You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HCM
KHOA CHẤT LƯỢNG CAO
-----------***------------

BÀI TẬP THẢO LUẬN


Môn:
Lớp: CLC48A

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT:


CHỦ THỂ CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Họ và tên MSSV
Tạ Thùy Dương 2353801011072
Hoàng Ngọc Minh Thư 2353801014202
Nguyễn Thị Thanh Hiền 2353801011103
Phạm Hạnh Nguyên 2353801011202
Phạm Nam Anh 2353801011022
Võ Thị Thanh Thảo 2153401020236
Võ Phan Minh Khôi 2353801014084
Đoàn Nguyễn Trúc An 2353801011003
TP.HCM - Năm 2024
MỤC LỤC
I. Năng lực hành vi dân sự cá nhân...............................................................5
1.1. Những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực
hành vi dân sự và mất năng lực hành vi dân sự.......................................5
1.2. Những điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự và là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi..........................................................................................................6
1.3. Trong quyết định số 52, Toà án nhân dân tối cao đã xác định
năng lực hành vi dân sự của ông Chảng như thế nào?............................9
1.4. Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên có
thuyết phục không? Vì sao?.......................................................................9
1.5. Theo Toà án nhân dân tối cao, ai không thể là người giám hộ
và ai mới có thể là người giám hộ của ông Chảng? Hướng của Tòa án
nhân dân tối cao như vậy có thuyết phục không, vì sao?......................10
1.6. Cho biết các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài
sản của người được giám hộ (nêu rõ cơ sở pháp lý)...............................12
1.7. Theo quy định và Toà án nhân dân tối cao trong vụ án trên,
người giám hộ của ông Chảng có được tham gia vào việc chia di sản
thừa kế (mà ông Chảng được hưởng) không? Vì sao? Suy nghĩ của
anh/chị về hướng xử lý của Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề vừa nêu.
.....................................................................................................................13
Tóm tắt Quyết định số 15/2020/QĐST-DS....................................14
1.8. Cho biết điều kiện để Tòa án có thể tuyên một người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
.....................................................................................................................15
1.9. Trong quyết định số 15, Toà án tuyên bà E có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi có thuyết phục không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời......................................................................................15
1.10. Trong quyết định số 15, Toà án xác định bà A là người
giám hộ cho bà E (có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................................16
1.11. Trong quyết định số 15, Toà án xác định bà A có quyền đối
với tài sản của bà E (có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi)
theo Điều 59 BLDS năm 2015 có thuyết phục không? Vì sao?.............17
II. Tư cách pháp nhân và hệ quả pháp lý...................................................18
2.1. Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp
nhân (nêu rõ từng điều kiện)....................................................................18
Tóm tắt bản án số 1117/2012/LĐ-PT ngày 11/09/2012 về vấn đề
tranh chấp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:.....................18
2.3. Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại
diện của Bộ tài nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân?. 19
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án. 20
2.5. Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp luật
dân sự? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (nhất là trên cơ sở quy định của
BLDS 2005 và BLDS 2015).......................................................................20
2.6. Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân
danh pháp nhân có ràng buộc pháp nhân không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời....................................................................................................22
2.7. Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà
có ràng buộc Công ty Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời..........................................................................................................22
III. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân......................................................23
Tóm tắt Bản án số 10/2016/KDTM-PT ngày 17/03/2016 của Tòa án nhân
dân tỉnh An Giang.........................................................................................23
3.1. Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành
viên và trách nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp
nhân............................................................................................................23
3.2. Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của
Công ty Xuyên Á không? Vì sao?............................................................24
3.3. Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty
Xuyên Á hay của bà Hiền? Vì sao?..........................................................24
3.5. Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi
Công ty Xuyên Á đã bị giải thể?..............................................................25
I. Năng lực hành vi dân sự cá nhân
1.1. Những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực hành
vi dân sự và mất năng lực hành vi dân sự.
Căn cứ vào điều 22, 24 BLDS 2015 và điều 22, 23 BLDS 2005
Mất năng lực hành vi dân sự Hạn chế năng lực hành vi dân
sự

Điểm giống

Điều kiện Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân
khôi phục sự hay người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu
năng lực của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết
định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

Tình Đều không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự


trạng

Đơn vị Tòa án ra quyết định tuyên bố


tuyên bố
tình trạng

Điểm khác

Cơ sở Điều 22 Bộ luật dân sự 2015 Điều 24 Bộ luật dân sự 2015


pháp lý Điều 22 Bộ luật dân sự 2005 Điều 23 Bộ luật dân sự 2005

Đối tượng Khi một người do bị bệnh tâm Người nghiện ma túy, nghiện
thần hoặc mắc bệnh khác mà các chất kích thích khác dẫn
không thể nhận thức, làm chủ đến phá tán tài sản của gia đình
được hành vi

Căn cứ ra  BLDS 2015: Theo yêu cầu Theo yêu cầu của người có
quyết định của người có quyền, lợi ích quyền, lợi ích liên quan hoặc
liên quan hoặc của cơ quan, của cơ quan, tổ chức hữu quan,
tổ chức hữu quan, Tòa án Tòa án có thể ra quyết định
ra quyết định tuyên bố tuyên bố người này là người bị
người này là người mất hạn chế năng lực hành vi dân sự
năng lực hành vi dân sự
trên cơ sở kết luận giám
định pháp y tâm thần
 BLDS 2005: Theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích
liên quan, Toà án ra quyết
định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự trên cơ sở
kết luận của tổ chức giám
định.

