You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HCM
KHOA : LUẬT HÀNH CHÍNH
LỚP : HC48A2
---------------------------------------------------

MÔN : NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ,


TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT : CHỦ ĐỀ CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ

NHÓM THẢO LUẬN :

Số thứ tự Họ và tên Mã số sinh viên


1 Nguyễn Thu Hằng 2353801014049
2 Lê Thị Mỹ Hạnh 2353801014050
3 Nguyễn Minh Hảo 2353801014054
4 Bùi Ngọc Hiền 2353801014055
5 Nguyễn Thị Diệu Hiền 2353801014056
6 Lê Minh Hưng 2353801014063
7 Nguyễn Lê Thanh Hương 2353801014066
8 Cao Đan Huy 2353801014068
9 Nguyễn Gia Khánh 2353801014079
10 Vương Gia Kiệt 2353801014090
11 Nguyễn Thị An Kiều 2353801014091
BẢN ÁN 1:
1. Những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực hành vi
dân sự và mất năng lực hành vi dân sự.
 Mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015
như sau:
"1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất
năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu
của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự.

2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện
theo pháp luật xác lập, thực hiện."
 Hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 24 Bộ luật Dân sự
2015 như sau:
"1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của
gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án
tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan
có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế
năng lực hành vi dân sự."
Điểm giống nhau:
 Cả hai trường hợp đều nêu rõ về việc cá nhân từng có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ.
 Một người chỉ được coi là bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế
năng lực hành vi dân sự khi có quyết định tuyên bố của Tòa án theo yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan.
 Khi một cá nhân đã bị Tòa án tuyên bố hạn chế hoặc mất năng lực hành vi
dân sự thì không thể tự mình tham gia tất cả các giao dịch dân sự mà pháp
luật cho phép, bắt buộc phải được thực hiện bởi người đại diện hợp pháp
của người này.
 Khi không còn căn cứ tuyên bố một người hạn chế hoặc mất năng lực hành
vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định
hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
Điểm khác nhau:
Tiêu chí so sánh Hạn chế năng lực hành Mất năng lực hành vi
vi dân sự dân sự
Căn cứ pháp lý Điều 24 BLDS 2015 Điều 22 BLDS 2015
Đối tượng Người nghiện ma túy, Khi một người do bị
nghiện các chất kích bệnh tâm thần hoặc mắc
thích khác dẫn đến phá bệnh khác mà không thể
tán tài sản của gia đình. nhận thức, làm chủ được
hành vi.
Cách thức xác định về Theo yêu cầu của người Theo yêu cầu của người
mặt pháp lý có quyền, lợi ích liên có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, quan hoặc của cơ quan,
tổ chức hữu quan. tổ chức hữu quan.
Trên cơ sở kết luận giám
định pháp y tâm thần.
Hệ quả pháp lý Việc xác lập, thực hiện Mọi giao dịch dân sự
giao dịch dân sự liên của người mất năng lực
quan đến tài sản của hành vi dân sự phải do
người bị Tòa án tuyên người đại diện theo pháp
bố hạn chế năng lực luật xác lập, thực hiện.
hành vi dân sự phải có
sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật, trừ
giao dịch nhằm phục vụ
nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày hoặc luật liên quan
có quy định khác.
Năng lực hành vi dân Không đầy đủ Không có
sự
Người đại diện Người đại diện của Người đại diện cho
người bị hạn chế năng người mất năng lực hành
lực hành vi dân sự do vi dân sự có thể là cá
Tòa án quyết định được nhân hoặc pháp nhân
ghi nhận trong bản án. được gọi là người giám
hộ.
Người giám hộ có thể
được chỉ định hoặc
đương nhiên trở thành
người đại diện theo pháp
luật (khi không có người
giám hộ đương nhiên).
2. Những điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự và người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
 Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 24 Bộ
luật Dân sự 2015 như sau:
"1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của
gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án
tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan
có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế
năng lực hành vi dân sự."
 Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quy định tại
Điều 23 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu
cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố
người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người
giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
2. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
Tiêu chí Người hạn chế năng Người có khó khăn
lực hành vi dân sự trong nhận thức, làm
chủ hành vi
Căn cứ pháp lý Điều 24 BLDS 2015 Điều 23 BLDS 2015
Đối tượng Người nghiện ma túy, Người thành niên do
nghiện các chất kích tình trạng thể chất hoặc
thích khác dẫn đến phá tinh thần mà không đủ
tán tài sản của gia đình. khả năng nhận thức, làm
chủ hành vi nhưng chưa
đến mức mất năng lực
hành vi dân sự.
Cách thức xác định về Theo yêu cầu của người Theo yêu cầu của người
mặt pháp lý có quyền, lợi ích liên này, người có quyền, lợi
quan hoặc của cơ quan, ích liên quan hoặc của
tổ chức hữu quan. cơ quan, tổ chức hữu
quan, trên cơ sở kết luận
giám định pháp y tâm
thần.
Hệ quả pháp lý Việc xác lập, thực hiện - Thông qua người giám
giao dịch dân sự liên hộ của họ và chỉ xác lập,
quan đến tài sản của thực hiện hoặc đồng ý
người bị Tòa án tuyên giao dịch dân sự trong
bố hạn chế năng lực phạm vi đã được xác
hành vi dân sự phải có định trong Quyết định
sự đồng ý của người đại của cơ quan Tòa án.
diện theo pháp luật, trừ - Nếu chứng minh được
giao dịch nhằm phục vụ chủ thể giao dịch trong
nhu cầu sinh hoạt hàng trạng thái tỉnh táo thì
ngày hoặc luật liên quan giao dịch dân sự có hiệu
có quy định khác. lực.
Người đại diện Người đại diện theo Tòa án chỉ định người
pháp luật của người bị giám hộ, xác định
hạn chế năng lực hành vi quyền, nghĩa vụ của
dân sự và phạm vi đại người giám hộ. Trong
diện do Tòa án chỉ định. trường hợp người đó có
năng lực thể hiện ý chí
của mình tại thời điểm
yêu cầu thì phải được sự
đồng ý của người đó.
3. Trong quyết định số 52, Tòa án nhân dân tối cao đã xác định năng lực
hành vi dân sự của ông Chảng như thế nào?
Tại “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày 18/12/2007,
Hội đồng giám định y khoa Trung ương – Bộ Y tế xác định ông Chảng: “...Không tự đi
lại được. Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng, liệt hoàn toàn 1⁄2 người phải. Rối loạn cơ
tròn kiểu trung ương, tai biến mạch máu não lần 2. Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Hiện tại
không đủ năng lực hành vi lập di chúc. Được xác định tỷ lệ mất khả năng lao động do
bệnh tật là: 91%...”. Như vậy, theo Điều 22 BLDS năm 2015, trên cơ sở kết luận giám
định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố ông Chảng mất năng lực hành vi
dân sự.
4. Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên có thuyết phục
không? Vì sao?
Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên thuyết phục, vì:
 Tại “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày
18/12/2007, Hội đồng giám định y khoa Trung ương – Bộ Y tế xác định
ông Chảng: “...Không tự đi lại được. Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng, liệt
hoàn toàn 1⁄2 người phải. Rối loạn cơ tròn kiểu trung ương, tai biến mạch
máu não lần 2. Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Hiện tại không đủ năng lực hành vi
lập di chúc. Được xác định tỷ lệ mất khả năng lao động do bệnh tật là:
91%...”.
 Theo khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015 “Khi một người do bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này mất năng
lực hành vi dân sự dựa trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.”
