You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO


MÔN HỌC: LUẬT LAO ĐỘNG

BÀI THẢO LUẬN THỨ BẢY


BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
NHÓM 1
GIẢNG VIÊN: ThS. ĐẶNG LÊ PHƯƠNG UYÊN

STT HỌ VÀ TÊN MÃ SỐ SINH VIÊN


1 Nguyễn Hương Giang 2253801011062
2 Nguyễn Ngọc Kim Ngân 2253801011172
3 Đỗ Hải Phong 2253801011227
4 Ngô Quang Vinh 2253801011345
5 Nguyễn Ngọc Tuyết Dung 2253801015065
6 Lê Ngọc Hân 2253801015091
7 Nguyễn Tạ Gia Nghi (Nhóm trưởng) 2253801015203
Contents

Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra.............................................3
Câu 1: Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.....................................................................................................3
Câu 2: Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do........4
sức khỏe bị xâm phạm không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...........................................4
Câu 3: Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh Hùng giá trị chiếc đồng
hồ và chiếc xe đạp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết
trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự............................................................4
Câu 4: Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu
đồng mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự........5
Câu 5: Tòa án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử...................6
Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra....................................................7
Câu 1: Vì sao đã có quy định của Điều 584 mà BLDS 2015 còn có thêm quy định của
Điều 600?...........................................................................................................................8
Câu 2: Khả năng quy trách nhiệm liên đới bồi thường giữa người làm công và người sử
dụng người làm công trong một hệ thống pháp luật nước ngoài.......................................8
Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do người làm công gây ra?................................................................................10
Câu 4: Trên cơ sở Điều 600, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra......................................................................10
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là
Điều 600 BLDS 2015) để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường (đánh giá từng điều
kiện nêu ở câu hỏi trên đối với vụ việc được bình luận).................................................11
Câu 6: Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông Hùng
thì ông Hùng có phải bồi thường không? Vì sao?...........................................................12
Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Tòa án, ông Hùng không phải thực hiện
nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại?....................................................................12
Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách
nhiệm của ông Hùng đối với người bị thiệt hại...............................................................12
Câu 9: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu trực
tiếp ông Hùng bồi thường................................................................................................13
Câu 10: Lỗi của người làm công trong Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) cần được hiểu như thế nào? Vì sao?......................................................................14

1
Câu 11: Theo Tòa án, ông B có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) không? Vì sao?......................................................................................................15
Câu 12: Theo Tòa án, ông A có được yêu cầu ông B hoàn trả tiền đã bồi thường cho bị
hại không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.............................................................15
Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra................................................................17
Câu 1: Quy định nào của BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật”?.......................................17
Câu 2: BLDS có định nghĩa “súc vật” là gì không?........................................................18
Câu 3: Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu như thế nào?.....................18
Câu 4: Đoạn nào của bản án cho thấy thiệt hại là do chó Vinh gây ra?..........................18
Câu 5: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra?..............................................................................................18
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng các quy định về bồi thường thiệt
hại do súc vật Vinh gây ra...............................................................................................19
Câu 7: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về lỗi của người bị thiệt
hại....................................................................................................................................19
Câu 8: Suy nghĩ của anh chị về việc Toà án xác định bà Nga có lỗi trong việc lợn nhà
bà Nga bị xâm hại ?.........................................................................................................20
Câu 9: Việc Toà án không buộc ông Nhà bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà Nga có
thuyết phục không? Vì sao?............................................................................................20

2
3
Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra
Nghiên cứu:
 Điều 586 BLDS 2015 (Điều 606 BLDS 2005), Nghị quyết số 03 năm 2006 của
HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
 Tình huống: Vào lúc 16 tuổi, Hùng đã đánh anh Bình bị thương (tổng thiệt hại là 10
triệu đồng), lấy của anh Bình một đồng hồ (bán cho người đi đường được 2 triệu
đồng) và một xe đạp hiện đang gửi nhà một người bạn. Sau khi bị bắt, Hùng khai là
có ăn trộm một số đồ vật của những người trong chợ và bán được 7 triệu đồng. Hiện
nay, Hùng không có bất kỳ tài sản nào.
 Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cum'Gar tỉnh
Đắk Lắk.
Đọc:
 Lê Hà Huy Phát, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 5;
 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình
luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần thứ năm),
Bản án số 139-142;
 Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 478 đến 480.
 Phạm Kim Anh, “Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng
lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện các tổ chức khác trực
tiếp quản lý trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1/2008;
 Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk
Và cho biết:
Câu 1: Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra khi:
- Căn cứ khoản 2 Điều 586 BLDS 2015: “Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà
còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không
đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để
bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường
bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường
phần còn thiếu bằng tài sản của mình.” Vì vậy, con chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt
hại nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có
tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Con chưa thành niên từ đủ 15
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi nếu bồi thường còn thiếu thì cha mẹ phải bồi thường phần còn
thiếu bằng tài sản của mình;
- Căn cứ khoản 3 Điều 599 BLDS 2015: “Trường học, bệnh viện, pháp nhân khác quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không
có lỗi trong quản lý; trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười
lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.” Cha mẹ có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do con dưới 15 tuổi gây ra trong thời gian ở trường học, bệnh viện, tổ chức

4
khác trực tiếp quản lí nếu trường học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình
không có lỗi trong quản lý.
Đối với tình huống
Câu 2: Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do
sức khỏe bị xâm phạm không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do sức khỏe bị xâm
phạm
Căn cứ theo khoản 1 Điều 584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác
mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác.”
- Căn cứ theo khoản 2 Điều 590 BLDS 2015: “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong
trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định
tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó
gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không
thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm
mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
- Giải thích: Hùng (16 tuổi) đánh anh Bình bị thương và tổng thiệt hại là 10 triệu đồng, căn
cứ theo khoản 1 Điều 584 BLDS 2015, khoản 2 Điều 590 BLDS 2015 thì Hùng có nghĩa vụ
phải bồi thường thiệt hại đã gây ra cho anh Bình. Tuy nhiên, hiện nay Hùng không có bất kì
tài sản nào nên căn cứ theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 thì cha mẹ của Hùng có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do Hùng gây ra cho anh Bình.

Câu 3: Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh Hùng giá trị chiếc đồng
hồ và chiếc xe đạp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết
trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự.
Chiếc đồng hồ có thể được bồi thường.
- Căn cứ khoản 1 Điều 589 BLDS 2015, thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, bao gồm tài sản
bị mất, bị hủy hoặc bị hư hỏng;
- Căn cứ khoản 2 Điều 586 BLDS 2015: “Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà
còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không
đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để
bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường
bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường
phần còn thiếu bằng tài sản của mình.”
- Căn cứ khoản 1 Điều 584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác.”
Chiếc đồng hồ có thể được bồi thường, nó rơi vào trường hợp tài sản bị mất theo khoản 1
Điều 589 BLDS 2015, do vậy hành vi xâm phạm tài sản gây thiệt hại (làm mất đồng hồ của
Bình) phải bồi thường theo khoản 1 Điều 584 BLDS 2015, nhưng vì Hùng mới 16 tuổi,
không có bất bất kỳ tài sản nào để bồi thường nên căn cứ theo khoản 2 Điều 586 BLDS
2015 Tòa có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh

5
Bình.
- Đối với chiếc xe đạp, có hai trường hợp sẽ xảy ra:
+ Trường hợp 1: Chiếc xe vẫn còn ở nhà người bạn đó theo khoản 1 Điều 579 BLDS 2015:
“ Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì
phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó” và khoản 1 Điều
166 BLDS 2015: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài
sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật”. Trong trường hợp này, Toà án không thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường giá trị
chiếc xe đạp, chỉ buộc Hùng đến nhà bạn lấy chiếc xe về và hoàn trả chiếc xe lại cho anh
Bình;
+ Trường hợp 2: Nếu chiếc xe không còn ở nhà người bạn: Theo Điều 170 BLDS 2015 quy
định về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại thì: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với
tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài
sản bồi thường thiệt hại”. Hùng phải bồi thường số tiền bằng giá trị chiếc xe đã bị mất, nếu
Hùng không bồi thường được thì cha mẹ Hùng sẽ là người thay Hùng bồi thường thiệt hại
theo quy định tại khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cá nhân: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây
thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì
cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”. Theo khoản 1 Điều 585
BLDS 2015 quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại: “Thiệt hại thực tế phải được bồi
thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường,hình thức bồi
thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc”.
- Trong bản án số 19/2012/DSST ngày 12/06/2012 của TAND huyện Cư M'gar tỉnh Đắk
Lắk cũng theo hướng buộc cha mẹ có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho cậu con trai tên
Hậu, chưa đủ 16 tuổi, không có bất kỳ tài sản riêng nào. Hậu là người có lỗi, đã điều khiển
xe máy đâm vào xe máy của nguyên đơn là bà Nam, gây thiệt hại về sức khỏe cho nguyên
đơn.

Câu 4: Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu
đồng mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương
tự.
- Căn cứ khoản 1 Điều 584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác.”
- Trước hết, ta cần xác định rõ những người trong chợ đã bị Hùng lấy trộm, và hoàn trả lại
toàn bộ những đồ vật đó cho người bị mất (căn cứ theo khoản 1 Điều 579 BLDS 2015 và
khoản 1, khoản 2 Điều 580 BLDS 2015). Tuy nhiên, Hùng đã bán lấy tiền tiêu sài
(7.000.000 đồng) nên việc hoàn trả lại đồ vật là không thể. Nên cần xác định những người
đã bị mất đồ và đền bù lại số tiền tương ứng mà đã bị mất (căn cứ theo khoản 2 Điều 580
BLDS 2015). Theo đó, bồi thường thiệt hại phát sinh giữa một bên gây thiệt hại và một bên
bị thiệt hại tức là những người trong chợ. Việc nộp ngân sách nhà nước khoản tiền Hùng có
được do lấy trộm lại tồn tại một chủ thể khác ngoài quy định của điều luật nêu trên là nhà
nước. Căn cứ theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi
thường cho con chưa thành niên gây thiệt hại chứ không có quy định nào buộc cha mẹ phải
6
có trách nhiệm nộp ngân sách nhà nước nên “Việc Tòa án địa phương buộc cha mẹ có trách
nhiệm nộp tiền sung quỹ nhà nước là mở rộng phạm vi trách nhiệm của cha mẹ và việc mở
rộng này là không có lý do thuyết phục”. Vậy nên Tòa án không thể buộc cha mẹ của Hùng
nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu đồng mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong
chợ.
- Trong thực tiễn xét xử đã tồn tại những vụ việc tương tự, trong Quyết định số 04/HĐTP-
HS nêu ở câu số 3 của tình huống này, theo Hội đồng Thẩm phán: “Tòa án các cấp buộc bố
mẹ bị cáo phải nộp số tiền 7.570.000 đồng do bị cáo chiếm hưởng từ việc bán tài sản trộm
cắp được là không đúng quy định của pháp luật dân sự”.
- Thực tiễn xét xử: Quyết định số 04/HĐTP-HS ngày 23-2-2004 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao: Trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại cải tạo Hòn Cát tỉnh
Quảng Trị, ngày 21-8-1994 Hùng trốn trại. Từ khi trốn trại đến khi bị bắt lại, Hùng đã gây
ra 10 vụ trộm cắp, trong đó có 2 vụ trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa trên địa bàn thị xã
Đông Hà và các huyện của tỉnh Quảng Trị. Giá trị tài sản của công dân bị chiếm đoạt là trên
28 triệu đồng, tài sản xã hội chủ nghĩa bị chiếm đoạt là 2.700.000 đồng, số tài sản đã thu
hồi 1 phần và trả cho người bị hại. Hùng phạm tội và khi xét xử chưa đủ 18 tuổi và không
có tài sản riêng nên Toà án phúc thẩm buộc bố mẹ bị cáo bồi thường cho những người thiệt
hại, và huỷ bỏ quyết định của Toà án các cấp về việc buộc bố mẹ Hùng nộp số tiền
7.570.000 đồng (là số tiền Hùng chiếm hưởng từ việc bán tài sản trộm cắp để sung quỹ nhà
nước) là không đúng với quy định của pháp luật dân sự.
Câu 5: Tòa án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử.
Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 586 BLDS 2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ
mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản
để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình."
Vậy, Tòa án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình nếu như tài sản cá
nhân của Hùng không đủ để bồi thường cho anh Bình. Trước hết Hùng phải bồi thường cho
anh Bình bằng tài sản riêng của mình, nhưng trong tình huống Hùng không có tài sản riêng,
vì thế cha mẹ Hùng sẽ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Trong thực tiễn xét xử: Bản án số 19/2013/DSST ngày 12/6/2012 của TAND huyện
Cưm'Gar tỉnh Đắk Lắk: 26/10/2012 Hậu điều khiển xe máy đi sai làn đường đã đâm vào xe
máy của bà Nam làm bà thiệt hại 30% sức khỏe, Hậu là người chưa đủ 16 tuổi và không có
tài sản riêng. Cha mẹ Hậu đã ly hôn và hiện tại Hậu đang được cha là ông Thụ nuôi dưỡng.
Trong vụ việc trên Tòa án theo hướng để quy trách nhiệm liên đới bồi thường cho cả cha
lẫn mẹ dù cả hai đã ly hôn.
 Đối với Bản án số 19
Tóm tắt Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cưm’Gar
tỉnh Đắk Lắk
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nam;
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thêm;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Mai Văn Thụ;
Người thực hiện hành vi gây hậu quả: Cháu Mai Công Hậu;
Nội dung: Cháu Mai Công Hậu (con ông Thụ) điều khiển xe đâm vào bà Nguyễn Thị Nam,
gây thương tích cho bà Nam. Vào thời điểm gây tai nạn cháu Hậu chưa đủ 16 tuổi là người
chưa thành niên và không có tài sản riêng nên Tòa buộc bố mẹ cháu (Nguyễn Thị Thêm và
Mai Văn Thụ) bồi thường cho bà Nam. Bà Thêm cho rằng bà và ông Thụ đã ly hôn, cháu
7
Hậu hiện đang được ông Thụ trực tiếp nuôi dưỡng nên bà không có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho bà Nam do hành vi của cháu Hậu gây ra;
Quyết định của Tòa án: Bác bỏ lập luận của bà Thêm, cho rằng việc ly hôn giữa hai vợ
chồng không làm chấm dứt nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con chúng, buộc bà Thêm và ông
Thụ phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà Nam.
 Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn có ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu trách
nhiệm bồi thường không? Cuối cùng, Tòa án đã buộc ai phải bồi thường thiệt hại.
Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn không có ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu trách
nhiệm bồi thường. Trong phần XÉT THẤY, Tòa án đã nêu rõ: “Bà Thêm cho rằng bà và
ông Thụ đã ly hôn, Tòa án đã giao cháu Hậu cho ông Thụ trực tiếp nuôi dưỡng nên bà
không có trách nhiệm về hành vi của cháu Hậu, lập luận của bà Thêm là không được chấp
nhận vì việc ly hôn giữa hai vợ chồng không làm chấm dứt nghĩa vụ của cha, mẹ đối với
con chung.”.
Cuối cùng Tòa án đã buộc ông Mai Văn Thụ và bà Nguyễn Thị Thêm phải liên đới bồi
thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Nam là 42.877.000đ, chia theo phần ông Thụ và bà
Thêm mỗi người phải bồi thường 21.438.500đ.
 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (từ góc độ văn bản
cũng như so sánh pháp luật).
- Căn cứ khoản 2 Điều 586 BLDS 2015: “ Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà
còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không
đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để
bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường
bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường
phần còn thiếu bằng tài sản của mình.” Đối chiếu với bản án ta thấy, Tòa án đã nhận định
vào thời điểm gây ra tai nạn cho bà Nam thì Hậu chưa đủ 16 tuổi, là người chưa thành niên
và không có tài sản riêng đề bồi thường thiệt hại nên việc yêu cầu cha mẹ là ông Thụ và bà
Thêm bồi thường thiệt hại cho bà Nam là phù hợp với quy định của pháp luật. Theo nhóm,
hướng giải quyết như vậy sẽ đảm bảo quyền lợi cho bên bị thiệt hại, cụ thể trong tình huống
này là bà Nam. Mặc dù Hậu gây ra thiệt hại cho bà khi chưa đủ mười sáu tuổi và không có
tài sản để bồi thường, nhưng dựa theo quy định tại khoản 2 điều 586 BLDS 2015 thì bà
Nam có quyền yêu cầu cha mẹ của Hậu liên đới bồi thường thiệt hại cho bà;
- Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2014 cũng theo hướng cha mẹ phải bồi thường khi con
chưa thành niên, hoặc con mất năng lực hành vi dân sự theo Điều 74: “Cha mẹ phải bồi
thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự”;
- Điều 457 của Quốc Triều Hình Luật quy định Trách nhiệm của cha mẹ bồi thường tang
vật thay cho con khi con vi phạm những điều mà pháp luật cấm. Cụ thể: “Các con còn ở
nhà với cha mẹ, mà đi ăn trộm, thì cha bị xử tội biếm; ăn cướp thì cha
bị xử tội đồ; nặng thì xử tăng thêm tội; và đều bồi thường thay cho con những tang vật ăn
trộm ăn cướp”.

Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra


Nghiên cứu:

8
 Điều 584, Điều 600 BLDS 2015 (Điều 604, 622 BLDS 2005), Nghị quyết số 03 năm
2006 của HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
 Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định;
 Bàn ẩn số 05/2019/DS-PT ngày 16/1/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
Đọc:
 Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 6;
 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình
luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần thứ năm),
Bản án số 148-151;
 Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 494;
 Các tài liệu khác (nếu có).
Xem:https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-
4&list=PLy3fkj5JA487xHkSvjKFbcl
Và cho biết:
Câu 1: Vì sao đã có quy định của Điều 584 mà BLDS 2015 còn có thêm quy định của
Điều 600?
Điều 584 BLDS 2015 quy định về việc chủ thể thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là
các cá nhân thực hiện hành vi dẫn đến BTTH, mặt khác điều 600 BLDS 2015 chỉ rõ các
pháp nhân phải bồi thường theo quy định của pháp luật nếu có người làm công, người học
về thực hiện hành vi gây ra thiệt hại. Câu hỏi đặt ra là liệu có sự mâu thuẫn nào giữa hai
Điều luật trên.
Trước hết, Điều 600 BLDS 2015 có sự tương đồng với Điều 597 BLDS 2015, cụ thể: Điều
597 yêu cầu pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực
hiện nhậm vụ được pháp nhân giao, trong đó, người làm công hay người học nghề trong lúc
đang thực hiện công việc cũng chính là thực hiện công việc cho pháp nhân và tạo ra lựoi ích
cho pháp nhân. Do đó, pháp nhân sẽ phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại,
trong trường hợp trên.
Thêm vào đó, “có thể người làm công, người học nghề có lỗi trong công việc được giao gây
ra thiệt hại cho người khác. Tuy nhiên nếu buộc người làm công, người học nghề phải bồi
thường trực tiếp cho người bị thiệt hại sẽ không đảm bảo nguyên tắc bồi thường kịp thời.”
Bởi lẽ xét trên thực tiễn đời sống giữa khả năng kinh tế giữa người làm công, học nghề và
chủ cơ sở, pháp nhân thì có sự khác biệt khá rõ mà bồi thường thiệt hại cần đảm bảo khía
cạnh khả năng kinh tế.
Do đó, Điều 600 BLDS 2015 không mâu thuẫn với Điều 584 BLDS 2015 mà còn lấy điều
584 BLDS làm cơ sở, tức là khi có thiệt hại xảy ra vẫn phải căn cứ vào điều 584 để làm cơ
sở nhưng nếu có các điều kiện đặc biệt thì sẽ áp dụng Điều 600 BLDS 2015.
Câu 2: Khả năng quy trách nhiệm liên đới bồi thường giữa người làm công và người
sử dụng người làm công trong một hệ thống pháp luật nước ngoài.
Căn cứ theo quy định tại Điều 1242 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp mục “Trách nhiệm
ngoài hợp đồng” chỉ quy định ngắn gọn rằng một người có thể chịu trách nhiệm dân sự cho
thiệt hại gây ra bời người họ chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, trong các quy định sau đó của Bộ
luật Dân sự Pháp lại không ghi nhận việc bồi thường thiệt hại do người làm công.

