You are on page 1of 20

MỤC LỤC

1)
LẠM DỤNG QUYỀN DÂN SỰ 4
1.1) Tóm tắt bản án số 32/2023/DS-PT ngày 10/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Thọ.......................................................................................................................................4
1.2)Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về “Lạm dụng quyền dân
sự”?......................................................................................................................................5
1.3)Việc Tòa án xác định có “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc này có thuyết phục
không? Vì sao?.....................................................................................................................5
1.4)Tòa án đã áp dụng chế tài nào cho việc “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc này?5
1.5)Việc áp dụng chế tài nêu trên cho việc “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc này có
thuyết phục không? Vì sao?.................................................................................................5
2)TUYÊN BỐ CÁ NHÂN ĐÃ CHẾT:..............................................................................6
2.1)Quyết định số 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận 9 TP.
Hồ Chí Minh?......................................................................................................................6
2.2)Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đông
Sơn tỉnh Thanh Hóa.............................................................................................................7
2.3)Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019 của Toà án nhân dân TP. Hà Nội
............................................................................................................................................. 7
2.4)Quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện C,
tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An)..............................................................................8
2.5)Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên bố một
người là đã chết....................................................................................................................8
2.6) Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn bao lâu
thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?...........................................................................10
2.7) Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên bố chết biệt
tích từ thời điểm nào? Vì sao?...........................................................................................10
2.8) Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân? Nêu cơ sở
pháp lý và ví dụ minh hoạ..................................................................................................11
2.9) Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào? Đoạn nào
của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả lời?........................12
2.10) Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019),
pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào?.....................................................13

1
2.11) Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết định trên
(quyết định năm 2018 và 2019)?.......................................................................................13
2.12) Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và Tòa án
tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 có phù hợp với
quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..................................................................14
2.13) Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H có còn
được coi là vợ chồng nữa không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.......................................15
2.14) Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý như thế
nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................................15
3)TỔ HỢP TÁC:..............................................................................................................15
3.1) Bản án số 02/2021/DS-PT ngày 11/1/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông
3.2) Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy nghĩ
của anh/chị về những điểm mới này
3.3) Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác?
3.4) Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà H)?Hướng
xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
3.5)Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có thuyết phục
không Vì sao.

2
BẢNG VIẾT TẮT
TAND Tòa án nhân dân
CS/CCPL Cơ sở/Căn cứ pháp lý
BLDS Bộ luật Dân sự
GD Giao dịch
TP Thành phố

3
1)LẠM DỤNG QUYỀN DÂN SỰ
1.1) Tóm tắt bản án số 32/2023/DS-PT ngày 10/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Thọ
Tên bản án: Bản án số 32/2023/DS-PT ngày 10/5/2023 về việc “Yêu cầu tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H
Bị đơn: Bà Lê Thị H, Chị Đinh Thị Thúy H
Nội dung:
Bà Lê Thị H (mẹ đẻ anh Bùi Đình M) là chủ sở hữu quyền sử dụng đất thửa đất số 58, tờ
bản đồ số 12, diện tích 1093,8 m 2 và tài sản gắn liền với đất đã mang thế chấp tại Ngân
hàng TMCP Công Thương Việt Nam từ năm 2018 để đảm bảo khoản vay tín dụng của
anh M. Năm 2020, bà Nguyễn Thị H và người được ủy quyền là ông Triệu Văn T khởi
kiện bà H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thông qua bản án số 47/2020/HSST, bị
đơn nhận mức án 16 năm tù và buộc phải bồi thường cho nguyên đơn số tiền 880 triệu
đồng và lãi. Do đang bị cải tạo và tài sản duy nhất là 1 căn nhà trên thửa đất số 58 đã
mang thế chấp Ngân hàng nên bà H không thi hành án được.
Về phía anh Bùi Đình M và vợ là chị Đinh Thị Thúy H, trước đó anh M ký hợp đồng tín
dụng vay của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam với tài sản thế chấp là thửa đất
của bà H. Tháng 07/2019 là hoàn trả nợ, do không có khả năng trả vốn nên Ngân hàng đã
khởi kiện anh M, đồng thời có quyền phát mại tài sản thế chấp của anh để thanh toán
khoản nợ. Bà H đã ký hợp đồng ủy quyền cho con dâu là chị H chuyển nhượng tài sản
duy nhất là căn nhà trên thửa đất (Văn phòng Công chứng K Đ chứng thực). Khoảng
tháng 04/2021, chị H ký hợp đồng bán thửa đất trên cho anh Trần Anh T và chị Bùi Thị L
(Văn phòng Công chứng H T N chứng thực) để trả nợ Ngân hàng và thanh toán án phí
cho bà H. Cả anh M và chị H đều không biết việc vay nợ giữa bà Nguyễn Thị H và bà Lê
Thị H.
Phía bà Nguyễn Thị H và ông Triệu Văn T đã trình bày rằng bà Lê Thị H phải dùng thửa
đất số 58 và tài sản gắn liền với đất để trả cho những người có tên tại Bản án số
47/2020/HSST, nhưng bà H lại trốn tránh trách nhiệm thi hành bằng thủ đoạn tẩu tán tài

