You are on page 1of 7

BUỔI THẢO LUẬN DÂN SỰ 7

VẤN ĐỀ 2: XÁC ĐỊNH CON CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN

 Tóm tắt Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa án Phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội

Đồng nguyên đơn: các bà Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn Thi Triển,
Nguyễn Thị Tiến.

Bị đơn: ông Nguyễn Tất Thăng.

Vụ việc: Tranh chấp chia thừa kế.

Nội dung: Cụ Nguyễn Tất Thát có 2 người vợ là cụ Nguyễn Thị Tần (vợ cả) và Phạm Thị
Thứ (vợ hai) cùng với các con là ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết, bà Triển, bà Tiến. Trong
đó, bà Tiến là con của ông Thát với bà Thứ. Theo đó, lần lượt cụ Thát mất năm 1961, cụ
Thứ mất năm 1994, cụ Tần mất năm 1995. Tài sản chung của các cụ để lại bao gồm 5
gian nhà ngói cổ, 2 gian nhà ngang, bếp, chuồng trâu, sân, bể trên diện tích đất 640m 2 tại
số nhà 11 hẻm 38/58/17 tổ 38, cụm SA phường Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội. Hiện nay, tổng
di sản nhà đất trên đang do ông Thăng trực tiếp quản lý sử dụng và khai thác. Cụ thế hơn
trong tình tiết của vụ kiện, các bên nguyên đơn có nguyện vọng xin cho bà Tiến dãy nhà
ngang kéo thẳng hết cõi đất như lời dặn dò của cụ Tần hoặc ông Thăng cho bà Tiến 100m
đất nhưng ông Thăng không công nhận bà Tiến là con đẻ của cụ Thát nên không chấp
nhận nguyện vọng trên. Tòa phúc thẩm chấp nhận yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật
của nguyên đơn và xác định chia di sản thừa kế theo từng giai đoạn mở thừa kế tuần tự:
cụ Thát, cụ Thứ, cụ Tần; đối với di sản của cụ Thứ, cụ Tần thì xác định người được
hưởng thừa kể là con đẻ của từng người, ngoài ra ông Thăng được hưởng thêm phần giá
trị trích công sức duy trì, tôn tạo di sản của bố mẹ ông.

 Tóm tắt Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/04/2012 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Hồng Nga

Bị đơn: Ông Phạm Văn Tùng và bà Võ Thị Tình

Cụ Dung và cụ Cầu chết, không để lại di chúc. Hai cụ có một ngôi nhà mái lá 3 gian
(hiện nay chỉ còn nền móng nhà), giếng nước, cây lâu năm nằm trên diện tích 3.127m 2
đất. Hai cụ có người con là bà Nga. Nhưng bà Nga không có điều kiện canh tác, sử dụng
phần đất cha mẹ để lại nên đã giao cho ông Tùng là người bà con trong họ quản lý, sử
dụng. Khi bà Nga ở xa nhà thì ông Tùng là người đã trực tiếp nuôi dưỡng hai cụ và khi
hai cụ chết ông cũng là người lo mai táng. Ông Tùng là người quản lý, sử dụng diện tích
3.127m2 đất từ năm 1976 đến nay. Ông có xây dựng 1 căn nhà kiên cố và cho anh Thanh
(con trai ông Tùng) một phần diện tích đất để làm nhà ở trên 3.127m 2 đất trên. Ông có
viết “Giấy tự báo” cam đoan, cam kết quyền sở hữu khu vườn kể cả nhà ở trên hoàn toàn
thuộc bà Nga và sau này khi cần ông sẽ cam kết trả. Nay bà Nga yêu cầu ông Tùng phải
trả cho bà một nền móng nhà, 2 giếng nước, 2 cây dừa, hàng tre và 3.127m 2 đất nêu trên,
yêu cầu anh Thanh phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho bà.

Tòa quyết định hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đông Xuân, tỉnh Phú
Yên, giao lại hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Đông Xuân xét xử sơ thẩm lại.

2.1 Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
- Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 651 của BLDS 2015 thì: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”.
2.2 Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di sản?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trường hợp một người được coi là con nuôi của người để lại di sản là xác lập quan hệ
nuôi dưỡng, trở thành con nuôi thực tế.
+ Tại thời điểm nhận nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi được đăng ký tại UBND xã,
phường, thị trấn nơi thường trú của cha mẹ nuôi hoặc con nuôi;

+ Trường hợp việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế mà chưa đăng ký trước ngày
1/1/2011, nếu đáp ứng các điều kiện quy định ở khoản 1 Điều 50 Luật nuôi con nuôi
2010:

“1. Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu
lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời
hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

a) Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm
phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;

b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai
bên còn sống;
c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như
cha mẹ và con.”

Thì được đăng ký kể từ ngày 1/1/2011 đến hết ngày 31/12/2015 tại UBND cấp xã nơi
thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi.

 Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi

“ Điều 23. Đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế

1. Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà
chưa đăng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, nếu đáp ứng các điều kiện theo quy
định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Nuôi con nuôi, thì được đăng ký kể từ ngày 01 tháng
01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi
thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi.”

2.3 Trong Bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi không?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

- Trong Bản án số 20, bà Tý được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi. Điều này được
thể hiện qua đoạn “Nhận thấy” của Bản án:

“Các bà có nghe nói trước đây bố mẹ các bà có nhận bà Nguyễn Thị Tý là con nuôi, sau
đó bà Tý về với bố mẹ đẻ và đi lấy chồng” và “Anh Trần Việt Hùng, chị Trần Thị Minh
Phượng, chị Trần Thị Hồng Mai, chị Trần Thị Hoa trình bày: Mẹ đẻ của các anh chị là bà
Nguyễn Thị Tý trước đây có là con nuôi cụ Thát và cụ Tần trong thời gian khoảng 6 đến
7 năm, sau đó bà Tý về nhà mẹ đẻ sinh sống.”

2.4 Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của bản
án cho câu trả lời?

- Tòa án không coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần.

- Đoạn trong phần Nhận thấy của bản án cho câu trả lời: “Xác định bà Nguyễn Thị Tý
không phải là con nuôi của cụ Thát, cụ Tần, cụ Thứ.” và “Xác định hàng thừa kế thứ nhất
của cụ Thát gồm 7 người: cụ Tần, cụ Thứ, ông Thăng, bà Bằng, bà Triển, bà Khiết, bà
Tiến.”

- Vậy nếu Tòa án công nhận bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần thì bà Tý phải thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của hai cụ, nếu chia thừa kế thì Tòa án phải bổ sung bà Tý cũng là
một trong những hàng thừa kế thứ nhất của cụ Thát, tuy nhiên khi đưa ra nhận định về
người thừa kế của cụ Thát thì Tòa án không đề cập đến bà Tý. Do đó, suy ra Tòa án
không công nhận bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần.

 Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;”

2.5 Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.

-Hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến bà Tý tuy không được Tòa án giải thích
nhưng nhìn tổng thể toàn bộ vụ án có những điểm chưa hợp lý, cần xem xét lại.

+ Về việc bà Tý được nhận con nuôi chỉ dựa trên lời khai của các nguyên đơn khi nghe cụ
Tần dặn dò trước khi mất, các con của cụ Tý công nhận rằng mẹ mình đã làm con nuôi
của cụ Thát và cụ Tần khoảng 6, 7 năm nhưng trong sổ hộ tịch của cụ Tần và cụ Thát
không có ghi phần con nuôi là cụ Tý. Về hình thức, ta thấy bà Tý sẽ không được đáp ứng.

+ Xét về chứng cứ chứng minh thì sẽ rất thuyết phục khi có người làm chứng, giấy tờ
chứng minh việc làm con nuôi của cụ Tý. Nhưng trong bản án này đã không đề cập đến
nhân chứng chứng minh, các nguyên đơn cũng không đưa ra chứng cứ gì cho việc bà Tý
là con nuôi của 2 cụ. Tòa án thực sự đã bỏ qua vấn đề này, khi chưa làm rõ mà đã vội kết
luận bà Tý không phải con nuôi của cụ Thát và cụ Tần. Tuy nhiên, Tòa án giải quyết theo
hướng đó cũng là thuyết phục. Bởi vì các con của bà Tý đều thống nhất việc từ chối nhận
di sản. Nếu Tòa án đào sâu tìm hiểu kĩ thì không giúp ích gì trong vụ án này. Nhưng nếu
các thừa kế thoái vị của bà Tý yêu cầu được nhận di sản, thì Tòa án nên tìm hiểu kĩ hơn,
để đảm bảo quyền lợi cho các con của bà Tý.

2.6 Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư
cách nào? Vì sao?

- Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư cách là
con nuôi, là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Vì anh Tùng ở với hai cụ từ lúc mới 2
tuổi, hai cụ đã nuôi dưỡng anh từ nhỏ và khi hai cụ già yếu thì anh Tùng là người chăm
sóc, phụng dưỡng hai cụ. Khi hai cụ chết thì anh Tùng là người lo mai táng cho hai cụ.
2.7 Suy nghĩ của anh/ chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh
Tùng.
- Theo em, hướng xác định trên của Tòa án về vấn đề liên quan đến anh Tùng là hợp lý và
đảm bảo quyền lợi cho anh Tùng. Vì Tòa án cần phải thu thập, xác minh về lời khai của
các nhân chứng và lời khai của anh Tùng về việc hai cụ đã nuôi dưỡng anh, anh cũng là
người chăm sóc, phụng dưỡng khi hai cụ già yếu thì trên thực tế anh Tùng phải được coi
là con nuôi của hai cụ. Vì thế nếu anh Tùng có yêu cầu chia di sản của hai cụ thì phải giải
quyết theo quy định của pháp luật.
2.8 Nếu hoàn cảnh tương tự như Quyết định số 182, xảy ra sau khi có Luật hôn
nhân và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ
Dung không? Vì sao?

