You are on page 1of 10

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

Bài tập thảo luận thứ 1

LỚP CJL46
NHÓM 1

Danh sách nhóm 1:


Lý Linh Nghi 2153801015165 Nhóm trưởng
Nguyễn Nguyên Huy 2153801011072

Nguyễn Thị Khánh Linh 2153801012117


Trần Thiên Bảo Ngọc 2153801014168
DANH SÁCH PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ THÀNH VIÊN TRONG NHÓM

- Câu 2 phần 2;
Lý Linh Nghi 2153801015165 - Câu 2 phần 3 (bảo vệ quan
điểm Tòa án cấp phúc thẩm).
- Hoàn chỉnh các câu đã sửa
trên lớp;
Nguyễn Nguyên Huy 2153801011072
- Câu 2 phần 3 (bảo vệ quan
điểm Tòa án cấp sơ thẩm)
- Câu 2 phần 3 (bảo vệ quan
Nguyễn Thị Khánh Linh 2153801012117 điểm Tòa án cấp sơ thẩm);
- Câu 3 phần 3.
- Câu 1 phần 3;
Trần Thiên Bảo Ngọc 2153801014168 - Câu 2 phần 3 (bảo vệ quan
điểm Tòa án cấp phúc thẩm).

1
DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT
1. BLTTDS 2015: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019, năm
2020);
2. BLTTDS 2004: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004;
3. BLDS 2015: Bộ luật Dân sự năm 2015;
4. TTLT 02/2016/TTLT- VKSNDTC-TANDTC: Thông tư liên tịch 02/2016/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC quy định việc phối hợp giữa Viện Kiểm sát nhân dân và Tòa
án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

2
BÀI TẬP THẢO LUẬN TUẦN 1
KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Phần 1. Nhận định


Câu 1. Đương sự có quyền quyết định mọi vấn đề trong tố tụng dân sự.
Nhận định sai.
Căn cứ Điều 5 BLTTDS 2015 có thể thấy không phải trong mọi vấn đề trong tố
tụng dân sự đương sự đều có quyền quyết định mà chỉ có quyền quyết định đối với
việc khởi kiện, yêu cầu TA có thẩm quyền giải quyết. Chẳng hạn như trong thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm, thủ tục đặc biệt thì đương sự không có quyền định đoạt
(Điều 326 BLTTDS); quyết định thụ lý vụ án, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ thì
đương sự cũng không có quyền định đoạt.
Do đó, không phải mọi vấn đề đương sự đều có quyền quyết định trong tố tụng
dân sự.

Câu 2. Tòa án luôn phải thụ lý giải quyết tranh chấp dân sự.
Nhận định sai.
Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 thì Tòa án không phải thụ lý
giải quyết tranh chấp dân sự trong trường hợp thuộc thẩm quyền của một cơ quan, tổ
chức khác.
Do đó, có trường hợp Tòa án không phải thụ lý giải quyết tranh chấp dân sự.

Câu 3. Các đương sự bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Nhận định sai.
Căn cứ tại Điều 6 BLTTDS 2015 thì người khởi kiện có quyền cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự nhưng người bị kiện sẽ không thực hiện quyền
này.
Còn theo Điều 8 BLTTDS 2015 quy định bình đẳng không có nghĩa ai cũng
như ai, khi đặt chủ thể vào chung một vị trí và vai trò như người nước ngoài, người
dân tộc, người bình thường trở thành nguyên đơn, cả 3 người đều có 30 quyền của
nguyên đơn như nhau thì quyền và nghĩa vụ sẽ như nhau, được gọi là bình đẳng tuyệt
đối. Ngoài ra, khi nguyên đơn và bị đơn được pháp luật bảo đảm như nhau, Tòa án sẽ
đảm bảo cho 2 bên được thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với vai trò của họ, chẳng
hạn như bị đơn có 20 quyền, nguyên đơn có 30 quyền thì Tòa án sẽ đảm bảo cho 2
bên được thực hiện quyền của chính họ, được gọi là bình đẳng tương đối.