4
sản, ủy quyền cho chị H thực hiện hợp đồng chuyển nhượng tài sản cho anh T và chị L,
nên đã khởi kiện yêu cầu Tòa tuyên bố “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đó
vô hiệu.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xử bác yêu cầu khởi kiện của
bà Nguyễn Thị H. Ông Triệu Văn T nộp đơn kháng cáo và kháng cáo bổ sung đề nghị
hủy án sơ thẩm, tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Đinh Thị Thúy
H với
Trần Anh T và Bùi Thị L vô hiệu và hủy giấy tờ liên quan. Tại phiên tòa phúc thẩm,
đương sự xin rút yêu cầu kháng cáo hủy án sơ thẩm, giữ nguyên đề nghị còn lại. Xét thấy
các nội dung về tố tụng, kháng cáo, Tòa án quyết định chấp nhận kháng cáo của bà
Nguyễn Thị H, do ông Triệu Văn T đại diện và xử lý theo pháp luật quy định.
1.2) Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về “Lạm dụng quyền
dân sự”?
Ở phần nhận định của Tòa án, Tòa án đã áp dụng quy định về “Lạm dụng quyền dân sự” về
“việc anh M có tài sản nhưng lại dùng tài sản của bà Lê Thị H để thực hiện nghĩa vụ đối với
ngân hàng, trong khi bà H đang có nghĩa vụ thì lại bằng việc ủy quyền gây thiệt hại cho
người khác, nên cần xác định trong trường hợp này việc ủy quyền bị giới hạn, việc lạm
quyền là vi phạm pháp luật.”
1.3) Việc Tòa án xác định có “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc này có thuyết phục
không? Vì sao?
CSPL: khoản 2 Điều 160 BLDS 2015: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí
của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc
làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác.”
Việc Tòa án xác định có “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc này là thuyết phục. Vì Tòa
án nhận thấy: “Việc ủy quyền chuyển nhượng của bà Lê Thị H đã ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của bà H.”
1.4) Tòa án đã áp dụng chế tài nào cho việc “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc
này?
Trong vụ việc này, Tòa án đã áp dụng chế tài là:
- Xác định Hợp đồng ủy quyền do Văn phòng Công chứng K Đ lập chỉ có pháp lý
đối với phần giải chấp tại ngân hàng, các nội dung khác vô hiệu.

5
- Xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
giữa bà Lê Thị H (do chị Đinh Thị Thúy H được ủy quyền ký bên A) với Trần
Anh T và Bùi Thị L là vô hiệu.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tài sản gắn liền với đất được trả lại cho bà
Lê Thị H.
1.5) Việc áp dụng chế tài nêu trên cho việc “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc
này có thuyết phục không? Vì sao?
CSPL: khoản 1 Điều 101 và khoản 2 Điều 102 BLDS 2015
Việc áp dụng chế tài nêu trên cho việc “lạm dụng quyền dân sự” trong vụ việc này là
thuyết phục. Vì theo khoản 2 Điều 10 BLDS 2015, trong trường hợp việc lạm dụng
quyền dân sự của bà Lê Thị H gây thiệt hại cho bà Nguyễn Thị H thì Tòa án căn cứ vào
vụ việc, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể không bảo vệ quyền cho bà H, tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu, khôi phục lại tình trạng ban đầu.

2) TUYÊN BỐ CÁ NHÂN ĐÃ CHẾT:


2.1) Quyết định số 272/2018/QĐST-DS ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận 9
TP. Hồ Chí Minh
Người yêu cầu giải quyết việc dân sự: Bà Bùi Thị T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Minh T.
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Vụ việc: Yêu cầu tuyên bố ông Trần Văn C đã chết
Ngày 07/8/2018, bà Bùi Thị T yêu cầu tuyên bố ông Trần Văn C là đã chết. Nơi cư trú
cuối cùng của ông C là phường Phước Bình, quận 9, TP. Hồ Chí Minh. Bà T và ông C là
vợ chồng, có 01 con chung là ông Trần Minh T. Cha mẹ ông C là ông Trần Văn N (chết
năm 1987) và bà Nguyễn Thị B (chết ngày 04/12/2017). Cuối năm 1985, ông C bỏ nhà đi
biệt tích, gia đình bà T đã tổ chức tìm kiếm nhưng không có tin tức. Ngày 26/10/2017,
TAND Quận 9 ban hành Thông báo tìm kiếm thông tin về người bị yêu cầu tuyên bố là
đã chết trên Báo Công lý số 95, 96, 97 và nhắn tin trên Đài tiếng nói Việt Nam ngày 23,
24, 25/11/2017 nhưng không có tin tức. Theo điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS 2015 thì

