You are on page 1of 46

MỤC LỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ ÔN THI CAO HỌC

CHƯƠNG II. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA TỐ TỤNG HÌNH SỰ............................................3
I. Khái niệm và ý nghĩa............................................................................................................................3
II. Nội dung nguyên tắc...........................................................................................................................3
1. Những nguyên tắc đặc thù...................................................................................................................3
a. Nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13 BLTTHS, Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013)..................3
b. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự.............................................................................................................................4
c. Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì cùng một tội phạm.........................................................5
d. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án...........................................................................................5
e. Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền THTT (Đ17)...................................5
f. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý VAHS (Đ18)...................................................................6
g. Nguyên tắc trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS (Đ20 TTHS, K1Đ107 HP 2013)................................................................................................7
h. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án HS (Đ30 TTHS)...............................................7
i. Nguyên tắc đảm bảo quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hđ TTHS (Đ31 TTHS,
k5 Đ31 HP)...........................................................................................................................................8
2. Những nguyên tắc khác.......................................................................................................................9
a. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế XHCN trong TTHS (Đ7 TTHS)....................................................9
b. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân (Đ8
TTHS)...................................................................................................................................................9
c. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật (Đ9 TTHS, Đ16 HP).............................10
d. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Đ10 TTHS, Đ20 HP)....................11
đ. Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân, danh dự,
uy tín, tài sản của pháp nhân. (Đ11 TTHS, Đ19 HP)......................................................................11
e. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân. (Đ12 TTHS, Đ21,22 HP)
.............................................................................................................................................................11
f. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành, tham gia tố tụng
(Đ21 TTHS)........................................................................................................................................12
g. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia (Đ22 TTHS, K1Đ103 HP)..............13
h. Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Đ23 TTHS,
K2Đ103 HP).......................................................................................................................................14
i. Nguyên tắc toà án xét xử tập thể (Đ24 TTHS)..............................................................................14
k. Nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Đ25 TTHS, K2Đ31, K3Đ103 HP)..............15
m. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Đ26 TTHS, K2Đ31 HP)...........................15
n. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (Đ27 TTHS, Đ103 HP).............16
o. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của tòa án (Đ28 TTHS).........................17
ô. Nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong TTHS (Đ29)...........................................................17
s. Nguyên tắc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS ( Đ32 TTHS, Đ30 HP).....................18
u. Nguyên tắc kiểm tra, giám sát TTHS (Đ33TTHS).......................................................................18
CHƯƠNG III. NGƯỜI CÓ THẨM QUYỀN THTT VÀ VIỆC THAY ĐỔI........................................20
Câu hỏi: Tại sao phải thay đổi người có thẩm quyền THTT........................................................20

1
Câu hỏi: Tại sao thẩm phán và hội thẩm trong cùng một hội đồng xét xử và là người thân
thích của nhau thì phải từ chối THTT hoặc phải thay đổi............................................................20
CHƯƠNG IV. NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG.....................................................................................21
Câu hỏi: so sánh bị hại và nguyên đơn dân sự...............................................................................21
Câu hỏi: phân biệt người làm chứng và người chứng kiến...........................................................22
CHƯƠNG V. CHỨNG CỨ, CHỨNG MINH..........................................................................................25
I. Chứng cứ.............................................................................................................................................25
II. phân loại chứng cứ............................................................................................................................26
III. Nguồn chứng cứ...............................................................................................................................27
Câu hỏi: Phân biệt chứng cứ và nguồn chứng cứ...........................................................................30
Câu hỏi: Tại sao không được sử dụng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để
buộc tội, kết tội họ.............................................................................................................................30
Câu hỏi: Tại sao không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình
bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó..............................................................31
IV. chứng minh trong TTHS.................................................................................................................31
CHƯƠNG VI. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KHÁC...............................37
I. Biện pháp ngăn chặn..........................................................................................................................37
II. Những biện pháp ngăn chặn cụ thể.................................................................................................38
III. Biện pháp cưỡng chế khác..............................................................................................................43

2
CHƯƠNG II. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA TỐ TỤNG HÌNH SỰ
I. Khái niệm và ý nghĩa
1. Khái niệm.
Các nguyên tắc cơ bản của TTHS là những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động TTHS,
được các văn bản pháp luật ghi nhận.
Những nguyên tắc cơ bản của TTHS là kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong TTHS. Các nguyên
tắc này không chỉ định hứng cho hoạt động TTHS mà còn định hướng cho việc xây dựng pháp luật trong
thực tiễn. Một số nguyên tắ cụ thể hóa quy định của hiến pháp. Các nguyên tắc cơ bản của TTHS được
quy định trong BLTTHS. Ngoài ra, một số nguyên tắc còn được ghi nhận trong các văn bản pháp luật
khác liên quan như luật tổ chức tòa án nhân dân, luật tổ chức VKSND,...
2. Ý nghĩa:
- Các nguyên tắc cơ bản của TTHS góp phần bảo đảm cho quá trình tiến hành tố tụng thực hiện một
cách thống nhất
- Các nguyên tắc cơ bản của TTHS là cơ sở quan trọng cho việc đảm bảo quyền con người, quyền
công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong TTHS
- Các nguyên tắc cơ bản của TTHS góp phần động viên, tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức và
mọi người tham gia vào việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, tăng cường dân chủ trong TTHS
- Các nguyên tắc cơ bản của TTHS còn góp phần định hướng xây dựng pháp luật TTHS.
II. Nội dung nguyên tắc
1. Những nguyên tắc đặc thù
a. Nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13 BLTTHS, Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 HP2013: người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 13 BLTTHS 2015: “...”
Như vậy, khi chưa chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật định, chưa có bản án kết tội của tòa án
đã có hiêu lực pháp lât thì người bị buộc tội phải được coi là người không có tội. Do không coi là người có
tội nên các cơ quan có thẩm quyền THTT không được đối xử với người bị buộc tội như người có tội, kể cả
trường hợp họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất như tạm giam.
Theo đó, khi buộc tội một người phải có căn cứ theo quy đinh pháp luật. BLTTHS quy định nghiac
vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Khi chứng minh tội phạm, cơ quan THTT phải xác
định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ làm rõ chứng cứ xác định có tội, chứng cứ
xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Trong giai đoạn điều tra, nếu không chứng
minh được bi can đã thực hiện tội phạm mà thời hạn điều tra đã hết thì CQĐT phải ra QĐ đình chỉ điều tra
vụ án. Trong gia đoạn xét xử, nếu khôg đủ căn cứ để xác định bị cáo có tội thì HĐXX ra bản án tuyên bố
bị cáo không có tội.
Điều 13 BLTTHS 2015 quy định nguyên tắc này với nội dung cụ thể như sau
- Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi tội của họ được chứng minh theo trình tự,
thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật
- Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục luật định
thì cơ quan THTT phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Thừa nhận nguyên tắc này là biểu hiện tiến bộ, nhân đạo thể hiện sự thay đổi trong nhận thức của
những người THTT nói riêng và quan điểm của Nhà nước nói chung nhằm tôn trọng và đề cao quyền con
người trong TTHS.

3
b. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự.
Trên cơ sở quy định tại khoản 4 Điều 131 Hiến pháp năm 2013, Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc này như sau:
“Điều 16. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại, đương sự
Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm
cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của
họ theo quy định của Bộ luật này.”
Thứ nhất, Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Khác với
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định chủ thể của quyền bào chữa chỉ thuộc về người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi chủ thể của quyền bào
chữa không chỉ thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn thuộc về người bị bắt. Khi tự bào chữa
cho mình, người bị buộc tội sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để chứng minh mình vô tội, sự thật
không đúng như hồ sơ vụ án hay chứng minh giảm nhẹ tội cho mình...Nếu người bị buộc tội không tự bào
chữa thì có thể nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Người khác có thể là bào chữa viên nhân dân,
người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội, trợ giúp viên pháp lí.
Để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người bị buộc tội trong những trường hợp do pháp luật
quy định, nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa
thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử
người bào chữa cho họ. Trung tâm trợ giúp pháp lí nhà nước cử trợ giúp viên pháp lí, yêu cầu luật sư bào
chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lí hoặc đề nghị Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức
thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viền của tổ chức mình trong những trường hợp theo
quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Người đại diện của người bị buộc tội là cá nhân cũng có thể tham gia tố tụng với tư cách là người
bào chữa trong trường hợp người bị buộc tội là người có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào
chữa, người có nhược điểm về tâm thần hoặc người dưới 18 tuổi. Người đại diện của người bị buộc tội có
thể là cha, mẹ, người giám hộ của họ. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa cho pháp nhân.
Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa đông thời có quyền nhờ người bào chữa. Trong trường hợp
nhờ người bào chữa thì họ vẫn có quyền tự bào chữa. Luật tố tụng hình sự không chỉ quy định người bị
buộc tội có quyền bào chữa mà còn quy định những bảo đảm cần thiết để quyền bào chữa được thực hiện.
Cụ thể như họ phải được giao nhận quyết định khởi tố, bản kết luận điều tra sau khi kết thúc điều tra,
quyết định truy tố, quyết định đưa vụ án ra xét xử... để chuẩn bị bào chữa. Trong quá trình bào chữa họ có
thể sử dụng mọi biện pháp hợp pháp để chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ tội. Thực hiện quyền bào
chữa của người bị buộc tội là điều kiện cần thiết để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xử lí vụ án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Không chỉ quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội điều luật còn quy
định việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Điều này thể hiện nhà nước không chỉ
coi trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội mà còn tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự. Bị hại, đương sự có quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
và cũng có quyền nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền ví lợi ích hợp pháp của họ.

4
Thứ hai, Cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo
đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa; bảo đảm cho bị hại, đương sự thực hiện đầy
đủ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định pháp luật.
c. Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì cùng một tội phạm
Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm là một trong những nguyên tắc mới được quy định trong
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tại điều 14 như sau: Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối
với người mà hành vi của họ đã có bản án của tòa án đã cố hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện
hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.
Theo quy định trên, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được khởi tố, điều tra, viện
kiểm sát không được truy tố, Toà án không được xét xử và tuyên bố một người phạm tội khi hành vi nguy
hiểm cho xã hội do họ thực hiện đã được giải quyết và xử lí bằng một bản án của toà án đã có hiệu lực
pháp luật. Nếu đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì cơ quan có thẩm quyền phải kịp thời ra quyết định đình
chi điều tra hay đình chỉ vụ án tuỳ theo từng giai đoạn tố tụng.
Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm góp phần quan trọng trong việc bảo đảm trình
tự tố tụng; bảo đảm tính ổn định và giá trị pháp lí của các bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực
pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự.
d. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Để hoạt động đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả, mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện và
xử lí, luật tố tụng hình sự đã ghi nhận nguyên tắc này như sau:
- Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp
dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy
đủ.Làm rõ những chứng cứ xác định có tội, xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.Trong quá trình tiến hành tố tụng, điều tra viên, kiểm
sát viên, thẩm phán, hội thẩm và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác không được thiên vị,
định kiến, phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả các phương diện, cânnhắc kĩ mọi tình
tiết có thể ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án.
+ Mọi tình tiết thu được trong quá trình giải quyết vụ án đều được đánh giá trên cơ sở pháp lí để rút
ra kết luận về vụ án. Nguyên tắc này muốn được thực hiện tốt thì đòi hỏi những người tiến hành tố tụng
phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để làm chủ nghề nghiệp, tức là phải được đào tạo về nghiệp vụ,
nắm được những quy định của pháp luật, có tư duy pháp lí, có thói quen và phương pháp giải quyết các
vấn đề pháp lí. Việc xác định sự thật khách quan của vụ án phải dựa trên quan điểm Mác-Lênin về vấn đề
nhận thức vì nó ảnh hưởng lớn đến việc xác định đúng đắn vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình
sự.
- Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người
bị buộc tội không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bị
buộc không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Mặt khác,
người bị buộc tội cũng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Muốn xác định được người bị buộc
tội có tội hay không thì phải dựa trên cơ sở những chứng cứ đã thu được trong vụ án để xem xét. Trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử, người bị buộc tội có quyền đưa ra những chứng cứ để chứng minh là
mình vô tội. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những lời khai của người bị buộc tội, kết hợp những
chứng cứ khác cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định người bị buộc tội có tội hay không có
tội.
e. Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền THTT (Đ17)

5
Để nâng cao trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự với nội dung:
- Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm
chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vỉ, quyết định của
mình.
- Người vi phạm pháp luật trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, giam, giữ, khởi tố,
điều ưa, truy tố, xét xử, thi hành án thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lí kỉ luật hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Quy định trên đã xác định rõ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh
tuân thủ và thực hiện những quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chịu trách nhiệm về những hành vi và quyết định của mình. Pháp
luật cho phép họ được tiến hành các hoạt động tố tụng và ra các quyết định cần thiết như bắt người, tạm
giữ, tạm giam... tiến hành các hoạt động khám xét, khám nghiệm...Nếu có các căn cứ luật định thì các chủ
thể trên có thể ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án... Trường hợp họ không tuân thủ các quy định
của pháp luật thì tùy theo mức độ vi phạm mà phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Đối với các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như các cơ quan
của bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm... tuy không phải là cơ quan tiến hành tố tụng nhưng khi tiến
hành các hoạt động tố tụng cũng phải tuân theo nguyên tắc trên.
Còn quy định trách nhiệm của những người thực hiện các hoạt động tố tụng, mặc dù không nói rõ
chức danh nhưng có thể hiểu đó là trách nhiệm cá nhân. Bất cứ người nào vi phạm pháp luật trong việc
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tùy
theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lí kỉ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Những người này
không nhất thiết phải là người tiến hành tố tụng mà họ có thể là người của các cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều ưa hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn trong hoạt động thi hành
án. Nếu vi phạm có thể xử lí kỉ luật, xử lí hành chính và nặng hơn thì xử lí về hình sự như tội truy cứu
trách nhiệm hình sự người không có tội, tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội…
f. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý VAHS (Đ18)
Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lí vụ án hình sự trong vụ án hình sự được quy định tại điều 18
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các
biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội.
Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định.”
Theo đó, khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp được
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định để xác định tội phạm và xử lí người phạm tội, pháp nhân
phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do pháp luật quy định.
Nguyên tắc này xác định rõ trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự là cơ quan điều tra, viện
kiểm sát và tòa án. Đối với các cơ quan khác, tổ chức không có quyền khởi tố vụ án hình sự nhưng trong
phạm vi trách nhiệm của mình phải phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng trong đấu tranh phòng chống
tội phạm như phải báo tin ngay về tội phạm xảy ra trong cơ quan, tổ chức mình cho cơ quan điều tra, viện
kiểm sát biết.