3
Do đó, các đương sự bình đẳng với nhau sẽ phụ thuộc vào vai trò và vị trí của
họ trong tố tụng dân sự.

Câu 4. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt.
Nhận định đúng.
Căn cứ theo quy định tại Điều 20, Điều 81 BLTTDS 2015, tiếng nói và chữ
viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt. Tuy nhiên, có thể thấy người tham gia tố
tụng dân sự khi dùng ngôn ngữ dân tộc của mình hoặc dùng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ
dành riêng cho người khuyết tật thì cũng phải có người phiên dịch ra tiếng Việt. Điều
kiện bắt buộc là phải có người phiên dịch ra Tiếng Việt.
Như vậy, có thể thấy, về bản chất, trong tố tụng dân sự thì tiếng nói và chữ viết
được sử dụng là tiếng Việt.

Câu 5. Trong tố tụng dân sự, Tòa án chỉ giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự.
Nhận định sai.
Theo Điều 1 BLTTDS 2015 quy định trong tố tụng dân sự, ngoài việc giải
quyết vụ án dân sự và việc dân sự, Toà án còn giải quyết việc thủ tục công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán
quyết của Trọng tài nước ngoài.
Vậy, trong tố tụng dân sự, Tòa án không chỉ giải quyết vụ án dân sự và việc
dân sự mà còn giải quyết các thủ tục khác.

4
Phần 2. Bài tập
Anh Lê Văn V và chị Bùi Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết
hôn tại UBND xã A, huyện B năm 1995 (do bị thất lạc nên ngày 31/12/2009 anh V đã
xin cấp lại). Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn,
nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính cách hai người không hoà hợp,
hiện nay anh đã thuê nhà ở riêng, anh V và chị H sống ly thân. Nay anh xét thấy tình
cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên năm 2017, anh V
đề nghị Toà án thành phố Thanh Hoá cho anh được ly hôn với chị H.
- Về con chung: anh V và chị H có có 02 con chung, cháu Lê Phương Th1, sinh
ngày 02/9/1996 và cháu Lê Xuân Th2, sinh ngày 24/4/2009. Ly hôn anh V có nguyện
vọng nuôi cháu Th2, nhưng cháu Th2 có nguyện vọng ở với mẹ nên anh V đồng ý
giao cháu Th2 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh có nghĩa vụ cấp dưỡng mỗi tháng
2.000.000đ.
- Về tài sản, công nợ: Anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Câu hỏi:
1. Xác định yêu cầu của đương sự trong vụ án nêu trên.
Đối với yêu cầu của anh V, anh yêu cầu Tòa án thành phố Thanh Hóa cho anh
được ly hôn với chị H và yêu cầu Tòa án xác định nghĩa vụ về cấp dưỡng, nuôi con
chung, cụ thể giao cháu Th2 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh có nghĩa vụ cấp
dưỡng mỗi tháng 2.000.000đ.
Đối với yêu cầu của chị H, do chưa biết chị H có đồng ý với yêu cầu nêu trên
của anh V hay không, nên phải xác định giữa anh V và chị H là có tranh chấp. Do đó,
đây là vụ án dân sự.
Đối với cháu Lê Xuân Th2 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo
khoản 4 Điều 68 BLTTDS 2015, do cháu là con chưa thành niên trên 7 tuổi (tính đến
năm 2017, cháu 8 tuổi) và cháu có nguyện vọng ở với mẹ nên Tòa án phải lấy ý kiến
cũng như các thủ tục tố tụng khác đối với cháu theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS 2015.
Có thể xác định, yêu cầu của cháu Th2 là được mẹ H trực tiếp nuôi dưỡng.