Do đó, theo quyết định của Tòa án nhân dân tối cao, hiện tại ông Chảng không đủ năng
lực hành vi dân sự để lập di chúc là có tính thuyết phục.
5. Theo Tòa án nhân dân tối cao, ai không thể là người giám hộ và ai mới
có thể là người giám hộ của ông Chảng? Hướng của Tòa án nhân dân
tối cao như vậy có thuyết phục không, vì sao?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Nguyễn Thị Bích không thể là người giám hộ mà bà
Nguyễn Thị Chung mới đủ điều kiện để làm người giám hộ của ông Chảng. Hướng của
Tòa án nhân dân tối cao như vậy là thuyết phục. Vì:
 Theo Công văn số 31/UBND-TP ngày 08/03/2019 của UBND phường Yên
Nghĩa (Hà Nội) ghi rõ : “...Qua kiểm tra xác minh sổ đăng ký kết hôn năm
2001 cho thấy không có trường hợp đăng ký kết hôn nào có tên ông Lê
Văn Chảng và bà Nguyễn Thị Bích…”.
 Tại công văn số 62 ngày 21/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xác định hành vi không xác minh tình
trạng hôn nhân, không lập hồ sơ theo quy định về đăng ký hộ tịch, nhưng
vẫn ký xác nhận giấy đăng ký kết hôn trình lãnh đạo Ủy ban nhân dân
phường Yên Nghĩa ký của ông Bùi Viết Tách (cán bộ tư pháp Ủy ban nhân
dân phường Yên Nghĩa) có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
 Bà Nguyễn Thị Chung đã chung sống với ông Chảng từ năm 1975, có tổ
chức đám cưới và có con chung. Trường hợp này bà Chung và ông Chảng
được công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại điểm a mục 3
Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội về việc
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình: “Trong trường hợp quan hệ vợ chồng
được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia
đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến
khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án
thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 ”
 Theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật dân sự 2015: “Trường hợp vợ
là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu
chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.”
Bà Chung và ông Chảng là vợ chồng trên giấy tờ, tuy không còn chung sống như vợ
chồng nhưng bà Chung và ông Chảng vẫn chưa chính thức ly hôn nên bà vẫn được xem
là vợ hợp pháp của ông Chảng. Vì vậy mối quan hệ giữa bà Bích và ông Chảng là bất
hợp pháp, lẽ ra bà Chung phải là người giám hộ của ông Chảng. Hướng giải quyết trên
của TANDTC hoàn toàn thuyết phục.
6. Cho biết các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của
người được giám hộ (nêu rõ cơ sở pháp lý).
Căn cứ theo Điều 58 BLDS 2015, quyền của người giám hộ đối với tài sản của người
được giám hộ là:
 Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những
nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ.
 Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người
được giám hộ.
 Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
 Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có
quyền theo quyết định của Tòa án trong số các quyền quy định tại khoản 1
Điều 58 BLDS 2015.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 59, nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của người
được giám hộ là:
 Quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình.
 Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho
người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám
hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường
hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và sự đồng
ý của người giám sát việc giám hộ.
 Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc
và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám
hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
7. Theo quy định của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người
giám hộ của ông Chảng có được tham gia vào việc chia di sản thừa kế
(mà ông Chảng được hưởng) không? Vì sao? Suy nghĩ của anh/chị về
hướng xử lý của Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề vừa nêu.
