;
3. Luật Thương mại (Luật số 36/2005/QH11) ngày 14 tháng 06 năm 2005;
4. Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật số 08/2022/QH15) ngày 16 tháng 06 năm
2022.
B. Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Nxb.
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ sáu);
2. Đỗ Văn Đại, “Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi”, Luật hợp đồng Việt
Nam - Bản án và Bình luận bản án (tập 2), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt
Nam (tái bản lần thứ 9).

You might also like