2. Viện kiểm sát có bắt buộc tham gia phiên tòa sơ thẩm hay không? Tại
sao.
Do cháu Lê Xuân Th2 chỉ mới 8 tuổi và tham gia vụ án với tư cách đương sự là
người chưa thành niên khi anh V đề nghị Toà án thành phố Thanh Hoá cho anh được
ly hôn với chị H và giải quyết tranh chấp. Mặt khác, theo quy định tại khoản 3 Điều
208 BLTTDS 2015, vụ án dân sự hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa

5
thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa
án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát
sinh tranh chấp.
Theo đó, căn cứ tại khoản 4 Điều 27 TTLT 02/2016/TTLT- VKSNDTC-
TANDTC và khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015, Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa
sơ thẩm đối với những vụ án có đương sự là người chưa thành niên.
Do đó, Viện kiểm sát bắt buộc phải tham gia phiên tòa sơ thẩm.

6
Phần 3. Phân tích án
- Đọc Quyết định số 26/2017/DS - GĐT ngày 12/7/2017 của Tòa án nhân dân
tối cao.
- Thực hiện các công việc sau:
1. Xác định yêu cầu của đương sự trong bản án.
Các đương sự trong bản án: ông Ngô Như T (nguyên đơn); ông Đặng Văn Th,
bà Nguyễn Thị N (bị đơn); bà Bà Đặng Thị N1, Ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị L
(người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan).
Về Bản án dân sự sơ thẩm
Thứ nhất, đối với yêu cầu của nguyên đơn: Yêu cầu Toà án huỷ Hợp đồng mua
bán nhà giữa bà N1 với vợ chồng ông Th, trả nhà đất lại cho nguyên đơn.
Thứ hai, đối với yêu cầu của bị đơn: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Thứ ba, đối với yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Về bà Đặng Thị N1: không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị L: không có yêu cầu, không đồng ý
tham gia tố tụng.

Về Bản án dân sự phúc thẩm


Thứ nhất, đối với yêu cầu của nguyên đơn: Yêu cầu Toà án huỷ Hợp đồng mua
bán nhà giữa bà N1 với vợ chồng ông Th, trả nhà đất lại cho nguyên đơn.
Thứ hai, đối với yêu cầu của bị đơn: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Thứ ba, đối với yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Về bà Đặng Thị N1: không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị L: không có yêu cầu, không đồng ý
tham gia tố tụng.

2. Nêu và bảo vệ cho quan điểm của Tòa án các cấp liên quan đến phạm vi xét xử
của Tòa án đối với yêu cầu của đương sự.
Lưu ý: mỗi nhóm đều phải có quan điểm bảo vệ cho hướng giải quyết của từng
cấp Tòa
Thứ nhất, bảo vệ quan điểm của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án giám đốc thẩm.
Đây là vụ án dân sự do có tranh chấp giữa ông T và vợ chồng ông Th, bà N về
vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán nhà đất giữa các bên.
Căn cứ tại khoản 1 Điều 5 BLTTDS 2015 (khoản 1 Điều 5 BLTTDS 2004) quy
định Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của

7
đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Tức là Tòa
án không được giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự. Trách nhiệm của
Tòa án là giải quyết đúng và đầy đủ yêu cầu của đương sự, đảm bảo cho đương sự
được thực hiện quyền tự định đoạt, không hạn chế các đương sự thực hiện các quyền
này. Nếu các đương sự chưa hiểu, chưa biết mình có quyền và nghĩa vụ tố tụng gì thì
Tòa án cần giải thích cho họ biết các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Nhưng Trong
Bản án 26/2017/DS-GĐT Tòa án phúc thẩm đã đưa ra số tiền vượt quá số tiền mà
đương sự yêu cầu, việc này là vi phạm nghiêm trọng quyền tự định đoạt của đương sự.
Bên cạnh đó Tòa án sơ thẩm và Giám đốc thẩm chấp nhận số tiền 182.896.000 đồng là
đúng và nằm trong phạm vi mà Tòa án có nghĩa vụ phải giải quyết. Tòa án cấp sơ
thẩm và Giám đốc thẩm đã xét xử đúng theo yêu cầu của vợ chồng ông Th.