1
Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho
người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật.
2
Trường hợp cá nhân, pháp nhân không tuân thủ quy định tại khoản 1 Điều này thì Tòa
án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm
mà có thể không bảo vệ một phần hoặc toàn bộ quyền của họ, buộc bồi thường nếu gây
thiệt hại và có thể áp dụng chế tài khác do luật quy định.
6
người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố nên bà T có quyền yêu
cầu tuyên bố ông C là đã chết. Vì ông C thuộc trường hợp công an địa phương không xác
định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng của ông C nên Tòa quyết định ngày chết của
ông C là ngày 01/01/1986. Các quan hệ về tài sản, hôn nhân, gia đình và các quan hệ
nhân thân khác của ông Trần Văn C được giải quyết theo luật định đối với người đã chết.
2.2) Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện
Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa
Người yêu cầu giải quyết việc dân sự: Anh Quản Bá Đ
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Quản Thị K
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Vụ việc: Yêu cầu tuyên bố chị K đã chết
Nội dung: Chị gái của anh Đ là chị K đã bỏ nhà đi khỏi địa phương từ năm 1992, gia đình
đã nhiều lần tìm kiếm và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng vẫn
không có tin tức. Nay anh Đ làm đơn yêu cầu Toà án tuyên bố chị K là đã chết. Sau khi
thụ lý vụ việc, Toà án đã ra quyết định tìm kiếm chị K trên Cổng thông tin điện tử
TANDTC, Báo nhân dân và Đài tiếng nói Việt Nam trong 03 kỳ liên tiếp. Đã hết thời
hiệu thông báo nhưng chị K vẫn không về và không có tin tức nên Toà án quyết định
tuyên bố chị K là đã chết.
2.3) Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019 của Toà án nhân dân TP. Hà
Nội
Nguyên yêu cầu giải quyết việc dân sự: Bà Phạm Thị K
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Vụ việc: “Yêu cầu tuyên bố cụ Phạm Văn C đã chết”
Nội dung:
Bố đẻ của bà K là cụ Phạm Văn C đã bỏ nhà đi từ tháng 1/1007 từ đó đến nay không trở
về nhà. Thời điểm cụ C đi khỏi nhà thì sức khỏe bình thường, không ốm đau, bệnh tật,cụ
còn minh mẫn, tuy nhiên cụ C có tiền sử bị bệnh huyết áp cao. Từ khi cụ C bỏ nhà đi, gia
đình bà K đã tìm kiếm nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay bà K yêu cầu Tòa án tuyên
bố cụ Phạm Văn C là đã chết.Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ được tìm thấy phù hợp với
trình bày của bà K và những người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan, do vậy có cơ sở xác
định cụ C đã biệt tích từ năm 1997 đến nay không có tin tức gì xác thực cụ C còn sống
hay đã chết.

7
Căn cứ theo điểm d khoản 1,khoản 2,khoản 3 Điều 71,Điều 72 Bộ luật Dân sự năm 2015,
Tòa án chấp nhận đơn yêu cầu của bà Phạm Thị K về việc yêu cầu Tòa án tuyên một
người đã chết đối với cụ C, tuyên bố cụ C đã chết từ ngày 1/5/1997.
2.4) Quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện
C, tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An).
Người yêu cầu: Ông Đ H
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: bà N T
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Vụ việc: “Yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết”
Năm 2008, ông Đ H và bà N T có mâu thuẫn vợ chồng dẫn đến việc ông Đ H chuyển đến
sinh sống tại Lâm Đồng và cắt đứt liên lạc với gia đình. Năm 2011, TAND huyện C tuyên
bố ông Đ H đã mất tích đồng thời cho ly hôn giữa bà T và ông H. Năm 2015, TAND
huyện C tuyên bố ông H đã qua đời.
Cho đến năm 2019, ông H quay trở về huyện C sinh sống và yêu cầu TAND hủy bỏ quyết
định tuyên bố ông đã chết và bà T cũng thừa nhận ông H còn sống và đồng ý với yêu cầu
hủy quyết định tuyên bố một người đã chết. Kiểm sát viên đại diện VKSND cũng đưa ra
quan điểm đồng ý và đề nghị chấp nhận yêu cầu của ông H. Hậu đối chiếu hồ sơ, TAND
huyện C có đủ căn cứ xác định để chấp nhận yêu cầu của ông H. Cuối cùng, Tòa quyết
định chấp nhận yêu cầu của ông H và hủy quyết định tuyên bố một người đã chết. Ông H
xác định không có tài sản nên không yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý có liên quan đến
quyết định tuyên bố một người là đã chết.
2.5) Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên bố
một người là đã chết

GIỐNG NHAU:

 Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền tuyên bố một người mất tích hay đã chết.

 Đối tượng yêu cầu Tòa án tuyên một người đã chết hay mất tích: Người có quyền
và nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người đã chết hoặc
mất tích.

8
 Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích phải được
gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố mất tích để ghi
chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

 Khi người bị tuyên bố đã mất tích hoặc chết thì vợ hoặc chồng có quyền ly hôn.
Khi có quyết định hủy bỏ tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết thì việc ly hôn
vẫn có hiệu lực.