Người đại Người đại diện theo pháp luật Tòa án quyết định người đại
diện diện theo pháp luật và phạm vi
đại diện

Hệ quả Giao dịch dân sự của người mất Việc xác lập, thực hiện giao
pháp lý năng lực hành vi dân sự phải do dịch dân sự liên quan đến tài
người đại diện theo pháp luật xác sản của người bị Tòa án tuyên
lập, thực hiện bố hạn chế năng lực hành vi
dân sự phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật,
trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc
luật liên quan có quy định khác

Khả năng Không thể tự mình thực hiện bất Có thể tự mình thực hiện một
tự mình kỳ quyền và nghĩa vụ dân sự nào số quyền và nghĩa vụ dân sự
thực hiện nhất định
quyền và
nghĩa vụ
dân sự
1.2. Những điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự và là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Căn cứ vào điều 23 và 24 của Bộ luật dân sự 2015, điều 23 Bộ luật dân sự
2005
Hạn chế năng lực hành vi dân sự Người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành
vi

Cơ sở Điều 24 Bộ luật dân sự 2015 Điều 23 Bộ luật dân sự 2015


pháp lý Điều 23 Bộ luật dân sự 2005

Đối Người nghiện ma túy, nghiện các chất Người thành niên do tình
tượng kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản trạng thể chất hoặc tinh thần
của gia đình mà không đủ khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng
chưa đến mức mất năng lực
hành vi dân sự

Căn cứ Theo yêu cầu của người có quyền, lợi Tòa án ra quyết định tuyên
ra ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức bố dựa theo yêu cầu của
quyết hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định người này, người có quyền,
định tuyên bố người này là người bị hạn chế lợi ích liên quan hoặc của cơ
năng lực hành vi dân sự quan, tổ chức hữu quan, trên
cơ sở kết luận giám định
pháp y tâm thần

Người Tòa án quyết định người đại diện theo Tòa án chỉ định người giám
đại diện pháp luật và phạm vi đại diện hộ, xác định quyền, nghĩa vụ
của người giám hộ

Hệ quả Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự Người giám hộ có thể thay
pháp lý liên quan đến tài sản của người bị Tòa mặt trong một số giao dịch
án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự được Tòa xác định
dân sự phải có sự đồng ý của người đại quyền và nghĩa vụ
diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày
hoặc luật liên quan có quy định khác