 Theo quy định của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám
hộ của ông Chảng là bà Bích có quyền tham gia vào việc chia di sản thừa
kế (mà ông Chảng được hưởng) vì:
Cụ thể: tại bản án dân sự phúc thẩm số 07/2009/DSPT ngày 14/01/2009, Tòa án nhân
dân tối cao Hà Nội đã sửa đổi như sau: “Ông Lê Văn Chỉnh phải thanh toán trả ông Lê
Văn Chảng 1.794.311.339 đồng. Giao cho bà Bích quản lý số tiền này. Việc làm trên đã
chứng tỏ bà Bích là người đại diện hợp pháp của ông Chảng và được tham gia vào việc
chia di sản thừa kế mà ông Chảng được hưởng. Việc xác định như vậy là vì: giấy chứng
nhận kết hôn của bà Chung và ông Chảng bị thất lạc nên không thể xuất trình cho Tòa
án. Về phía bà Bích, bà Bích có chứng cứ: “Giấy chứng nhận kết hôn – Đăng ký lại”
ngày 15/10/2001 nên bà Bích (có giấy đăng ký kết hôn) được xác định là người đại diện
hợp pháp của ông Chảng và được tham gia vào việc chia di sản thừa kế mà ông Chảng
được hưởng.
 Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao tại thời điểm 2008 – 2009 là
không thuyết phục, thể hiện sự hời hợt, không rõ ràng, kỹ càng trong quá
trình kiểm tra những bằng chứng được cung cấp. Bởi lẽ:
 Vào thời điểm năm 2007, Ông Chảng được Bộ y tế xác định: “...Không tự
đi lại được. Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng, liệt hoàn toàn 1⁄2 người
phải. Rối loạn cơ tròn kiểu trung ương, tai biến mạch máu não lần 2. Tâm
thần: sa sút trí tuệ. Hiện tại không đủ năng lực hành vi lập di chúc. Được
xác định tỷ lệ mất khả năng lao động do bệnh tật là 91%,...” trong Biên bản
giám định khả năng lao động số 84/GĐYK-KNLĐ ngày 18/12/2007. Ông
Chảng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nên cần có người giám hộ cho
mình. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào “Biên bản giám định khả năng lao
động” và “Giấy chứng nhận kết hôn – Đăng ký lại” ngày 15/10/2001 do bà
Bích trình lên là đúng và xác nhận bà Bích là người đại diện hợp pháp.
 Mãi đến sau khi xét xử phúc thẩm, Công văn số 31/UBND-TP ngày
08/03/2019 và Công văn số 62 ngày 21/01/2020 mới xác nhận lại “Giấy
đăng ký kết hôn – Đăng ký lại” ngày 15/10/2001 giữa bà Bích và ông
Chảng là không hợp pháp.
 Còn về phía bà Chung, bà sống với ông Chảng từ năm 1975, có tổ chức
đám cưới và có con chung. Do đó, có căn cứ xác định bà Chung và ông
Chảng chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 3/1/1987. Thế
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định bà Bích là vợ hợp pháp của ông
Chảng theo quy định tại điểm a mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ QH10
ngày 09/06/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình.
Điều này đã gây ra những sai sót nghiêm trọng ảnh hưởng đến quyền lợi
hợp pháp của ông Chảng trong vụ án chia tài sản chung và thừa kế.
8. Cho biết điều kiện để Tòa án có thể tuyên một người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 23 Bộ luật Dân sự năm 2015, điều kiện để Tòa án có thể
tuyên một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là:
 Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả
năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành
vi dân sự.
 Có kết luận giám định pháp y tâm thần.
 Có yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan.
Như vậy, khi có đủ các điều kiện như trên, Tòa án có thể ra quyết định tuyên một người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
9. Trong quyết định số 15, Tòa án tuyên bố bà E có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
=> Trong quyết định số 15, Toà án tuyên bố bà E có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi là có thuyết phục căn cứ theo khoản 1 Điều 23, BLDS 2015:
“Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng
nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan,
tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra
quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám
hộ.”