Thứ hai, bảo vệ quan điểm của Tòa án cấp phúc thẩm.
Theo lời trình bày của bị đơn là vợ chồng ông Đặng Văn Th, bà Nguyễn Thị N
do ông Th đại diện cho rằng “Sau khi mua, ông cho thuê lại nhà rồi sửa chữa hết tổng
số tiền là 182.896.000 đồng”. Lời khai trên không thể hiện rõ việc ông Th yêu cầu
nguyên đơn phải hoàn trả đúng với số tiền sửa chữa, làm thêm là 182.896.000 đồng.
Do đó, khi Hội đồng định giá xác định giá trị nhiều hạng mục sửa chữa, làm thêm của
ông Th đã tăng gấp 3 lần so với số tiền mà ông Th đã đưa ra ban đầu vẫn nằm trong
phạm vi yêu cầu ban đầu của ông Th. Bởi lẽ, yêu cầu của ông Th là không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tức yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng mua bán
nhà đất giữa mình và bà N. Khi Tòa án không xét xử theo yêu cầu của ông Th mà
buộc ông hoàn trả lại toàn bộ nhà đất số 115 thì ngược lại nguyên đơn cũng phải hoàn
trả các số tiền cho ông Th. Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã bảo vệ đúng quyền lợi
của ông Th khi yêu cầu nguyên đơn phải hoàn trả đúng số tiền theo Biên bản định giá
đã được xác định. Mặt khác, việc bị đơn đưa ra các chi phí sửa chữa nhà đất kèm theo
không đồng nghĩa với việc chỉ yêu cầu nguyên đơn hoàn trả đúng số tiền đó. Nên qua
quá trình điều tra cho thấy, số tiền bị đơn đưa ra là không đúng với thực tế ban đầu,
nên Tòa án cấp phúc thẩm đã buộc vợ chồng ông T phải thanh toán tiền sửa chữa, làm
thêm sau khi được định giá lại là phù hợp và không vượt quá yêu cầu của vợ chồng
ông Th.

3. Xác định vấn đề pháp lý từ việc giải quyết câu hỏi nêu trên và Tóm tắt bản án
xoay quanh vấn đề pháp lý đó.
Vấn đề pháp lý: Phạm vi của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp các yêu
cầu của đương sự.

8
Tóm tắt Quyết định số 26/2017/DS - GĐT:
Nguyên đơn: Ông Ngô Như T.
Bị đơn: Ông Đặng Văn Th, Bà Nguyễn Thị N.
Nội dung:
Ông T tranh chấp với ông Th, bà N và có yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng mua
bán nhà ở giữa bà N1 (vợ ông T) với ông Th, bà N. Tuy nhiên, sau khi nhận chuyển
nhượng, ông Th đã sửa chữa, cho thuê lại căn nhà. Ban đầu, chi phí để sửa chữa căn
nhà số 115 mà bị đơn đưa ra là hơn 265.000.000 đồng, sau đó ông sửa lại thành
150.000.000 đồng và liệt kê thêm các hạng mục khác, tổng số tiền là 182.896.000
đồng. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận số tiền sửa chữa, làm thêm do ông Th đưa ra là
đã đảm bảo quyền lợi của vợ chồng ông Th. Trong khi đó, Hội động định giá xác định
giá trị tăng gấp 03 lần so với yêu cầu của ông Th là 232.406.632 đồng. Tòa án Giám
đốc thẩm cho rằng Tòa án cấp phúc thẩm buộc vợ chồng ông T phải thanh toán tiền
sửa chữa, làm thêm sau khi được định giá lại là không đúng và vượt quá yêu cầu của
vợ chồng ông Th.

You might also like