You are on page 1of 3

So sánh BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu

lực của giao dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên.
 Điều kiện về năng lực chủ thể BLDS 2005 chỉ yêu cầu chủ thể tham gia giao
dịch có năng lực hành vi dân sự còn BLDS 2015 yêu cầu thêm là phải phù
hợp với giao dịch dân sự được xác lập. Việc bổ sung này hợp lý vì không
phải tất cả các giao dịch dân sự đều có mục đích và nội dung giống nhau,
việc yêu cầu các mức độ và năng lực hành vi dân sự của cá nhân sẽ phụ
thuộc vào từng loại giao dịch cụ thể.
 Về vấn đề này, điểm a khoản 1 Điều 122 BLDS 2005 xác định điều kiện để
giao dịch có hiệu lực là “người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân
sự”. Nội dung này đã được thay đổi, trong điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS
2015 xác định chủ thể giao dịch phải có năng lực chủ thể bao gồm cả 2 yếu
tố là “năng lực pháp luật dân sự” và “năng lực hành vi dân sự", cụ thể là:
“chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập”. Việc bổ sung này là hợp lý vì giao dịch dân
sự rất khác nhau và năng lực hành vi dân sự của cá nhân phụ thuộc vào giao
dịch dân sự cụ thể.
 So với BLDS 2005, BLDS 2015 đã thay từ “người tham gia giao dịch” bằng
“chủ thể”. Sự thay đổi này chỉ mang tính kỹ thuật, không kéo theo sự thay
đổi về nội dung, để có sự đồng bộ với những nội dung khác của BLDS 2015.
 Bổ sung thêm tính tự nguyện của các chủ thể tại điểm b, khoản 1, Điều 117
BLDS 2015 đã được đưa lên trước “Mục đích và nội dung của giao dịch dân
sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Điều này
cho thấy rằng các nhà làm luật đã đề cao vai trò của sự tự nguyện, ý chí của
chủ thể trong giao dịch dân sự lên trước mục đích và nội dung giao dịch.
 Theo điểm b khoản 1 Điều 122 BLDS 2005, một trong những điều kiện để
giao dịch có hiệu lực là “mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm
điều cấmcủa pháp luật” còn tại điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 lại quy
định rằng:“Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều
cấm của luật,không trái đạo đức xã hội” → Có sự thay đổi từ “điều cấm của
pháp luật" thành “điều cấm của luật". Có ý kiến cho rằng, cách xây dựng
quy định lập lờ (của BLDS 2005) này sẽ dẫn tới cách hiểu là “bất kỳ quy
định nào” trong pháp luật Việt Nam (Luật cũng như văn bản dưới Luật,
Thông tư, Nghị định). Nên nêu rõ đó là quy định trong “Luật” do Quốc hội
ban hành”. Cuối cùng, Dự thảo trình Quốc hội thông qua vào năm 2015 đã
theo hướng vừa nêu và nội dung này đã được ghi nhận trong BLDS 2015.
 Tóm lại, theo em những sự thay đổi của BLDS 2015 so với BLDS 2005 là
một sự nâng cấp cả về mặt kĩ thuật cũng như nội dung đã rành mạch, hoàn
thiện hơn.

Đoạn nào của bán án trên cho thấy ông T và bà H không có quyền
sở hữu nhà ở tại Việt Nam?
 Đoạn của bản án số: 32/2018/DS-ST cho thấy ông T và bà H không có
quyền sở hữu nhà ở Việt Nam là:
“Hơn nữa ông Ph J T và bà L Th H là người Việt Nam ở nước ngoài đã nhập
quốc tịch Mỹ thì theo quy định Luật đất đai năm 2003 và Điều 121 của Luật
Nhà ở năm 2005 thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu
nhà ở Việt Nam khi thỏa mãn các điều kiện sau: “ Người Việt Nam định cư ở
nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt Nam, người có công đóng góp với đất
nước, nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường
xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước, người được
phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt Nam”. “Người Việt Nam định cư
ở nước ngoài không thuộc diện quy định này đã về Việt Nam cư trú với thời
hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một
căn hộ” do đó ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông
thôn và đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam vì vậy các giao dịch giấy cho nền
thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày 02/6/2004, giấy cam
kết ngày 16/3/2011 bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và do không
tuân thủ quy định về hình thức theo Điều 117, 123, 129 của Bộ luật dân sự và
căn cứ theo Điều 131 của Bộ luật dân sự thì các đương sự phải khôi phục lại
tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”.
Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch của ông T và bà H
với bà Đ đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu?
 Đoạn của bản án số: 32/2018/DS-ST cho thấy giao dịch của ông T và bà
H với bà Đ đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu là:
‘‘do đó ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông thôn và
đất trồng cây lâu năm tại Việt Nam vì vậy các giao dịch giấy cho nền thổ cư
ngày 31/5/2004,giấy nhường đất thổ cư ngày 02/6/2004, giấy cam kết ngày
16/3/2011 bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và do không tuân thủ
quy định về hình thức theo Điều 117, 123, 129 của Bộ luật dân sự và căn cứ
theo Điều 131 của Bộ luật dân sự thì các đương sự phải khôi phục lại tình trạng
ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.’’
 Tại phần Quyết định, Tòa án tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi của nguyên đơn.
- Vô hiệu giấy cho nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày
02/6/2004 và giấy cam kết ngày 16/3/2011 mà các bên đã xác lập do vi phạm
điều cấm của pháp luật.
- Buộc bà L K Đ hoàn trả cho ông J Ph (Ph J T) và bà A Th Ph (L Th H) số tiền
350.000.000 đồng.
Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ với năng lực pháp luật
của chủ thể) về căn cứ để Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu?

You might also like