KHÁC NHAU:

Tuyên bố mất tích Tuyên bố chết

Cơ sở pháp Điều 68,69,70 BLDS năm 2015 Điều 71,72,73 BLDS năm 2015

Điều kiện - Biệt tích 02 năm liền trở Đáp ứng 1 trong 4 trường hợp sau:
tuyên bố lên,không có tin tức.  Tuyên bố mất tích sau 3 năm mà vẫn
- Đã áp dụng các biện pháp không có tin tức xác thực là còn
thông báo tìm kiếm nhưng sống
vẫn không có tin tức xác thực.  Chiến tranh sau 5 năm
- Theo yêu cầu của người có  Tai nạn/ thảm họa/ thiên tai sau 2
quyền và nghĩa vụ liên quan. năm
 Biệt tích 5 năm liền trở lên và không
có tin tức xác thực là còn sống
- Đã áp dụng các biện pháp thông báo
tìm kiếm.
- Theo yêu cầu của người có quyền và
nghĩa vụ liên quan.

Hậu quả  Quan hệ nhân thân: Nếu vợ  Quan hệ về hôn nhân, gia đình và
pháp lý hoặc chồng xin ly hôn, Tòa án các quan hệ nhân thân khác của
giải quyết cho ly hôn (khoản người đó được giải quyết như đối
2 Điều 68 Bộ luật Dân sự với người đã chết.
2015  Quan hệ tài sản của người đó được
 Quan hệ tài sản: giải quyết như đối với người đã chết,
+)Quản lý tài sản của người vắng tài sản của người đó được giải quyết
mặt:người đang quản lý tiếp tục theo quy định của pháp luật thừa kế.
quản lý

9
+) Nếu Tòa án giải quyết ly hôn: Tài
sản của người bị tuyên bố mất tích
được giao cho:
 Con thành niên hoặc cha mẹ
của họ quản lý
 Người thân thích
 Người khác ( do Tòa án chỉ
định)

Khi họ trở Hủy bỏ Quyết định tuyên bố cá Hủy bỏ Quyết định tuyên bố cá nhân
về/có tin nhân mất tích: chết:
tức  Người quản lý tài sản giao lại  Người thừa kế tài sản giao lại tài
tài sản cho người mất tích sản hiện còn cho người mất tích.

2.6) Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn bao
lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?

CCPL: Điều 71 BLDS năm 2015

“1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một
người là đã chết trong trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật
mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không
có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa,
thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này
được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
2. Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết
của người bị tuyên bố là đã chết.”

10
2.7) Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên bố chết
biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao?
Quyết định 272/2018/QĐST-DS, Tòa án ra quyết định tuyên bố ông Trần Văn C là đã
chết vào ngày 01/01/1986. Vì ông C thuộc trường hợp không xác định được ngày, tháng
có tin tức cuối cùng thì ngày chết được tính là ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin
tức cuối cùng (khoản 1 Điều 68 BLDS 2015). 3

Quyết định số 04/2018/QĐST-DS ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đông
Sơn tỉnh Thanh Hóa thì chị Quản Thị K được tuyên bố là đã chết theo quy định tại tại
điểm d khoản 1 điều 71 của BLDS 2015 4 và tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này quy
định.Vì thế Tòa đã tuyên bố chị quản Thị K đã chết ngày 19/11/2018. Ngày 19/11/2018
là ngày làm căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ về nhân thân và tài sản, về
hôn nhân gia đình, về thừa kế của chị Quản Thị K.

Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS ngày 15/11/2019, cá nhân bị tuyên bố chết biệt tích
từ 01/05/1998 vì dựa thời điểm cụ C đi khỏi nhà là khoảng tháng 1/1997 và có ghi nhận
việc trả lương hưu cho cụ C chỉ được thực hiện vào hết tháng 4/1997, do vậy có cơ sở xác
định cụ C đã biệt tích từ năm 1997 đến nay không có tin tức xác thực cụ C còn sống hay
chết. Vì vậy Tòa đã căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS 2015 tuyên cụ C đã chết
vào ngày 1/5/1997.

2.8) Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân? Nêu cơ
sở pháp lý và ví dụ minh hoạ.

3
“Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp
thông báo tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có
tin tức xác thành người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền lợi
ích liên quan tòa án có thể tuyên bố người đỏ tích.

Thời hạn 2 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó nếu không xác
định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của
tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày tháng có tin
tức cuối cùng từ thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin
tức cuối cùng".

4
“Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này
được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này”.

11
Việc xác định ngày chết của một cá nhân cụ thể ở khoản 1 Điều 71 BLDS năm 2015 rất
quan trọng để Tòa án sẽ căn cứ vào đó nhằm tuyên bố một người đã chết, là tiền đề để
làm thay đổi,phát sinh,chấm dứt các quan hệ pháp luật khác về tài sản, nhân thân, hôn
nhân, thừa kế, thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại theo Điều 72 BLDS.