9
Trước đây, Tòa án có thể căn cứ vào quy định tại Điều 1384 để quy trách nhiệm do người
chủ về thiệt hại do người làm công gây ra. Nhưng việc thiếu vắng một quy định cụ thể như
hiện tại khiến Tòa án gặp khó khăn.
Xem xét bộ luật Dân sự Quebec vốn có nhiều điểm tương đồng với Pháp, tại Điều 1463 quy
định như sau:
“Người làm chủ phải khắc phục thiệt hại gây ra bởi người làm công của họ trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ được giao. Họ có quyền đòi lại một khoản bồi hoàn từ phía người đó.”
Trở lại với Pháp, Bộ luật Lao Động của Pháp có quy định như sau tại Điều 121-9:
“Người chủ chịu trách nhiệm với rủi ro phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp.
Người làm công chịu trách nhiệm với thiệt hại hành động tự nguyện và nhầm lẫn nghiêm
trọng của mình.”
Như vậy hiện nay Pháp luật của Pháp đang theo hướng áp dụng án lệ, cho rằng người làm
chủ phải chịu trách nhiệm với thiệt hại gây ra do người làm công khi thực hiện công việc
được giao. Thế nhưng cũng cho phép người chủ bỏ đi trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó
nếu chứng minh được các yếu tố sau: người làm công lạm quyền, hành vi gây thiệt hại
không được cho phép,... Có điều, người chủ cũng phải chịu trách nhiệm khi cung cấp
phương tiện của doanh nghiệp cho người làm công thực hiện hành vi gây thiệt hại.
Ngoài ra, trong pháp luật Tây Ban Nha, vấn đề bồi thường thiệt hại do người làm công gây
ra được quy định tại Điều 1903, mục “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi của
người khác” - Bộ luật Dân sự như sau: “Nếu thiệt hại gây ra bởi người làm công phát sinh
từ một công việc được giao bởi công ty thì công ty phải có trách nhiệm bồi thường"
Trong thực tiễn xét xử, nhiều Toà án đã đưa ra nhiều hướng giải quyết khác nhau liên quan
đến vấn đề này. Tuy nhiên, theo Toà án tối cao đã nhận định rằng trong trường hợp này
trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về phía công ty thì đã không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
giám sát người làm công mà mình quản lý. Mặt khác, Toà án cũng đưa ra lưu ý rằng cần
phải đặc biệt chú ý đến chủ ý của người làm công (tức ở đây là người gây ra thiệt hại), nếu
họ cố ý gây ra thiệt hại này khi đang trong quá trình thực hiện công việc của mình thì công
ty sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, cũng cần phải cân nhắc đến nỗ lực ngăn chặn thiệt hại từ phía công ty. Điều
này được Toà án tỉnh Albacete áp dụng khi xử lý vụ việc một bồi bàn đánh gãy chân khách
hàng trong thời gian làm việc khi cả hai bên xảy ra mâu thuẫn, phía nhà hàng đã cố gắng
ngăn chặn cuộc cãi vã nhưng không thành công. Ở đây, Toà án đã đưa ra nhận định rằng,
trong trường hợp này, phía nhà hàng không phải chịu trách nhiệm bồi thường dù thiệt hại
xảy ra trong quá trình người làm công thực hiện công việc được giao vì thiệt hại xảy ra
hoàn toàn do lỗi cố ý của người lao động và nhà hàng đã cố gắng hết sức để ngăn chặn thiệt
hại và cải thiện tình hình nhưng không có hiệu quả.
* Đối với Bản án số 285
Tóm tắt Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định.
Bị cáo: Cao Chí Hùng.
Bị hại: Trần Ngọc Hải.
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Nguyễn Thị Thu Thủy (vợ anh Hải).
Bị đơn dân sự: Công ty TNHH vận tải Hoàng Long.
Nội dung: Bị cáo Hùng - người lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long,có giấy
phép lái xe hợp lệ. Trong khi thực hiện công việc được giao, ông Hùng đã điều khiển xe ô
tô khách lấn qua phần đường bên trái, va chạm xe mô tô đi ngược chiều gây tai nạn chết 1
10
người (ông Hải). Công ty Hoàng Long đã bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 40.000.000
đồng, ông Hải đã tự nguyện nộp 5.000.000 đồng để cùng công ty khắc phục hậu quả.
Hướng giải quyết của Tòa:
Từ chối yêu cầu không bồi thường của công ty TNHH vận tải Hoàng Long.
Công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Hải
với thiệt hại do ông Hùng gây ra.
Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do người làm công gây ra?
Trong phần xét thấy của bản án số 285/2009/HSPT có nêu rõ:
“Bị cáo là người lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long, nên theo quy định tại
Điều 622 và Điều 623 của Bộ luật Dân sự thì Công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí Hùng gây ra trong khi thực hiện công việc
được giao và có quyền yêu cầu Cao Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải
hoàn trả lại một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” Trong đó toà án đã căn cứ vào
Điều 622 BLDS 2005 quy định như sau: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi
thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc
được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt
hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” và khoản 2 Điều 623 BLDS
2005 quy định như sau: “2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử
dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Câu 4: Trên cơ sở Điều 600, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra.
Điều 600 BLDS 2015 quy định về “Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra” như sau: “Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công,
người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người
làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật”. Điều kiện để áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do
người làm công gây ra:
Có thiệt hại xảy ra trên thực tế: tài sản, tính mạng, sức khoẻ. Cụ thể, Theo Điều 589 BLDS
2015 “Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” thì thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm: Tài
sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng;Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản
bị mất, bị giảm sút; Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại; Thiệt hại
khác do luật quy định”. Tuy nhiên, có thiệt hại thực tế xảy ra là chưa đủ, thiệt hại đó phải
phát sinh trong khi người làm công thực hiện công việc được giao mới được coi là yếu tố
cấu thành trách nhiệm bồi thường.
Có hành vi trái pháp luật: là hành vi xảy ra khi đang thực hiện công việc được người sử
dụng người làm công giao cho hoặc được người dạy nghề yêu cầu thực hiện trong quá trình
đào tạo nghề.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại xảy ra.
Bên cạnh đó, vì chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường ở đây không phải là người gây thiệt
hại mà là cá nhân, pháp nhân sử dụng người gây thiệt hại dưới dạng người làm công, người
học nghề, do đó cần phải có thêm điều kiện nguyên nhân của thiệt hại phải là do đang thực
hiện công việc được cá nhân, pháp nhân giao phó bởi người làm công, người học nghề gây
thiệt hại trong khi thực hiện công việc được giao phó tức là họ đang thực hiện công việc

11
theo yêu cầu và công việc đó đem lại lợi ích cho cá nhân, pháp nhân sử dụng người lao
động, học nghề, có thể nói “hành vi của người làm công, học nghề lúc này được xem là
hành vi của pháp nhân, cơ sở đó”.
Cách quy định như trên là hợp lý bởi lẽ dù trên thực tế, thiệt hại có thể do người làm công,
người học nghề gây ra, tuy nhiên nếu buộc họ bồi thường trực tiếp cho bên bị hại thì sẽ
không đảm bảo nguyên tắc bồi thường kịp thời theo khoản 1 Điều 585 Bộ luật Dân sự
2015: “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời...”. Bởi lẽ, khả năng bồi
thường của người làm công và học nghề là rất thấp trong khi cá nhân, pháp nhân sử dụng
người lao động, học nghề có khả năng bồi thường cho người bị thiệt hại cao hơn. Do đó,
luật quy định cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao là phù hợp. Sau đó, chủ sở hữu của
người làm công, người học nghề có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề hoàn
trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật căn cứ theo mức độ lỗi khi họ gây thiệt hại.
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là
Điều 600 BLDS 2015) để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường (đánh giá từng điều
kiện nêu ở câu hỏi trên đối với vụ việc được bình luận).

Theo em, việc áp dụng Điều 622 BLDS 2005 (Đ600 BLDS 2015) để buộc công ty Hoàng
Long bồi thường là hợp lý.

Trong bản án số 285 Tòa án đã áp dụng Điều 622 BLDS 2005 tại phần “Xét thấy”:

“Bị cáo là người lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long nên theo quy định tại
Điều 622 và Điều 623 của Bộ luật Dân sự thì Công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí Hùng gây ra trong khi thực hiện công việc
được giao và có quyền yêu cầu cao Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây ra thiệt hại,
phải hoàn trả lại một khoản tiền theo quy định của pháp luật”

Theo đó, Điều 622 BLDS 2005 quy định:

“Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công,
người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người
làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật.”

Việc áp dụng Điều 622 BLDS 2015 được dựa trên các điều kiện sau:

Thứ nhất, thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra. Ở đây, anh Hùng là người
làm công cho Công ty vận tải Hoàng Long, với công việc là người lái xe thuê.

Thứ hai, cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công,
người học nghề gây ra. Công ty TNHH vận tải là pháp nhân nên có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do anh Hải (người làm công) gây ra.

Thứ ba, có thiệt hại thực tế xảy ra. Thiệt hại thực tế xảy ra ở đây là thiệt hại về tính mạng
do hành vi điều khiển xe ô tô khách gây tai nạn làm anh Hải tử vong.