6
Ngoài cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 còn quy định một số cơ quan khác cũng có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Đó là các
cơ quan của bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư, các cơ quan khác
của công an nhân dân, quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan nói trên không giống nhau và được quy định cụ
thể tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Việc khởi tố vụ án hình sự chỉ được tiến hành khi xác
định hành vi có dấu hiệu của tội phạm và theo trình tự mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lí để tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo. Sau khi có
quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp điều tra cần thiết
theo quy định của pháp luật để xác định tội phạm và xử lí người phạm tội.
g. Nguyên tắc trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS (Đ20 TTHS, K1Đ107 HP 2013)
Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự qđ: …
Thứ nhất, đây còn gọi là nguyên tắc công tố trong tố tụng hình sự. Công tố là sự buộc tội nhân danh
nhà nước. Nguyên tắc này có cội nguồn từ xa xưa khi ở thời La mã người ta đã khẳng định “không có
người tố cáo thì không có quan tòa”. Sự buộc tội ban đầu do các cá nhân đảm nhiệm sau đó chuyển giao
cho nhà nước với tư cách là người nắm quyền lực công cộng và duy trì trật tự công cộng. Để thực hiện
quyền công tố, nhà nước giao cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quyền này. Quyền công
tố là quyền nhân danh nhà nước buộc tội. Nó bao gồm khỏa tố vụ án, điều tra, truy tố và buộc tội và được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và quyền này xuất hiện
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự chứ không chỉ là hoạt động buộc tội tại
phiên tòa.
Thứ hai, thực hành quyền công tố là thực hiện các hoạt động cụ thể nhằm thực hiện quyền công tố.
Các chủ thể thực hành quyền công tố bao gồm cả cơ quan điều tra và một số cơ quan khác có thẩm quyền
khởi tố, điều tra nhưng Viện Kiểm sát có vai trò chính trong việc thực hành quyền công tố trong tố tụng
hình sự thể hiện ở việc cơ quan này chỉ đạo các hoạt động điều tra, chịu trách nhiệm đến cùng trong việc
đưa một người ra trước tòa và bảo vệ sự buộc tội của mình trước tòa án.
Thứ 3, nguyên tắc thực hành quyền công tố đòi hỏi hoạt động thực hành quyền công tố phải dựa trên
cơ sở bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước, lợi ích của xã hội. Khi có tội phạm xảy ra, việc buộc
tội (khởi tố, điều tra, truy tố) phải được tiến hành bất kể người bị hại có yêu cầu hay không (trừ trường
hợp khởi tố theo yêu cầu bị hại). Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là một trong
những nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự thông qua các hoạt động khác nhau và ở Các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự.
Thứ tư, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là trách nhiệm của Viện kiểm sát
nhằm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng, áp dụng các biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để loại trừ việc vi
phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân nói trên.
Thứ năm, việc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có
mục đích bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật; việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lột tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội.

7
h. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án HS (Đ30 TTHS)
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được quy định tại điều 30 trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015: …..
Tội phạm thực hiện trên thực tế, nhiều trường hợp làm phát sinh không chỉ quan hệ pháp luật hình
sự mà còn làm phát sinh quan hệ dân sự, tố tụng dân sự. Đó là quan hệ về bồi thường thiệt hại, bồi hoàn.
Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi thường giá trị tài
sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất, hoặc bị hủy hoại, buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng,
đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn,
khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt. Đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự phải được thực hiện với tư cách là quyền yêu cầu
của người tham gia tố tụng, viện kiểm sát. Với tư cách là quyền yêu cầu của người tham gia tố tụng, việc
giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ phát sinh khi có yêu cầu từ phía người bị hại, nguyên đơn
dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và viện kiểm sát. Nếu họ thực hiện quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại, bồi hoàn thì cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm giải quyết yêu cầu này.
Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi cần phải có những quy định pháp luật đầy đủ, cụ thể và thống
nhất điều chỉnh việc giải quyết vấn đề DS trong VAHS. Những người có thẩm quyền THTT ngoài việc
phải nắm vững và tuân thủ những quy định của PLHS và PLTTHS, còn phải tuân thủ và năm vững quy
định của PLDS và PLTTDS
Ý nghĩa:
Nguyên tắc này có ý nghĩa góp phần làm cho việc giải quyết vụ án triệt để, toàn diện, tiết kiệm chi
phí thời gian, tiền bạc của nhà nước, của người tham gia tố tụng.
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tách riêng giải quyết khi: Vấn đề bồi thường, bồi
hoàn có thể được tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự trong trường hợp vụ án hình sự phải giải
quyết vấn đề đó mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự.
i. Nguyên tắc đảm bảo quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hđ TTHS (Đ31 TTHS,
k5 Đ31 HP)
Đ31:....
Thứ nhất, Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần
và phục hồi danh dự.
Người bị oan, bị xử lí trái pháp luật là người bị giữ, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người bị khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
xác định người đó không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi của họ không cấu thành tội
phạm hoặc họ đã bị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định xử lí trái pháp luật. Những
hoạt động và quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã gây ra những hậu quả bất lợi đối
với họ, các quyền con người, quyền công dân cơ bản của họ bị vi phạm, nên họ có quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự.
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan,
trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra. Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước quy định rõ ràng, cụ thể những trường hợp Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
những trường hợp Nhà nước không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại; chủ thể có trách nhiệm bồi

8
thường ttong các trường hợp cụ thể... Việc bồi thường được tiến hành trên cơ sở thương lượng hoặc toà án
giải quyết.
Thứ hai, Người khác bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền
được Nhà nước bồi thường thiệt hại. Ngoài người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật, những người khác bị thiệt
hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra cũng có quyền được Nhà nước bồi thường
thiệt hại.
Ý nghĩa:
Nguyên tắc này có ý nghĩa bảo đảm khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại
do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra; nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền
trong các hoạt động tố tụng, giúp cho việc giải quyết vụ án đúng đắn và hợp pháp.
Nguyên tắc này thể hiện sự kiên quyết của Đảng và Nhà nước ta trong việc khắc phục các trường
hợp làm oan, sai đối với người tham gia tố tụng và xử lí những người có trách nhiệm, bảo đảm quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, qua đó nâng cao uy tín của các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng.
Để thực hiện nguyên tắc này cần phải có những quy định pháp luật đầy đủ, cụ thể và hợp lí làm cơ
sở cho việc giải quyết bồi thường, khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng gây ra. Có cơ chế phù hợp, có hiệu quả để thực hiện; nâng cao trình độ nhận thức
của công dân để họ biết và thực hiện tốt quyền được yêu cầu khôi phục danh dự và bồi thường thiệt hại.
2. Những nguyên tắc khác
a. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế XHCN trong TTHS (Đ7 TTHS)
Đây là nguyên tắc pháp lí cơ bản bao trùm nhất được thể hiện trong tất cả giai đoạn của TTHS, từ
những quy định chung đến những quy định cụ thể. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong hoạt động của cq,
tổ chức và công dân được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ".
Đ7: ….
Trong TTHS, nguyên tắc này bảo đảm cho cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm được kiên
quyết, triệt để, kịp thời, bảo đảm giáo dục người phạm tội, đồng thời ngăn chặn việc làm oan người vô tội
và tránh việc hạn chế các quyền con người, quyền công dân trái pháp luật. Nguyên tắc này biểu hiện cụ
thể trong TTHS như sau:
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng hình sự... phải
nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định của BLTTHS. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cử và trình tự thủ tục do BLTTHS quy định.
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cũng như biện pháp nghiệp vụ trong đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm nhất thiết phải theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm cưỡng chế chi áp dụng đối vói
người phạm tội, nghiêm cấm làm oan người vô tội.
Tất cả quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự đều dựa trên cơ sở
của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự...

9
b. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân (Đ8
TTHS)
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, bản chất của Nhà nước ta là nhà nước dân chủ.
Vì vậy, việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân là một trong
những nhiệm vụ của pháp luật nói chung cũng như pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Luật tố tụng hình
sự là công cụ sắc bén của Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, thể hiện rõ
quyền lực Nhà nước. Trong quá trình tố tụng, những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến
hành những hoạt động tố tụng và ra những quyết định tố tụng có tính bắt buộc đối với cơ quan, tổ chức và
mọi cá nhân có liên quan. Trong các hoạt động và quyết định đó, có những hoạt động và quyết định động
chạm đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân đã được Hiến pháp quy định. Đó là
quyền năng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để các chủ thể này thực hiện nhiệm vụ của
mình. Điều đó đòi hỏi phải xác định trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong
việc tôn trọng quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Theo đó, khi tiến hành tố tụng,
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp
pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó,
nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.
Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nội dung của nguyên tắc này là xác
đinh trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng và bảo vệ các
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, thể hiện ở những nội dung sau:
Phải tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tham gia tố
tụng;
Chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng trong những trường hợp cần thiết và theo đúng quy
định của pháp luật;
Thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng. Nếu xét thấy
có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa, cần kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó.
Ý nghĩa: Nguyên tắc này có ý nghĩa trong việc bảo đảm các quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tăng cường dân chủ trong tố tụng hình sự. Đồng thời, nguyên tắc này cũng góp phần
bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo đảm việc xác định sự thật vụ án được khách quan, toàn diện và
đầy đủ.
Để có cơ sở thực hiện nguyên tắc này cần phải có những quy định cụ thể. Những quy định đó phải
xác định rõ nội dung quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; xác định rõnhững điều kiện
cần thiết để áp dụng các biện pháp tố tụng; quy định rõ trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng khi có hành vi vi phạm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Các quy
định này cần phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội để đảm bảo tính khả thi, tránh tình trạng dân
chủ hình thức.
Ngoài ra, cần có đội ngũ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ và
có đạo đức nghề nghiệp. Quyền con người, các quyền cơ bản của cá nhân có được tôn trọng và bảo vệ hay
không là phụ thuộc vào việc thực thi pháp luật của những chủ thể này. Bên cạnh đó, phải tăng cường giáo
dục ý thức pháp luật của nhân dân để họ nhận thức rõ và thực hiện tốt hơn các quyền của mình và cần có
cơ chế phù hợp tổ chức thực hiện.

10
c. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật (Đ9 TTHS, Đ16 HP)
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật xác định vị trí của mọi người như nhau trong
lĩnh vực hoạt động nhà nước và xã hội cũng như tham gia các hoạt động TTHS, không có phân biệt.
TTHS tiến hành theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam nữ,
dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị
xử lý theo pháp luật. Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và
thành phần kinh tế.
Sự bình đẳng trước pháp luật thể hiện ở những điểm sau:
- Bất cứ người nào phạm tội, dù họ là ai cũng phải bị xử lý theo qđ của PLHS.
- Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau khi tham gia TTHS
- Cơ quan THTT phải THTT theo trình tự, thủ tục thống nhất đối với các vụ án.
- Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần
kinh tế. Pháp nhân phải chịu TNHS theo quy định pháp luật. Việc truy cứu TNHS của pháp nhân được
thực hiện theo quy định tại chương XXIX BLTTHS.
d. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Đ10 TTHS, Đ20 HP)
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS
được quy định trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta và ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế như:
tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền, công ước về các quyền dân sự chính trị,...Theo đó, BLHS 2015
quy định, người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng...mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người khác thì bị phạt tù từ 6 tháng
đến 3 năm. Với tinh thần đó, điều 10 TTHS quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể như sau:
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của toà
án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang
Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam phải theo quy định của
BLTTHS
Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kì hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, tính mạng, sức khoẻ của con người
Quy định này đòi hỏi cơ quan và người có thẩm quyền THTT khi áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong TTHS phải tuân thủ đúng quy định pháp luật. Chỉ có toà án hoặc VKS mới có thẩm quyền quyết
định hoặc phê chuẩn lệnh bắt. Trưởng CQĐT, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra ra lệnh thì lệnh này phải được VKS phê chuẩn trước khi thi hành. Đồng thời, quy định này
góp phần vào việc ngăn ngừa những trường hợp bắt, giam, giữ trái pháp luật đe dọa sự bất khả xâm phạm
về thân thể của con người.
đ. Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân, danh dự,
uy tín, tài sản của pháp nhân. (Đ11 TTHS, Đ19 HP)
Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân là đối tượng bảo vệ không chỉ của PLHS mà còn là đối tượng bảo vệ của PLTTHS. BLTTHS 2015
ngoài việc quy định về bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản, uy tín của cá nhân còn
quy định về bảo hộ danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân. Theo đó Đ11 TTHS quy định các nội dung sau:
Mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân;
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý theo pháp luật.

11
Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác
Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cụ thể hóa quyền con người, quyền cá nhân trong
TTHS, không chỉ góp phần vào việc bảo vệ quyền con người, quyền cá nhân mà còn góp phần bảo hộ
danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân trong TTHS. Việc thực hiện nguyên tắc này góp phần duy trì và
đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Khi xã hội ngày càng phát triển thì nguyên tắc này phải càng được tôn
trọng hơn bao giờ hết. Việc quy định nguyên tắc này thể hiện sự tiến bộ, văn minh và dân chủ của pháp
luật, góp phần bảo vệ các quyền về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh
dự, uy tín của pháp nhân trước sự xâm hại của tội phạm.
e. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân. (Đ12 TTHS, Đ21,22 HP)
Đ12 TTHS:...
Bên cạnh đó, Điều 21 Hiến pháp năm 2013 có quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.Thông tin
về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.
Theo đó, Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin
riêng tư khác. Không ai được bóc mơ, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tin và các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.
Như vậy, không ai có quyền xâm nhập chỗ ở của người khác khi chưa được người đó đồng ý. Chỗ ở
được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nhà ở thuộc sở hữu của người đó, chỗ ở do người đó thuê, mượn, ở
nhờ... Ngoài ra, bí mật đời tư, bí mật cá nhân, điện thoại, các loại thư tín cũng như các hình thức thư điện
từ của cá nhân... cũng là đối tượng bảo vệ của Hiến pháp và pháp luật.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhiều trường hợp để thu thập chứng cứ, truy bắt tội phạm,
các cơ quan có thẩm quyền có quyền xâm nhập chỗ ở, thư tín, điện thoại, bí mật cá nhân, đời tư?.. của cá
nhân. Tuy nhiên mọi hoạt động này phải đảm bảo có căn cứ và đúng thẩm quyền, thủ tục theo quy định
của pháp luật.
Mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công
dân đều bị xử lý theo pháp luật. Chẳng hạn, những hành vi như: khám trái pháp luật chỗ ở của người khác,
đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ, chiêm đoạt thư, điện báo, những hành vi trái pháp luật
khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện báo của người khác.
Nguyên tắc này góp phần vào việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi để cơ quan có thẩm quyền THTT giải quyết vụ án một cách nhanh chóng.
f. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành, tham gia tố tụng
(Đ21 TTHS)
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là chủ thể tiến hành hoạt động chứng minh trong tố tụng
hình sự. Để sự thật của vụ án được xác định khách quan, chính xác đòi hỏi những người này phải thật sự
vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Đối với người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định
giá tài sản, người chứng kiến là người không có quyển và lợi ích pháp lí liên quan đến vụ án, họ tham gia
tố tụng nhảm góp phần xác định sự thật của vụ án, pháp luật cũng đòi hỏi sự vô tư của họ khi tham gia vào
tố tụng hình sự.
Điều 21 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người có thầm quyền tiến hành tố tụng, người
phiên dịch, người dịch thuật, người giấm định, người định giá tài sản, người chứng kiến không được tham
gia tố tụng nếu có lí do cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ.

