You are on page 1of 13

CHƯƠNG I.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT


CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ DO NHÓM NGƯỜI YẾU THẾ XÁC LẬP, THỰC
HIỆN
1.1. Người yếu thế trong quan hệ pháp luật dân sự và giao dịch dân sự do người
yếu thế xác lập, thực hiện
1.1.1. Khái niệm người yếu thế trong quan hệ pháp luật dân sự
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có các quy định ghi nhận và bảo vệ người yếu
thế trong quan hệ pháp luật dân sự, bao gồm: người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi.
 Người mất năng lực hành vi dân sự.

Người mất năng lực hành vi dân sự được hiểu là một người đã từng có năng lực hành
vi dân sự nhưng vì một lý do nào đó mà năng lực hành vi dân sự của họ không còn
nữa. Người mất năng lực hành vi dân sự không thể bằng nhận thức để làm chủ, kiểm
soát hành vi của bản thân nên mọi giao dịch đều thông qua người đại diện hợp pháp
của họ xác lập và thực hiện. Điều 22 BLDS năm 2015 quy định:

1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố
người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám
định pháp y tâm thần.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

 Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.


Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là những người đã từng có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ (người đã thành niên, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi)
nhưng lại rơi vào tình trạng quy định tại Điều 24 BLDS năm 2015:

1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng
nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự
thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án
ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người
giám hộ.
2. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

 Người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Theo quy định của Điều 23 BLDS năm 2015, người thành niên do tình trạng thể chất
hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức
mất năng lực hành vi dân sự:

1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản
của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự và phạm vi đại diện.

2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa
án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày
hoặc luật liên quan có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định
tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.

 Nhận xét: BLDS năm 2015 mặc dù mới áp dụng được gần 3 năm, tuy nhiên, trong
thực tiễn áp dụng, các quy định pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng liên quan đến
vấn đề bảo vệ người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi đã bộc lộ một số hạn chế
sau đây:

Về chủ thể có quyền yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi

Thuật ngữ “cơ quan, tổ chức hữu quan” sử dụng trong các Điều 22, 23, 24 BLDS năm
2015 là những khái niệm chưa rõ ràng. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, cần
giải thích rõ “cơ quan, tổ chức hữu quan” là cơ quan, tổ chức nào có quyền yêu cầu
Tòa án ra quyết định tuyên bố người mất năng lực hành vi dân sự; khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

1.1.2. Giao dịch dân sự và điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Điều 116. Giao dịch dân sự.
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Hợp đồng là sự thõa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự.(Điều 385 Bộ luận Dân sự 2015)

Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch dân sự, trong đó thể hiện ý chí, trong
đó thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa cụ dân sự của mình hoặc bên còn lại trong quan hệ. Tuy nhiên, bên kia có
thể tham gia hoặc không tham gia giao dịch. Điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
chủ quan hay khách quan.

Nhận xét, đánh giá : là phương tiện pháp lí quan trọng nhất trong giao lưu dân sự,
trong việc dịch chuyển tài sản và cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của tất cả các thành viên trong xã hội. Trong nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế
thị trường, thông qua giao dịch dân sự (hợp đồng) các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản
xuất, kinh doanh và các nhu cầu khác trong đời sống hàng ngày của mình.

*Điều kiện phát sinh hiệu lực của giao dịch dân sự:

Theo quy định tại Điều 117 BLDS 2015, giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ
các điều kiện sau đây:
- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác lập;
- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội.
Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự trong trường hợp luật có quy định (Ví dụ: hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất bắt buộc phải lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực).
BLDS 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự qua các
điều:

Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.

1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định.

1.2. Năng lực chủ thể của người yếu thế trong pháp luật dân sự

*Năng lực chủ thể:. là khả năng pháp lí của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp
luật với tư cách là chủ thể của quan hệ đó bao gồm hai yếu tố năng lực pháp luật và
năng lực hành vi. Năng lực pháp luật là khả năng hưởng các quyền và nghĩa vụ pháp lí
mà nhà nước quy định cho cá nhân hoặc tổ chức. Năng lực hành vi là khả năng của
chủ thể được nhà nước thừa nhận mà với khả năng đó họ có thể tự mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ pháp lí đồng thời gánh chịu những hậu quả pháp lí nhất định do
những hành vi của mình mang lại.

*Nâng lực pháp luật dân sự ở điều 16,17,18 BLDS 2015:

Điều 16: Nâng lực pháp luật dân sự của cá nhân: Năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.Mọi cá nhân đều có
năng lực pháp luật dân sự như nhau.Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi
người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.

Điều 17: Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân: Quyền nhân thân
không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Quyền sở hữu, quyền thừa
kế và quyền khác đối với tài sản. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát
sinh từ quan hệ đó.

Điều 18: Không hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân: Năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác.

*Nâng lực hành vi dân sự ở điều 19 BLDS:

Điều 19: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân: Năng lực hành vi dân sự của cá
nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự.

1.2.1. Người chưa thành niên


Điều 21. Người chưa thành niên (BLDS 2015)
1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.