12
Thứ tư, gây ra thiệt hại trong khi thực hiện công việc được giao. Anh Hùng trong khi điều
khiển xe ô tô khách của Công ty TNHH vận tải Hoàng Long chở khách đi từ Hải Phòng đến
Thành phố hồ Chí Minh thì gây ra tai nạn làm anh Hải tử vong.

Như vậy, nếu đối chiếu với Điều 600 BLDS 2015: “Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường
thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được
giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại
phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” thì có thể thấy được rằng không
có nhiều sự khác biệt ngoại trừ việc thu hẹp phạm vi chủ thể có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Do đó, việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015)
để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường là hợp lý.

Câu 6: Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông
Hùng thì ông Hùng có phải bồi thường không? Vì sao?
Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông Hùng thì ông
Hùng vẫn có trách nhiệm bồi thường.
Căn cứ khoản 1 Điều 584 BLDS 2015:
“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Thứ nhất, hành vi xâm phạm tính mạng. Ông Hùng có thực hiện hành vi xâm phạm tính
mạng được thể hiện thông qua việc điều khiển xe ô tô làm 01 người tử vong (ông Hải).
Thứ hai, có thiệt hại thực tế xảy ra. Thiệt hại thực tế ở đây là ông Hải tử vong.
Thứ ba, mối quan hệ nhân quả. Hành vi điều khiển xe ô tô lấn qua làn đường bên trái, va
chạm với xe mô tô của ông Hùng đã gây ra sự thiệt mạng của ông Hải. Nguyên nhân ở đây
là hành vi điều khiển xe ô tô lấn qua làn đường bên trái, va chạm với xe mô tô của ông
Hùng và kết quả là sự thiệt mạng của ông Hải.
Như vậy, nếu như ông Hùng không phải là người làm công cho công ty Hoàng Long và
chiếc xe trên là của ông Hùng thì ông Hùng vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại.
Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Tòa án, ông Hùng không phải thực hiện
nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại?
Đoạn trích của bản án cho thấy, theo Tòa án, ông Hùng không phải thực hiện nghĩa vụ cho
người bị thiệt hại được thể hiện qua: “Án sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p
khoản 1, 2, Điều 4-6 của Bộ luật Hình sự xử phạt: bị cáo Cao Chí hùng 09 tháng tù về tội
“Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” là có căn cứ và tương
xứng với mức độ nguy hiểm do hành vi trái pháp luật mà bị cáo đã gây ra, lẽ ra cần giữ
nguyên mức hình phạt của bị cáo nhưng thấy rằng theo quyết định của án sơ thẩm mặc dù
bị cáo không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bị hại nhưng đã tự nguyện nộp
5.000.000đ để cùng với Công ty TNHH vận tải Hoàng Long, khắc phục hậu quả xảy ra,
hoàn cả gia đình bị cáo hiện nay gặp nhiều khó khăn, bản thân bị cáo quá trình tạm giam
giữ bị đau ốm”.
Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách
nhiệm của ông Hùng đối với người bị thiệt hại.
Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm của ông Hùng đối với
người bị thiệt hại là hợp lý.
13
Căn cứ khoản 1 Điều 605 BLDS 2005:
“1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức
bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc,
phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.”
Theo đoạn 2 phần “Xét thấy”:
“...hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện nay gặp nhiều khó khăn...”
Như vậy, với hoàn cảnh gia đình khó khăn của ông Hùng thì để đáp ứng được việc bồi
thường thiệt hại toàn bộ và kịp thời là rất khó.
Căn cứ Điều 622 BLDS 2005 :
“1. Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công,
người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người
làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật.”
Tình huống trên đã hội tụ đủ các điều kiện:
Chủ thể gây ra thiệt hại là người làm công, người học nghề: Ông Hùng là người lái xe thuê.
Có thiệt hại xảy ra: Sự thiệt mạng của ông Hải.
Chủ thể gây ra thiệt hại trong khi đang thực hiện công việc được giao: Ông Hùng gây ra tai
nạn giao thông làm ông Hải thiệt mạng khi đang lái xe chở khách.
Căn cứ khoản 1 Điều 605 BLDS 2005:
“1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức
bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc,
phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.”
Theo đoạn 2 phần “Xét thấy”:
“...hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện nay gặp nhiều khó khăn...”
Như vậy, với hoàn cảnh gia đình khó khăn của ông Hùng thì để đáp ứng được việc bồi
thường thiệt hại toàn bộ và kịp thời là rất khó nên trường hợp trên ông Hùng không phải là
người có nghĩa vụ bồi hường trực tiếp cho thiệt hại mình đã gây ra.
Do đó, Công ty TNHH vận tải Thành Long có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do ông Hùng
gây ra, bên cạnh đó ở trường hợp trên ông Hùng không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do gây ra thiệt hại trong khi thực hiện công việc được giao và là người làm công cho Công
ty TNHH vận tải Thành Long.
Câu 9: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu
trực tiếp ông Hùng bồi thường.
Theo em, vẫn có khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu trực tiếp ông Hùng bồi
thường.
Hiện nay pháp luật điều chỉnh cho trường hợp trên của ông Hùng sẽ thuộc trường
hợp trách nhiệm bồi thường do người làm công gây thiệt hại và người chịu trách nhiệm bồi
thường là cá nhân, pháp nhân được ghi nhận tại Điều 600 BLDS 2015: “Cá nhân, pháp
nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực
hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong
việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.”
Tuy nhiên, vẫn có khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu trực tiếp ông Hùng bồi
thường.
Căn cứ khoản 2 Điều 601 BLDS 2015:
14
“2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người
này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Bên cạnh đó, căn cứ khoản 2 Điều 12 NQ 02/2022 hướng dẫn áp dụng quy định của
Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng đã quy định chi
tiết hướng dẫn áp dụng khoản 2 Điều 601.
Trong trường hợp trên, dựa theo khoản Điều 601 BLDS 2015 đã quy định nếu công
ty TNHH vận tải Hoàng Long đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho ông Hùng thì nếu ông
Hùng gây ra thiệt hại thì ông Hùng phải bồi thường trừ khi có thỏa thuận khác. Cụ thể, ông
Hùng điều khiển xe ô tô (do công ty TNHH vận tải Hoàng Long làm chủ sở hữu) lấn qua
làn đường bên trái sau đó gây ra va chạm với ông Hải và cuối cùng là làm ông Hải tử vong.
Như vậy, ông Hùng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Hải do gây ra thiệt hại
bằng nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng ở đây ông Hải đã mất do đó chị Thủy (vợ ông Hải) sẽ
là người thay thế ông Hải yêu cầu ông Hùng bồi thường thiệt hại.
Đồng thời, căn cứ khoản 2 Điều 591 BLDS 2015:
“2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác
bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt
hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng
khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu
không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá
một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Trường hợp trên, ông Hùng đã làm cho ông Hải tử vong là đã xâm phạm đến tính
mạng của ông Hải do đó ông Hùng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tổn thất
tinh thần. Ông Hùng sẽ phải bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần cho phía gia đình chị
Thủy, cụ thể là chị Thủy và cháu Đăng (những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất).
Như vậy, chị Thủy vẫn có khả năng yêu cầu trực tiếp ông Hùng bồi thường thiệt hại.
* Đối với Bản án số 05
Tóm tắt Bản án số 05/2019/DS-PT ngày 16/1/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng.
Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn A, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Bùi
Xuân C và Bị đơn: ông Nguyễn Văn B. Ông A là chủ cơ sở đóng tàu, còn Nguyễn Văn B
là người làm công, cùng làm với B là Bùi Xuân C. Vào ngày 21-9-2016 ông B đã tự ý cắt
sắt để hàn bàn để trái cây trên tàu, nhưng việc làm của B không được ông A phân công, khi
B dùng mỏ hàn cắt sắt làm văng lửa xuống thùng sơn do Bùi Xuân C đang sơn dưới hầm
tàu làm bùng cháy thùng sơn dẫn đến Bùi Xuân C bị bỏng với tỷ lệ thương tích qua giám
định là 51%.
Ngày 10-8-2018 ông Nguyễn Văn A khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn B có trách
nhiệm hoàn trả cho ông số tiền 165.647.678 đồng để ông bồi thường cho ông Bùi Xuân C
và đã được Tòa án chấp nhận.
Câu 10: Lỗi của người làm công trong Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) cần được hiểu như thế nào? Vì sao?
Điều 622 BLDS 2005: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại
do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có