12
Nội dung nguyên tắc này thể hiện như sau:
+ Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định,
người định giá tài sản, ngưcú chứng kiến phải giữ được sự vô tư khí làm nhiệm vụ của mình trong mọi
trường hợp.
Họ phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, tiến hành công việc của mình với thái độ khách quan,
vô tư, không được để những quan hệ, những tình cảm cá nhân chi phối vào công việc, không được có thái
độ thiên vị hay định kiến đối với bất kì người tham gia tố tụng nào.
+ Nếu có lí do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình,
họ sẽ không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, họ sẽ phải từ chối tiến hành hoặc tham gia tố tụng hoặc
bị đề nghị thay đồi.
Việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc này là điều kiện cần thiết để thực hiện một số các nguyên tắc cơ
bản khác của tố tụng hình sự như các nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình
sự; bảo đàm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; xác định sự thật của vụ án; bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và
chi tuân theo pháp luật... Có thể nỏi nguyên tắc này là đòi hỏi pháp lí chi phối mọi hoạt động của những
người tiến hành tố tụng.
Một số điều kiện thực hiện nguyên tắc: cần có những quy định pháp luật đây đủ, rõ ràng, thống nhất
làm cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc này như quy định về thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch...Những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người dịch
thuật, người giám định, người định giá tài sản, người chứng kiến phải nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm
của mình, cần chủ động, tự giác từ chối tiến hành hoặc tham gia tố tụng nếu thuộc những trường hợp luật
định.
g. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia (Đ22 TTHS, K1Đ103 HP)
Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia phản ánh tư tưởng thu hút sự tham gia của
nhân dân vào hoạt động xét xử.
Điều 22 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia,
trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn do Bộ luật này quy định”.
Thứ nhất, một trong những đặc trưng của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân. Bản thân chế định Hội thẩm là sự thể hiện tư tưởng ” lấy dân làm gốc”, bảo
đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là cơ quan
quyền lực của Nhà nước, Nhà nước thông qua Tòa án để thực hiện quyền lực tư pháp của mình. Chính
bằng hoạt động xét xử, Tòa án giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào Hội đồng
xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào
công tác quản lý Nhà nước nói chung, hoạt động của Tòa án nói riêng.
Thứ hai, nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử và tạo điều
kiện cho hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử có sự tham gia của nhân dân sẽ được tiến hành một cách
khách quan, công bằng, chính xác bảo đảm được đúng pháp luật và bảo đảm được công lý. Nguyên tắc
này cũng cho thấy tính chất dân chủ của các hoạt tư pháp trong đó có tư pháp hình sự. Thực hiện tốt
nguyên tắc này sẽ góp phần vào việc củng cố tốt mối quan hệ giữa Toà án và nhân dân, nâng cao tính
chính xác, bảo đảm công minh trong công tác xét xử, góp phần vào việc phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm tham gia. Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân là sẽ
người được bầu hoặc cử tham gia vào hoạt động xét xử. Với kinh nghiệm sống của mình, cùng với kiến

13
thức chuyên môn Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân góp phần quan trọng vào việc làm sáng tỏ, xác
định sự thật của vụ án. Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân là người trực tiếp làm việc, sống và tham
gia sinh hoạt xã hội cùng quần chúng nhân dân, họ đem đến phiên tòa những suy nghĩ và ý kiến của quần
chúng về vụ án, góp phần giúp Tòa án xử lý vụ án chính xác, công minh.
Thứ tư, khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Khi xét xử vụ án hình sự, mọi vấn đề phải
được Thẩm phán và Hội thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Trong khi giải quyết những vấn
đề phát sinh trong quá trình xét xử cũng như trong khi quyết định bản án, Hội thẩm ngang quyền với
Thẩm phán.
Thứ năm, để bảo đảm cho Hội thẩm tham gia hoạt động xét xử có hiệu quả, một mặt, các cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội, các cơ sở kinh tế, các đơn vị vũ trang, các địa phương nơi Hội thẩm công tác
và cư trú cố trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho Hội thẩm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, và mặt
khác Hội thẩm phải tự mình bồi dưỡng kiến thức pháp lý, nâng cao ý thức trách nhiệm tham gia công tác
xét xử.
h. Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Đ23 TTHS,
K2Đ103 HP)
Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về nguyên tắc thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật: ‘‘Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức
nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.’’
Nguyên tắc này đòi hỏi, thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử vụ án hình sự sẽ
quyết định các vấn đề trong đó có việc ra bản án một cách độc lập chỉ dựa vào các chứng cứ khách quan ý
thức pháp luật và niềm tin nội tâm của mình mà không lệ thuộc vào bất kỳ sự chỉ đạo, tác động, sức ép của
bất kỳ cơ quan, cá nhân khác.
Thứ nhất, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập. Đây là nguyên tắc đã được quy định trong
Hiến pháp. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính khách quan, chính xác của các quyết định do Tòa án đưa
ra, đề cao trách nhiệm và tính tự chủ của Thẩm phán và Hội thẩm, bảo đảm chất lượng của hoạt động xét
xử. Nguyên tắc này đòi hỏi, thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử vụ án hình sự sẽ quyết
định các vấn đề trong đó có việc ra bản án một cách độc lập chỉ dựa vào các chứng cứ khách quan ý thức
pháp luật và niềm tin nội tâm của mình mà không lệ thuộc vào bất kỳ sự chỉ đạo, tác động, sức ép của bất
kỳ cơ quan, cá nhân khác.
Thứ hai, trước hết là sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân với tòa án mà họ đang làm
việc, độc lập giữa tòa án cấp trên và tòa án cấp dưới. Chánh án với tư cách là người lãnh đạo tòa án không
có quyền can thiệp, chi đạo, gây sức ép đối với thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong quá trình họ giải
quyết vụ án. Tòa án cấp trên không có quyền chỉ đạo tòa án cấp dưới trong việc giải quyết vụ án. Độc lập
của thẩm phán và hội thẩm nhân dân còn thể diện trong mối quan hệ giữa họ với nhau với tư cách là thành
viên của Hội đồng xét xử vụ án đó. Họ độc lập và ngang quyền với nhau trong việc xem xét, đánh giá
chứng cứ, trình bày quan điểm, biểu quyết về vấn các vấn đề của vụ án.
Thứ ba, sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân còn thể hiện trong mối quan hệ với bên
ngoài. Trước hết là các cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan điều tra, viện kiểm sát. Thẩm phán và hội
thẩm nhân dân không phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan điều tra, cáo trạng của viện kiểm sát.

14
Bên cạnh đó, không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có quyền bằng cách này hay cách khác buộc thẩm
phán và hội thẩm nhân dân phải ra bản án, quyết định theo ý mình.
Thứ tư, nguyên tắc này nhấn mạnh: Thẩm phán độc lập nhưng phải tuân theo pháp luật. Thẩm phán,
hội thẩm nhân dân chỉ độc lập khi họ tuân theo pháp luật và nếu tuân theo pháp luật thì họ mới độc lập.
Như vậy độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân không có nghĩa là là độc lập tuyệt đối mà giới hạn
của sự độc lập đó chính là pháp luật. Sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân không thể vượt ra
khỏi khuôn khổ pháp luật, bất chấp pháp luật, phải loại trừ hành vi vượt quyền, lạm quyền, vi phạm pháp
luật, vi phạm nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Thứ năm, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, pháp luật có những biện pháp xử lý hành vi xâm
phạm đến sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân: Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc
xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
i. Nguyên tắc toà án xét xử tập thể (Đ24 TTHS)
Để đảm bảo cho việc xử lý vụ án được thận trọng, khách quan, chống độc đoán, Đ24 BLTTHS quy
định: “TA xét xử tập thể và quyết định theo đa số”. Nội dung nguyên tắc này thể hiện như sau:
Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất
nghiêm trọng, phức tạp thì hội đồng xét xử có thể gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm. Đối với những vụ án
mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì hội đồng xét xử gồm
hai thẩm phán và ba hội thẩm. Trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn thì chỉ do một thẩm phán xét xử.
Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán. Trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn thì chỉ do
một thẩm phán tiến hành.
Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm gồm 3 hoặc 5 thẩm phán, trong trường hợp bản án hoặc quyết
định bị kháng nghị có tính chất phức tạp hoặc hội đồng 3 hoặc 5 thẩm phán không thống nhất được khi
biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án thì phải được xét lại bằng hội đồng toàn thể Uỷ
ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao hoặc Hội đồng toàn thể thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn, các quyết định của toà án đều phải được sự thống nhất
của tập thể, không quyết định theo ý kiến riêng của cá nhân, mọi vấn đề phát sinh trong quá trình xét xử
đều phải được thảo luận tập thể, thẩm phán không được tự mình quyết định.
Khi xét xử, toà án quyết định theo đa số. Các thành viên của hội đồng xét xử phải giải quyết mọi vấn
đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề, thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý
kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được để vào hồ sơ.
k. Nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Đ25 TTHS, K2Đ31, K3Đ103 HP).
Đ25: ….
Xét xử kịp thời không chỉ là nguyên tắc trong xét xử mà còn là một trong những nguyên tắc bảo
đảm quyền con người ưong tố tụng hình sự. Việc xét xử kịp thời không chỉ có ý nghĩa đối với người bị
buộc tội mà còn có ý nghĩa đối với việc thực hiện các nhiệm vụ của tố tụng hình sự, bảo đảm xử lí tội
phạm nhanh chóng, mặt khác giúp cho các quan hệ xã hội, trật tự xã hội sớm được ổn định, các thiệt hại
do tội phạm gây ra được khắc phục kịp thời, bảo đảm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân.
Việc xét xử công bằng, công khai bảo đảm quyền con người cho người tham gia tố tụng, đồng thời
bảo đảm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
Việc xét xử của toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên toà, trừ
trường hợp luật định. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải công khai.

15
Nguyên tắc xét xử công khai góp phần vào việc giáo dục và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của
nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân giám sát hoạt động xét xử của toà án. Mặt khác, nguyên tắc này có tác
dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của toà án nói chung cũng như thẩm phán và hội thẩm nói riêng
trước quần chúng.
m. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Đ26 TTHS, K2Đ31 HP)
Quy định tại Đ26 TTHS.
Thứ nhất, trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên, người khác có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có
quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách
quan của vụ án. Theo quy định pháp luật, quyền này được mở rộng cả về phạm vi quyền, thời gian cũng
như về chủ thể được hưởng quyền. Không chỉ là quyền đưa chứng cứ, yêu cầu mà pháp luật còn quy định
các chủ thể được bình đẳng ưong việc đánh giá chứng cứ; không chi giới hạn thời điểm thực hiện quyền
chỉ tại phiên toà mà quyền bình đẳng trong việc đưa chứng cứ, yêu cầu, đánh giá chứng cứ được thực hiện
trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Họ phải được
bình đẳng với nhau trong việc đưa ra chứng cứ và đánh giá chứng cứ để chứng minh sự thật khách quan
của vụ án. Dựa vào chứng cứ của các bên đưa ra, toà án mới có thể giải quyết vụ án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội.
Ngoài việc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và đánh giá chứng cứ, các bên buộc tội và gỡ tội...
còn bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu, bình đẳng trong việc tranh luận trước toà án.
Thứ hai, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do viện kiểm sát chuyển đến toà án để xét xử phải đầy
đủ và hợp pháp. Phiên toà xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật
này, trường hợp vắng mặt phải vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác
do Bộ luật này quy định. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ,
bình đẳng trước tòa án.
Nguyên tắc này xác định rõ trách nhiệm của tòa án trong việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Các
chủ thể có quyền tranh tụng phải được toà án triệu tập đầy đủ để tham gia phiên toà xét xử; toà án chỉ xét
xử vắng mặt họ trong trường hợp vắng mặt phải vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. toà án
có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân
chủ, bình đẳng trước toà án; toà án phải nghiên cứu hồ sơ vụ án bảo đảm những tài liệu, chứng cứ trong hồ
sơ vụ án do viện kiểm sát chuyển đen toà án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp, làm phương tiện để chứng
minh và tranh tụng tại phiên toà.
Thứ ba, Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, điều luật để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối
với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày,
tranh luận, làm rõ tại phiên toà. Bản án quyết định của toà án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá
chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên toà.
Toà án xét xử trực tiếp, không phải “án tại hồ sơ”, vì vậy tất cả các chứng cứ của vụ án phải được
xem xét, đánh giá, làm rõ tại phiên toà. Việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của toà án phải bảo
đảm khách quan, toàn diện và đầy đủ.

16
Bản án và quyết định của toà án là kết quả của hoạt động xét xừ của toà án và phản ánh thực tế ưanh
tụng tại phiên toà. Vì vậy bản án, quyết định của tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng
cứ và kết quả tranh tụng tại phiên toà.
n. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (Đ27 TTHS, Đ103 HP)
Thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm là một trong những biểu hiện của dân chủ và tiến bộ
trong tố tụng hình sự. Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự quy định thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm với tư cách là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nước ta.
Đ27:.....
Thứ nhất, nguyên tắc này trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2005 là: Nguyên tắc xét xử hai cấp. Bộ luật
tố tụng hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung thành nguyên tắc: Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo.
Xét xử hai cấp là một nguyên tắc tiến bộ được áp dụng phổ biến trên thế giới và nhiều quốc gia. Theo đó,
bản án, quyết định sơ thẩm (xét xử lần thứ nhất) nếu có kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định thì
được đưa lên tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại (xét xử lần thứ hai - phúc thẩm).
Xét xử sơ thẩm là thủ tục bắt buộc, theo đó tòa án tổ chức phiên tòa, xem xét đánh giá chứng cứ, kết
quả tranh tụng tại phiên tòa và đưa ra bản án, quyết định. Nếu bản án quyết định sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định thì có hiệu lực thi hành. Tòa án sẽ không xét xử lại vụ án đó nữa
(trừ trường hợp xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có căn cứ và theo thủ tục đặc biệt).
Thứ hai, nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định thì nó
chưa có hiệu lực thi hành. Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án đó gọi là xét xử phúc thẩm. Việc xét
xử phúc thẩm là bắt buộc nêu bản án, quyết định bị kháng cáo kháng nghị đúng thời hạn, đúng chủ thể có
quyền kháng cáo, kháng nghị.
Xét xử phúc thẩm là hoạt động được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định của Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, xét xử phúc thẩm có ý nghĩa: Đảm bảo cho bản án, quyết định của tòa án được phán quyết
thận trọng, khách quan, chính xác, có căn cứ, đúng pháp luật; đảm bảo cho tòa án cấp trên giám sát hoạt
động xét xử của tòa án cấp dưới, khắc phục sai lầm của tòa án cấp dưới bảo đảm cho quyền, lợi ích hợp
pháp của nhà nước, tổ chức, của cá nhân.
Nguyên tắc này tạo điều kiện để vks, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có điều kiện thể
hiện thái độ không nhất trí của mình đối với việc xét xử của toà án. Việc vụ án được xét xử hai cấp bảo
đảm cho việc giải quyết vụ án chính xác, đúng đắn hơn, nâng cao chất lượng xét xử của toà án. Đồng thời
việc quy định chí có hai cấp xét xử cũng tránh tình trạng vụ án được xét xử theo quá nhiều cấp, kéo dài
quá trình tố tụng và bảo đảm hiệu lực của các bản án, qđ đã có hiệu lực PL.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này cần phải có các quy định pháp luật cụ thể, đống bộ và thống nhất
điều chỉnh các hoạt động XXST, PT; GĐT, TT của toà án theo đúng tinh thần của nguyên tắc đồng thời
cũng cần tổ chức toà án phù hợp với việc phân cấp xét xử.
o. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của tòa án (Đ28 TTHS)
Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, tuỳ theo từng vụ án mà toà án ra bản án hoặc các quyết định tố
tụng nhằm giải quyết vụ án. Bản án và quyết định của toà án khi đã có hiệu lực phápluật phải được
nghiêm chỉnh chấp hành. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của toà án được quy định tại điều 28 BLTTHS
2015 có nội dung như sau:....