2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp
luật của người đó xác lập, thực hiện.
3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch
dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động
sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được
người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Năng lực chủ thể của người chưa thành niên bao gồm năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật có từ khi người đó được sinh ra,
còn năng lực hành vi dân sự có khi người đó đủ 6 tuổi trở lên. Người chưa
thành niên là người chưa đủ 18 tuổi, mặc dù có năng lực hành vi dân sự  nhưng
năng lực này chưa đầy đủ. Trong phạm vi người chưa thành niên, pháp luật
phân chia thành 3 nhóm đó là nhóm chưa đủ 6 tuổi, từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15
tuổi và từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
Bất cập tại Điều 21 BLDS 2015.
Đối với những giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, rất khó
để kiểm soát, quy mô của giao dịch rất nhỏ và cùng với sự phát triển đời sống
kinh tế như hiện nay. Việc xác minh thế nào là giao dịch phục vụ sinh hoạt rất
đáng lo ngại.
Độ tuổi từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám có thể tự mình xác lập thực
hiện gia dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản. Việc này
rất đáng quan ngại vì không thể kiểm soát giá trị của động sản trong giao dịch.
1.2.2. Người mất năng lực hành vi dân sự
Theo Điều 22 BLDS 2015 người mất năng lực hành vi dân sự là:

Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự

1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất
năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu
cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan,
tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự.

2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo
pháp luật xác lập, thực hiện.

*Điều kiện để cá nhân được công nhận mất năng lực hành vi dân sự.
Mất năng lực hành vi dân sự là trường hợp khi một người do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo
yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này mất năng lực hành vi dân sự trên
cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Tòa án phải căn cứ vào kết luận giám định pháp y tâm thần để ra quyết định
tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự. Điều này nhằm mục đích đảm
bảo tính đúng đắn của các quyết định. Việc tuyên bố một người mất năng lực
hành vi dân sự ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chính người đó và cả
những người có quyền, lợi ích liên quan nên nếu ra quyết định sai có thể dẫn
đến quyền của người khác bị xâm phạm.

Khi có căn cứ cho rằng một người mất năng lực hành vi dân sự thì người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu
Tòa án tuyên bố người này mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận
giám định pháp y tâm thần.

Bất cập tại Điều 22 BLDS 2015.


Khi một người bị mắc bệnh tâm thần họ vẫn có nhận thức riêng của mình tùy
thuộc vào cấp độ mắc bệnh nặng hay nhẹ đều khác nhau. Không thể quy chụp
tất cả vào là không có khả năng hành vi dân sự.

1.2.3. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Dựa theo Điều 23 BLDS 2015 đã quy định.
Điều 23. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng
nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự
thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án
ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người
giám hộ.
2. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

*Điều kiện để cá nhân được công nhận là người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi:
Người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi phải
đáp ứng các điều kiện sau:
– Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
– Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ
của người giám hộ.
– Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết
án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
– Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa
thành niên.
Bất cập tại Điều 23 BLDS 2015.
Khó khăn trong quá trình xác nhận cũng như chọn người giám hộ đối với người
thành niên gặp khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi dân sự.
1.2.4. Người hạn chế năng lực hành vi dân sự

*Khái niệm người hạn chế năng lực pháp luật dân sự theo BLDS 2015.

Người hạn chế năng lực pháp luật dân sự theo BLDS 2015.
Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài
sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị
Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết
định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.

*Điều kiện để cá nhân được công nhận hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Điều kiện để cá nhân được công nhận hạn chế năng lực hành vi dân sự là cá
nhân đó phải trực tiếp, tự nguyện sử dụng chất kích thích làm cho tinh thần
không minh mẫn dẫn đến cách hành vi phá tán tài sản và bị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khởi tố.
*Bất cập tại Điều 24 BLDS 2015.
Trong Điều 24 BLDS 2015 đã đề cập đến người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự được phép thực hiện giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày
nhưng lại không hạn chế những nhu cầu nào. Như giao dịch chất kích thích nhằm
thõa mãn nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
1.3. Hiệu lực pháp luật của giao dịch dân sự do nhóm người yếu thế trong quan
hệ pháp luật dân sự xác lập, thực hiện
1.3.1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do nhóm người yếu thế trong quan
hệ pháp luật dân sự xác lập, thực hiện
Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các
bên và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Một giao dịch họp pháp phải tuân
thủ ba điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (trong một sổ trường hợp cụ
thể phải tuân thủ thêm điều kiện về hình thức). Vì vậy, về nguyên tắc giao dịch
không tuân thủ một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì sẽ bị vô
hiệu. Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng
ưong việc thiết lập trật tự kỉ cương xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lí cho các chủ thể trong
giao lưu dân sự.
Một giao dịch dân sự hợp pháp khi đáp ứng được các điều kiện quy định tại
Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 trong đó có ba điều kiện bắt buộc về chủ
thể, nội dung và mục đích. Đối với điều kiện về hình thức của giao dịch, điều
kiện này chỉ đặt ra khi pháp luật có quy định. Khi giao dịch dân sự không đáp
ứng điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì có thể bị vô hiệu. Giao dịch
dân sự vô hiệu là giao dịch không có hiệu lực pháp luật và không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự cho các chủ thể trong giao dịch.
Theo quy định luật, giao dịch dân sự chỉ cần không thỏa mãn một trong các điều
kiện có hiệu lực do luật định đã có thể bị vô hiệu. Do đó, một giao dịch dân sự có thể
vô hiệu do vi phạm một điều kiện hoặc bị vô hiệu do vi phạm đồng thời nhiều điều
kiện có hiệu lực do luật định.
*Điều 125. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện:
Khoản 1: Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của
người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao
dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này.
Khoản 2: Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị
vô hiệu trong trường hợp sau đây:
a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành
vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ
cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau
khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