Chủ thể Hẹp do chỉ có người có quyền, lợi ích Rộng do chính bản thân
yêu cầu liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu người có khó khăn trong
quan đưa ra yêu cầu nhận thức, làm chủ hành vi
được đưa ra yêu cầu
*Về người mất năng lực hành vi dân sự
Tóm tắt quyết định số 52/2020/DS-GĐT ngày 11/9/2020 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Nguyên đơn: Ông Lê Văn Tiếu, sinh năm 1931; cư trú tại: số 8, tổ 36,
phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Bị đơn: Ông Lê Văn Chỉnh, sinh năm 1942; cư trú tại: số 1, tổ 37, phường
Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Nội dung: Nguyên đơn và bị đơn tranh chấp nhau về việc chia thừa kế và
chia tài sản thuộc sở hữu chung. Vấn đề tranh chấp này gây ảnh hưởng chủ yếu đến
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan của là ông Lê Văn Chảng sau phiên tòa sơ thẩm và
phúc thẩm do đó yêu cầu Tòa án tối xem xét và chia lại phần tài sản thừa kế đáng lẽ
ra thuộc về ông Chảng. Ông Chảng đã được hội đồng giám định y khoa Trung ương
- Bộ Y tế xác định “Hiện tại không đủ năng lực hành vi lập di chúc và tỉ lệ mất khả
năng lao động do bệnh tật là 91%” nên tòa sơ thẩm đã cho phép bà Nguyễn Thị
Bích - người tự nhận là vợ ông Chảng vì cả hai đã đăng ký kết hôn làm người đại
diện hợp pháp của ông Chảng để tham gia chia tài sản. Tuy nhiên việc ông Chảng
và bà Bích là vợ chồng hợp pháp là không đúng và không xảy ra và bà Bích sau khi
nhận được phần tài sản bị chia sai cũng không kháng cáo dẫn đến việc lợi ích hợp
pháp của ông Chảng bị ảnh hưởng. Bà Nguyễn Thị Chung, vợ hợp pháp của ông
Chảng vì từ năm 1975 hai người có tổ chức đám cưới, có con chung và sống với
nhau như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 nhưng bà không được Toà án xác
định là người đại diện hợp pháp của ông Chảng, nên bà Chung không thực hiện
được quyền kháng cáo để bảo vệ quyền lợi của ông.
Do đó, TANDTC quyết định chấp nhận Quyết định kháng nghị tái thẩm số
47/2020/KN-DS ngày 23/6/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án
dân sự phúc thẩm số 07/2009/DSPT ngày 14/01/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2008/DSST ngày
31/01/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án dân sự “Chia thừa kế
và chia tài sản thuộc sở hữu chung”, giữa nguyên đơn là ông Lê Văn Tiếu với bị
đơn là ông Lê Văn Chỉnh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật
1.3. Trong quyết định số 52, Toà án nhân dân tối cao đã xác định năng
lực hành vi dân sự của ông Chảng như thế nào?
“Theo “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày
18/12/2007, Hội đồng giám định y khoa Trung ương - Bộ y tế xác định ông Chảng:
 Không tự đi lại được
 Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng
 Liệt hoàn toàn ½ người phải
 Sa sút trí tuệ
 Hiện tại không đủ năng lực hành vi lập di chúc
 Được xác định tỷ lệ mất khả năng do lao động bệnh tật là: 91%”
Căn cứ vào điều 22 của Bộ luật dân sự 2015:
“1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người
này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm
thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người
đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”
→ Dựa vào giám định y khoa và điều 22 Bộ luật dân sự 2015, tòa đã xác
định ông Chảng là người mất năng lực hành vi dân sự
1.4. Hướng của Tòa án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên có thuyết
phục không? Vì sao?
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao ở câu hỏi trên có thuyết phục
vì theo “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày
18/12/2007 đã nêu tình trạng của ông Chảng và căn cứ theo điều 22 của Bộ luật dân
sự 2015 để Tòa xác định ông Chảng đã mất năng lực hành vi dân sự (“Hiện tại
không đủ năng lực hành vi lập di chúc”). Căn cứ theo điều 22 Bộ luật dân sự 2015,
“khi một người không thể nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định
tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám
định pháp y tâm thần”. Từ 2 yếu tố trên có thể hoàn toàn xác định ông Chảng đã
mất năng lực hành vi dân sự và cần có người đại diện theo pháp luật để thực hiện
các giao dịch dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên vẫn còn một số điểm chưa thuyết phục trong quyết định của Tòa ở
điểm:
 Ông Chảng được xác định là mất năng lực hành vi dân sự nhưng
người giám hộ lúc đó là bà Bích lại không yêu cầu Tòa tuyên bố ông Chảng mất
năng lực hành vi dân sự mà chỉ yêu cầu làm người giám hộ mà Tòa sơ thẩm và phúc
thẩm lại đồng ý với yêu cầu đó nên hướng giải quyết này chưa được hợp lí. “... khi
một người trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự mà có tài sản thì cũng
không hiếm người muốn Tòa án tuyên bố cá nhân này mất năng lực hành vi dân sự
và sau đó yêu cầu được làm người giám hộ.” Từ đây có thể thấy Tòa án đã không
tuyên bố tình trạng của ông Chảng mà vẫn cho phép bà Bích làm người đại diện đã
dẫn đến việc ông Chảng bị chia sai mà bà Bích lại không kháng cáo
 Tòa án chưa có trách nhiệm sau: “... khi giải quyết một vụ việc mà
Tòa án phát hiện một người trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự nhưng
không ai yêu cầu Tòa án tuyên bố họ mất năng lực hành vi dân sự thì, để bảo vệ cá
nhân có nhu cầu được giám hộ, Tòa án nên vận dụng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự nêu trên để yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan (trong đó có Viện kiểm
sát) làm thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên bố cá nhân mất năng lực hành vi dân sự.”
Nếu tòa án có tuyên bố chính thức về tình trạng của ông Chảng sẽ giúp ông Chảng
xác định được người đại diện hợp pháp thật sự có thể giúp ông Chảng bảo vệ được
lợi ích và quyền của mình.
1.5. Theo Toà án nhân dân tối cao, ai không thể là người giám hộ và ai
mới có thể là người giám hộ của ông Chảng? Hướng của Tòa án nhân dân tối
cao như vậy có thuyết phục không, vì sao?
Bà Nguyễn Thị Bích không thể là người giám hộ của ông Chảng vì: theo
công văn số 31/UBND-TP ngày 8/3/2019 đã xác nhận: “Qua kiểm tra xác minh số
đăng ký kết hôn năm 2001 của phường cho thấy không có trường hợp đăng ký kết
hôn nào có tên ông Lê Văn Chảng và bà Nguyễn Thị Bích”. Đồng thời “Giấy chứng
nhận kết hôn - Đăng ký lại” ngày 15/10/2001 giữa bà Bích và ông Chảng do bà
Bích xuất trình là không đúng thực tế và không có việc đăng ký kết hôn giữa ông
Chảng và bà Bích
→ Bà Bích không phải là vợ hợp pháp của ông Chảng và bà Bích không đủ
điều kiện được cử làm người giám hộ cho ông Chảng theo quy định tại khoản 1 điều