17
Bản án, quyết định của toà án là văn bản tố tụng khác nhau do toà án ban hành trong quá trình giải
quyết vụ án. Bản án của tào án quyết đinh việc bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt và các biện pháp
tư pháp khác. Theo quy định của BLTTHS thì khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự, toà án rả bản
án, quyết định. Khi xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm toà án ra quyết định. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, toà án còn ra các quyết định khác
như quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án...
Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày tuyên án. Quyết định của hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày ra quyết định. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, cá nhân, cơ quan và tổ chức hữu quan phải chấp
hành bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Trường hợp không tự nguyện chấp hành thì
sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng.
Việc xét xử của toà án nói chung, trong đó có việc xét xử các vụ án hình sự chỉ có ý nghĩa khi bản
án, quyết định của toà án sau khi có hiệu lực pháp luật phải được thi hành trên thực tế. Nguyên tắc này
không chỉ xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn xác định rõ trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân liên quan trong việc thi hành bản án và quyết định của toà án.
ô. Nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong TTHS (Đ29)
Vấn đề tiếng nói và chữ viết trong vụ án hình sự được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự,
giúp cho người dân tộc thiểu số có thể đến gần hơn với pháp luật. Về vấn đề giải quyết việc dân sự trong
vụ án hình sự cũng được quy định chặt chẽ trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 2013, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải bảo
đảm cho người tham già tố tụng được sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Để việc tiến hành tố
tụng có hiệu quả, tạo điều kiện cho người tham gia tố tụng góp phần vào việc xác định sự thật vụ án cũng
như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mình, BLTTHS quy định tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng
hình sự là một nguyên tắc cơ bản.
Điều 29 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự có
nội dung như sau:
- Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt.
- Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp
này cần phải có người phiên dịch.
Theo quy định trên thì tiếng Việt (tiếng Kinh) được xác định là tiếng nói và chữ viết dùng trong tố
tụng hình sự. Tiếng Việt còn được hiểu là tiếng Việt Nam, dùng để phân biệt với các thứ tiếng khác ttên
thế giới. Do vậy, trong trường hợp có người tham gia tố tụng không biết tiếng Việt thì phải có người phiên
dịch, không kể người đó là người Việt Nam hay người nước ngoài. Việc BLTTHS quy định tiếng nói và
chữ viết dùng trong tố tụng hình sự không chỉ có ý nghĩa về pháp lý mà còn có ý nghĩa chính trị - xã hội.
s. Nguyên tắc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS ( Đ32 TTHS, Đ30 HP)
Quyền khiếu nại của cá nhân, cơ quan, tổ chức và quyền tố cáo của các nhân đố với hoạt dộng của
cơ quan, người có thẩm quyền THTT được quy định tại Đ32 BLTTHS với nội dung sau:
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân tố cáo hành vi vi phạm pháp lật trong hoạt
động TTHS của các cơ quan và người có thẩm quyền THTT hoặc bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan
đó.
Quyền khiếu nại, tố cáo của cá nhân là quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Cơ quan, tổ
chức cũng có quyền khiếu nại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Với tư cách là những người

18
có quyền, lợi ích bị ảnh hưởng bởi những hãnh vi, quyết định tố tụng, họ có quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Quyền khiếu nại chính là quyền được phản đối lại hành vi, quyết định của cơ quan,
người có thẩm quyền khi có căn cứ để cho rằng những hành vi, quyết định đó là trái pháp luật, làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bảo đảm quyền khiếu nại tố cáo là nguyên tắc cơ bản của
TTHS và phải dược tuân thủ triệt để ở các giai đoạn TTHS. Trong quá trình tố tụng, nếu cơ quan, tổ chức,
cá nhân phát hiện vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền THTT thì cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền KN, cá nhân có quyền TC.
- Cơ quan, người có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các
KN, TC; gửi văn bản kết quả giải quyết cho người TC, KN, cơ quan tổ chức KN và có biện pháp khắc
phục
BLTTHS không chỉ quy định về quyền KN, TC của cá nhân, quyền KN của cơ quan, tổ chức đối với
hành vi, quyết định của các cơ quan và người có thẩm quyền THTT mà còn quy định trách nhiệm của các
cơ quan có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết KN, TC đó bằng các biện pháp cụ thể.
u. Nguyên tắc kiểm tra, giám sát TTHS (Đ33TTHS)
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở những điểm sau:
(i) Cơ quan, người có thấm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các
hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiếm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết
nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Hoạt động kiểm tra trong tố tụng hình sự là việc xem xét, nhận xét, đánh giá thực trạng tiến hành tố
tụng. Kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định. Hoạt động kiểm tra, kiểm
soát là những hoạt động mang tính hành chính và phải được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng thực hiện thường xuyên, liên tục để đánh giá kết quả các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền của
mình. Để bảo đảm kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả, việc kiểm tra, kiểm soát phải thực hiện theo một tiến
trình qua các bước khác nhau: Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xuất phát từ thực tiễn tố
tụng xây dựng kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thường xuyên hoặc định kì, xác định thực trạng hoạt động tố
tụng, so sánh với các quy định pháp luật để xác định mức độ sai phạm trong hoạt động tố tụng, tìm nguyên
nhân và thực hiện các biện pháp cần thiết để sửa chữa sai phạm, bảo đảm hoạt động tố tụng được tiến
hành đúng pháp luật. Để thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm soát trong tố tụng hình sự đòi hỏi cơ quan,
người có thẩm quyền phải chủ động, nghiêm túc tiến hành kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, khi phát
hiện sai phạm trong hoạt động tố tụng phải thực hiện các biện pháp khắc phục, xử lí nghiêm cá nhân vi
phạm pháp luật, tránh tình bao che sai phạm.
(ii) Cơ quan nhà nước, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận,
đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tô tụng; giám
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Chủ thể có quyền giám sát theo quy định này là cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan,
người tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiêu nại, tố cáo của các cơ quan, người có thẩm quyển
tiến hành tố tụng. Đối tượng của việc giám sát là các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Phạm vi giám sát là các họạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng va việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, ngươi có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Biện pháp giám sát theo quy định của nguyên tắc này: Nếu phát hiện những hành vi trái pháp luật
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biêu dân cử có quyền yêu

19
cầu, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị cơ quan
có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của BLTTHS.
(iii) Nguyên tắc này cũng xác định trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết
và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật. Điều 33 BLTTHS năm 2015 quy định: Nếu
phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt
trận có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định
của Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị,
yêu cầu đó theo quy định của pháp luật.
Việc giám sát áp dụng pháp luật ttong hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, bảo đảm tính công khai, rõ ràng, minh bạch trong hoạt động của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng; tăng cường trách nhiệm và tính chủ động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; phát
huy tinh thần làm chủ của nhân dân thông qua cơ quan nhà nước, tổ chức, đại biểu dân cử đối vói hoạt
động tư pháp. Qua đó góp phần bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Để thực hiện việc giám sát có hiệu quả cần phải có những quy định rõ ràng, thống nhất, hợp lí về
việc giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng làm cơ sở cho việc thực hiện;
nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật và tinh thần chủ động của nhân dân và đại diện cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội, đại biểu dân cử trong đấu tranh chống những vi phạm pháp luật của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực sự tôn ttọng những
kiến nghị của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đại biểu dân cử và nghiêm túc xem xét giải quyết những
kiến nghị đó.

20
CHƯƠNG III. NGƯỜI CÓ THẨM QUYỀN THTT VÀ VIỆC THAY ĐỔI
Câu hỏi: Tại sao phải thay đổi người có thẩm quyền THTT
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là chủ thể tiến hành hoạt động chứng minh trong tố tụng
hình sự. BLTTHS quy định phải thay đổi người có thẩm quyền THTT cũng là để đảm bảo nguyên tắc đảm
bảo sự vô tư của người THTT. Nguyên tắc này giúp cho vụ án được tiến hành một cách khách quan và
chính xác, đồng thời, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự công minh của các cơ quan có thẩm quyền
THTT trong việc giải quyết vụ án. Để đảm bảo sự vô tư của những người THTT, luật TTHS đã có những
quy định chặt chẽ về việc thay đổi người THTT.
Điều 21 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người có thầm quyền tiến hành tố tụng, người
phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản, người chứng kiến không được tham
gia tố tụng nếu có lí do cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Nội dung nguyên tắc này thể hiện như sau:
+ Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định,
người định giá tài sản, người chứng kiến phải giữ được sự vô tư khi làm nhiệm vụ của mình trong mọi
trường hợp.
Họ phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, tiến hành công việc của mình với thái độ khách quan,
vô tư, không được để những quan hệ, những tình cảm cá nhân chi phối vào công việc, không được có thái
độ thiên vị hay định kiến đối với bất kì người tham gia tố tụng nào.
+ Nếu có lí do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình,
họ sẽ không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, họ sẽ phải từ chối tiến hành hoặc tham gia tố tụng hoặc
bị đề nghị thay đổi.
Việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc này là điều kiện cần thiết để thực hiện một số các nguyên tắc cơ
bản khác của tố tụng hình sự như các nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình
sự; bảo đàm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; xác định sự thật của vụ án; bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và
chi tuân theo pháp luật... Có thể nỏi nguyên tắc này là đòi hỏi pháp lí chi phối mọi hoạt động của những
người tiến hành tố tụng.
Câu hỏi: Tại sao thẩm phán và hội thẩm trong cùng một hội đồng xét xử và là người thân
thích của nhau thì phải từ chối THTT hoặc phải thay đổi
Thẩm phán là người được CTN bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử
những vu án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của tòa án.
Hội thẩm là người được bầu cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án
thuộc thẩm quyền của tòa án.
Việc thẩm phán và hội thẩm cùng trong một HĐXX và là người thân thích của nhau sẽ không đảm
bảo nguyên tắc xét xử độc lập của tòa án. Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc
xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Nguyên tắc này đòi hỏi, thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong quá
trình xét xử vụ án hình sự sẽ quyết định các vấn đề trong đó có việc ra bản án một cách độc lập chỉ dựa
vào các chứng cứ khách quan ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm của mình mà không lệ thuộc vào bất kỳ
sự chỉ đạo, tác động, sức ép của bất kỳ cơ quan, cá nhân khác.

21
BLTTHS quy định chỉ một trong hai người phải thay đổi và việc thay đổi ai trong hai người trước
khi mở phiên tòa do chánh án TA quyết định, tại phiên tòa do HĐXX quyết định. Việc xác định họ là
người thân thích được xác định theo quy định pháp luật

CHƯƠNG IV. NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG


Câu hỏi: so sánh bị hại và nguyên đơn dân sự
Giống nhau: đều là những người tham gia tố tụng và bị thiệt hại do tội phạm gây ra
Khác nhau:
TIÊU CHÍ BỊ HẠI NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ

Khái niệm Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức
thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy bồi thường thiệt hại.
tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây
ra.

Các loại Bị thiệt hại về: Chỉ bị thiệt hại về tài sản
thiệt hại + Thể chất;
+ Tinh thần;
+ Tài sản;
+ Uy tín (đối với cơ quan, tổ chức bị
thiệt hại).

Dạng thiệt Bị hại bị thiệt hại trực tiếp (Bởi hành vi Nguyên đơn dân sự bị thiệt hại gián tiếp và phải
hại do phạm tội nhắm đến là việc trực tiếp gây có thiệt hại xảy ra, (Bởi hành vi phạm tội nhắm
hành vi thiệt hại cho chủ thể này). đến không phải là việc trực tiếp gây thiệt hại cho
nhắm đến - Có thể có trường hợp thiệt hại chưa chủ thể này mà chủ thể này bị thiệt hại là do bị
xảy ra mà chỉ đe dọa xảy ra (đối với ảnh hưởng gián tiếp từ hành vi phạm tội).
những tội phạm cấu thành hình thức tức Ví dụ: Tại quán ăn của A; B và C đang ăn nhậu
chỉ quy định có hành vi vi phạm pháp thì sau đó lời qua tiếng lại gây xích mích nên lao
luật mà không nhất thiết xét đến hậu quả vào đánh nhau, B và C đã dùng bàn ghế, bát đũa
xảy ra hay chưa) thì những chủ thể bị đe tại bàn nhậu làm công cụ đánh nhau. Sự việc xảy
dọa xảy ra thiệt hại cũng sẽ trở thành bị ra khiến C bị thương tích 65% và quán của A bị
hại. thiệt hại 5.000.000 vì những dụng cụ B, C đã làm
hỏng. Sau đó, B đã bị khởi tố về tội cố ý gây
thương tích. Theo đó, trong vụ án này: C là bị hại
còn A là nguyên đơn dân sự.

Cách thức Được tham gia tố tụng ngay cả khi Chỉ được tham gia tố tụng khi có đơn yêu cầu bồi
để tham không có yêu cầu. thường thiệt hại. (Ví dụ đối với vụ án ở trên thì A
gia tố tụng chỉ được coi là nguyên đơn dân sự trong vụ án
nếu như A có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại)

22
Quyền Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu Không có quyền trình bày lời buộc tội tại phiên
trình bày cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại tòa.
lời buộc diện của họ trình bày lời buộc tội tại
tội tại phiên tòa.
phiên tòa

Quyền đề Có quyền Không có quyền


nghị hình
phạt

Kháng cáo Có quyền kháng cáo bản án, quyết định Chỉ được quyền kháng cáo bản án, quyết định
bán án, của Tòa án của Tòa án về phần bồi thường thiệt hại.
quyết định
của Tòa án

Nghĩa vụ – Có mặt theo giấy triệu tập của người – Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm
có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường quyền tiến hành tố tụng và trình bày trung thực
hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất những tình tiết liên quan đến việc bồi thường
khả kháng hoặc không do trở ngại khách thiệt hại.
quan thì có thể bị dẫn giải;

Câu hỏi: phân biệt người làm chứng và người chứng kiến

tiêu chí người làm chứng người chứng kiến

Khái niệm Là người biết được những tình tiết liên quan Là người được cơ quan có thẩm
đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quyền tiến hành tố tụng yêu cầu
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập chứng kiến việc tiến hành hoạt động
đến làm chứng. tố tụng theo quy định của Bộ luật
này.

Bản chất Biết được tình tiết liên quan đến vụ án, tội Được cơ quan có thẩm quyền tiến
phạm và được cơ quan có thẩm quyền triệu tập hành tố tụng yêu cầu chứng kiến.
đến làm chứng.

Những người Người bào chữa của người bị buộc tội; Người thân thích của người bị buộc
không được làm - Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể tội, người có thẩm quyền tiến hành
chất mà không có khả năng nhận thức được tố tụng;
những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, - Người do nhược điểm về tâm thần
về vụ án hoặc không có khả năng khai báo hoặc thể chất mà không có khả
đúng đắn. năng nhận thức đúng sự việc;
- Người dưới 18 tuổi;
- Có lý do khác cho thấy người đó

23
không khách quan

Quyền - Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ - Được thông báo, giải thích quyền
theo quy định. và nghĩa vụ theo quy định.
- Yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, - Yêu cầu người có thẩm quyền tiến
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và hành tố tụng tuân thủ quy định của
quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người pháp luật, bảo vệ tính mạng, sức
thân thích của mình khi bị đe dọa. khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ và quyền, lợi ích hợp pháp khác của
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mình, người thân thích của mình
liên quan đến việc mình tham gia làm chứng. khi bị đe dọa.
- Được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi - Xem biên bản tố tụng, đưa ra nhận
lại và những chi phí khác theo quy định pháp xét về hoạt động tố tụng mà mình
luật. chứng kiến.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố
tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng liên quan
đến việc mình tham gia chứng kiến.
- Được cơ quan triệu tập thanh toán
chi phí theo quy của pháp luật

Nghĩa vụ - Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có - Có mặt theo yêu cầu của cơ quan
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp cố ý có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc - Chứng kiến đầy đủ hoạt động tố
không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt tụng được yêu cầu;
của họ gây trở ngại cho việc giải quyết nguồn - Ký biên bản về hoạt động mà
tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mình chứng kiến;
thì có thể bị dẫn giải; - Giữ bí mật về hoạt động điều tra
- Trình bày trung thực những tình tiết mà mình mà mình chứng kiến;
biết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ - Trình bày trung thực những tình
án và lý do biết được những tình tiết đó. tiết mà mình chứng kiến theo yêu
cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.

Xử lý vi phạm Phạt cảnh cáo Không bị xử lý.


trong trường - Phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm
hợp cung cấp - Phạt tù từ 03 tháng đến 07 năm.
thông tin sai sự Ngoài ra, còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức
thật vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 năm đến 05 năm

Xử lý vi phạm Không áp dụng đối với ông, bà, cha, mẹ, con, Không bị xử lý.
trong trường cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của
hợp từ chối thực
24
hiện nếu không người phạm tội)
có lý do chính - Phạt cảnh cáo
đáng - Phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm
- Phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
Ngoài ra, còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 đến 5 năm

Căn cứ pháp lý Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Điều 67 Bộ luật tố tụng hình sự
2015.