- Nếu áp dụng Luật Hôn nhân gia đình 1986 vào hoàn cảnh tương tự như Quyết định số
182 thì anh Tùng chưa đủ điều kiện để công nhận là con nuôi và được thừa hưởng thừa kế
của cụ Cầu và cụ Dung. Vì theo Điều 37 Luật Hôn nhân gia đình 1986 quy định:
“Việc nhận nuôi con nuôi do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của
người nuôi hoặc con nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch.”

- Trường hợp của anh Tùng, bản án không hề đề cập đến việc UBND địa phương công
nhận anh là con nuôi 2 cụ, vì thiếu điều kiện này nên anh cũng không được hưởng thừa
kế như con để theo pháp luật.
2.9 Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
- Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại sản. Theo quy định tại điểm a
Khoản 1 Điều 651 của BLDS 2015 thì: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”.
2.10. Đoạn nào của Bản án số 20 cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát?

Đoạn trong phần “Xét thấy” của Bản án số 20 cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát:

- “Án sơ thẩm căn cứ vào lý lịch của bà Tiến có xác nhận của chính quyền địa phương thì
bà Tiến là con cụ Thát và là em ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết, bà Triển cũng như xác
nhận của họ hàng, hàng xóm khẳng định cụ Thứ là vợ cụ Thát và bà Tiến là con của cụ
Thứ, cụ Thát.”

- “Tại phiên tòa phúc thẩm bà Khiết, bà Tiến xuất trình bản sơ yếu lý lịch của bà Nguyễn
Thị Khiết, có nhận xét của bí thư Ban chấp hành Đảng bộ xã Xuân La ký ngày 05-7-1966
(bản chính) trong phần hoàn cảnh gia đình bà Khiết có ghi: gì ghẻ Phạm Thị Thứ 45 tuổi;
anh Nguyễn Tất Thăng 26 tuổi đi bộ đội; em Nguyễn Thị Tiến 17 tuổi học sinh.”

- “Bà Tiến còn xuất trình lý lịch và giấy khai sinh chính do Ủy ban nhân dân phường
Xuân La cấp ghi bà Tiến có bố là Nguyễn Tất Thát, mẹ là Phạm Thị Thứ.
Các nhân chứng như cụ Nguyễn Xuân Chi sinh năm 1992 ở tổ 37, cụm 5, phường Xuân
La; ông Nguyễn Văn Chung sinh năm 1940 năm 2002 là tổ trưởng tổ dân phố và ông
Nguyễn Hoàng Đăm sinh năm 1947 ở cụm 10, tổ 52, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội
(ông Đăm là con trai cụ Nguyễn Thị Vân, mẹ ông Đăm là con cụ Nguyễn Tất Vặn - cụ
Vặn là em ruột cụ Nguyễn Tất Thát) đều khẳng định cụ Thứ là vợ hai cụ Thát, bà Tiến là
con của cụ Thát và cụ Thứ.”

2.11 Suy nghĩ của anh/ chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tiến.

- Giải pháp của Tòa án liên quan đến bà Tiến là hợp lý, hợp tình.
+ Hai cụ Thứ và cụ Thát đã xác lập quan hệ hôn nhân ở miền Bắc vào ngày 13/1/1960,
thế nên bà Tiến vẫn là con của cụ Thứ và cụ Thát
+ Đồng thời Tòa án đã xem xét và đưa ra quyết định công nhận bà Tiến là con của cụ
Thứ và cụ Thát qua bản lý lịch Đảng viên của bà Nguyễn Thị Khiết trong phần hoàn cảnh
gia đình bà Khiết, các anh chị em cung cha khác mẹ cũng công nhận mối quan hệ. Việc
xác định và công nhận này của Tòa đã đảm bảo quyền lợi về thừa kế di sản của bà.
2.12 Ở Việt Nam, con dâu, con rể của người để lại di sản có là người thừa kế của
người để lại di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Ở Việt Nam, con dâu, con rể của người để lại di sản không là người thừa kế của người
để lại di sản.
 Theo quy định tại Điều 651 của BLDS 2015 thì:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc
từ chối nhận di sản.”.
Như vậy, căn cứ theo Điều 651 của BLDS 2015 thì con dâu, con rể không thuộc các
hàng thừa kế theo pháp luật do đó họ không được chia di sản thừa kế.

2.13 Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác dịnh con dâu, con rế là người thừa
kế cùa cha mẹ chồng, cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị
biết.
- Có hệ thống pháp luật của nước Ba Lan quy định thừa kế theo pháp luật được ghi nhận
cho cha mẹ, vợ chồng. Pháp luật tại nước này đồng ý cho co dâu, con rể hoặc cha mẹ vợ
hoặc chồng được thừa kế di sản theo pháp luật định sãn mà không cần theo di chúc.

You might also like