62 Bộ luật dân sự 2005.
Bà Nguyễn Thị Chung mới có thể là người giám hộ hợp pháp của ông Chảng
do bà là vợ hợp pháp của ông Chảng và chung sống cùng gia đình ông Chảng từ
năm 1975 đến năm 1994. Trong tài liệu có trong hồ sơ vụ án có thể hiện bà Chung
chung sống với ông Chảng từ năm 1975, có tổ chức đám cưới và có con chung. Do
đó có căn cứ để xác định bà Chung và ông Chảng chung sống với nhau như vợ
chồng từ trước ngày 3/1/1987.
→ Bà Chung và ông Chảng được công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy
định tại điểm a mục 3 NQ số 35/2000/NQ-QH10 ngày 9/6/2000 về việc thi hành
luật hôn nhân và gia đình và căn cứ theo khoản 1 điều 53 Bộ luật dân sự 2015:
“Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ;
nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.” Từ đó
cho thấy bà Chung mới có đủ quyền và nghĩa vụ hợp pháp để trở thành người giám
hộ hợp pháp của ông Chảng.
→ Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý vì đã giành lại
công bằng cho ông Chảng trong việc được hưởng phần thừa kế đáng ra phải thuộc
về mình là phần di sản của ông Miện, bà Hoài được chia đều cho ông Chỉnh và ông
Chảng cũng như không có căn cứ xác định được bà Bích và ông Chảng là vợ chồng
hợp pháp nên không thể là người giám hộ đương nhiên cho ông Chảng thay vào đó
thì dựa trên quy định về luật Hôn nhân và gia đình thì bà Chung mới là vợ hợp pháp
của ông Chảng, là người có đầy đủ điều kiện để làm người giám hộ đương nhiên
của ông Chảng. Do ông Chỉnh đã chia cho ông Chảng 1 phần và bà Bích lúc đó là
người giám hộ được Toà án sơ thẩm và phúc thẩm đồng ý đã không kháng cáo dẫn
đến việc ông Chảng đã không được bảo vệ về quyền và lợi ích hợp pháp. Bà Bích
được xem là người giám hộ hợp pháp của ông Chảng ở thời điểm xét xử sơ thẩm,
tuy nhiên “một người có thể chăm sóc tốt người được giám hộ về sức khỏe, tình
cảm không có nghĩa là người này chắc chắn sẽ quản lí tốt tài sản của người được
giám hộ và ngược lại.” do đó có thể thấy tuy bà Bích tự nhận là vợ ông Chảng và
có giấy đăng kí kết hôn nên được xem là người giám hộ của ông Chảng nhưng điều
này không đồng nghĩa với việc là bà Bích sẽ quản lí tốt tài sản của ông Chảng thể
hiện ở việc bà Bích không kháng cáo khi thấy chồng mình là ông Chảng bị chia sai
tài sản. Vì vậy quyết định huỷ các bản án sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án nhân
dân tối cao đã cho thấy sự công bằng và thuyết phục của Toà án trong việc bảo vệ
các quyền và lợi ích vốn có của nhân dân kể cả khi người đó thuộc đối tượng người
có khó khăn trong nhận thức.
1.6. Cho biết các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản
của người được giám hộ (nêu rõ cơ sở pháp lý).
*Nghĩa vụ của người giám hộ:
Căn cứ theo điều 59 Bộ luật dân sự 2015:
“Điều 59. Quản lý tài sản của người được giám hộ
1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của
chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được
giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ.
Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc
và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải
được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho
người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có
liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao
dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người
giám sát việc giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
được quản lý tài sản của người được giám hộ theo quyết định của Tòa án trong
phạm vi được quy định tại khoản 1 Điều này.”
*Quyền của người giám hộ:
Căn cứ theo điều 58 Bộ luật dân sự 2015:
“Điều 58. Quyền của người giám hộ
1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự có các quyền sau đây:
a) Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho
những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ;
b) Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người
được giám hộ;
c) Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
có quyền theo quyết định của Tòa án trong số các quyền quy định tại khoản 1 Điều
này.”
1.7. Theo quy định và Toà án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người
giám hộ của ông Chảng có được tham gia vào việc chia di sản thừa kế (mà ông
Chảng được hưởng) không? Vì sao? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của
Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề vừa nêu.
Người giám hộ của ông Chảng được tham gia vào việc chia di sản thừa kế
mà ông Chảng được hưởng vì:
 Căn cứ vào điều 67 Bộ luật dân sự 2005:
“Điều 67. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất
năng lực hành vi dân sự
Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau
đây:
1. Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.”
-> Người giám hộ của ông Chảng được quyền tham gia vào việc chia di sản
thừa kế mà ông Chảng được hưởng vì theo khoản 3 điều 67 Bộ luật dân sự 2005 có
quy định người giám hộ có nghĩa vụ quản lý tài sản cho người được giám hộ ở đây
là ông Chảng và di sản thừa kế của ông nên người giám hộ cũng có quyền tham gia
vào việc chia di sản thừa kế của ông Chảng. Khi có phát sinh tranh chấp ở Tòa thì
người giám hộ sẽ có nghĩa vụ phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
được giám hộ theo khoản 4 điều 67 Bộ luật dân sự 2005.
-> Hướng xử lý của Tòa án nhân dân tối cao hợp lý vì:
 Bảo vệ được lợi ích và quyền cho ông Chảng trong việc chia tài sản
và xác định được người giám hộ hợp pháp có thể giúp ông Chảng bảo vệ các quyền
và nghĩa vụ của mình
 Không cho bà Bích tham gia vào việc chia thừa kế vì bà Bích không
phải là vợ hợp pháp của ông Chảng, hơn nữa, bà Bích khi thấy ông Chảng bị chia
sai tài sản cũng không kháng cáo để bảo vệ lợi ích của ông Chảng nên và Bích
không đủ tư cách để được tham gia chia thừa kế
 Công nhận danh phận vợ hợp pháp của ông Chảng là bà Chung, đồng
thời cũng ghi nhận những đóng góp của bà Chung trong quãng thời gian chung sống
với ông Chảng
Quyết định của Tòa án nhân dân tối cao đã khắc phục những sai sót của tòa
án sơ thẩm khi đã đồng ý để bà Bích làm người đại diện hợp pháp cho ông Chảng
trong khi bà Bích không phải là vợ hợp pháp của ông Chảng và cũng không kháng
cáo khi thấy phần tài sản thừa kế mà ông Chỉnh chia sai cho ông Chảng. Từ đó có
thể thấy được Tòa án nhân dân tối cao đã có cái nhìn tổng quát, khắc phục những
sai sót trong quá trình xử án để có thể bảo vệ được lợi ích của người giám hộ và
người được giám hộ là ông Chảng và bà Chung.
*Về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Tóm tắt Quyết định số 15/2020/QĐST-DS