25
CHƯƠNG V. CHỨNG CỨ, CHỨNG MINH
I. Khái niệm và ý nghĩa
1. Khái niệm (Đ86 TTHS)
Đ86 BLTTHS quy định:...
2. Các thuộc tính của chứng cứ.
a. Tính khách quan
Tính khách quan là một trong những thuộc tính quan trọng của chứng cứ. Theo định nghĩa thì
Chứng cứ được dùng là những tài liệu, sự kiện có thật, phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án đã
xảy ra, không bị xuyên tạc, bóp méo theo ý chí chủ quan của con người. Những thông tin, tài liệu, đồ vật
dù tồn tại trên thực tế nhưng bị xuyên tạc, bóp méo hay bị làm giả theo ý chí chủ quan thì không còn mang
tính khách quan. Vì vậy, những thông tin, tài liệu, đồ vật đó không thể là chứng cứ của vụ án được.
Tính khách quan đòi hỏi bản thân các nguồn thông tin này phải có thật, không phụ thuộc vào khả
năng con người có nhận biết chúng hay không.Tính khách quan còn thể hiện ở chỗ những gì là suy đoán,
tưởng tượng, không có thật thì không phải là chứng cứ. Tính khách quan bắt đầu từ thời điểm chứng cứ
được sinh ra.
Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, việc xác định đúng đắn tính khách quan của chứng cứ có ý
nghĩa rất quan trọng trong chứng minh tội phạm. Việc sử dụng các thông tin, tài liệu bị bóp méo, xuyên
tạc, bị làm giả để chứng minh cũng như kiểm tra, đánh giá chứng cứ phụ thuộc vào suy luận chủ quan của
nguồn chứng cứ sẽ làm cho việc chứng minh thiếu chính xác, sự thật khách quan không được xác định.
b. Tính liên quan
Xác định tính liên quan là một trong các thuộc tính cơ bản của chứng cứ xuất phát từ tính hiệu quả
của hoạt động tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một VAHS, thông thường có nhiều
thông tin, tài liệu được thu thập. Tuy nhiên, không phải tất cả thông tin, tài liệu thu thập được đều là
chứng cứ mà chỉ các thông tin, tài liệu liên quan đến vụ án mới là chứng cứ. Do đó, cần phải xác định xem
tài liệu nào là có liên quan đến vụ án và chỉ dùng để chứng minh về vụ án hình sự khi xác định được tính
liên quan đến vụ án hình sự đó.
Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ tài liệu thu được phải có mối liên hệ khách quan với
những sự kiện cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, giúp cho nhận thức về vụ án hình sự, làm rõ
những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự. Đây là mối liên hệ giữa sự kiện dùng làm căn cứ để
chứng minh với những sự kiện cần phải chứng minh làm sáng tỏ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Mối quan hệ ở đây có thể ở những mức độ khác nhau như quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp, quan hệ nhân –
quả, quan hệ theo không gian – thời gian,… Nếu những gì có thật nhưng không liên quan đến vụ án hình
sự thì không được dùng làm chứng cứ.
Thực tiễn hoạt động giải quyết các vụ án hình sự cho thấy khi vụ án hình sự xảy ra có thể thu được
rất nhiều sự kiện, tài liệu. Do đó, khi giải quyết vụ án hình sự (nhất là trong giai đoạn điều tra ban đầu)
phải thu thập rộng rãi những thông tin, tài liệu nhưng cũng phải kịp thời sàng lọc phát hiện những tài liệu
có liên quan đến vụ án hình sự đang cần phải làm rõ để tránh thu thập tràn lan, tốn kém thì giờ và công
sức. Chỉ sử dụng những gì được xác định là có liên quan đến vụ án hình sự để giải quyết vụ án hình sự.
Khi chưa xác định được tính liên quan của tài liệu đã thu được mà sử dụng tùy tiện thì sẽ mắc sai
lầm trong việc giải quyết vụ án hình sự. Việc xác định tính liên quan của tài liệu đã thu thập được trong vụ
án phải căn cứ vào các quy luật khách quan, tuyệt đối không được áp đặt tính liên quan bằng sự suy diễn
chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự trong quá trình đánh giá các tài liệu thu thập
được.

26
c. Tính hợp pháp
Chứng cứ có tính hợp pháp bởi việc giải quyết vụ án hình sự không thể tách rời quá trình nghiên
cứu, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Chứng cứ phải được xác định từ những nguồn chứng cứ và
được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo đúng quy định của Luật Tố tụng hình sự.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 87 BLTTHS năm 2015, nguồn chứng cứ bao gồm:...
Chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập phải được thu thập bằng các hoạt
động điều tra (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định, lấy lời khai, hỏi cung,
khám xét, thực nghiệm điều tra,… ) hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ
vụ án.
Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm
chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án
hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào
chữa.
Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
Tính hợp pháp của chứng cứ đòi hỏi việc thu thập phải đúng trình tự do pháp luật quy định. Thực
tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy có không ít trường hợp cơ quan có thẩm quyền THTT tiến hành thu
giữ đồ vật, tài liệu là không đúng thủ tục sau đó tiến hành hợp pháp hoá để đưa vào hồ sơ vụ án. Trong
trường hợp đó, chứng cứ thiếu tính hợp pháp nên không thể có giá trị chứng minh.
=> tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp là các thuộc tính cần và đủ của chứng cứ.
Chúng thể hiện các mặt khác nhau của chứng cứ nhưng liên quan rất chặt chẽ với nhau tạo thành thể thống
nhất về nội dung cũng như hình thức, bảo đảm cho chứng cứ có giá trị chứng minh. Các thuộc tính đều có
ý nghĩa pháp lý như nhau, không được coi thường thuộc tính nào. Thiếu một trong các thuộc tính này
thông tin, tư liệu thu thập được không thể coi là chứng cứ.
II. Phân loại chứng cứ
1. Chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp (dựa vào mối liên hệ giữa chứng cứ và đối tượng
chứng minh)
a. Chứng cứ trực tiếp.
Là chứng cứ liên quan trực tiếp đến đối tượng chứng minh. Thông qua chứng cứ trực tiếp có thể xác
minh ngay được những vấn đề cần phải chứng minh. Bằng chứng cứ trực tiếp, cơ quan có thẩm quyền
THTT có thể chứng minh được ngay hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm, lỗi của người phạm tội,
động cơ, mục đích phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS, các yếu tố nhân thân và các tình tiết
khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án
Chứng cứ trực tiếp có thể được rút ra từ các nguồn khác nhau như lời khai của người bị bắt, bị tạm
giữ, bị can, bị cáo,...
b. Chứng cứ gián tiếp
Là chứng cứ không liên quan trực tiếp mà chỉ liên quan gián tiếp đến đối tượng chứng minh. Nếu
chỉ thông qua chứng cứ gián tiếp thì không thể xác định được những vấn đề cần phải chứng minh. Chỉ khi
kết hợp với các chứng cứ khác, chứng cứ gián tiếp mới có thể giúp xác định đối tượng chứng minh. Do
chỉ có mối liên hệ gián tiếp với đối tượng chứng minh nên chứng cứ gián tiếp có giá trị chứng minh không
cao. Chứng cứ gián tiếp chỉ có có giá trị chứng minh khi được thu thập, đánh giá trong tổng thể các chứng
cứ khác nhau của vụ án.

27
Chứng cứ gián tiếp có thể được rút ra từ các nguồn khác nhau như lời khai, tài liệu, vật chứng,...
=> Do tính chất mối liên hệ với đối tượng chứng minh khác nhau nên chứng cứ trực tiếp và chứng
cứ gián tiếp có giá trị chứng minh khác nhau. Tuy nhiên, mỗi loại chứng cứ đều có những vai trò quan
trọng trong quá trình chứng minh VAHS. Vì vậy, trong quá trình chứng minh, cơ quan có thẩm quyền
THTT phải thu thập, kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ, không được coi trọng hay xem nhẹ chứng cứ
nào. Trong điều tra nhiều vụ án, không phải lúc nào cũng tìm ra ngay chứng cứ trực tiếp mà phải thông
qua chứng cứ gián tiếp để tìm ra chứng cứ trực tiếp. Chứng cứ gián tiếp cũng có vai trò củng cố niềm tin
nội tâm của chủ thể chứng minh trog kiểm tra, đánh giá chứng cứ trực tiếp.
2. Chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội (dựa vào ý nghĩa pháp lý hình sự của chứng cứ đó)
a. Chứng cứ buộc tội
Chứng cứ buộc tội là chứng cứ xác định tội phạm được thực hiện, xác định người phạm tội, lỗi của
người phạm tội, các tình tiết đinh khung tăng nặng, và các tình tiết bất lợi cho người phạm tội khi giải
quyết vụ án
b. Chứng cứ gỡ tội
Là chứng cứ xác định không có hành vi phạm tội, xác định hành vi không CTTP, xác định tình tiết
loại trừ TNHS, các tình tiết định khung giảm nhẹ TNHS và các tình tiết có lợi cho người phạm tội.
=> Chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội có ý nghĩa pháp lý hoàn toàn khác nhau và độc lập với
nhau. Có thể có trường hợp vụ án chỉ có chứng cứ buộc tội hoặc chỉ có chứng cứ gỡ tội. Tuy nhiên, trong
thực tế các vụ án đều có cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội. Vì vậy, quá trình chứng minh cần phải
coi trọng cả hai loại chứng cứ, cần phải thu thập cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, đánh giá tổng
hợp tất cả những chứng cứ thu thập được. Như vậy, mới có đủ căn cứ đẻ giải quyết vụ án được chính xác,
khách quan, toàn diện, công bằng; đảm bảo điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội.
3. Chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép, thuật lại (căn cứ vào xuất xứ của thông tin, tài liệu thu
thâp được)
a. Chứng cứ gốc.
Là chứng cứ được thu thập trực tiếp từ nơi xuất xứ của nó mà không thông qua khâu trung gian nào.
Trường hợp người làm chứng trực tiếp biết được các tình tiết liên quan đến vụ án và tự mình khai báo với
cơ quan THTT thì nội dung lời khai đó là chứng cứ gốc.
Thông thường chứng cứ gốc là chứng cứ trực tiếp, nó chỉ thẳng vào đối tượng chứng minh. Tuy
nhiên, cũng không loại trừ trường hợp chứng cứ gốc là chứng cứ gián tiếp. VD: A thấy B đe doa giết C và
vài ngày sau thì C bị giết. A đã đến khai báo với CQĐT. Như vậy, nội dung lời khai của A là chứng cứ
gốc vì nó được thu thập trực tiếp từ A nhưng đó là chứng cứ gián tiếp vì nó không chỉ rõ liệu B có hành vi
giết C hay không.
b. Chứng cứ sao chép, thuật lại.
Là chứng cứ thu thập được không phải trực tiếp từ nơi xuất xứ của nó mà qua một hay nhiều khâu
trung gian. VD: A trông thấy B chém chết C và về nhà kể cho vợ nghe.Vợ A đã đến CQĐT khai báo. Như
vậy, nội dung lời khai của vợ A là chứng cứ thuât lại, vì vợ A không trực tiếp biết được sự việc.
Chứng cứ gốc hay chứng cứ sao chép, thuật lại để có giá trị chứng minh. Tuy nhiên, do được thu
thập thông qua các khâu trung gian nên tính chính xác, khách quan của chứng cứ thuật lại bị hạn chế hơn.
Vì vậy, trong quá trình chứng minh cần cố gắng thu thập chứng cứ gốc nhưng nếu chứng cứ gốc
chưa thỏa mãn giới hạn chứng minh thì việc thu thập chứng cứ sao chép lại, thuật lại cũng rất quan trọng.
III. Nguồn chứng cứ

28
Nguồn chứng cứ là những sự vật chứa đựng chứng cứ, tức chứa đựng các thông tin tồn tại trong thực
tế khách quan, liên quan đến vụ án và được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
1. Vật chứng.
1.1. Khái niệm. (Đ89 BLTTHS)
- Vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Đây là những vật dùng tác động lên đối tượng
tội phạm để thực hiện tội phạm như dao, súng, gậy,..
- Vật mang dấu vết tội phm như vết máu, dấu vân tay, dấu giày, dấu cạy phá
- Vật là đối tượng của tội phạm mà không qua việc tác động vào vật đó người phạm tội gây thiệt hại
cho quan hệ xã hội. VD: TS bị chiếm đoạt, giấy tờ giả, tiền giả, các loại ma túy..
- Tiền và vật khác không thuộc các loại trên nhưng có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm
tội
1.2. Thu thập vật chứng: (Đ105 BLTTHS)
1.3. Bảo quản vật chứng: (Đ90 BLTTHS)
1.4. Xử lý vật chứng: (Đ106 BLTTHS)
2. Lời khai, lời trình bày.
2.1. Lời khai người làm chứng (Đ91, Đ186 BLTTHS)
Khi thu thập, đánh giá lời khai người làm chứng cần chú ý các điểm:
- Trong vụ án có thể có một hoặc nhiều người làm chứng với những khả năng nhận thức, trạng thái
tâm sinh lý, mối quan hệ khác nhau. Lời khai của họ rất dễ tác động lẫn nhau, ảnh hưởng đến tính khách
quan của lời khai đó. Vì vậy, cần tiến hành cách ly người làm chứng khi lấy lời khai
- Cân nhắc đặc điểm tâm sinh lý, khả năng nhận thức, tiếp nhận thông tin của người làm chứng. Khi
lấy lời khai người làm chứng dưới 18 tuổi phải có mặt của người đại diện. Trường hợp nghi ngờ về khả
năng nhận thức và khai báo của người đó thì trưng cầu giám định để xác định tình trạng tâm thần của họ.
- Xuất xứ thông tin mà người làm chứng biết được: Do trực tiếp chứng kiến vụ án, trực tiếp biết
được tình tiết liên quan đến vụ án hay được nghe kể lại để từ đó có biện pháp thu thập thêm chứng cứ,
kiểm tra, đánh giá tính hợp lý. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết người làm chứng trình bày
nếu họ không nói rõ vì sao họ biết được tình tiết đó.
- Cân nhắc mối quan hệ của họ với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bi cáo, người bị hại, người làm
chứng khác. Tính chất mối quan hệ này ảnh hưởng đến tính chính xác, khách quan của các thông tin mà
người làm chứng cung cấp.
2.2. Lời khai của bị hại (Đ92 BLTTHS)
Khi thu thập, đánh giá lời khai của bị hại cần chú ý các điểm:
- Cân nhắc đặc điểm tâm sinh lý, khả năng nhận thức, tiếp nhận thông tin của bị hại. Trường hợp
nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo của người đó thì trưng cầu giám định để xác định tình trạng
tâm thần của họ. Do họ là người bị tội phạm gây thiệt hại nên có thể bị hại tiếp nhận thông tin trong trạng
thái tâm thần xúc động, mất bình tĩnh. Người bị gây thiệt hại về sức khỏe, về tinh thần cũng có thể bị ảnh
hưởng về thể chất hoặc tâm thần khi khai báo, làm cho tính chính xác, khách quan của lời khai bị ảnh
hưởng.
- Xuất xứ thông tin mà bị hại biết được. Không được ùng làm chứng những tính tiết bị hại trình bày
nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
- Cân nhắc mối quan hệ của họ với người bi bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thông thường bị hại khai
báo với cơ quan THTT theo hướng buộc tội đối với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc buộc tội