15
quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả
một khoản tiền theo quy định của pháp luật.”
Yếu tố lỗi trong Điều 622 BLDS 2005 (Điều 600 BLDS 2015) có thể được hiểu theo hai
hướng, đó là:
Thứ nhất, lỗi của người làm công đối với người bị thiệt hại. Lỗi ở đây được hiểu là điều
kiện để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và cũng là căn cứ để
xác định mức bồi thường. Lỗi là điều kiện để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, lỗi không được xem là căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại mà nó phụ
thuộc vào hành vi trái pháp luật (một trong ba căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại). Từ đó,
nhờ yếu tố lỗi mới xác định hành vi đó là cố ý hay vô ý, từ đó mới quyết định được hướng
giải quyết bồi thường. Ngoài ra, trước đây ở BLDS 2005 quy định bên bị thiệt hại phải
chứng minh được lỗi của bên gây thiệt hại (người làm công) đối với mình để có thể xác
định bồi thường. Nhưng đến BLDS 2015 thì trách nhiệm chứng minh lỗi này thuộc về bên
gây thiệt hại (người làm công). Như vậy, trong BLDS 2005 và BLDS 2015 thì lỗi luôn
được xem là yếu tố quan trọng để xác định có phải bồi thường thiệt hại hay không.
Thứ hai, lỗi của người làm công đối với người sử dụng người làm công (chẳng hạn thiệt hại
gây ra bởi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng yêu cầu của người làm công). Lỗi
trong trường hợp này có thể hiểu là căn cứ để xác định trách nhiệm hoàn trả của người làm
công đối với người sử dụng người làm công. Và quan điểm của nhóm nghiêng về hướng
hiểu thứ hai này. Giả dụ trường hợp người làm công làm theo yêu cầu của người sử dụng
người làm công và gây thiệt hại cho bên thứ ba, thì nếu để người làm công bồi thường sẽ
thiệt cho người làm công, thế nên người sử dụng người làm công phải đứng ra bồi thường
vì người làm công đã làm theo “lệnh” của mình. Và người người làm công có thể không có
trách nhiệm hoàn trả vì đây là làm theo lệnh của người sử dụng người làm công. Ngược lại,
trong thực tiễn trường hợp người làm công không làm theo yêu cầu của người sử dụng
người làm công mà tự ý gây ra thiệt hại, thì lúc này người sử dụng người làm công tuy phải
đứng ra bồi thường thiệt hại nhưng họ có quyền yêu cầu người làm công hoàn trả lại khoản
tiền bồi thường đó cho mình. Như vậy có thể hiểu, cả hai trường hợp trên người làm công
đều có lỗi, nhưng có thể căn cứ vào yếu tố lỗi đó mà xác định trách nhiệm hoàn trả tiền bồi
thường của người làm công.
Câu 11: Theo Tòa án, ông B có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) không? Vì sao?
Theo Tòa án, ông B có lỗi và ông A chịu trách nhiệm bồi thường theo Điều 622 BLDS
2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015):
“Theo quy định của pháp luật thì thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Do
ông Nguyễn Văn A là chủ cơ sở đóng tàu, còn Nguyễn Văn B là người làm công, nên tại
bản án hình sự phúc thẩm nêu trên buộc ông Nguyễn Văn A bồi thường thiệt hại cho Bùi
Xuân C là đúng với quy định tại các Điều 605, 622 Bộ luật Dân sự năm 2005.”
“Nhận thấy, Nguyễn Văn B có lỗi hoàn toàn trong việc gây thiệt hại cho Bùi Xuân C và đã
bị xử lý hình sự về tội vô ý gây thương tích…”
Như vậy: Theo Tòa án ông B có lỗi hoàn toàn trong việc gây thiệt hại cho ông C và đã bị
xử lý hình sự, và ông B là người làm công của ông A, nên dù là do ông B tự ý làm thì ông
A nên đứng ra để bồi thường cho ông C theo Điều 622 BLDS 2005. Vì ông B dù sao cũng
đang làm dưới danh của ông A, nên ông A bồi thường và có quyền yêu cầu ông B hoàn trả
lại tiền cho mình.