Việc dân sự “Yêu cầu tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi”
- Người yêu cầu giải quyết việc dân sự:
+ Bà Lê Thị A, sinh năm: 1952. Trú tại: Tổ 19, phường A, quận S, TP. Đà
Nẵng;
Nội dung: ông Lê Đức H, sinh năm: 1934 (chết) và bà Nguyễn Thị E, sinh
năm: 1935 kết hôn với nhau sinh được 12 người con là: Lê Thị A, sinh năm: 1952;
Lê Thị C, sinh năm: 1959 (chết); Lê Đức Đ, sinh năm: 1960 (chết); Lê Thị B, sinh
năm: 1961 (chết); Lê Thị Q, sinh năm: 1964; Lê Đức T, sinh năm: 1965 (chết); Lê
Đức T1, sinh năm: 1973 (chết); Lê Đức D, sinh năm: 1970; Lê Thị N, sinh năm:
1972; Lê Đức T2, sinh năm: 1974 (chết); Lê Thị H, sinh năm: 1977 và Lê Đức L,
sinh năm: 1979. Bà E có tiền sử bị cao huyết áp cách đây 04 năm. Khoảng 01 năm
trở lại đây, bà E bắt đầu có biểu hiện lúc nhớ lúc quên, thỉnh thoảng để quên đồ vật,
tiền bạc. Gia đình có đưa bà E đến khám và điều trị nội trú tại Bệnh viện Đa Khoa
Hoàn Mỹ Đà Nẵng từ ngày 19/7/2020 đến ngày 20/7/2020 với chẩn đoán: “Rối loạn
tiêu hóa (K29)/ Tăng huyết áp (I10)”. Hiện nay, bà E có thể tự mặc quần áo, tắm
rửa được nhưng hơi chậm, còn đi chợ và làm được một số công việc đơn giản trong
gia đình. Xét thấy bệnh tình bà E không thuyên giảm do đó bà Lê Thị A yêu cầu
Tòa án tuyên bố bà Nguyễn Thị E có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
đồng thời chỉ định bà Lê Thị A làm người giám hộ, đại diện theo pháp luật cho bà
Nguyễn Thị E. Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là: Thống nhất
với lời trình bày của bà Lê Thị A về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố mẹ ruột là bà
Nguyễn Thị E có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Đồng thời cũng thống
nhất cử Bà A (là chị cả trong gia đình) làm người giám hộ cho bà E, Bà A sẽ đại
diện cho bà E trong các giao dịch dân sự cần thiết theo quy định pháp luật. Kết luận
giám định pháp y tâm thần số: 1032/KLGĐTC ngày 08/12/2020 của Trung Tâm
pháp y tâm thần khu vực Miền Trung đối với trường hợp bà Nguyễn Thị E thì tại
thời điểm hiện tại kết luận về y học: Mất trí không biệt định (F03); Kết luận về năng
lực hành vi dân sự: Khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Do đó, yêu cầu của
bà Lê Thị A là có căn cứ theo quy định tại Điều 23 của Bộ luật dân sự nên chấp
nhận. Về việc chỉ định người giám hộ: Chồng bà Nguyễn Thị E đã chết, bà Lê Thị
A là con cả trong gia đình. Đồng thời các con của bà E cũng thống nhất chỉ định Bà
A làm người giám hộ cho bà E. Xét thấy Bà A có đầy đủ điều kiện của cá nhân làm
người giám hộ theo quy định tại điều 46, 47, 48, 49, 53, 54, 136 Bộ luật dân sự nên
cần chấp nhận.
1.8. Cho biết điều kiện để Tòa án có thể tuyên một người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Điều kiện để Tòa án có thể tuyên một người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi:
 Người này phải là một người thành niên
 Về tình trạng thể chất: không còn đủ khả năng nhưng chưa đến mức
mất năng lực hành vi dân sự
 Phải có yêu cầu của người liên quan hoặc tự bản thân của người đó
 Dựa trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần
Cơ sở pháp lý: Điều 23 BLDS 2015
1.9. Trong quyết định số 15, Toà án tuyên bà E có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tòa án tuyên bà E có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có thuyết
phục.
Cơ sở pháp lý: Điều 23 BLDS 2015
Vì để có thể tuyên một người là có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi phải cần các điều kiện:
 Người này phải là một người thành niên: bà E đã là một người thành
niên (Bà sinh năm 1935).
 Về tình trạng thể chất: không còn đủ khả năng nhưng chưa đến mức
mất năng lực hành vi dân sự: Theo phần nội dung vụ án thì “Khoảng 01 năm trở lại
đây, bà E bắt đầu có biểu hiện lúc nhớ lúc quên, thỉnh thoảng để quên đồ vật, tiền
bạc…Hiện nay, bà E có thể tự mặc quần áo, tắm rửa được nhưng hơi chậm, còn đi
chợ và làm được một số công việc đơn giản trong gia đình”. Bà E vẫn có thể làm
được một số công việc, có khi nhớ khi quên, khó khăn trong nhận thức nhưng chưa
đến mức không thể kiểm soát và mất năng lực hành vi dân sự, do vậy bà E cũng
thỏa mãn điều kiện này.
 Phải có yêu cầu của người liên quan hoặc tự bản thân của người đó:
chồng bà E đã mất và các con của bà E là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đã có yêu cầu đến Tòa án, cụ thể là bà Lê Thị A con của bà E.
 Dựa trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần: Trong phần nhận
định của Tòa án mục [2] thì kết luận giám định pháp y tâm thần của bà E hiện tại là:
“Mất trí không biệt định (F03); Kết luận về năng lực hành vi dân sự: Khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi”.
Do đó bà E đã thỏa mãn hết các điều kiện để có thể tuyên một người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, như vậy, Tòa án tuyên là hoàn toàn thuyết
phục.
1.10. Trong quyết định số 15, Toà án xác định bà A là người giám hộ cho
bà E (có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) có thuyết phục không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong quyết định số 15, Tòa án xác định bà A là người giám hộ cho bà E là
thuyết phục.
Cơ sở pháp lý: Điều 49 BLDS 2015
Vì, để cá nhân có thể làm người giám hộ phải thỏa mãn các điều kiện như
sau:
 Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
 Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền,
nghĩa vụ của người giám hộ.
 Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người
bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
 Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con
chưa thành niên.
Dựa vào các điều kiện trên thì bà A hoàn toàn đáp ứng đủ điều kiện là một cá
nhân làm giám hộ. Thêm vào đó, do những người con khác của bà E cũng hoàn toàn
đồng ý việc bà A sẽ đứng ra làm người giám hộ cho bà E nên việc Tòa án tuyên bà
A là người giám hộ cho bà E là thuyết phục.
1.11. Trong quyết định số 15, Toà án xác định bà A có quyền đối với tài
sản của bà E (có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) theo Điều 59
BLDS năm 2015 có thuyết phục không? Vì sao?
Trong quyết định số 15, việc Tòa án xác định bà A có quyền đối với tài sản
của bà E theo điều 59 BLDS 2015 là thuyết phục, vì:
Điều 59 nói đến việc quản lý tài sản của người được giám hộ, các giao dịch
dân sự được thực hiện với tài sản của người được giám hộ, các nghĩa vụ đối với tài
sản của người được giám hộ, ... những cái đó cũng chính là những quyền đối với tài
sản của bà E mà bà A có thể có.
II. Tư cách pháp nhân và hệ quả pháp lý