29
này biểu hiện ở 2 mặt: cung cấp chứng cứ buộc tội và không cung cấp chứng cứ gỡ tội. Vì vậy, khi lấy lời
khai bị hại cần làm thế nào cho bị hại khai báo toàn bộ tình tiết vụ án mà họ biết.
- Trong trường hợp bị hại là cơ quan, tổ chức thì lời khai do người đại diện theo pháp luạt hoặc
người được ủy quyền cung cấp.
2.3. Lời khai của nguyên đơn DS, bi đơn DS, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (Đ93,94
BLTTHS)
- Đặc điểm:
+ Phạm vi khai báo của họ chỉ là những tình tiết liên quan đến việc BTTH hoặc những tình tiết có
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ
+ Nguyên đơn DS, bị đơn DS, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể là cơ quan, tổ
chức, cá nhân. Trường hợp họ là cơ quan, tổ chức thì lời khai do người đại diện theo pháp luật hoặc người
được ủy quyền cung cấp.
- Cần chú ý các điểm:
+ Phạm vi trình bày của nguyên đơn DS, bị đơn DS, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ
án chỉ hạn chế về các tình tiết liên quan đến BTTH hoặc liên quan đến quyền, nghĩa vj liên quan. Nếu
những người này khai bào về các tình tiết khác của vụ án thì họ tham gia tố tụng với tư cách người làm
chứng.
+ Thẩm quyền của người đại diện cho cơ quan, tổ chức khi khai báo
+ Phương pháp thu thập chứng cứ từ nguyên đơn DS, bị đơn DS, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án còn có thể là yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu
2.4. Lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi
tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, người bị tạm giữ (Đ95 BLTTHS); người tố giác, tin báo
về tội phạm (Đ96 BLTTHS); người chứng kiến (Đ97 BLTTHS)
2.5. Lời khai của bị can, bị cáo (Đ98 BLTTHS)
- Đặc điểm:
+ Bị can, bị cáo khai báo về tất cả các tình tiết của vụ án
+ Ngoài việc cung cấp lời khai như là chứng cứ, việc khai báo của bị can, bị cáo là biện pháp để họ
thực hện quyền tự bào chữa. PL không truy cứu trách nhiệm đối với hành vi từ chối khai báo hoặc cố tình
khai báo gian dối của họ. Vì vậy, thông thường, bị can, bị cáo cung cấp chứng cứ gỡ tội và không khai báo
các chứng cứ buộc tội.
+ Khai báo là quyền chứ không phải nghĩa vụ của bị can, bị cáo
- Cần chú ý các điểm:
+ Cần động viên, khuyến khích bị can, bị cáo khai báo trung thực về các tình tiết vụ án. Cần giải
thích cho họ biết rằng thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ TNHS
+ Để đảm bảo tính khách quan của lời khai, BLTTHS quy định chỉ coi lời nhận tội của bị can, bị cáo
là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án; không được dùng lời nhận tội của bị can, bị
cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội. Vì vậy, lời khai của bị can, bị cáo phải được phân tích,
xem xét kỹ lưỡng, so sánh với các chứng cứ, tài liệu khác có trong vụ án.
+ Khi thu thập, kiểm tra, đánh giá lờ khai của bị can, bị cáo cần chú ý thái độ ăn năn, hối cải hay
không của họ để có biện pháp thu thập đầy đủ, kiểm tra đầy đủ, đánh giá chính xác, khách quan. Tuyệt đối
không được sử dụng biện pháp trái pháp luật để lấy lời khai như dùng bức cung, nhục hình,...
3. Dữ liệu điện tử (Đ99 BLTTHS)
4. Kết luận giám định, định giá tài sản

30
4.1 Kết luận giám định (Đ100 BLTTHS)
Những vấn đề cần chú ý khi đánh giá KLGĐ:
- KLGĐ là sự đánh giá khẳng định của người có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực khoa học kỹ
thuật. KLGĐ có giá trị chứng minh cao. Trong trường hợp khi so sánh với các chứng cứ khác, nếu cơ
quan có thẩm quyền THTT không đồng ý với KLGĐ thì phải nêu rõ lý do; trong trường hợp nội dung
KLGĐ chưa rõ, chưa đầy đủ thì phải tiến hành giám định bổ sung; trường hợp có nghi ngờ về kết quả
giám định hoặc có mâu thuẫn trong KLGĐ về cùng 1 vấn đề thì tiến hành giám định lại bằng người giám
định khác.
- Trong trường hợp việc giám định do một nhóm người tiến hành thì KLGĐ được thể hiện bằng văn
bản kết luận cung. Nếu có ý kiên khác nhau thì mỗi người giám định đều có kết luận riêng của mình trong
văn bản KLGĐ chung.
- Để đảm bảo cho việc đánh giá KLGĐ được chính xác, khách quan, pháp luật quy định cụ thể nội
dung bản KLGĐ. Để làm sáng tỏ hoặc bổ sung nội dung KLGĐ, cơ quan trưng cầu giám định, người yêu
cầu có quyền yêu cầu giải thích KLGĐ; hỏi thêm người giám định.
5.2. Kết luận định giá TS (Đ101 BLTTHS)
6. Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, THA (Đ102, Đ133 BLTTHS)
7. Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế (Đ103, Đ494 BLTTHS)
Câu hỏi: Phân biệt chứng cứ và nguồn chứng cứ

Tiêu chí Chứng cứ Nguồn chứng cứ


Cơ sở Đ86 BLTTHS Đ87 BLTTHS
pháp lý
Khái Là những gì có thật, được thu thập theo trình Là nguồn cung cấp những vật, tài liệu quan
niệm tự, thủ tục, được dùng làm căn cứ để xác trọng, từ đó rút ra các chứng cứ khi giải
định có hay không có hành vi phạm tội, quyết vụ án
người thực hiện hành vi phạm tội và những
tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải
quyết vụ án
Bảo đảm Đầy đủ Không đầy đủ
tính
khách
quan, tính
liên quan,
tính hợp
pháp
Nguồn Chứng cứ bắt buộc phải được rút ra từ một Nguồn được thu nhập, cung cấp theo trình
trong những nguồn chứng cứ tự pháp luật quy định
Giá trị Sử dụng vào việc chứng minh tội phạm Chưa thể sử dụng vào việc chứng minh
pháp lý
Phạm vi Hẹp hơn Rộng hơn

31
Câu hỏi: Tại sao không được sử dụng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để
buộc tội, kết tội họ
Lời khai của của bị can, bị cáo là sự trình bày bằng miệng của của bị can, bị cáo về những vấn đề
phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn
vụ án, được thực hiện trước các cơ quan tiến hành tố tụng, theo thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy
định. Lời khai của bị can, bị cáo là nguồn chứng cứ mang tính chất đặc biệt bởi: Bị can, bị cáo là người
biết rõ hơn ai hết mình cố thực hiện tội phạm hay không, biết rõ về động cơ, mục đích thực hiện tội phạm
và những tình tiết khác có liên quan. Bên cạnh đó, số phận của bị can, bị cáo phụ thuộc trực tiếp vào kết
quả giải quyết vụ án. Lời khai của bị can, bị cáo đề cập trực tiếp đến những vấn đề phải chứng minh trong
vụ án hình sự, cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, cho nên đây là
nguồn chứng cứ quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc làm sáng tỏ vụ án.
Tuy nhiên, có những vụ án, các bị can, bị cáo thông đồng khai ra những thông tin không chính xác
để đánh lừa hướng điều tra của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế có những tình tiết như bi can cị
cáo khai báo nhưng đã bị bóp méo theo ý chí chủ quan của họ hoặc không hề có tình tiết đó nhưng bị can
bị cáo đã cố tình xuyên tạc hay làm giả để vu khống hoặc có thể là bao che cho hành vi phạm tội. Để khắc
phục tình trạng này, cần phải coi chứng cứ về sự nhận tội của bị can, bị cáo cũng là một trong những
chứng cứ khác của vụ án và đều cần được kiểm tra, đánh giá như đối với các chứng cứ khác.
Sau khi đưa ra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, để có thể tự gỡ tội cho mình hoặc dùng làm
tình tiết giảm nhẹ, bị can có quyền trình bày ý kiến của mình về những vật đó, và nếu cần thiết có thể yêu
cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá về tính xác thực, đúng đắn của những vật
này. Thường thì những chứng cứ, tài liệu, đồ vật, này có ý nghĩa gỡ tội cho bị báo, chứng minh bị cáo
không phạm tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử khi nhận
được các chứng cứ, tài liệu, đồ vật do bị cáo cung cấp thì phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để
xác định các chứng cứ, tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không và giá trị của nó
trong việc xác định sự thật của vụ án.
Câu hỏi: Tại sao không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình
bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Trên thực tế, người làm chứng có thể trực tiếp chứng kiến vụ án, trực tiếp biết được những tình tiết
có liên quan đến vụ án mà không thông qua một khâu trung gian nào hoặc họ có thể được nghe người
khác kể lại. Thông qua việc xác định nguồn gốc của những lời khai này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đề ra
được biện pháp thu thập thêm chứng cứ, kiểm tra, đánh gia chứng cứ một cách hợp lý. Thông thường, lời
khai của người làm chứng có tính trung thực, khách quan cao, có ý nghĩa lớn trong việc xác định sự thật
của vụ án.
Tuy nhiên, nếu tất cả những tình tiết do người làm chứng trình bày đều được dùng làm chứng cứ mà
không cần xem xét đến việc người làm chứng biết được những tình tiết đó bằng cách nào thì lời khai thu
thập được không đảm bảo được đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ.
Lời khai của người làm chứng trong trường hợp này có thể sẽ không đảm bảo được tính xác thực
của chứng cứ. Bởi lẽ, có những trường hợp người làm chứng khai báo thông tin không đúng sự thật: có thể
trên thực tế có những tình tiết như người làm chứng khai báo nhưng đã bị bóp méo theo ý chí chủ quan
của người làm chứng hoặc không hề có tình tiết đó nhưng người làm chứng đã cố tình xuyên tạc hay làm
giả để vu khống hoặc có thể là bao che cho người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trên thực tế, do tác động
của nhiều yếu tố khác nhau như: khả năng tiếp nhận thông tin của người làm chứng, mối quan hệ giữa
người làm chứng với người phạm tội hoặc người bị hại,… mà lời khai của họ có thể dẫn đến việc giải

32
quyết vụ án thiếu tính chính xác, khách quan nếu họ không nói rõ được vì sao họ biết được những tình tiết
đó.
Do đó, khi lấy lời khai của người làm chứng, việc xác minh lý do họ biết được tình tiết đó có thể
được coi là một điều bắt buộc trong quá trình cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ
sự thật của vụ án.
Như vậy, khi l, khi lấy lời khai của người làm chứng, việc xác minh lý do họ biết được tình tiết đó
có thể được coi là một điều bắt buộc trong quá trình cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ để làm
sáng tỏ sự thật của vụ án.nh tiết
IV. Chứng minh trong TTHS
1. Khái niệm
Chứng minh là hoạt động tư duy logic và thực tiễn của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS để thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm giải
quyết vụ án.
* Quá trình chứng minh có các đặc điểm sau:
- Là hoạt động tư duy logic và thực tiễn của cơ quan, người có thẩm quyền THTT có quyền chứng
minh. Chứng minh trong TTHS là 1 dạng của quá trình nhận thức nên nó tuân thủ không chỉ các quy luật
khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nhận thức mà còn phải tuân thủ chặt chẽ các quy định
của luật TTHS. chứng minh trong TTHS chính là nhận thức về vụ án đã được thực hiện trong thực tế. Nó
bao gồm cả hoạt động tư duy logic và hoạt động thực tiễn, được điều chỉnh bằng các quy luật nhận thức
khách quan và các quy định về thủ tục của BLTTHS.
- Nội dung của quá trình chứng minh trong TTHS là thu thập, kiểm tra và đánh giá các thông tin, tư
liệu liên quan và có ý nghĩa đối với việc giải quyết VAHS (chứng cứ). Cả ba hoạt động này thống nhất,
liên quan chặt chẽ với nhau, bổ trợ cho nhau đảm bảo cho quá trình nhận thức về vụ án được nhanh chóng,
chính xác, khách quan.
- Đối tượng chứng minh liên quan chặt chẽ, phụ thuộc vào các quy định của BLHS. Nhiệm vụ
chứng minh trong TTHS chỉ bó gọn các tình tiết của vụ án cần làm sáng tỏ từ góc độ luật HS. Trong quá
trình chứng minh có sự tham gia của nhiều chủ thể chứng minh khác nhau. Từ góc độ chức năng tố tụng,
địa vị pháp lý trong vụ án khác nhau cho nên vai trò chứng minh của mỗi chủ thể cũng khác nhau.
- Mục đích của chứng minh là để giải quyết đúng đắn, khách quan VAHS, cho nên quá trình chứng
minh không kết thúc ngay vào thời điểm các tình tiết của vụ án được làm sáng tỏ mà nó còn được kiểm tra
lại thông qua việc tranh tụng, mối quan hệ chế ước của các chủ thể chứng minh và chỉ kết thúc khi kết quả
chứng minh được sử dụng để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định cuối cùng giải quyết vụ án.
2. Đối tượng chứng minh
Câu hỏi: Phân tích những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS
Đối tượng chứng minh là tất cả các tình tiết phải được xác định đảm bảo cho việc giải quyết đúng
đắn khách quan, toàn diện VAHS.
Việc làm rõ đối tượng chứng minh có ý nghĩa quan trọng trong xác định đúng đắn phạm vi, giới hạn
chứng minh. Xác định không đầy đủ đối tượng chứng minh sẽ dẫn đến tội phạm không được chứng minh
đầy đủ, các tình tiết của vụ án không được làm rõ hết, làm cho việc giải quyết vụ án thiếu toàn diện, thiếu
chính xác. Ngược lại, nếu xác định đối tượng chứng minh quá rộng thì sẽ làm cho việc chứng minh dàn
trải không cần thiết, kéo dài thời gian tố tụng dẫn đến giải quyết vụ án không kịp thời, thậm chí nhiều lúc
gây nên sự phiền rối trong quá trình chứng minh. Vì vậy, luật TTHS quy định cụ thể đối tượng chứng

33
minh trong VAHS. Đ85 BLTTHS 2015 quy định khi điều tra, truy tố và xét xử VAHS, cq có thẩm quyền
THTT phải chứng minh:
- Vấn đề đầu tiên khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án phải chứng minh là có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác
của hành vi phạm tội. Trong từng vụ án hình sự cần phải chứng minh một cách khẳng định rằng hành vi bị
truy tố về mặt hình sự đã xảy ra trong thực tế. Việc chứng minh đó thể hiện ở việc làm sáng tỏ một cách
đầy đủ và toàn diện tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, có ý nghĩa đối với việc định tội
danh đúng hành vi và suy cho cùng có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Đó là
những dấu hiệu thuộc khách thể và mặt khách quan của tội phạm.
- Tiếp theo vấn đề cần phải chứng minh là: ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không
có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội. Chứng
minh ai là người thực hiện hành vi phạm tội, tức là xác định chủ thể của tội phạm. Tiếp đến xác định
người đó có lỗi hay không. Nếu có lỗi thì lỗi cố ý hay vô ý. Mục đích và động cơ phạm tội cũng cần được
chứng minh. Khái quát lại những dấu hiệu cơ bản thuộc chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm phải được
làm sáng tỏ.
- Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo là những vấn đề được
chứng minh khi điều tra, truy tổ và xét xử. Đó là các tình tiết được quy định ở Điều 51 và Điều 52 Bộ luật
Hình sự năm 2015 và các đặc điểm đặc trưng cho nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong
việc quyết định hình phạt đổi với bị cáo.
- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra là một trong những vấn đề phải được
chứng minh trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành
vi phạm tội gây ra có ý nghĩa quan ưọng đôi với việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo và có ý nghĩa đối với việc định tội danh, có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định mức độ bồi
thường thiệt hại.
- Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình
sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt là những vấn đề tuy không thuộc bản chất của vụ án, nhưng
có ảnh hưởng trực tiếp đến trách nhiệm hình sự và hình phạt. Do đó, cần được cơ quan có thẩm quyền tiến
hành
- Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ TNHS, miễn TNHS, miễn hình phạt.
Ngoài ra, Đ416 BLTTHS 2015 còn quy định khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội dưới 18
tuổi, cần phải xác định rõ:
- Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người
dưới 18t;
- Điều kiện sinh sống và giáo dục;
- Có hay không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục;
- Nguyên nhân, hoàn cảnh, điều kiện phạm tội
Trên cơ sở các quy định chung, CQĐT, VKS, TA xác định đối tượng chứng minh cụ thể để giải
quyết nhiệm vụ trong từng vụ án. VD: một trong những đối tượng chứng minh trong vụ án chiếm đoạt tài
sản là thủ đoạn phạm tội, bởi vì, đó là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt các tội chiến đoạt với nhau: lén
lút chiếm đoạt là phạm tội trộm cắp TS; dùng thủ đoạn gian dối là phạm tội lừa đảo CĐTS; đe dọa sẽ dùng
vũ lực là phạm tội cưỡng đoạt tài sản.
3. Phân loại đối tượng chứng minh.

