You are on page 1of 4

Nhóm 1.

5 – Bài 4 – Buổi thảo luận tuần 6 DS


 Tóm tắt bản án số 222/2018/DS-PT
- Vụ việc: chia thừa kế quyền sử dụng đất
- Nguyên đơn: bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P, bà Lưu Phương D
- Bị đơn: bà Lưu Thị L
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Phạm Thị M, chị Phạm Kim C,
chị Phạm Thu A, bà Lưu Thị H
- Người kháng cáo: bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P, bà Lưu Phương D, bà Lưu Thị L
- Nội dung:
Cụ C và cụ V có 8 người con (hiện nay còn sống 5 người và có thêm 3 người cháu),
khi 2 cụ mất có để lại 16 công đất. Khi cụ C lập di chúc chỉ có bà L là người chứng
kiến, cụ để lại 5 công đất ruộng cho bà L, 6 công đất lá giữ lại cho bà L để thờ cúng.
Các nguyên đơn yêu cầu Toà án giải quyết về việc chia thừa kế phần đất tranh chấp
cho 5 người con còn sống và không yêu cầu chia phần đất gắn liền với căn nhà tình
nghĩa và khu nền mộ. bà L xác định chỉ tranh chấp 5 công đất ở, đất vườn và đất
ruộng và 6 công đất lá bà L đang canh tác, không tranh chấp phần đất của bà D.
Bản án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà M, bà P kiện đòi bà L
chia thừa kế có diện tích 672,908m2 do cụ C đứng tên, không chấp nhận yêu cầu chia
thừa kế của bà D và giao cho bà L tiếp tục quản lý, sử dụng phần diện tích quyền sử
dụng đất còn lại.
Sau đó bà L, bà M, bà P, bà D kháng cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau đề nghị sửa bản án sơ thẩm, ghi nhận
sự thoả thuận của các đương sự về việc giao cho bà M phần đất ngang 6m, dài 40m
giáp với phần đất của bà D. Chia đều phần diện tích 4.582,3m2 cho các đồng thừa kế
và 1 phần dùng để thờ cúng giao cho bà L
Quyết định của Toà án:
Công nhận sự thoả thuận của bà M, bà P, bà D, bà L chia thừa kế phần đất ngang 6m,
dài 40m. Bà L được sử dụng toàn bộ phần đất còn lại là 6.634m2. Phần đất diện tích
4.582,3m2 sẽ trở thành tài sản chung của bà Lưu Thị L, bà Lưu Phương D, bà Lưu
Thị H, bà Lưu Thị P, bà Lưu Tuyết M, giao phần đất đó cho bà Lưu Thị L quản lý, sử
dụng để thờ cúng

Câu 1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- Di sản dùng vào việc thờ cúng gồm tài sản phục vụ cho việc thờ cúng có thể là đất đai
dùng cho việc thờ tự, nhà thờ từ đường, đỉnh lư đồng,…Là một phần trong di sản được để
lại. Để di sản này có giá trị pháp lý thì phải đáp ứng các điều kiện được nêu trong BLDS
2015:
 Theo Điều 645 (Điều 670 BLDS 2005):
 Di sản thờ cúng phải là một phần trong di sản của người có tài sản lập di
chúc để lại.
 Phần di sản đó không được chia thừa kế.
 Giao cho người được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ
cúng (nếu không có người được chỉ định trong di chúc thì sẽ được những
người thừa kế thỏa thuận cử người quản lí).
 Người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả
thuận của những người thừa kế thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ
được giao cho người khác tiếp tục quản lý để thờ cúng.
 Nếu tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó.
 Nếu nghĩa vụ tài sản của người đó lớn hơn toàn bộ di sản để lại hoặc di
chúc định toàn bộ di sản chỉ dùng để thờ cúng thì không được để lại di sản
dùng vào việc thờ cúng.

