You are on page 1of 2

*Di chúc chung của vợ chồng

Câu 21: Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?
Đoạn trong bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng:
“Ngày 10/8/2015 ông X viết di chúc chung của vợ chồng, bà H cùng ký với nội dung:
“ Nay hai chúng tôi nhất trí giao lại căn nhà 4 gian, sân gạch, giếng nước ăn và toàn
bộ tài sản trong nhà từ cái nhỏ nhất, đến cái to nhất cho con trai Hoàng Hồng H1 có số
chứng minh nhân dân là số
vì Hoàng Hồng H1 là người có công nuôi dưỡng cha mẹ trong khi ốm yếu. Khi cha
mẹ qua đời H1 có trách nhiệm chôn cất và thờ cúng.
Sổ đất thổ cư và vườn đổi H1 được hưởng thụ, còn những người con gái khác đã phân
chia. Nay không có gì để cho. Vì bất hiếu với cha mẹ …
Khi tôi gia đi trước vợ thì bản di chúc này sẽ giao lại cho vợ là Hoàng Thị H. Sau khi
khi bà Hoàng Thị H mất sẽ giao cho con trai Hoàng Hồng H1 sẽ quản lý số đất của gia
đình từ trong nhà đến ngoài đồng là H1 phải chịu trách nhiệm.
Vậy kính mong UBND Thị trấn xác nhận.” ”
Câu 22: Theo Toà án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng Điều 663
BLDS 2005 nhưng BLDS 2015 không có quy định điều lệ tương tự như BLDS 2005.
Thay vào đó, Toà án đã xét theo những điều kiện khác tại Điều 630 BLDS 2015 và
xác định di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý trong đoạn “Nội dung trong
bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với
quy định tại Điều 630 Bộ luật dân sự 2015”.
Câu 23: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ
với BLDS 2015 là hợp tình hợp lý tuy BLDS 2015 không có quy định cụ thể trường
hợp cụ thể như trong BLDS 2005. Để di chúc được xem là hợp pháp theo BLDS 2015
thì có điều kiện sau:
- Người lập di chúc, ông X và bà H hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng suốt
trong khi lập di chúc. Điều này được xác nhận rõ qua sự thừa nhận của các
đương sự và phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS 2015.
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội phù hợp với điểm b khoản 2 Điều 630 BLDS 2015.
- Hình thức của di chúc phù hợp với quy định của pháp luật về di chúc bằng văn
bản không có người làm chứng tại Điều 633 BLDS 2015. Cụ thể di chúc này
do ông X tự viết và được vợ chồng ông cùng kí tên vào. Theo kết luận giám
định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 thì đây chính xác là chữ kí tay của ông X,
việc không xác nhận chữ kí của bà H là do bà còn sống tại thời điểm xảy ra
tranh chấp.
- Di chúc chung này nhằm định đoạt tài sản của ông X và bà H. Điều này là phù
hợp với quy định tại Điều 609 BLDS 2015 về việc cá nhân có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình
Tuy BLDS 2015 không đề cập đến quy định chung về di chúc chung của vợ chồng
nhưng do thỏa đáng các điều kiện về nội dung, hình thức và chủ thể được quy định
nên Tòa án công nhận di chúc chung của ông X và bà H là hợp lý.
Vấn đề 4: Di sản dùng vào việc thờ cúng
Câu 24: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý khi thỏa mãn điều kiện sau:
- Thứ nhất, người lập di chúc để lại một phần di sản vào việc thờ cúng
- Thứ hai, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng, nếu người để lại di sản không
chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản
lý tài sản
- Thứ ba, toàn bộ tài sản của người để lại di sản phải đủ thanh toán nghãi vụ tài
sản của người đó.

You might also like