34
- nhóm các tình tiết có ý nghĩa đinh tội bao gồm: các tình tiết thuộc yếu tố cấu thành cơ bản tội
phạm (khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm), các tình tiết định khung tăng
nặng, định khung giảm nhẹ.
- nhóm các tình tiết có ý nghĩa quyết định trách nhiệm hình sự và hình phạt, bao gồm có các tình tiết
là căn cứ miễn TNHS, miễn hình phạt; các tình tiết xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm,
người phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, các tình tiết thuộc nhân thân người phạm tội; các
tình tiết về mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên phạm tội, về điều kiện sống
và làm việc, về nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
- nhóm các tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết các vấn đề khác của vụ án như các tình tiết có
ý nghĩa áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục khiển trách, hòa giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã
phường, thị trấn; biện pháp tư pháp hình sự đưa vào trường giáo dưỡng; giải quyết việc tịch thu, bồi
dưỡng, xử lý vật chứng.
4. Quá trình chứng minh trong TTHS.
Quá trình chứng minh gồm các giai đoạn thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng
cứ.
a. Thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là hoạt động của chủ thể chứng minh phát hiện, thu giữ, bảo quản các thông tin,
tư liệu liên quan đến vụ án theo các trình tự, thủ tục mà pháp luật TTHS quy định.
Để đảm bảo tính chính xác, khách quan của chứng cứ, việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện
theo các trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định. Theo quy định của Đ88 BLTTHS 2015 thì hoạt động thu
thập chứng cứ bao gồm:
- Hình thức chủ động: cơ quan, người có thẩm quyền THTT chủ động tiến hành các hoạt động thu
thập chứng cứ là triệu tập người biết về vụ án để nghe họ trình bày, trưng cầu giám định, tiến hành khám
xét, khám nghiệm, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các hoạt
động điều tra khác.
Người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người
biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
- Hình thức thụ động: Người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân tự mình đưa ra chứng cứ,
đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử và trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Người có quyền thu thập
chứng cứ thu thập những chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử và thông tin do người tham gia tố tụng,
cơ quan, tổ chức, cá nhân tự mình đưa ra.
Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên của quá trình chứng minh. Để đảm bảo cho chứng cứ thỏa
mãn tính khách quan, liên quan và hợp pháp, việc thu thập chứng cứ phải tuân thủ các nguyên tắc nhất
định là:
- Bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng có thể đưa ra các tài liệu đồ vật và trình bày các vấn đề
liên quan đến vụ án.
- Chỉ những người có thẩm quyền do pháp luật TTHS quy định mới có quyền thu thâp chứng cứ. Đó
là người có thẩm quyển của cơ quan THTT hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt dộng
điều tra, người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
- Việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS. Chỉ
được áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ được quy định tại Đ88 BLTTHS 2015; khi thu thập chứng
cứ cụ thể phải tuân theo các trình tự, thủ tục quy định đối với các hoạt động tố tụng tương ứng.

35
b. Kiểm tra chứng cứ.
Kiểm tra chứng cứ là giai đoạn tiếp theo của quá trình chứng minh. Việc kiểm tra chứng cứ nhằm
xác định lại các thông tin, tài liệu thu thập được thỏa mãn các thuộc tín của nó là tính khách quan, tính liên
quan và tính hợp pháp hay không? Vì vậy, tất cả chứng cứ thu thập được trong VAHS phải được kiểm tra
một cách khách quan, toàn diện và kỹ lưỡng. Chỉ các tài liệu thỏa mãn ba thuộc tính: tính khách quan, tính
liên quan, tính hợp pháp thì mới được sử dụng làm chứng cứ để chứng minh.
Chứng cứ được kiểm tra bằng các phương pháp khác nhau. Các phương pháp kiểm tra chứng cứ phổ
biến được áp dụng trong thực tiễn là:
- Phân tích từng chứng cứ từ góc độ tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp để khẳng định
thông tin, tài liệu thu thập được có được sử dụng làm chứng cứ không
- So sánh, đối chiếu các chứng cứ với nhau để xác định các thuộc tính của chứng cứ này hay chứng
cứ khác. Đặc biệt sử dụng phương pháp này để kiểm tra tính khách quan của chứng cứ. Thông qua so sánh
các chứng cứ với nhau, có thể tìm ra mâu thuẫn giữa các chứng cứ, cũng như tìm ra nguyên nhân của mâu
thuẫn đó.
- Tiến hành hoạt động thu thập thêm các chứng cứ mới cũng như loại bỏ các chứng cứ đã thu thập
được. Để kiểm tra tính khách quan trong hỏi cung bị can, CQĐT hỏi thêm người làm chứng; thông qua
chứng cứ sao chép, thuật lại, CQĐT thu thập chứng cứ gốc.
- Kiểm tra chéo những chứng cứ thu thập được; giữa các chứng cứ do CQĐT, VKS thu thập với
chứng cứ do người bào chữa thu thập
Đặc điểm của kiểm tra chứng cứ được xác định bằng nhiêm vụ của từng giai đoạn tố tụng. Để kết
thúc điều tra, CQĐT phải kiểm tra tất cả chứng cứ thu thập được; để quyết định truy tố, VKS kiểm tra lạ
chứng cứ thu thập trong giai đoạn điều tra; tại phiên tòa, TA kiểm tra lại chứng cứ thu thập được trong các
giai đoạn truy tố. TA chỉ ra bản án quyết định trên cơ sở các chứng cứ đã được thẩm tra, xác minh tại
phiên tòa.
c. Đánh giá chứng cứ.
Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic của ĐTV, KSV, thẩm phán, hội thẩm, người bào chữa
và những người khác có thẩm quyền trên cơ sở các quy dịnh của pháp luật nhằm xác định tính khách
quan, tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ và giá trị chứng minh của các chứng cứ đã thu thập
được.
Đánh giá chứng cứ có mối quan hệ chặt chẽ với việc thu thập và kiểm tra chứng cứ. Chứng cứ chỉ
được đánh giá sau khi được thu thập; việc đánh giá chứng cứ là cơ sở để thu thập thêm chứng cứ mới.
Đánh giá chứng cứ là biện pháp để kiểm tra chứng cứ; đánh giá tổng hợp các chứng cứ thu thập được cũng
chính là biện pháp so sánh, đối chiếu trong quá trình kiểm tra chứng cứ.
Chủ thể đánh giá chứng cứ được phan thành hai nhóm trên cơ sở phá luật quy định việc đánh giá
chứng cứ là quyền hay nghĩa vụ của chủ thể đó:
- Thứ nhất, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Việc đánh giá chứng cứ
được thực hiện trong các giai đoạn tố tụng khác nhau phụ thuộc vào các chức năng, nhiệm vu của mỗi cơ
quan THTT. Việc đánh giá chứng cứ ở mỗi giai đoạn là độc lập nhưng liên quan chặt chẽ với nhau. Việc
đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ chứng cứ ở giai đoạn trước là điều kiện cho việc đánh giá chứng
cứ ở giai đoạn sau; việc đanh giá chứng cứ ở giai đoạn sau là sự kiểm tra kết quả chứng minh của giai
đoạn trước. Kết quả đánh giá chứng cứ có liên quan đến quyền hạn của cơ quan, người có thẩm quyền
THTT trong việc ra các quyết định tố tụng, giải quyết thực chất vụ án. Cho nên pháp luật đòi hỏi những
chủ thể này tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc đánh giá chứng cứ.

36
- Những người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc giải quyết vụ án có
quyền chứng minh và đánh giá chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. BLTTHS quy định
các thủ tục tố tụng khác nhau để người tham gia tố tụng sử dụng đánh giá chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình như: quyền đưa ra các yêu cầu, quyền đưa ra chứng cứ, triệu tập thêm người
làm chứng, tham gia tranh luận tại phiên tòa; quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Đánh giá chứng cứ là
quyền của những người tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ nên pháp luật
không đòi hỏi các điều kiện, nguyên tắc đánh giá chứng cứ đối với họ.
* Ý nghĩa của việc đánh giá chứng cứ: có ý nghĩa quan trọng trong việc chứng minh tội phạm và
giải quyết VAHS.
- Đánh giá chứng cứ có ý nghĩa ngay đối với quá trình chứng minh và là cơ sở quan trọng cho việc
thu thâp, kiểm tra chứng cứ. Đánh giá chứng cứ giúp cho việc xác định giới hạn chứng minh, cho việc đưa
ra và giải quyết các giả thiết trong quá trình chứng minh.
- Đánh giá chứng cứ có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
- Đánh giá chứng cứ là cơ sở quan trọng để cơ quan có thẩm quyền THTT ra các quyết định tố tụng
hoặc tiến hành các hoạt động tố tụng.
- Đánh giá chứng cứ là căn cứ để đi đến các kết luận và ra các quyết định giải quyết thực chất vụ án.
* Nguyên tắc đánh giá chứng cứ:
- Đánh giá chứng cứ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc hiến
định về sự độc lập xét xử của TA. Không ai được can thiệp cũng như xác định trước giá trị chứng minh
của bất kỳ chứng cứ nào khi ĐTV, KST, thẩm phán, hội thẩm... thực hiện việc đánh giá chứng cứ và có
các kết luận về vụ án. ĐTV, KSV, thẩm phán, hội thẩm... thực hiện việc đánh giá chứng cứ theo niềm tin
nội tâm của mình.
- Đánh giá chứng cứ phải trên cơ sở các quy định của pháp luật HS và TTHS. Chỉ trên cơ sở các quy
định của BLHS về tội pham và CTTP, các quy định về TNHS và hình phạt mới có thể xác định đúng đối
tượng chứng minh và giới hạn chứng minh; chỉ trên cơ sở các quy định của BLTTHS chứng cứ mới được
đảm bảo tính xác thực, tình hợp pháp và tính liên quan.
- Chứng cứ phải được đánh giá trên cơ sở ý thức pháp luật với tinh thần trách nhiệm cao.
- Chứng cứ phải được đánh giá một cách tổng hợp, toàn diện, đầy đủ mọi chứng cứ đã thu thập
được. Người đánh giá chứng cứ phải xem xét, đánh giá toàn bộ chứng cứ với đầy đủ cá gí trị chứng minh,
không xem thường hoặc quá coi trọng chứng cứ nào; xem xét cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, cả
chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp, cả chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép, thuật lại.
- Trước hết chứng cứ được đánh giá riêng lẻ để xác đinh tính khách quan, tính lien quan và tính hợp
pháp của nó. Khi đánh giá từng chứng cứ, người đánh giá phải xác định chứng cứ đó có xác thực hay
không, có liên quan đến đối tượng chứng minh hay sự kiện chứng minh không và chứng cứ đó có dược
xác định bằng nguồn mà pháp luật quy định, được thu thập theo trình tự, thủ tục luật định hay không.
- Đánh giá tổng hợp chứng cứ sau khi đã đánh giá xong từng chứng cứ. Việc đánh giá tổng hợp
chứng cứ là để nhằm xác định đúng đắn giới hạn chứng minh và kết luận về các vấn đề của vụ án.
Đánh giá chứng cứ và đánh giá tổng hợp chứng cứ của vụ án có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Đánh giá từng chứng cứ là điều kiện để đánh giá đúng tổng hợp từng chứng cứ của vụ án. Nếu từng chứng
cứ không được đánh giá chính xác, khách quan thì không thể đảm bảo cho việc xác định sự thật khách
quan cả vụ án. Khi đánh giá tổng hợp các chứng cứ, các chứng cứ thu thập được có thể phù hợp với nhau,
cũng có thể mâu thuẫn với nhau. Trong trường hợp này, đánh giá tổng hợp chứng cứ là nhằm lí giải cho sự

37
khác nhau, sự mâu thuẫn đó để đi đến nhận thức thống nhất, kết luận về sư thật suy nhất đúng đắn khách
quan về vụ án làm cơ sở cho việc ra bản án, các quyết định giải quyết vụ án.

38
CHƯƠNG VI. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KHÁC.
I. BIỆI PHÁP NGĂN CHẶN
1. Khái niệm:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, ngời
bị truy nã hoặc đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của ho, ngăn
ngữa ho tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc
điều tra, truy tố xét xử và THAHS.
2. Ý nghĩa:
- Những biện pháp ngăn chặn thể hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việc đấu tranh, phòng ngừa
tội phạm.
Tội phạm về bản chất là hành vi nguy hiểm cho XH, gây ra hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những
quan hệ xã hội được LHS bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định
của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế chính trị và xã hội, tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm
và tài sản của công dân. Do đó, nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn chặn kịp thơi,
xử lý nghêm minh, loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất
và phải được tiến hành một cách kiên quyết và triệt để.
- Những biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền THTT được
thuận lợi; góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thông thường, người phạm tội ý thức rất rõ về hậu quả pháp lý mà mình phải chịu do việc thực hiện
tội phạm nên họ tìm đủ mọi cách để vừa có thể nhanh chóng đạt được mục đích phạm tội, vừa có thể che
giấu, trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Do đó, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là cần thiết để
ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả ngay từ đầu các hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh gây
khó khăn cho việc xử lý người phạm tội. Các biện pháp ngăn chặn cũng góp phần hạn chế đến mức thấp
nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án.
- Những biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với đối tượng nhất định trong những trường hợp
nhất định khi có căn cứ pháp luật quy định nên đã đảm bảo dân chủ, tôn trọng quyền con người, quyền
công dân được hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và tự do
đi lại.
Quy định và áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong TTHS không chỉ đơn thuần là tạo điều kiện
thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiến tốt nhiệm vụ theo chức năng của mình mà
còn nhằm đảm bảo sự tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được
quy định trong hiến pháp. Điều này thể hiện ở chỗ việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp ngăn chặn
nào đó trong đấu tranh phòng chống tội phạm không xuất phát từ ý muốn chủ quan của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền mà là từ các quy định của pháp luật, xuất phát từ pháp luật và đáp ứng sự đòi hỏi của
thực tiễn. Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định của pháp luật trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn đều phải bi phát hiện và khắc phục kịp thời. Mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng biện pháp
ngăn chặn gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân đều phải
bị xử lý nghiêm minh.
3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn.
3.1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho những quan hệ xã
hội được LHS bảo vệ. Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để xảy ra tội phạm là việc làm cần thiết và
cấp bách.