2.1. Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân (nêu
rõ từng điều kiện).
 Theo Khoản 1 Điều 74 BLDS 2015, một tổ chức được công nhận là
pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
“1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau
đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường
hợp luật có quy định khác.”
Tóm tắt bản án số 1117/2012/LĐ-PT ngày 11/09/2012 về vấn đề tranh
chấp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:
Nội dung: Ông Nguyễn Ngọc Hùng vào làm việc tại Văn phòng Bộ Tài
nguyên và Môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 1/3/2008 có ký hợp đồng
lao động xác định thời hạn, đến ngày 3/3/2008 chuyển sang ký hợp đồng không xác
định thời hạn. Ngày 11/3/2010 xảy ra sự việc mất 2 chiếc xe gắn máy tại khu tập thể
của cơ quan đại diện Bộ. Ngày 8/9/2011, cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi
trường tại Thành phố Hồ Chí Minh có văn bản số 187/CQĐDPN-HCQT buộc ông
phải bồi thường cho 2 chủ xe mỗi người 10.000.000đ bằng số tiền làm thêm giờ của
ông. Ngày 12/8/2011 cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường tại thành phố
Hồ Chí Minh có thông báo số 169/TB-CQĐDPN chấm dứt hợp đồng lao động đối
với ông với lý do không hoàn thành nhiệm vụ được giao để xảy ra tình trạng mất xe
và cơ quan cũng đã ký hợp đồng với Công ty bảo vệ chuyên nghiệp, do đó không
còn nhu cầu để ông làm bảo vệ. Ngày 15/9/2011 cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và
Môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định số 192/QĐ-CQĐDPN chấm
dứt hợp đồng lao động đối với ông, ông Hùng không đồng ý với quyết định trên nên
khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy văn bản số 187/CQĐDPN-HCQT ngày 8/9/2011;
thông báo số 169/TB-CQĐDPN ngày 12/8/2011 và quyết định số 192/QĐ-
CQĐDPN ngày 15/9/2011 của cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường tại
thành phố Hồ Chí Minh. Buộc nhận ông trở lại làm việc và bồi thường thiệt hại
trong những ngày ông không được làm việc từ 1/10/2011 cho đến khi giải quyết
xong vụ kiện.