Thời điểm chết của một người là thời điểm phát sinh sự kiện pháp lý liên quan đến
quyền,nghĩa vụ về tài sản của người đó. Đặc biệt,nó là cơ sở để xác định thời điểm mở
thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015: “1. Thời điểm mở thừa kế
là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì
thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”

Ví dụ minh họa: Ông A và bà B là vợ chồng. Ông A bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là


đã chết vào ngày 01/01/2012. Ngày 13/06/2013, bà B đã kết hôn với người khác. Ngày
17/03/2024, ông B còn sống và trở về, đã kiện bà B vì tội ngoại tình.Việc ông A kiện bà
B là không có căn cứ vì sau khi quyết định của Tòa án tuyên bố ông B đã chết có hiệu lực
vào ngày 13/06/2013 thì quan hệ vợ chồng giữa A và B đã chấm dứt theo khoản 1 Điều
72 BLDS 2015.
2.9) Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào? Đoạn
nào của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả lời?
Tại Quyết định 272/2018/QĐST-DS, ở phần nhận đinh: “Về việc xác định ngày chết
của ông C: Bà T và ông T xác định ông C bỏ đi cuối năm 1985, Công an phường Phước
Bình, Quận 9 không xác định được ngày,tháng ông C vắng mặt tại địa phương. Đây
thuộc trường hợp không xác định được ngày tháng có tin tức cuối cùng của ông C. Do
đó, ngày chết của ông C được tính là ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối
cùng. Như vậy ngày chết của ông Trần Văn C là ngày 01/01/1986.”

Tại Quyết định số 04/2018/QĐST-DS, ở phần Nhận định của Toà án và phần Quyết
định: “Sau khi thụ lý vụ việc, Toà án nhân dân huyện Đông Sơn đã ra quyết định thông
báo tìm kiếm chị Quản Thị K trên Cổng thông tin điện từ Tòa án nhân dân Tối Cao; Báo
nhân dân và Đài tiếng nói Việt Nam 03 kỳ liên tiếp. Thời hạn thông báo 04 tháng kể từ
ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên (06/7/2018). Đến nay đã hết thời hạn thông báo
theo quy định của pháp luật, nhưng chị K vẫn không về và cũng không có tin tức gì về chị
K. Do đó có đủ cơ sở khẳng định chị Quân Thị K đã biệt tích 05 năm liền trở lên và
không có tin tức xác thực là chị K còn sống”,“Chấp nhận đơn yêu cầu của anh Quân
Bá Đ;Tuyên bố chị Quản Thị K - sinh 1969 đã chết ngày 19/11/2018”.

Tại Quyết định số 94, ở phần nhận định của Tòa án:“Căn cứ vào tài liệu,chứng cứ nêu
trên thấy phù hợp với trình bày của bà K và của những người có quyền lợi,nghĩa vụ liên
12
quan, do vậy có cơ sở xác định,cụ C đã biệt tích từ năm 1997 đến nay không có tin tức gì
xác thực cụ C còn sống hay đã chết. Căn cứ vào văn bản trả lời của cơ quan Bảo hiểm
xã hội thành phố Hà Nội nêu trên, có cơ sở xác định tin tức cuối cùng về cụ C là tháng
4/1997. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 71 BLDS, căn cứ vào quy định nêu trên,
có cơ sở xác định cụ Phạm Văn C đã chết kể từ ngày 1/5/1997”

2.10) Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định năm 2018 và
2019), pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào ?

Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định năm 2018 và 2019, ở chương IV Thiên 2 Bộ
luật Dân sự Pháp5 có cách xác định ngày chết là ngày nào đối với hai trường hợp trên, cụ
thể:

Điều 90:“Nếu tòa án xét thấy chưa đủ căn cứ kết luận một người là đã chết, thì có thể
yêu cầu thực hiện mọi biện pháp điều tra bổ sung, đặc biệt là điều tra hành chính về
hoàn cảnh mất tích.

Nếu tòa án tuyên bố một người là đã chết thì ngày chết phải được xác định trên cơ sở suy
đoán từ hoàn cảnh vụ việc, nếu không thì là ngày mất tích. Ngày chết luôn luôn phải
được xác định cụ thể.”

Điều 91: “Quyết định của tòa án tuyên bố một người là đã chết có giá trị như giấy chứng
tử và có hiệu lực đối kháng với người thứ ba, người thứ ba chỉ có quyền yêu cầu cải
chính hoặc hủy bỏ theo quy định tại các điều 99 và 99-1 Bộ luật này.”

2.11) Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết định
trên (quyết định năm 2018 và 2019).

Ở Quyết định số 272/2018/QĐST-DS, việc Toà án xác định ngày chết của ông Cường
như vậy là hợp lý. Ông C đã bỏ nhà đi biệt tích từ cuối năm 1985, mặc dù gia đình ông và
TAND quận 9 đã sử dụng những biện pháp để đăng thông tin tìm kiếm ông nhưng không
có kết quả. Mà trường hợp của ông C là không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối
cùng nên việc xác định ngày chết của ông C căn cứ theo khoản 1 Điều 68 BLDS
2015:“Nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được
tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng”.Qua đó, việc TAND
quận 9 xác định ngày chết của ông C là ngày 01/01/1986 là có cơ sở.