Câu 2: Đối với phần đất có diện tích 4.582,3m2, Tòa án có coi đây là di sản dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời?
- Đối với phần đất có diện tích 4.582,3m2, Tòa án có coi đây là di sản dùng vào việc thờ
cúng.
- Trong phần nhận định của Tòa án có đoạn: "Nay bà M, bà P, bà D vẫn yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm tiếp tục xem xét chia thừa kế phần đất diện tích 4.582,3m2, không đề nghị
hủy án sơ thẩm. Xét bản án sơ thẩm nhận định “Ông C xác định đây là đất dùng vào việc
thờ cúng do đó không được phân chia. Bà L là người có công cải tạo, canh tác toàn bộ di
sản thừa kế của ông C nên giao cho bà L, quản lý canh tác toàn bộ phần đất này là phù
hợp. Hơn nữa, bà L đã quản lý, sử dụng đất kể từ khi ông Lưu Văn C mất, thực tế bà L có
công canh tác, sử dụng và thực hiện quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất nên không
chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của các đồng nguyên đơn”. Thực tế bà L hiện đang thờ
cúng cụ C và cụ V, bà H cũng thừa nhận đất lá là đất dùng để thờ cúng. Mặc dù di chúc
của cụ C chưa tuân thủ theo quy định của pháp luật nhưng theo di chúc này vẫn thể hiện
nguyện vọng của cụ C giao phần đất cho bà L dùng vào việc thờ cúng nên không chấp
nhận kháng cáo của bà M, bà D, bà P về yêu cầu chia phần đất này. Di sản phần đất này
trở thành tài sản chung của bà L, bà H, bà D, bà P, bà M, mọi giao dịch chuyển nhượng,
thế chấp... liên quan đến phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế. Nếu bà L
không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các đồng thừa kế có thể giao cho người khác
quản lý, sử dụng phần đất này để thờ cúng".
- Trong phần quyết định của Tòa án cũng có ghi nhận: "Không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P, bà Lưu Phương D chia phần đất diện tích
4.582,3m2 tại Ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau. Phần đất diện tích 4.582,3m2 là tài sản
chung của bà Lưu Thị L, bà Lưu Phương D, bà Lưu Thị H, bà Lưu Thị P, bà Lưu Tuyết
M. Giao phần đất diện tích 4.582,3m2 cho bà Lưu Thị L quản lý, sử dụng để thờ cúng".

Câu 3: Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng có được thỏa mãn
không trong vụ việc đang nghiên cứu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ việc trên là thỏa mãn.
Theo Điều 645 BLDS 2015 (Điều 670 BLDS 2005) và khoản 3 Điều 626 Quyền của
người lập di chúc: "Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng" (BLDS
2005 khoản 3, Điều 648).
 Theo bà L trình bày cha bà là ông C có để lại tờ di chúc lập ngày 21/01/2011 (AL)
có bà là người chứng kiến. Trong di chúc có nói rõ bà L được chia 5 công đất
ruộng và 6 công đất trồng lá và nguyện vọng của ông C là để phần đất trồng lá
4.582m2 này làm đất dùng vào việc thờ cúng. Mặc dù tờ di chúc được lập không
đúng theo trình tự thủ tục quy định tại Điều 637 tuy nhiên vẫn có cơ sở xem nó là
di chúc vì do chính tay ông C viết theo nguyện vọng của mình.
 Vì ông C muốn giao phần đất này cho bà L nên xem như ông chọn bà L làm người
quản lí cho phần di sản dùng vào việc thờ cúng này. Bà L cũng chịu trách nhiệm
cải tạo, quản lí, canh tác phần đất này từ khi ông C chết. Thực tế bà L cũng đang
quản lí mảnh đất và thờ cúng ông C và bà V. Như vậy bà L đã thực hiện đúng
nghĩa vụ của người được chọn quản lí di sản dùng để thờ cúng theo quy định của
pháp luật.
 Người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng cũng không có nghĩa vụ tài sản lớn
hơn số tài sản để lại và không dùng toàn bộ di sản để làm di sản dùng vào việc thờ
cúng nên phần di sản dùng vào việc thờ cúng 4.582m2 này được để lại dùng cho
thờ cúng là hợp lí.