*So sánh giữa hai điều luật: Điều 125 BLDS và Điều 128 BLDS:
Điều 128 BLDS 2015 quy định: Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời
điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
So sánh giữa 2 điều luật 125 BLDS và 128 BLDS: Hai điều luật giống nhau ở
chổ giao dịch dân sự vô hiệu do người làm chủ được hành vi của mình và đểu được
Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Tuy nhiên đối với điều 125 BLDS thì
phải thỏa mãn khoản 2. Còn điều 128 BLDS nếu đã xác lập đúng thời điểm không
nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bô
giao dịch dân sự đó là vô hiệu
1.3.2. Ý nghĩa của quy định
Quy định về điều kiện của chủ thể xác lập và thực hiện giao dịch trong những
trường hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 125 là một quy định mới so với quy
định về điều kiện của chủ thể trong giao dịch dân sự trong BLDS năm 2005.
Tuy nhiên, cần phải làm rõ một số vấn đề liên quan đến quy định mới này.
Dựa vào thực tế của đời sống và quan hệ xã hội, chủ thể tham gia giao dịch
dân sự chưa đủ sáu tuổi và cá nhân mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng
nhu cầu cần thiết hàng ngày của người đó, thì giao dịch có hiệu lực pháp luật.
Việc xác định nhu cầu cần thiết của cá nhân dưới 6 tuổi và người mất năng lực
hành vi dân sự tham gia giao dịch dân sự để đáp ứng nhu cầu đó là thật sự cần
thiết.
Những nhu cầu cần thiết phù hợp với nhận thức của những cá nhân này là
vui chơi, rèn luyện sức khỏe, thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt tinh thần trong lĩnh
vực văn hóa, văn nghệ, biểu diễn; nhu cầu về ẩm thực, nước giải khát, nhu cầu
về văn hóa phẩm, nhu cầu về nghỉ ngơi… thì những giao dịch mà cá nhân dưới
sáu tuổi và cá nhân mất năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện vẫn có hiệu
lực và người đại diện cho họ phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự phát
sinh từ những giao dịch do họ xác lập.
Quy định này là phù hợp với thực tế đời sống, loại bỏ được những quan niệm
máy móc liên quan đến chủ thể của giao dịch dân sự.
+ Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với
người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ.
Quy định này nhằm bảo vệ quyền của người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
tham gia giao dịch với chủ thể khác mà chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn
trừ nghĩa vụ cho họ thì giao dịch có hiệu lực. Đây là một quy định mang tính
cải cách tư duy và quan điểm lập pháp ở Việt Nam trong BLDS 2015
Thực tế đã cho thấy, trong nhiều năm qua, người ta quá quan tâm đến tư cách
chủ thể trong giao dịch là người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi
dân sự, thì giao dịch đó mới có hiệu lực.
Quy định cứng như vậy, dự liệu những quan hệ khách quan phát sinh trên
thực tế của đời sống xã hội, mà náy móc xác định giao dịch vô hiệu à không
thực tế, không phù hợp với các quan hệ xã hội đa dạng và phong phú, mang tính
nhân văn sâu sắc.
Ví dụ: Người đã trưởng thành tặng cho người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
một bất động sản hoặc động sản có giá trị lớn, mà pháp luật có quy định động
sản đó phải đăng ký quyền sở hữu, thì giao dịch này không thể tuyên vô hiệu, vì
những người chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, người bị mất năng lực
hành vi dân sự được tặng cho tài sản mà (không có đền bù), thì không thể xác
định giao dịch vô hiệu. Nguyên tắc này đã được quy định và áp dụng trong
pháp luật tư pháp La Mã cổ đại cách ngày nay hàng ngàn năm.
Tuy nhiên, cần phân biệt quy định này với quy định tại khoản 2 Điều 22 đối
với người mất năng lực hành vi dân sự: “Giao dịch dân sự của người mất năng
lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.
Quy định tại khoản 2 Điều 22 là quy định chung cho các loại giao dịch mà cá
nhân người bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch dân sự do người đại diện theo pháp luật của người này xác lập, thực
hiện.
Nhưng quy định tại khoản 2 Điều 125 BLDS là quy định đặc thù, nhằm điều
chỉnh quan hệ giao dịch chỉ mang lại lợi ích hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với
người đã xác lập, thực hiện giao dịch đối với họ.

You might also like