Tại Quyết định số 04/2018/QĐST-DS, việc Toà án tuyên bố chị K đã chết ngày
19/11/2018 như vậy là hợp lý. Theo quyết định số 04/2018/QĐST-DS thì chị K đã bỏ đi
5
Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam,Bản dịch Bộ luật Dân sự Pháp,xuất bản năm 2018
13
từ năm 1992 và từ đó không có bất cứ tin tức nào về chị K dù gia đình đã nhiều lần tìm
kiếm và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sau khi thụ lý vụ án Toà án
đã ra quyết định tìm kiếm chị K trên Cổng thông tin điện tử TANDTC, Báo nhân dân và
Đài tiếng nói Việt Nam nhưng đến khi hết thời hạn thông báo(thời hạn thông báo 4 tháng
kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên là 6/7/2018) vẫn không có tin tức về chị K.
Do đó, Toà án đủ căn cứ để tuyên bố chị K đã chết ngày 19/11/2018. Ngày 19/11/2018 là
ngày làm căn cứ phát sinh,thay đổi, chấm dứt các quan hệ về nhân thân và tài sản của chị
K.

Tại Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS,việc xác định cụ C đã chết từ ngày 1/5/1997 là


hợp lý do cụ C biệt tích 5 năm liền trở lên và không xác định được ngày có tin tức cuối
cùng nên Tòa án đã áp dụng khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự năm 2015 là hoàn toàn hợp
lý.

Nếu như trong bản án số 272/2018/QĐT-DS ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận
9 TP.HCM và bản án số 94/2019 của Tòa án nhân dân TP Hà Nội ngày 15/11/2019 của
Tòa án nhân dân TP Hà Nội, ngày chết được Tòa án xác định vào ngay sau thời điểm có
tin tức cuối cùng của người biệt tích thì trong bản án số 04/2018/QĐST-DS ngày
19/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Tòa án lại xác định ngày chết là ngày
quyết định tuyên bố có hiệu lực. Ông C trong Quyết định số 272 biệt tích từ năm 1985 và
Tòa tuyên chết ngày 1/1/1986 và cụ C trong Quyết định số 94 ngày cuối cùng có tin tức
là 4/1997, Tòa tuyên bố ngày chết là 1/5/1997 nhưng bà K ở Quyết định số 04 biệt tích từ
năm 1992 nhưng Tòa lại tuyên bà K chết ngày 19/11/2018. Hướng giải quyết trên là hợp
lý nhưng nhóm chúng em vẫn thấy còn có mâu thuẫn. Vì vậy theo nhóm chúng em nên
ban hành công văn hướng dẫn cách xác định ngày chết cho từng trường hợp cụ thể, để
đảm bảo việc áp dụng pháp luật được thống nhất, tránh trường hợp hiểu nhiều cách khác
nhau gây khó khăn cho xét xử.

2.12) Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và Tòa án
tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 có phù
hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

CSPL: khoản 1 Điều 73 BLDS 2015: “ Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc
có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người
có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là
đã chết.”

Năm 2008, ông H vì mâu thuẫn nên đến tỉnh Lâm Đồng sinh sống. Năm 2011, Tòa tuyên
bố ông H mất tích theo khoản 1 Điều 68 BLDS năm 2015. Năm 2015, Tòa án tuyên bố

14
ông H đã chết theo quy định của điểm a khoản 1 Điều 71: “ Sau 03 năm, kể từ ngày
quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức
xác thực là còn sống” và khoản 2 Điều 71 BLDS 2015. Tuy nhiên năm 2019 ông H đã
quay trở lại huyện C để sinh sống và có đầy đủ hồ sơ hộ khẩu và chứng minh nhân dân.

Vì vậy, căn cứ theo Điều 73 BLDS 2015, Tòa hủy bỏ quyết định tuyên bố ông H đã chết
trong Quyết định năm 2020 là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với quy định.

2.13) Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H có
còn được coi là vợ chồng nữa không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

CSPL: khoản 2 Điều 686; điểm a khoản 2 Điều 73 BLDS 20157

Năm 2011, TAND huyện C đã cho ly hôn giữa bà T và ông H theo khoản 2 Điều 68 Bộ
luật Dân sự năm 2015. Tuy ông H đã được hủy bỏ quyết định tuyên bố ông đã chết nhưng
căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 73 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyết định ly hôn vẫn
có hiệu lực. Vậy thì bà T và ông H không thể được coi là vợ chồng theo các quy định
trên.

2.14) Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý như
thế nào sau khi có quyết định năm 2020? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

CSPL: Khoản 3 Điều 73 BLDS 2015:“Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có


quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện
còn.”

Căn cứ theo khoản 3 Điều 73 BLDS, nếu ông H có tài sản thì sau khi Quyết định năm
2020 có hiệu lực, ông hoàn toàn có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế
trả lại tài sản và giá trị tài sản hiện còn.

3) TỔ HỢP TÁC:
3.1) Bản án số 02/2021/DS-PT ngày 11/1/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thế Th.