16
Câu 12: Theo Tòa án, ông A có được yêu cầu ông B hoàn trả tiền đã bồi thường cho
bị hại không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo Toà án, ông A được yêu cầu ông B hoàn trả tiền đã bồi thường cho người bị hại là ông
Bùi Xuân C qua các đoạn trong bản án:
Trong phần Nhận định của Toà án:
“Nhận thấy, Nguyễn Văn B có lỗi hoàn toàn trong việc gây thiệt hại cho Bùi Xuân C và đã
bị xử lý hình sự về tội vô ý gây thương tích, nên bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của ông A, buộc ông B hoàn trả lại cho ông A tổng số tiền 165.647.678 đồng mà
ông A phải bồi thường cho ông Bùi Xuân C là có căn cứ và đúng quy định Điều 622 Bộ luật
Dân sự năm 2005.
Mặt khác, nhận thấy việc ông C yêu cầu ông A bồi thường và việc ông A khởi kiện yêu cầu
ông B hoàn trả khoản tiền ông bồi thường cho ông C được Tòa án giải quyết bằng vụ án
riêng biệt, nên ông B kháng cáo cho rằng ông A không được quyền yêu cầu ông bồi thường
lại cho ông A là không có căn cứ.”
Và trong phần Quyết định của Toà án:
“Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn B có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Văn A tiền bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng tổng cộng là: 165.647.500 đồng.”
Câu 13: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách
nhiệm hoàn trả của ông B (về căn cứ hoàn trả cũng như mức hoàn trả).
Hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm hoàn trả là tương đối hợp lý:
Có thể thấy kháng cáo của ông B về trách nhiệm hoàn trả là ông A chưa thanh toán khoản
tiền bồi thường cho ông C nên không được đòi khoản tiền hoàn trả cho ông C. Và bản thân
ông cũng không có tiền để chi trả cho khoản bồi thường ông C.
Ông B là người làm công cho ông A, làm việc dưới trướng ông A. Nên khi sự việc xảy ra
ông A phải là người bồi thường cho C (một người làm công khác), và cũng đã có Tòa thụ lý
vụ án này giải quyết khoản tiền bồi thường giữa hai bên theo Điều 622 Bộ luật dân sự 2005
và luật khác quy định. Bản thân ông B cũng hiểu được định nghĩa “bồi thường” và “hoàn
trả” khác nhau, và ông đều muốn phủi bỏ trách nhiệm của mình đối với hai nghĩa vụ này.
Nhưng xét trong vụ việc, rõ ràng là ông B đã tự ý làm việc khác không theo yêu cầu của
ông A, và đã vô tình gây ra thiệt hại. Phân tích kĩ thì hành vi của ông B đã đủ điều kiện áp
dụng quy định về bồi thường thiệt hại:
(1) Về hành vi trái luật, thực hiện công việc không theo yêu cầu, dùng mỏ hàn cắt sắt làm
văng lửa xuống thùng sơn do Bùi Xuân C đang sơn dưới hầm tàu làm bùng cháy thùng sơn.
(2) Về thiệt hại xảy ra trên thực tế, ông C bị bỏng với tỷ lệ thương tích qua giám định là
51%.
(3) Về mối quan hệ nhân quả xảy ra, việc ông B tự ý lấy cây sắt làm nơi cho chủ tàu để trái
cây cúng đã vô tình kéo theo chuỗi hành động và hậu quả là ông C bị bỏng nặng. Như vậy
đã có mối quan hệ nhân quả xảy ra giữa ông B và ông C.
Như thế đã đủ điều kiện để xác định rằng ông B và ông C phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Nhưng ở đây Tòa án đã dùng Điều 622 BLDS 2005 để xác định rằng ông A sẽ phải chịu
trách nhiệm bồi thường này dù ông A không hề gây ra cho anh C bất cứ thứ gì. Nhưng vì
ông B làm công cho ông A nên ông A phải chịu trách nhiệm vì ông B đã làm dưới trướng
của anh. Và đây không phải là việc A yêu cầu mà ông B tự ý làm nên ông B có thể yêu cầu
ông A hoàn trả lại, thế nên kháng cáo ông A không thể yêu cầu ông B hoàn trả tiền là vô
căn cứ vì Tòa đã xác định ông A phải thanh toán khoản tiền trên và xử lý trong một vụ án
riêng. Nếu không bắt B hoàn trả lại cho ông A thì sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của ông A.
17
Có ý kiến cho rằng “Thiệt hại phải bị gây ra khi người làm công thực hiện công việc được
giao. Chủ thể sử dụng người làm công chỉ phải bồi thường khi người làm công gây hại
trong khi thực hiện công việc được giao.” Ý kiến này cũng không phải là sai, nhưng nhóm
cho rằng việc này dựa trên sự thiện chí của người sử dụng người làm công, vì dù thế nào thì
bắt người làm công bồi thường một khoản tiền hơn trăm triệu là một điều khó có thể xảy ra
và có thể để người có khả năng làm việc này bồi thường trước và yêu cầu người làm công
của mình hoàn trả lại sẽ hợp lý hơn.
Kết luận: Trong trường hợp này, ông B có thể tự bồi thường vì ông đủ điều kiện để xác
định là bồi thường thiệt hại đối với ông C. Nhưng trong phần trình bày của mình, ông cũng
thừa nhận dù mình có lỗi nhưng cũng không có khả năng bồi thường cho ông C. Nếu Tòa
án không giải quyết để ông A đứng ra bồi thường cho ông C theo Điều 622 Bộ luật dân sự
2005 thì sẽ dẫn đến thiệt cho ông C, ông A vẫn có thể cho ông B hoàn trả lại số tiền bồi
thường theo nhiều cách khác như làm công không lương, trả góp,...Nhưng ông C không thể
làm vậy đối với ông B vì ông C cũng chỉ là người làm công như ông B. Thế nên hướng giải
quyết cho ông A bồi thường cho ông C và buộc ông B hoàn trả lại cho ông A là hoàn toàn
hợp lý.

Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra


Nghiên cứu:
 Điều 584, Điều 585, Điều 603 BLDS 2015 (Điều 604, 625 BLDS 2005), Nghị quyết
số 03 năm 2006 của HĐTP và các quy định liên quan khác (nếu có);
 Bản án số 23/2017/DS-ST ngày 08/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi tỉnh
Cà Mau.
Đọc:
 Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương 6;
 Lê Hà Huy Phát, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 34;
 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình
luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2022 (xuất bản lần thứ năm),
Bản án số 172-175;
 Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007, tr. 497 đến 498;
 Các tài liệu khác (nếu có).
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=6L2zVsATT-4&list=PLy3fk
Và cho biết:
Câu 1: Quy định nào của BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật”?
Trong BLDS 2015, thuật ngữ “súc vật” được nhắc đến 11 lần. Tất cả những lần nhắc đến
này đều được quy định tại Điều 603 BLDS 2015 như sau:
“Điều 603. Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác. Người
chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng
súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

18
2. Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác
thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì
phải liên đới bồi thường thiệt hại.
3. Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường; khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc
vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi
thường thiệt hại.
4. Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó
phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.”
Câu 2: BLDS có định nghĩa “súc vật” là gì không?
BLDS 2015 không có định nghĩa cụ thể nào về “súc vật”. Tuy nhiên theo từ điển tiếng Việt,
súc vật là những loài động vật được nuôi bởi con người, chúng có thể được thuần hóa (hoàn
toàn) hoặc bán thuần hóa (thuần hóa một phần) hoặc được thuần dưỡng, huấn luyện. Súc
vật có thể bao gồm gia súc, gia cầm, thú cưng hoặc vật nuôi khác.
Câu 3: Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu như thế nào?
Trong thực tiễn xét xử, “súc vật” được hiểu theo nghĩa khá “mở” đối với Tòa án ở Việt
Nam. Bản án số 191/DSPT: Ông Nhã điều khiển xe mô tô thì phát hiện ông Quy đang giữ 3
con bò bên lề phải của hướng đi. Khi ông vừa chạy đến nơi ông Quy giữ bò thì thấy ông
Quy dùng tay đập vào cổ của con bò làm con bò nhảy tung ra lộ, đụng ngay vào xe của ông
làm xe và ông ngã xuống lộ, làm hư xe ông và gây thương tích cho ông Nhã. Tòa án xét xử
đã coi bò là “súc vật” của ông Quy; buộc ông Quy bồi thường thiệt hại cho ông Nhã.
Bản án số 222/2007/DSPT: Bà Thánh có nuôi một con chó nhỏ, thả rông nên mỗi ngày con
chó vẫn thường qua nhà chị Tha tự kiếm ăn. Vào một buổi sáng, con chó của bà Thánh qua
nhà chị Tha ăn xương, do giành miếng thịt với cháu Thoa nên con chó táp trúng miệng cháu
Thoa làm chảy máu. Bản án sơ thẩm xem xét chó là “súc vật” của bà Thánh; buộc bà Thánh
bồi thường chi phí cho chị Tha.
Xa hơn nữa là thực tiễn xét xử ở nước Pháp, có trường hợp chị A đang đi ở một sườn núi và
bị ong đốt. Tòa án Pháp đã áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do súc vật trong
trường hợp ong gây thiệt hại; ong đốt chị A thuộc nhóm do ông B nuôi nên ông B phải chịu
trách nhiệm bồi thường.
Tổng kết lại thì khái niệm “súc vật” trong thực tiễn xét xử khá rộng, những trường hợp
động vật thuộc sở hữu của cá nhân hay tổ chức gây ra thiệt hại hầu như được quy vào Điều
603 BLDS 2015 “Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra”, trừ những trường hợp động vật là
thú dữ.
Câu 4: Đoạn nào của bản án cho thấy thiệt hại là do chó Vinh gây ra?
 Đoạn của bản án cho thấy thiệt hại là do chó gây ra trong phần “NHẬN ĐỊNH CỦA
TÒA ÁN”:
“[3] Hội đồng xét xử thấy rằng vào ngày 06/01/2014 âl 05 con heo của bà Nga đã đi ăn trên
đất của ông Nhã thì bị chó của ông Nhã cắn bị thương 01 con là thực tế có xảy ra, được các
bên đương sự thừa nhận nền thuộc trường hợp những tình tiết, sự kiện không phải chứng
minh theo khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng Dân Sự. Ngoài ra, qua lời trình bày của Nga và
ông Nhã trong quá tình giải quyết vụ án; lời trình bày của ông Nhã tại biên bản hòa giải của
ấp không ghi thời gian (BL 02)và lời trình bày của người làm chứng trong vụ án chứng
minh được sau khi heo bị chó cắn thì hai ngày sau heo chết, bà Nga không sử dụng được
con heo bị chó cắn chết.”