10. Trong quyết định số 15, Tòa án xác định bà A là người giám hộ cho bà
E (có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) có thuyết phục
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
=> Trong quyết định số 15, Toà án xác định bà A là người giám hộ cho E (có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) có thuyết phục căn cứ theo điểm d
khoản 1 Điều 47: “Người được giám hộ
Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.” và khoản 1 Điều 48:
“ Cá nhân, pháp nhân có đủ điều kiện quy định tại Bộ luật này được làm người
giám hộ”
11. Trongquyết định số 15, Tòa án xác định bà A có quyền đối với tài sản
của bà E (có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) theo Điều 59
BLDS năm 2015 có thuyết phục không? Vì sao ?
=> Trong quyết định số 15, Tòa án xác định bà A có quyền đối với tài sản của bà
E (có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) có thuyết phục căn cứ
theo khoản 2 Điều 59 BLDS 2015 quy định: “Người giám hộ của người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quản lý tài sản của người được giám
hộ theo quyết định của Tòa án trong phạm vi được quy định tại khoản 1 Điều
này.”

BẢN ÁN 2:

1. Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân (nêu rõ từng
điều kiện)
Theo khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 Pháp nhân là một tổ chức đáp ứng đủ 4 điều kiện
sau:
1) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
2) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 BLDS 2015
3) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của
mình;
4) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Trong Bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại diện của Bộ tài
nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân không?
- Trong Bản án số 1117 theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên
và môi trường có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp nhân không đầy đủ
Căn cứ vào đoạn “Như vậy, Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí
Minh là đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đại diện hạch toán báo sổ
khi thực hiện dự toán, quyết toán phải theo phân cấp của Bộ, phụ thuộc theo sự phân bổ ngân
sách của Nhà nước và phân cấp của Bộ Tài nguyên và Môi trường chứ không phải là một cơ
quan hạch toán độc lập. Mặcdù trong quyết định 1367 nói trên có nội dung “Cơ quan đại diện
có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng” nhưng là Cơ quan đại diện Bộ phải
hạch toán báo sổ nên cơ quan này có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp nhân không
đầy đủ" có câu trả lời.
3. Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ tài
nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân?
Theo Bản án số 1117 Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường
không có tư cách pháp nhân theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005
“…2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện theo ủy
quyền cho lợi ích của pháp nhân và được thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các lợi ích đó…
4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầu Văn phòng đại
diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn ủy
quyền
5. Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do Văn phòng đại
diện, chi nhánh xác lập, thực hiện.’’
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
– Theo em hướng giải quyết của tòa án phúc thẩm là hoàn toàn hợp lý. Theo khoản 1 Điều 87
BLDS 2015 Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân nên sau khi phúc thẩm thì tòa án đã
thấy sự bất cập trong việc xác nhận sai bị đơn cụ thể ở đây pháp nhân phải chịu trách nhiệm
dân sự ở đây phải là Bộ Tài Nguyên và Môi Trường . Còn hướng giải quyết của tóa án phúc
thẩm là chưa đúng vì không hướng dẫn nguyên đơn ở đây là ông Hùng khiến ông chưa kiện
đúng pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự dẫn đến lúng túng  tòa án sơ thẩm xác định
không đúng người tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn trong vụ án.
5. Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp luật dân sự ? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời (nhất là trên cơ sở quy định của BLDS 2005 và BLDS 2015).

Theo Điều 86 BLDS 2015


1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ
dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật
này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì
năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.
3. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.
Và theo Điều 16 BLDS 2015
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ
dân sự.
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó
chết.
Bảng so sánh

Tiêu chí Pháp Nhân Cá Nhân


Đặc điểm -Mỗi pháp nhân có năng lực -Mọi cá nhân đều có năng
pháp luật dân sự phù hợp lực pháp luật dân sự như
nhau.
Thời điểm phát sinh -Năng lực pháp luật dân sự - Năng lực pháp luật dân sự
của pháp nhân phát sinh từ của cá nhân có từ khi người
thời điểm được cơ quan nhà đó sinh ra
nước có thẩm quyền thành
lập hoặc cho phép thành lập;
nếu pháp nhân phải đăng ký
hoạt động thì năng lực pháp
luật dân sự của pháp nhân
phát sinh từ thời điểm ghi
vào sổ đăng ký.
Thời điểm chấm dứt - Năng lực pháp luật dân sự - Năng lực pháp luật dân sự
của pháp nhân chấm dứt kể của cá nhân chấm dứt khi
từ thời điểm chấm dứt pháp người đó chết
nhân.

6. Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có
ràng buộc pháp nhân không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có ràng buộc pháp
nhân vì theo Khoản 1 Điều 87 BLDS 2015 thì pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.

7. Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có ràng buộc Công ty
Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có ràng buộc Công ty Bắc Sơn
- Theo khoản 1 Điều 87 BLDS 2015 Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân nên hợp
đồng đã ký kết với công ty Nam Hà có ràng buộc công ty Bắc Sơn vì hợp đồng là do công ty
đại diện của công ty Bắc sơn là công ty Bắc sơn ở Hồ Chí Minh đã ký nên Pháp nhân phải chịu
trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực
hiện nhân danh pháp nhân. Đối với việc công ty có quy chế quy định “chi nhánh là một tổ
chức kinh tế có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập” là do tự công ty quy định còn
theo khoản 1 Điều 84 BLDS 2015 thì Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của
pháp nhân, không phải là pháp nhân.

BẢN ÁN 3:

1. Trách nhiệm của pháp nhân đối với với nghĩa vụ của các thành viên và trách nhiệm
của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân
 Trách nhiệm pháp nhân đối với thành viên:
Theo Khoản 1,2 Điều 87, BLDS 2015:
1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do
người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Pháp nhân chịu trách trách nhiệm dân sự do sáng lập viên hoặc hoặc đại diện của sáng lập viên
xã lập thực hiện để thành lập, đăng đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc có luật khác quy định
2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm dân
sự thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác
lập, thực hiện không không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.

 Trách nhiệm thành viên đối với pháp nhân


Theo khoản 3 Điều 87, BLDS 2015
3. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa
vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác

2. Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của Công ty Xuyên Á không?
Vì sao?
Trong Bản án được bình luận, bà Hiền thành viên của Công ty Xuyên Á vì bà Hiền đã góp
26,05% vốn vào công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại Xuyên Á
Theo Khoản 2 Điều 32 của Điều lệ Công ty và theo Khoản 5 Điều 47, Luật Doanh nghiệp
2020 “Trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, người góp vốn trở thành thành viên của
công ty kể từ thời điểm đã thanh toán phần vốn góp và những thông tin về người góp vốn quy
định tại các điểm B, C và D Khoản 2 Điều 48 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký
thành viên. Tại thời điểm góp đủ phần vốn góp, công ty phải cấp giấy chứng nhận phần vốn
góp cho thành viên tương ứng với giá trị phần vốn đã góp.”. Vậy căn cứ theo trên, bà Hiền là
thành viên của công ty Xuyên Á
3. Nghĩa vụ đối với công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của công ty Xuyên Á hay của bà Hiền?
Vì sao?
Nghĩa vụ đối với công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của công ty Xuyên Á không phải phải
của bà Hiền. Vì căn cứ theo Điều 87, BLDS 2015 quy định như sau:
1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người
đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập
viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác.
2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm thay cho
người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện không
nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
3. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ
dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác
Công ty Xuyên Á đủ điều kiện là pháp nhân nên công ty Xuyên Á phải chịu trách nhiệm dân
sự, còn bà Hiền chỉ góp vốn vốn chứ chưa phải là người đại diện cho công ty nên bà Hiền
không cần chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án sơ thẩm và Tòa cấp phúc thẩm
liên liên quan đến nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích
Theo tôi đọc và đối chiếu bản án Sơ thẩm và Phúc thẩm, nhận thấy được trong quá trình xét xử
đã xảy ra những sai sót lớn khi chấp nhận đơn kiện giữa hai công ty nhưng chưa có đủ chứng
cứ, dẫn đến việc kết án sơ thẩm sai, ảnh hưởng đến lợi ích và quyền lới của những thành viên
Được cụ thể như sau:
 Đầu tiên, Công ty Xuyên Á là một pháp nhân theo quy định của BLDS thì công ty
Xuyên Á bị công ty Ngọc Bích kiện ra toà thì người đại diện cho pháp nhân thay mặt
pháp nhân. Thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng, chính là giám đốc Trần Ngọc Phong.
Còn bà Võ Thị Thanh Hiền chỉ là thành viên của công ty này, không được đề cập có thể
đại diện pháp nhân. (Căn cứ theo điều 151, BLDS năm 2015.)
 Tiếp theo, ông Trần Ngọc Phong uỷ quyền cho bà Phượng nhưng trong sự trình bày của
bà này có sự mâu thuẫn, bà cho rằng 40.829.000₫ đó chỉ là ý kiến của bà chứ không
phải là ý kiến của người uỷ quyền cho bà là ông Trần Ngọc Phong. Đồng thời, bà cũng
không có tư cách pháp lý làm đại diện cho ông Trần Ngọc Phong trong vụ kiện này.
 Cuối cùng, Công ty Ngọc Bích đòi ông Phong và bà Hiền là thành viên phải trả cho
công ty này tiền vốn và yêu cầu tính lãi từ ngày 16/6/2011 và tòa chấp nhận yêu cầu
khởi kiện và buộc ông Phong và bà Hiền trả cho Công ty Ngọc Bích tổng số tiền là
107.030.752₫. Công ty Xuyên Á là một pháp nhân có tài sản độc lập. Nghĩa là tài sản
của pháp nhân phải hoàn toàn độc lập, tách biệt với tài sản riêng của các thành viên
hoặc tài sản của cơ quan nhà nước xác lập pháp nhân. Căn cứ theo khoản 2, Điều 87,
BLDS năm 2015 quy định: “Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của
mình”. Cho nên, Toà án buộc 2 thành viên của công ty Xuyên Á trả nợ là sai. Công ty
Xuyên Á đã giải thể theo quynh định của pháp luật căn cứ theo Điều 93, BLDS năm
2015 nhưng Tòa án lại không điều tra thực tế và bỏ sót tình tiết này.