39
Vì vậy, BLTTHS quy định việc kịp thời ngăn chặn tội phạm là một trong các căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn. Căn cứ này thường được áp dụng để giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc bắt người
phạm tội quả tang trong trường hợp người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội
phạm thì bị phát hiện.
3.2. Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
Việc bị can, bị cáo có mặt theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS, TA cũng như việc quản lý giám sát
được bị can, bị cáo cũng như hành vi của họ sẽ tạo điều kiện thuận lơi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử. Nếu bị can, bị cáo trốn tranh hoặc có những hành vi cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì việc
xác định sự thật khách quan của vụ án sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, BLTTHS quy định khi có căn cứ
chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử là một trong các căn cứ áp
dụng biện pháp ngăn chặn.
Căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử được thể hện
qua việc họ đang bỏ trốn, chuẩn bị trốn, làm giả chứng cứ, tiêu hủy chứng cứ, có sự câu kết, bàn bạc giữa
những người đồng phạm nhằm trốn tránh pháp luật, mua chuộc, đe dọa, khống chế người làm chứng,...
3.3. Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội.
Đối với người bị bắt, bi can, bị cáo có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì việc áp dụng biện pháp cách lý
họ khỏi xã hội, để họ không thể tiếp tục phạm tội là rất cần thiết.
Khi áp dụng căn cứ này cần phân biệt với căn cứ “để kịp thời ngăn chặn tội phạm”. Cả hai căn cứ
đều nhằm ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, điểm khác nhau ở chỗ: “để kịp thời ngăn chặn
tội phạm” được áp dụng với những người chưa bị khởi tố về HS, còn để ngăn chặn việc “người bị buộc tôi
sẽ tiếp tục phạm tội” thường được áp dụng với các bị can, bị cáo (những người đã bị khởi tố về HS hoặc
dã bị TA quyết định đưa ra xét xử) khi có căn cứ cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội.
Những căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội có thể xác định trên các phương diện
sau:
- Về nhân thân: người bị bắt, bị can, bị cáo là những người có nhân thân xấu (bị can, bị cáo là những
đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn; là những người có nhiều tiền án, tiền sự,...)
- Về hành vi: người bị buộc tội đã có những biểu hiên sẽ tiếp tục phạm tội thể hiện như de dọa trả
thù người tố giác, đe dọa trả thù người bị hại, người làm chứng và đã có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện
hoặc các điều kiện cần thiết chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm.
3.4. Để đảm bảo thi hành án.
Thi hành án là giai đoạn của TTHS nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của TA. Thi hành các bản án hoặc quyết định của TA có liên quan trực tiếp đến người bị kết án. Sự có mặt
của người bị kết án khi bản án được thi hành là rất cần thiết, đặc biệt là đối với người bị TA quyết định áp
dụng hình phạt tù. Nếu người bị kết án trốn tránh hoặc có hành vi gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm
quyền trong việc THA thì việc THA sẽ không đạt kết quả. TA thường áp dụng căn cứ này trong những
trường hợp sau:
Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng TA cấp sơ thẩm kết tội, tuyên hình phạt tù mà có căn cứ
cho rằng nếu không hạn chế tự do của bị cáo thì bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội, HĐXX có thể
quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay tại phiên tòa để đảm bảo THA.
Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng TA cấp PT tuyên hình phạt tù thì HĐXX ra quyết định bắt
tạm giam ngay để đảm bảo THA, trừ trường hợp bị cáo có lý do để hoãn thi hành án phạt tù.
II. Những biện pháp ngăn chặn cụ thể
1. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp

40
TH1: điểm a K1Đ110
Việc giữ người trong trường hợp này cần đảm bảo 2 điều kiện:
- Có căn cứ khẳng định một người hoặc nhiều người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm: căn cứ nay
có thể do CQĐT theo dõi đối tượng tình nghi hoặc qua nguồn kiểm tra, xác minh nguồn tin từ quần chúng
nhân dân cung cấp khẳng định người đó đang tìm kiếm, sửa soạn, chuẩn bi công cụ phạm tội hoặc lôi kéo
người khác cùng phạm tội.
- Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm nghiêm trọng hoặc ĐBNT: muốn giữ khẩn cấp
người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm thì phải xác định tội phạm họ đang chuẩn bị thực hiện là tội phạm
được quy định tại K2Đ14 BLHS bao gồm: 14 tội thuộc chương các tội xâm phạm ANQG, 2 tội thuộc
chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người, 2 tội thuộc chương
các tội xâm phạm sở hữu, 1 tội thuộc chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, 6 tội thuộc chương
các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng.
TH2: điểm b K1Đ110
- Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là
người đã thực hiện tội phạm: Người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm có thể là người cùng thực hiện tội
phạm hoặc bị hại hay người khác tận mắt trông thấy người phạm tội, hành vi phạm tội và trực tiếp xác
nhận với cơ quan có thẩm quyền đúng là người đã thực hiện tội phạm. Việc xác nhận phải mang tính chất
khẳng định người đã thực hiện tội phạm. Nếu việc xác nhận không phải do người trực tiếp chứng kiến
hành vi phạm tội thì không coi là điều kiện để giữ khẩn cấp.
- Xét thấy cần ngăn chặn ngay viêc người đó trốn: Những căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn
thường là đang có hành động bỏ trốn, đang chuẩn bị trốn, không có nơi cư trú rõ ràng, có nơi cư trú nhưng
ở quá xa, chưa xác định được nhân thân của người đó.
TH3: điểm c K1Đ110
- Khi thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, nơi làm việc hoặc phương tiện của người bị
nghi thực hiện tội phạm: những dấu vết tội phạm được tìm thấy có thể là những vật chứng như công cụ,
phương tiện phạm tội, đối tượng của tội phạm, cũng như dấu vết của tội phạm trên thân thể người bị tình
nghi thực hiện tội phạm.
- Cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ: Khi có căn cứ cho
rằng người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì cq có thẩm quyền ra lệnh giữ khẩn
cấp. Tuy nhiên, nếu không có căn cứ xác định người bị nghi thực hiện tội phạm trốn nhưng lại có căn cứ
cho rằng người đó đang tiêu hủy chứng cứ như đang xóa dấu vết tội phạm, cất giấu công cụ phương tiện
phạm tội, đang tẩu tán tài sản,...nhằm gây khó khăn cho việc điều tra thì những hành vi đó được coi là
điều kiện để giữ khẩn cấp.
2. Bắt người
2.1. Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (Đ110 BLTTHS)
- Đối tượng áp dụng: Những người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tuy nhiên không phải tất cả
những người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đều bị bắt, chỉ thi hành lệnh bắt trong trường hợp cần thiết.
- Thẩm quyền
- Thủ tục
2.2. Bắt người phạm tội quả tang (Đ111 BLTTHS)
- Đối tượng áp dụng: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc ngay sau khi thực hiện tội
phạm thì bị phát hi hoặc người đang bị đuổi bắt.

41
TH1: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Người đang thực hiện tội phạm là người đang
thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị phát
hiện.
TH2: Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đây là trường hợp vừa thực hiện tội phạm
xong, người phạm tội chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội hoặc đang xóa
dấu vết của tội phạm trước khi chạy trôn thì bị phát hiện.
TH3: Đang bị đuổi bắt. Đây là trường hợp người phạm tội đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau
khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trong trường hợp này, việc đuổi
bắt phải liền ngay sau khi người đó chạy trốn thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội.
- Thẩm quyền: bất cứ người nào
- Thủ tục: việc bắt người phạm tội quả tang không cần lệnh của cơ quan và người có thẩm quyền.
Mọi người đều có quyền bắt và tước vũ khí, hung khí của người phạm tội....
2.3. Bắt người đang bị truy nã (Đ112 BLTTHS)
- Đối tượng áp dụng: Người thực hiện hành vi phạm tội đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ,
tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù mà bỏ trốn.
- Thẩm quyền: bất cứ người nào
- Thủ tục: việc bắt người phạm tội quả tang không cần lệnh của cơ quan và người có thẩm quyền.
Mọi người đều có quyền bắt và tước vũ khí, hung khí của người phạm tội.....
2.4. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Đ113 BLTTHS)
- Đối tượng áp dụng: bị can, bị cáo
- Điều kiện áp dụng: BLTTHS không quy định cụ thể bị can, bị cáo bị bắt trong trường hợp nào
nhưng không phải mọi bị can, bị cáo đều bị bắt tạm giam mà chỉ bị bắt tạm giam khi xét thấy cần thiết.
Thông thường, các cơ quan THTT căn cứ vào tính chất mức độ của tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, các đặc điểm nhân thân, và thái độ chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo trong quá trình giải
quyết vụ án. Các bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp gây nguy hại lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội
thì việc bắt để tạm giam là cần thiết. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo cho việc bắt để tạm giam là đúng đắn và
thật sự cần thiết, cần xem xét các điều kiện nói trên trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có trường hợp
mặc dù bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố hoăc bị tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử về tội ít
nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng nhưng nhân thân của người đó xấu cũng như có căn cứ khẳng
dịnh bị can bị cáo sẽ bỏ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì việc quyết
định bắt để tạm giam đối với họ là cần thiết.
- Thầm quyền: K1Đ113 BLTTHS
- Thủ tục: K2,3 Đ113 BLTTHS
* Những việc cần làm ngay sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận
người bị bắt, bị giữ (Đ114, 116 BLTTHS)
3. Tạm giữ (Đ117 BLTTHS)
- Mục đích tạm giữ:
+ Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang,
người phạm tội tự thú, đầu thú: Ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa hành vi trốn tránh pháp luật, cản
trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho CQĐT thu thập chứng cứ, tài liệu, bước đầu
xác định tính chất hành vi của người bị tạm giữ

42
+ Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã: để có thời gian cho cơ quan bắt hoặc nhận người bị bắt
thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã biết về việc đã bắt được đối tượng truy nã và có thời gian cho cơ
quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt.
- Đối tượng áp dụng: Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp
phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt theo lệnh truy nã
- Thẩm quyền: K2Đ117 BLTTHS
- Thủ tục:
+ Việc tạm giữ phải có quyết định bằng văn bản của người có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
+ K2Đ117
+ K3Đ117
+ K4Đ117
VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ trong những trường hợp sau:
+ Người bị tạm giữ không phải là người bị tạm giữ trong trường hợp khẩm cấp, người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú;
+ Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa
đến mức phải truy cứu TNHS
+ Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít
nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở việc điều
tra
- Thời hạn tạm giữ: Đ118 BLTTHS
4. Tạm giam (Đ119 BLTTHS)
- Mục đích:
+Ngăn chặn, không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn
cho việc giải quyết vụ án
+ Tạm giam bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho CQĐT có thể tiến hành hoạt
động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất
thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lý giám sát bị can được chặt chẽ
+ Việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc THA sau khi bản an có hiệu lực
pháp luật được thuận lợi.
- Đối tượng áp dụng: K1,2,3,4Đ119 BLTTHS
- Thẩm quyền: K5Đ119 BLTTHS
- Thủ tục: Việc tạm giam phải có lệnh, quyết định bằng văn bản của người có thẩm quyền
(K5,6Đ119 BLTTHS)
5. Bảo lĩnh (Đ121 BLTTHS)
- Đối tượng áp dụng: bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng,
thái độ khai báo thành khẩn hoặc bị can, bị cáo ốm đau, bệnh tật có cá nhân, tổ chức đứng ra nhận bảo
lĩnh.
- Thẩm quyền: K1Đ113 BLTTHS
- Thủ tục: K2,3 Đ121
- Thời hạn: K5Đ121
6. Đặt tiền để đảm bảo (Đ122 BLTTHS)

43
- Đối tượng áp dụng: bị can, bị cáo phạm tội có tính chất ít nghiêm trọng, nhân thân tốt, có khả năng
về tài sản và có đủ cơ sở để cho rằng họ không bỏ trốn, hoặc cản trở việc điều tra; người thân thích của họ
cũng có thể đặt tiền để đảm bảo cho bị can, bị cáo.
- Thẩm quyền: K3Đ122
- Thủ tục: K2,5 Đ122
- Thời hạn: K4Đ122
7. Cấm đi khỏi nơi cư trú (Đ123 BLTTHS)
- Đối tượng áp dụng: Bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng, thái độ khai báo thành khẩn và có
đủ cơ sở ch rằng họ sẽ không bỏ trốn, không gây cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm
tội.
- Thẩm quyền: K3Đ123
- Thủ tục: K2,5,6Đ123
- Thời hạn: K4Đ123
8. Tạm hoãn xuất cảnh (Đ124 BLTTHS)
- Đối tượng áp dụng:
+ Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố: Mặc dù đây là những người chưa bị khởi tố HS
nhưng là người bị người khác tố giác về hành vi phạm tội hoặc hành vi có dâu hiệu tội phạm hoăc bị cơ
quan, tổ chức kiến nghị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về HS mà qua việc kiểm tra, xác minh sự việc bị
tố giác, kiến nghị khởi tố đó có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần
ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
+ Bị can, bị cáo: Đây là đối tượng đã bị khởi tố về HS nhưng được tại ngoại để điều tra, truy tố, xét
xử hoặc chờ THA và họ đang có hành vi chuẩn bị xuất cảnh ra nước ngoài nhằm trốn tránh việc xử lý
hành vi phạm tội hoặc trốn tránh việc THA.
- Thẩm quyền: K2Đ124
- Thủ tục: Việc tạm hoãn xuất cảnh phải có lệnh, quyết định bằng văn bản của cơ quan có thẩm
quyền và phải được thông báo cho VKS cùng cấp trước khi thi hành.
- Thời hạn: K3Đ124
9. Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn (Đ125 BLTTHS)
9.1 Hủy bỏ
- Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn là việc CQĐT, VKS, TA quyết định không tiếp tục áp dụng biện pháp
ngăn chặn đối với người đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
- CQĐT, VKS, TA hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong các trường hợp:
+ Không khởi tố vụ án hoăc vụ án bị đình chỉ và các trường hợp khác quy định tại K1Đ125: Trong
các giai đoạn tố tụng như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nếu có những căn cứ không cho phép tiếp tục
tiến hành tố tụng mà BLTTHS đã quy định, vụ án sẽ không được khởi tố hoặc phải bị đình chỉ hoặc bị cáo
được tòa án tuyên không có tội, miễn TNHS hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo
hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ. VD: trong gia đoạn điều tra, khi có một trong
những căn cứ quy định tại K2Đ155 (trường hợp người yêu cầu khởi tó rút yêu cầu) và Đ157 (những căn
cứ không khởi tố VAHS) hoặc đã hết thời hạn điều tra mà vẫn không chứng minh được bị can đã thực
hiện tội phạm thì vụ án được đình chỉ. Trong trường hợp này, mọi biện pháp ngăn chặn đã áp dụng đối với
bị can đều phải được hủy bỏ.
+ Khi thấy không còn cần thiết (K2Đ125): Trong khi điều tra, truy tố, xét xử nế thấy không cần thiết
phải áp dnjg biện pháp ngăn chặn nữa thì CQĐT, VKS, TA hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang được áp

44
dụng. VD: Trong quá trình điều tra, bị can tạm giam có thái độ thành khẩn khai báo, chấp hành tốt các quy
định về chế độ tạm giam, bị can có nơi cứ trú rõ ràng xét thấy không còn biểu hiện trốn hoặc gây khó khăn
cho việc giải quyết vụ án và cũng không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn nữa.
9.2. Thay thế biện pháp ngăn chặn.
- Thay thế biện pháp ngăn chặn là việc CQĐT, VKS, TA áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay
cho biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng.
- Khi thay thế biện pháp ngăn chặn, người bị thay thế biện pháp ngăn chặn có thể bị đặt vào tình thế
bất lợi hay có lợi hơn tùy thuộc vào việc họ sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nào thay thế cho biện pháp
đang được áp dụng. Khi quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn phải căn cứ vào yêu cầu của việc giải
quyết vụ án, thái độ chấp hành pháp luật của người đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn để thay thế biện
pháp ngăn chặn đang được áp dụng bằng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn.
- Việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn do CQĐT, VKS, TA quyết định tùy theo từng giai đoạn tố tụng.
Đối với những biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn thì việc hủy bỏ hoặc thay thế phải do chính VKS
quyết định.
III. Biện pháp cưỡng chế khác
1. Khái niệm và ý nghĩa.
- Khái niệm: Biện pháp cưỡng chế khác là cách thức sử dụng quyền lực nhà nước tác động vào một
đối tượng tham gia tố tụng nhất định nhằm bảo đảm điều kiện thuận lợi cho việc giải uyết VAHS
- Ý nghĩa: có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các VAHS
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án
+ Bảo đảm pháp chế, giáo dục công dân ý thức pháp luật, tinh thần đấu tranh phòng chống tội phạm
- Biện pháp cưỡng chế được áp dụng theo những căn cứ sau:
+ Để đảm bảo hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
+ Để đảm bảo THA
2. Các biện pháp cưỡng chế cụ thể.
2.1. Áp giải, dẫn giải (Đ127 BLTTHS)
- Áp giải là biện pháp cưỡng chễ buộc người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội
phải đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, THA
- Dẫn giải là biện pháp cưỡng chế buộc người làm chứng, người bị tố giác hoặc bị kiến nghị khởi tố
đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử hoặc người bị hại từ chối giám định đến nơi giám định.
- Đối tượng áp dụng: K1,2 Đ127
- Thẩm quyền: K3Đ127
- Thủ tục: K4,5,6 Đ127
2.2. Kê biên tài sản (Đ128 BLTTHS)
- Là biện pháp cưỡng chế do cơ quan có thẩm quyền THTT áp dụng với bị can, bị có trong những
trường hợp nhất định nhằm đảm bảo THA
- Đối tượng áp dụng: K1Đ128
- Thẩm quyền: K2Đ128
- Thủ tục: K3,4 Đ128
2.3 Phong tỏa tài khoản (Đ129 BLTTHS)
- Là biện pháp cưỡng chế không cho người có tài khoản tại tổ chức tín dụng hoặc kho bạc Nhà nước
được sử dụng tiền trong tài khoản của họ nhằm đảm bảo THA
- Đối tượng áp dụng: K1Đ129

45
- Thẩm quyền: K2Đ129
- Thủ tục: K3,4, Đ129

46

You might also like