6
Khoản 2 Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015: “Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên
bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về
hôn nhân và gia đình.”
7
Điểm a khoản 2 Điều 73: “Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa
án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật này thì quyết định cho ly
hôn vẫn có hiệu lực pháp luật”
15
Bị đơn: Tổ trưởng Tổ hợp tác X, xã N: Ông Nguyễn Thăng L.

Cấp xét xử: Phúc thẩm

Nội dung:

Ngày 13/9/2018, Tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợp tác) ký hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m 2 đất tọa lạc tại thôn 06, xã
N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích xây dựng kho cất trữ cà phê sau thu hoạch, diện
tích đất cho thuê là một phần của thửa đất số 50, tờ bản đồ số 03, diện tích 12.103m 2 theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Ydo Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày
12/12/2006, đứng tên hộ ông Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H.

Sau khi ký kết hợp đồng và chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã N, ông Th đã tiến hành
phá bỏ một số cây cối, hàng rào với số tiền thiệt hại là 50.400.000 đồng. Đến ngày
11/01/2019, ông Th nhận được thông báo số: 01/TB-THT, với nội dung thể hiện do hoàn
cảnh thay đổi nên chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất theo Điều 420 BLDS năm
2015. Ngày 14/01/2019, ông Th đã làm văn bản thông báo cho Tổ hợp tác rằng ông
không đồng ý chấm dứt hợp đồng. Cho rằng việc chấm dứt hợp đồng là không đúng quy
định pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông nên ông
Th khởi kiện Tổ hợp tác yêu cầu phải bồi thường thiệt hại về cây cối trước và sau khi
giải phóng với số tiền là 50.400.000 đồng. Mặt khác, đại diện của Tổ hợp tác X,ông Bùi
Vĩnh H trình bày là ông Th chưa bàn giao đất cho Tổ hợp tác,Tổ hợp tác cũng không yêu
cầu ông Th chặt cây, múc đất và thực tế không có tài sản trên đất bị thiệt hại, do đó, Tổ
hợp tác không chấp nhận yêu cầu bồi thường.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Th. Ông
Th đã kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án.

Quyết định của Tòa án: Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông
Nguyễn Thế Th. Hủy bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2020/DS-ST ngày 27/7/2020 của Tòa
án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

3.2) Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy nghĩ
của anh/chị về những điểm mới này.

BLDS 2005 BLDS 2015

Về “Tổ hợp tác có đủ điều kiện để trở thành Không quy định tổ hợp tác có tư cách

16
chủ pháp nhân theo quy định của pháp luật pháp nhân.
thể thì đăng ký hoạt động với tư cách pháp
nhân tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.”(khoản 1 Điều 111) Do đó, việc xác lập giao dịch dân sự
phải do người đại diện theo ủy quyền
“Hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác thực hiện. Trường hợp thành viên của tổ
có chứng thực của ủy ban nhân dân xã, hợp tác không có tư cách pháp nhân
phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở tham gia giao dịch dân sự không được
lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để các thành viên khác ủy quyền làm người
thực hiện những công việc nhất định, đại diện thì thành viên đó là chủ thể
cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm tham gia giao dịch, xác lập. (khoản 1
là chủ thể trong các quan hệ dân Điều 101 BLDS năm 2015)
sự.”(khoản 1 Điều 111)
Không quy định số thành viên tối thiểu
của tổ hợp tác.

Về - “Người đại diện là tổ trưởng do các tổ - Người đại diện là người được các
đại viên cử ra, tổ trưởng có thể ủy quyền cho thành viên khác ủy quyền, người đại
diện tổ viên thực hiện một số công việc nhất diện chỉ có quyền thực hiện giao dịch
định cần thiết cho tổ.” (khoản 1 Điều khi được các thành viên khác ủy quyền.
113) Việc ủy quyền phải lập thành văn bản,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác
(khoản 1 Điều 101)

- Một số vấn đề khác như tài sản của tổ hợp tác, nghĩa vụ của tổ viên, quyền của tổ viên,
trách nhiệm dân sự của tổ hợp tác, … giữa 2 Bộ luật không có nhiều thay đổi và nội dung
là như nhau. Ở BLDS 2015 không đề cập những quy định về nhận tổ viên mới, ra khỏi tổ
hợp tác hay chấm dứt tổ hợp tác như ở Bộ luật 2005, Bộ luật 2015 cũng quy định thêm hệ
quả pháp lý đối với giao dịch dân sự do thành viên không có quyền đại diện hoặc vượt
quá phạm vi đại diện xác lập, thực hiện.