2.2. Trong Bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan
đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân không? Đoạn
nào của Bản án có câu trả lời.

 Trong Bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan


đại diện của Bộ tài nguyên môi trường có tư cách pháp nhân.
 Được thể hiện ở đoạn:
“Xét theo quyết định số 1364/QĐ-BTNMT ngày 8/7/2008 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường…
…Như vậy Cơ quan đại diện Bộ tài nguyên và Môi trường thành phố
Hồ Chí Minh là đơn vị trực thuộc Bộ Tài Nguyên và Môi trường là cơ quan
đại diện hạch toán báo sổ khi thực hiện dự toán, quyết toán phải theo phân
cấp của Bộ, phụ thuộc theo sự phân bổ ngân sách của Nhà nước và phân cấp
của Bộ Tài nguyên và Môi trường chứ không phải là cơ quan hạch toán độc
lập. Mặc dù trong quyết định 1367 nói trên có nội dung “Cơ quan đại diện có
tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng” nhưng là Cơ quan đại diện
Bộ phải hạch toán báo sổ nên cơ quan này có tư cách pháp nhân nhưng
không đầy đủ”.
2.3. Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của
Bộ tài nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân?
 Trong Bản án số 1117, Tòa án đã dựa theo quy định tại các Khoản sau
của Điều 92 Bộ luật Dân sự 2005:
“...2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân,
có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và thực
hiện việc bảo vệ các lợi ích đó…
4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân.
Người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ
theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy
quyền.
5. Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao
dịch dân sự do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện.”
 Từ đó, Tòa án đã rút ra kết luận rằng “Cơ quan đại diện Bộ là đơn vị
phụ thuộc của pháp nhân là Bộ Tài nguyên và Môi trường nhưng ông Hùng là
nguyên đơn và Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định bị đơn trong vụ án là cơ quan đại
diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh là xác định không đúng
quy định của luật về pháp nhân của bị đơn.”
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Về vấn đề hủy án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm xác định không đúng người
tham gia tố tụng với tư cách bị đơn trong vụ án:
 Theo em, hướng giải quyết trên là hợp lý và phù hợp với quy định tại
Điều 92 Bộ luật Dân sự 2005, về xác định tư cách pháp nhân:
“...2. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có
nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của pháp nhân và được thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ lợi ích đó…
4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầu
Văn phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân
trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền
5. Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do
Văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập thực hiện.”
 Dựa vào những quy định trên, ta thấy Bộ Tài nguyên và Môi trường
không phải là một pháp nhân, mà trong việc xét xử các vụ án liên quan đến pháp
nhân thì cần phải xác định đúng tư cách của các bên tham gia tố tụng để tránh gây
lãng phí nhân lực, thời gian của các bên và cơ quan tố tụng.
2.5. Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp luật dân
sự? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời (nhất là trên cơ sở quy định của BLDS 2005
và BLDS 2015).

NĂNG LỰC
CƠ SỞ
NĂNG LỰC PHÁP LUẬT DÂN PHÁP LUẬT
PHÁP SO SÁNH
SỰ CỦA PHÁP NHÂN DÂN SỰ CỦA

CÁ NHÂN
Khoản 1 Điều 14:
“Năng lực pháp
Khoản 1 Điều 86: “Năng lực pháp
luật dân sự của cá
luật dân sự của pháp nhân là khả
nhân là khả năng
Khái niệm năng của pháp nhân có các quyền,
của cá nhân có
nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục
quyền dân sự và
đích hoạt động của mình.”
nghĩa vụ dân sự.”

BỘ
LUẬT Thời điểm Khoản 3 Điều 14:
Khoản 2 Điều 86: “Năng lực pháp
DÂN phát sinh “Năng lực pháp
luật dân sự của pháp nhân phát sinh
SỰ 2005 năng lực luật dân sự của cá
từ thời điểm pháp nhân được thành
pháp luật nhân có từ khi
lập”
dân sự người đó sinh ra”

Thời điểm Khoản 3 Điều 14:


chấm dứt Khoản 2 Điều 86: “Năng lực pháp “Năng lực pháp
năng lực luật dân sự của pháp nhân chấm dứt luật dân sự của cá
pháp luật từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.” nhân chấm dứt khi
dân sự người đó chết.”

BỘ Khoản 1 Điều 16:


LUẬT “Năng lực pháp
Khoản 1 Điều 86: “Năng lực pháp
DÂN luật dân sự của cá
luật dân sự của pháp nhân là khả
SỰ 2015 Khái niệm nhân là khả năng
năng của pháp nhân có các quyền,
của cá nhân có
nghĩa vụ dân sự.”
quyền dân sự và
nghĩa vụ dân sự.”

Thời điểm Khoản 2 Điều 86: “Năng lực pháp Khoản 3 Điều 16:
phát sinh luật dân sự của pháp nhân phát sinh “Năng lực pháp
năng lực từ thời điểm được cơ quan nhà nước luật dân sự của cá
pháp luật có thẩm quyền thành lập hoặc cho nhân có từ khi
dân sự phép thành lập; nếu pháp nhân phải người đó sinh ra”
đăng ký hoạt động thì năng lực
pháp luật dân sự của pháp nhân
phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ
đăng ký.”

Thời điểm Khoản 3 Điều 16:


Khoản 3 Điều 86: “Năng lực pháp
chấm dứt “Năng lực pháp
luật dân sự của pháp nhân chấm dứt
năng lực luật dân sự của cá
kể từ thời điểm chấm dứt pháp
pháp luật nhân chấm dứt khi
nhân.”
dân sự người đó chết.
2.6. Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp
nhân có ràng buộc pháp nhân không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 87 BLDS 2015: “Pháp nhân phải chịu trách
nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập,
thực hiện nhân danh pháp nhân.”, khi người đại diện của pháp nhân xác lập giao
dịch nhân danh pháp nhân sẽ phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự kèm theo.
Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện những quyền và nghĩa vụ
dân sự này đồng nghĩa với việc giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập
nhân danh pháp nhân sẽ ràng buộc pháp nhân.
2.7. Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có
ràng buộc Công ty Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có sự ràng buộc
đối với Công ty Bắc Sơn. Mặc dù trong quy chế hoạt động của Chi nhánh Công ty
Bắc Sơn có quy định “chi nhánh là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, hạch
toán kinh tế độc lập”, căn cứ theo Khoản 1 Điều 84 BLDS 2015: “Chi nhánh, văn
phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, không phải là pháp nhân.”, Chi
nhánh này vẫn thuộc công ty Bắc Sơn, là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, không
phải là một pháp nhân độc lập. Đồng thời, cũng tại Khoản 6 của điều này có quy
định: “Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do chi
nhánh, văn phòng đại diện xác lập, thực hiện.”, nên Công ty Bắc Sơn không được
phủ nhận trách nhiệm đối với hợp đồng trên mà phải thực hiện nghĩa vụ dân sự phát
sinh từ giao dịch dân sự do Chi nhánh thực hiện.
III. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân

Tóm tắt Bản án số 10/2016/KDTM-PT ngày 17/03/2016 của Tòa án nhân


dân tỉnh An Giang
Bản án số 10/2016/KDTM-PT xét xử phúc thẩm về việc tranh chấp “Hợp
đồng mua bán hàng hóa”. Nguyên đơn là Công ty TNHH Dịch vụ - Xây dựng –
Thương mại Ngọc Bích, bị đơn là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại
Xuyên Á, Giám đốc Ông Trần Ngọc Phong. Nguyên đơn khởi kiện với lý do công
ty Xuyên Á chưa hoàn thành nghĩa vụ thanh toán đơn hàng, yêu cầu ông Phong và
bà Hiền thanh toán nợ gốc, lãi và được Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận. Ông Phong và
bà Hiền không đồng ý với quyết định của Tòa nên đã kháng cáo. Bản án phúc thẩm
đã chỉ ra những sai sót trong thủ tục tố tụng của Tòa cấp sơ thẩm, hủy bản án sơ
thẩm và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn giải quyết lại vụ án.
3.1. Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên và
trách nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân.
a. Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên:
 Theo Khoản 1, 2 Điều 87 BLDS 2015:
 Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ, dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
 Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc
đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
 Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu
trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của
pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có
quy định khác.
 Theo Khoản 1, 2 Điều 93 BLDS 2005:
 Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
 Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu
trách nhiệm thay cho thành viên của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do thành
viên xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân.
b. Trách nhiệm của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân:
 Theo Khoản 3 Điều 87 BLDS 2015:
 Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật
có quy định khác
 Theo Khoản 3 Điều 93 BLDS 2005:
 Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho
pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện.
3.2. Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của Công ty
Xuyên Á không? Vì sao?
 Trong Bản án đã được bình luận, bà Hiền được xem là thành viên của
Công ty Xuyên Á.
 Vì khi xét trong bản án có thể thấy Công ty Xuyên Á là một pháp
nhân mà theo Khoản 23, điều 4, Luật doanh nghiệp 2014: “Thành viên công ty là
cá nhân, tổ chức sở hữu một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc công ty hợp danh” cùng với việc bà Hiền có góp vốn 26,5% vào công
ty Xuyên Á thì có thể khẳng định bà Hiền chính là thành viên của công ty Xuyên Á.
Ngoài ra, nếu liên hệ tới Luật doanh nghiệp 2020 (sửa đổi, bổ sung 2022) thì trong
Khoản 29, điều 4 có khẳng định nếu sở hữu một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của
công ty đó thì được coi là thành viên của công ty, tổ chức.
3.3. Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên
Á hay của bà Hiền? Vì sao?
Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á,
không phải của bà Hiền vì trách nhiệm dân sự của pháp nhân là sự cưỡng chế nhà
nước nhằm buộc pháp nhân phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ tài sản hoặc phải bồi
thường cho các cá nhân, tổ chức bằng tài sản của pháp nhân. Bà Hiền là thành viên
của pháp nhân (người có vốn góp 26,05% cho Công ty Xuyên Á) và theo quy định
tại khoản 3 Điều 93 BLDS năm 2005: “Thành viên của pháp nhân không chịu trách
nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập,
thực hiện”.
3.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa cấp sơ thẩm và
Tòa cấp phúc thẩm liên quan đến nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích.
Theo Tòa cấp phúc thẩm, Tòa cấp sơ thẩm đã có những sai sót trong thủ tục
tố tụng như việc đưa bà Hiền là thành viên của pháp nhân (Công ty Xuyên Á) tham
gia tố tụng và buộc bà cùng với ông Phong trả nợ dù bà chỉ có vốn góp 26,05% là
chưa đúng theo quy định của khoản 3 Điều 93 BLDS năm 2005, điểm a khoản 2
Điều 24 và khoản 2 Điều 32 của Điều lệ Công ty Xuyên Á; không ra thông báo đưa
bà Hiền tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; không có sự nhất
quán trong các văn bản tố tụng về việc xác định tư cách của bà Hiền; không thu
thập chứng cứ làm rõ những vấn đề liên quan đến việc Công ty Xuyên Á giải thể
dẫn đến bản án chưa thỏa đáng. Tòa cấp phúc thẩm đã chỉ ra đầy đủ những sai sót
của cấp sơ thẩm, xác định rõ ràng bên bị đơn là bà Hiền không có nghĩa vụ trả nợ
cho bên nguyên đơn là Công ty Ngọc Bích và yêu cầu TAND huyện Tri Tôn giải
quyết lại vụ án.
3.5. Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công ty
Xuyên Á đã bị giải thể?
Để giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật, cần thu thập đủ chứng
cứ làm rõ để xác định lý do giải thể, tài sản của công ty khi giải thể và nghĩa vụ về
tài sản của công ty. Theo quy định tại khoản 2 Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2014:
“Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp
tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy
định tại điểm d khoản 1 Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của doanh nghiệp”. Theo đó, Công ty Xuyên Á phải thanh toán khoản nợ với Công
ty Ngọc Bích dù đã giải thể. Về tính xác thực và hợp lệ của lý do bị đơn kháng cáo
vì gạch của Công ty Ngọc Bích giao không đạt tiêu chuẩn nên Công ty Xuyên Á chỉ
trả cho Công ty Ngọc Bích số tiền 36.170.500đ sẽ do TAND huyện Tri Tôn điều tra
và quyết định.

You might also like