Câu 4: Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3m2 có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3m2 rất thuyết phục.
- Vì phần đất 4.582,3m2 này đã được ông C xác định trong di chúc để lại là phần đất dùng
trong việc thờ cúng và giao cho bà L quản lí, thực hiện công việc thờ cúng. Và ông C
cũng đã không dùng hết số di sản để làm đất dùng cho thờ cúng mà chỉ dùng 1 phần là 6
công đất lá trong 16 công đất di sản để làm đất thờ cúng. Vì vậy, việc chia di sản chỉ có
thể thực hiện với phần đất còn lại theo di chúc. Phần đất này thuộc sở hữu chung của các
đồng thừa kế để tiếp tục việc thờ cúng. Việc Tòa án xác định không chấp nhận yêu cầu
chia phần đất dùng cho việc thờ cúng này là vô cùng xác đáng và phù hợp với tín ngưỡng
truyền thống "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc hơn nữa còn phù hợp với nguyện vọng
của người để lại di sản.
- Cơ sở pháp lý: Điều 645 BLDS 2015 (Điều 670 BLDS 2005)

Câu 5: Toà án xác định phần đất có diện tích 4.582,3m2 trở thành tài sản chung của
những người thừa kế có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
Toà án xác định phần đất có diện tích 4.582,3m2 trở thành tài sản chung của những người
thừa kế là thuyết phục
Cụ thể trong bản án nêu ở phần quyết định:
“Phần đất diện tích 4.582,3m2 là tài sản chung của bà Lưu Thị L, bà Lưu Phương D, bà
Lưu Thị H, bà Lưu Thị P, bà Lưu Tuyết M.
Giao phần đất diện tích 4.582,3m2 cho bà Lưu Thị L quản lý, sử dụng để thờ cúng”
CSPL: Căn cứ vào khoản 1 Điều 670 BLDS 2005 (Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015)
“Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng
thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng…”.
Vậy, Việc Toà xác định phần diện tích đất 4.582,3m2 cho việc thờ cúng trở thành tài sản
chung của 5 người con của cụ C và cụ V và giao việc quản lý di sản cho bà L theo di chúc
của cụ C là hoàn toàn hợp lý

Câu 6: Toà án xác định “Mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp… liên quan đến
phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời
Toà án xác định “Mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp… liên quan đến phần đất này
phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” là thuyết phục.
CSPL: Căn cứ vào Điều 632, điểm b khoản 1 Điều 639, khoản 1 Điều 670 BLDS 2005
(lần lượt là Điều 610, điểm b khoản 1 Điều 617, Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015), vì phần
diện tích đất 4.582,3m2 này đã trở thành tài sản chung của bà Lưu Thị L, bà Lưu Phương
D, bà Lưu Thị H, bà Lưu Thị P, bà Lưu Tuyết M nên các bà có quyền với mảnh đất này
ngang nhau, và bà L mặc dù là người quản lý di sản theo di chúc mà cụ C đã để lại nhưng
nghĩa vụ của bà là “bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp
hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý
bằng văn bản”. Vì vậy, không thể có ai trong số 5 người có thể có quyền một mình đứng
ra để chuyển nhượng, thế chấp,.. phần đất này mà phải được cái đồng thừa kế cùng chấp
nhận

Câu 7: Toà án xác định “Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các
đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ
cúng” có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
Toà án xác định “Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các đồng thừa kế
có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ cúng” là thuyết phục
CSPL: Căn cứ vào khoản 1 Điều 670 BLDS 2005 (Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015) “[…]
nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của
những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc
thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng”
Mặc dù
Trong trường hợp này người quản lý di sản là bà L, vì vậy khi bà L không thể thực hiện
tốt trách nhiệm thờ cúng thì các đồng thừa kế hoàn toàn có thể giao cho người khác quản
lý, sử dụng phần đất để thờ cúng mà cụ C và cụ V để lại.

Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS

You might also like