17
-Theo nhóm chúng em những điểm mới về tổ hợp tác trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đã
thể hiện được sự tiến bộ và khắc phục được những hạn chế, tiêu cực ở Bộ luật Dân sự
năm 2005.
+ Thứ nhất, với việc xóa tư cách chủ thể của tổ hợp tác, nó đã giảm được nhiều bất cập
của hoạt động tư pháp, do đây là tập hợp các cá nhân có quan hệ với nhau về tài sản. Số
lượng cá thể có thể khác nhau. Với nhiều hoặc ít thành viên, ý chí có thể không đồng
nhất.
+ Thứ hai, Khi tham gia giao dịch dân sự, nếu coi hợp tác là chủ thể có tư cách pháp
nhân thì sẽ khó xảy ra nên vướng mắc về vấn đề tài sản chung hay tài sản riêng cũng dễ
xảy ra và có tranh chấp.
+ Thứ ba, trên thực tế xét xử chưa có vụ kiện nào có nguyên đơn hoặc bị đơn là tổ hợp
tác. Hơn nữa, khoản 1 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự chỉ quy định:“Đương sự trong vụ
án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan” (tổ hợp tác không được xác định là đương sự trong vụ án dân sự). Vì
vậy việc loại bỏ tư cách là chủ thể của tổ hợp tác là hợp lý.
3.3) Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê quyền
sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác?
Ở phần nội dung vụ án cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê quyền sử dụng đất được xác
lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác:
“ Ngày 13/9/2018, Tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợp tác ) ký hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m2 đất tọa lạc tại thôn 06, xã
N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích xây dựng kho cất trữ cà phê sau thu hoạch, diện
tích đất cho thuê là một phần của thửa đất số 50, tờ bản đồ số 03, diện tích 12.103m2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày
12/12/2006, đứng tên hộ ông Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H. Vị trí đất cho thuê có tứ
cận: Phía Đông giáp đường bê tông; phía Tây giáp đất ông Nguyễn Thế Th; phía Nam
giáp đường đất; phía Bắc giáp đất ông Nguyễn Hữu H.( phần nội dung vụ án)
Ngày 13/9/2018, ông Bùi Vĩnh H đại diện cho Tổ hợp tác thuê 500m2 đất của ông Th để
làm nhà kho theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số 61/SCT/HĐ-GD.”
3.4) Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà H)?
Hướng xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Theo Tòa án, người đại diện bên phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch với ông Th và bà
H được xác định là: Ông Bùi Vĩnh H, căn cứ trong bản án như sau:“Ngày 13/09/2018,
ông Bùi Vĩnh H đại diện cho Tổ hợp tác thuê 500m2 đất của ông Th để làm nhà kho theo

18
Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số: 61/SCT/HĐ-GD. Thời điểm ký kết hợp đồng, ông
Bùi đang làm Tổ trưởng Tổ hợp tác. Cùng vào thời điểm đó, Ông Nguyễn T - Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã N nhiệm kỳ 2016 - 2021 cũng đã chứng thực hợp đồng cho thuê quyền
sử dụng đất giữa ông Th, bà H với ông H là đại diện của Tổ hợp tác. Dựa vào những ý
trên, có thể nói rằng Tòa án nhận định hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày
13/09/2018 được ký kết giữa ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H với Tổ trưởng Tổ hợp tác
là ông Bùi Vĩnh H.”

Hướng xác định như vậy của Tòa án theo chúng em là chưa phù hợp với quy định vì dựa
theo quy định tại Điều 101 BLDS 2015 thì “Chủ thể xác lập, thực hiện giao dịch của Tổ
hợp tác là tất cả các thành viên của Tổ hợp tác hoặc các thành viên ủy quyền phải được
lập thành văn bản. Trường hợp thành viên của Tổ hợp tác không được các thành viên
khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do
mình xác lập, thực hiện”. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ việc ông
H ký kết hợp đồng thuê đất có được các thành viên của Tổ hợp tác ủy quyền hay không,
trong hồ sơ không có văn bản ủy quyền của các thành viên Tổ hợp tác. Vì thế, không thể
xác định giao dịch dân sự được thực hiện với ông Th và bà H là do ai làm chủ thể, là tất
cả thành viên của Tổ hợp tác hay cá nhân ông Bùi Vĩnh H. Bởi những lẽ trên, Tòa án xác
định ông Bùi Vĩnh H đại diện Tổ hợp tác thực hiện giao dịch với ông Th và bà H là
không phù hợp với quy định của pháp luật.
3.5)Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có thuyết phục
không ? Vì sao.

Theo Tòa án, ông Bùi Vĩnh H là bị đơn.

Căn cứ vào Điều 101 BLDS năm 2015: “Chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia
của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

1. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc
ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền
phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi
người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.

Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền làm người
đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.”

19
Vì ông H là người trực tiếp ký kết hợp đồng là bị đơn trong vụ án, còn các thành viên
trong tổ hợp tác tại thời điểm ký hợp đồng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tổ
hợp tác không có tư cách pháp nhân nên ông Bùi Vĩnh H không phải là người đại diện
cho Tổ hợp tác để ký kết hợp đồng.

Thời điểm ký kết hợp đồng,ông H đang làm tổ trưởng đến tháng 1/2019 ông L thay ông
làm Tổ trưởng. Nên ông Bùi Vĩnh H là chủ thể của quan hệ dân sự do ông xác lập với
ông Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H, ông H là người ký kết hợp đồng với ông Th chứ
không phải ông Nguyễn Thăng L, việc xác định đúng bị đơn đã bảo vệ được quyền lợi
cho ông L.

→ Hướng xác định của Tòa án là thuyết phục.

20

You might also like