Còn về Toà án phúc thẩm sau khi nhận được đơn kháng cáo của bà Hiền và xét thấy quy trình
theo đúng quy định của pháp luật đã được hội đồng xét xử chấp nhận. Sau khi xem xét bản án,
Hội đồng xét xử thấy những sai sót khi tiến hành sơ thẩm và đã khắc phục được những hạn chế
của bản án sơ thẩm. Cụ thể là:
 Tòa phúc thẩm đã xác định Công ty Xuyên Á đã giải thể theo thông báo về việc doanh
nghiệp giải thể ngày 17/3/2014 của Sở Kế Hoạch và Đầu tư tỉnh An Giang. Đồng thời
Tòa án căn cứ theo quy định tại Điều 93, Điều 99, Điều 103 BLDS 2015 xác định bà
Hiền chỉ là thành viên của pháp nhân và chỉ góp 26,065% vào vốn công ty, thế nên bà
Hiền sẽ không phải chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân là Công ty Xuyên Á.
 Toà đã huỷ bán án sơ thẩm và giao hồ sơ cho Tòa án huyện Tri Tôn giải quyết lại vụ án
do chưa xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể là quyết định đúng theo
với quyền hạn và phạm vi xét xử phúc thẩm (theo quy định tại Điều 270 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015).

5. Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công ty Xuyên Á đã bị
giải thể
Theo Khoản 2 Điều 201, Bộ luật Doanh nghiệp 2014:
2. Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc hoặc cơ
quan trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm d khoản 1 Điều
này cùng liên đới chịu trách nhiệm về về các khoản nợ của doanh nghiệp
Ngoài ra, còn có:
Theo Khoản 2 Điều 93, BLDS 2015
2. Trước khi giải thể thì pháp nhân phải thực hiện đầy đủ quyền và các nghĩa vụ về tài sản
Theo Điều 94, BLDS 2015:

- Tài sản của pháp nhân bị giải thể được thanh toán theo thứ tự sau đây:
a. Chi phí giải thể pháp nhân
b. Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với
người lao động theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao
động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết
c. Nợ thuế và các khoản nợ khác
Vậy, căn cứ theo quy định của pháp luật, Công ty Xuyên Á trước khi giải thể phải thanh toán
hết tất cả khoản nợ cho Công ty Ngọc Bích nhằm đảm bảo quyền lợi cho Công ty Ngọc Bích
sau khi Công ty Xuyên Á giải thể

You might also like