19
Câu 5: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do súc vật gây ra?
 Đoạn mà bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi thường thiệt hại
do súc vật gây ra:
“Xét theo yêu cầu khởi kiện của bà Nga thì thấy rằng: Vị trí heo con của bà Nga bị chó nuôi
của ông Nhã cắn chết là trên đất của ông Nhã. Bà Nga và ông Nhã Xác định vật nuôi của
hai bên được thả rông theo tập quán nên xảy ra sự việc chó cắn heo chết. Theo Điều 625
BLDS 2005 quy định: “1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
cho người khác; nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc làm chủ súc vật gây thiệt
hại cho mình thì chủ sở hữu không phải bồi thường”, “4. Trong trường hợp súc vật thả
rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập
quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Căn cứ điều luật viện dẫn trên,
thấy rằng ông Nhã là chủ sở hữu súc vật (nuôi chó), vật nuôi trong nhà nhưng do lỗi quản lý
của ông Nhã nên chó nuôi của ông Nhã cắn chết heo nuôi của bà Nga. Đối với bà Nga cũng
là người sở hữu vật nuôi trong nhà là heo con nhưng cũng không quản lý đúng quy định, để
heo con chạy qua đất của ông Nhã, hậu quả làm chó của ông Nhã cắn chết heo của bà Nga,
làm cho bà Nga bị thiệt hại 01 con heo trị giá 1.000.000 đồng. Như vậy, trong trường hợp
trên cả bà Nga và ông Nhã đều có lỗi ngang nhau trong việc quản lý vật nuôi của mình, đã
gây thiệt hại cho bà Nga nên mỗi bên phải chịu 50% mức độ lỗi là đúng quy định của pháp
luật”.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng các quy định về bồi thường thiệt
hại do súc vật Vinh gây ra.
 Theo tôi, Tòa án áp dụng khoản 1 và khoản 4 Điều 625 BLDS năm 2005 làm căn cứ
pháp lý nhằm xác định mức độ lỗi của hai bên là hợp lý. Vì:
 Căn cứ theo khoản 4 Điều 603 BLDS 2015 (khoản 4 Điều 625 BLDS 2005): “Trường
hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi
thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Như vậy, việc
Tòa án yêu cầu ông Nhã là chủ sở hữu của con chó phải bồi thường thiệt hại cho bà Nga
vì chó của ông đã cắn chết heo con, dẫn đến thiệt hại là heo con của bà Nga chết là đúng
quy định của pháp luật. Tòa án đã vận dụng các quy định ở Khoản 1 Điều 625 BLDS
2005 để xác định phần lỗi của ông Nhã “Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do
súc vật gây ra cho người khác”, là chủ sở hữu của chó và người sở hữu đàn heo là bà
Nga cũng có lỗi, do đó mỗi bên đều phải chịu trách nhiệm 50% mức độ lỗi.
 Tuy nhiên, Tòa án cũng căn cứ vào khoản 4 Điều 585 BLDS 2015: “Khi bên thiệt hại có
lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình
gây ra”. Trong Bản án trên, bà Nga là chủ sở hữu vật nuôi là heo con nhưng do không
quản lý đúng quy định, bà để heo con chạy qua đất của ông Nhã, hậu quả làm chó của
ông Nhã cắn chết heo của bà Nga, nên trong trách nhiệm quản lý hai người đều có lỗi
ngang nhau, Tòa xác định lỗi của mỗi bên phải chịu là 50%. Do đó, việc ông Nhã phải
chịu bồi thường thiệt hại 50% tương đương với 500.000 đồng cho bà Nga là hợp lý.

Câu 7: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về lỗi của người bị thiệt
hại.
Ở BLDS 2005 lỗi của người bị thiệt hại được quy định chung tại Điều 617 “Khi người bị
thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường

20
phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của
người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường.” nhưng ở BLDS 2015 nó
đã được tách ra và quy định rõ ràng hơn thông qua khoản 2 Điều 584 “ Người gây thiệt hại
không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do
sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác.” và khoản 4 Điều 585 “Khi bên bị thiệt hại có lỗi
trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.”,
việc phân chia Điều 617 của BLDS 2005 thành các khoản nhỏ trong các điều luật cụ thể về
căn cứ phát sinh và nguyên tắc bồi thường thiệt hại sẽ phù hợp và dễ dàng hơn trong việc
áp dụng thực tiễn .
Câu 8: Suy nghĩ của anh chị về việc Toà án xác định bà Nga có lỗi trong việc lợn nhà
bà Nga bị xâm hại ?
Việc tòa án buộc bà Nga cũng có một phần lỗi trong vấn đề trên là hợp lý vì cho dù theo tập
quán pháp là nuôi thả rông nhưng đối với gia súc, gia cầm thông thường sẽ được quản lý
chặt chẽ hơn ở các địa phương và sự việc xảy ra trên đất nhà ông Nhà nên việc bà Nga
không quản lý chặt chẽ và để lợn của mình đi qua phần đất của người khác cũng gián tiếp
làm phát sinh thiệt hại trên vì vậy bà Nga cũng được xem là có một phần lỗi.
Theo khoản 4 Điều 603 BLDS 2015 quy định:
“Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải
bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”
Bên cạnh đó BLDS 2015 có đề cập đến các yếu tố về lỗi của người bị thiệt hại ở khoản 2
Điều 584: “Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
Và khoản 4 Điều 585 BLDS 2015: “Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì
không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra”
Do đó việc xác định lỗi của bà Nga trong việc lợn của bà bị xâm hại sẽ là một yếu tố quan
trọng để xác định mức bồi thường mà ông Nhà phải bồi thường cho bà Nga.

Câu 9: Việc Toà án không buộc ông Nhà bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà Nga có
thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án không buộc ông Nhà bồi thường cho bà Nga là thuyết phục vì đã xác định
được bà Nga cũng có một phần lỗi trong việc lợn của bà bị xâm hại do cả ông Nhã và bà
Nga đều thả rông vật nuôi dẫn đến xảy ra sự việc nêu trên nên việc bồi thường sẽ được áp
dụng theo các quy định sau của BLDS 2015.
Theo khoản 4 Điều 603 BLDS 2015 quy định:
“Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải
bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”,
Và khoản 4 Điều 585 BLDS 2015:
“Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt
hại do lỗi của mình gây ra”
Vì thế nên việc Tòa án không buộc ông Nhà bồi thường toàn bộ thiệt hại mà chỉ cần bồi
thường 50% còn lại 50% sẽ do bà Nga chịu trách nhiệm là hoàn toàn hợp lý và đảm bảo
được các quyền và lợi ích hợp pháp của ông.

21

You might also like