You are on page 1of 32

1

VẤN ĐỀ 1:
NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CÁ NHÂN
1. Những điểm giống nhau và khác nhau giữa hạn chế năng lực hành vi dân sự và
mất năng lực hành vi dân sự.
*Giống nhau:
Một người chỉ được coi là mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế về năng lực
hành vi dân sự khi có quyết định tuyên bố của Tòa án.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị
hạn chế về năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc người
có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định
hủy bỏ quyết định tuyên bố trước đó.
Người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự không thể trực tiếp tham gia
vào các giao dịch dân sự mà phải thông qua người thứ 3 - người đại diện hợp pháp
của người này.

*Khác nhau:

Tiêu chí Hạn chế năng lực hành vi dân sự Mất năng lực hành vi dân sự

Đối Người nghiện ma túy, nghiện các Người bị bệnh tâm thần hoặc
tượng chất kích thích khác dẫn đến phá tán mắc bệnh khác mà không thể
tài sản của gia đình. nhận thức, làm chủ được hành
vi.

Căn cứ Theo yêu cầu của người có quyền, Theo yêu cầu của người có
ra quyết lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, quyền, lợi ích liên quan hoặc
định tổ chức hữu quan. của cơ quan, tổ chức hữu quan;
trên cơ sở kết luận giám định
pháp y tâm thần.

Người Do Tòa án quyết định người đại diện Người đại diện theo pháp luật.
đại diện và phạm vi đại diện.
2

Việc xác lập và thực hiện giao dịch Do người đại diện theo pháp
dân sự liên quan đến tài sản của luật xác lập, thực hiện.
Giao người bị hạn chế năng lực hành vi
dịch dân dân sự phải có sự đồng ý của người
sự đại diện theo pháp luật.
Trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên
quan có quy định khác.

2. Những điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và
là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Căn cứ vào Điều 22 và Điều 23 Bộ luật Dân sự 2015:

Tiêu chí Hạn chế năng lực hành vi dân sự Khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi dân sự

Người nghiện ma túy, nghiện các Người thành niên do tình trạng thể
Đối chất kích thích khác dẫn đến phá chất hoặc tinh thần mà không đủ
tượng tán tài sản của gia đình. khả năng nhận thức, làm chủ hành
vi nhưng chưa đến mức mất năng
lực hành vi dân sự.

Theo yêu cầu của người có Theo yêu cầu của người này, người
Căn cứ quyền, lợi ích liên quan hoặc của có quyền, lợi ích liên quan hoặc của
ra quyết cơ quan, tổ chức hữu quan. cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ
định sở kết luận giám định pháp y tâm
thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố

Người Do Tòa án quyết định người đại Do Tòa án chỉ định người giám hộ,
đại diện diện và phạm vi đại diện. xác định quyền và nghĩa vụ của
người giám hộ.

Việc xác lập và thực hiện giao Do người giám hộ xác lập và thực
dịch dân sự liên quan đến tài sản hiện (căn cứ vào điểm c khoản 1
3

của người bị hạn chế năng lực Điều 58 Bộ luật Dân sự 2015).
hành vi dân sự phải có sự đồng ý
Giao của người đại diện theo pháp
dịch dân luật.
sự Trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc
luật liên quan có quy định khác.

I. Về người mất năng lực hành vi dân sự:


Tóm tắt bản án: Quyết định số 52/2020/DS-GĐT ngày 11/9/2020 của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
*Lời khai của ông Lê Văn Tiếu:
Cố Lê Bá Cơ (mất năm 1944) có 2 vợ:
Cố Lê Thị Hiên (mất năm 1940)
+ Cụ Lê Văn Hiện (chết năm 1944), cụ Lạc (chết năm 1974): Lê Văn
Miện, Lê Văn Kiên (chết năm 1947, không có con); Lê Văn Tố (chết
năm 1945, không vợ con); Lê Thị Thảo (chết từ nhỏ) và Lê Văn Tiếu.
+ Cụ Lê Thị Hựu
+ Cụ Lê Thị Tá
+ Cụ Lê Thị Tỹ
+ Cụ Lê Thị Hữu
- Cố Đỗ Thị Liên (mất năm 1946)
+ Cụ Lê Văn Vũ
+ Cụ Lê Thị Thanh Lan (Lê Thị Hậu)
Tài sản: ngôi nhà cổ 5 gian mái ngói trên diện tích 685m đất và một cái ao có
2

diện tích 385m (tổng diện tích là 1070m ).


2 2

Sau khi các cố chết, khối tài sản để lại cho vợ chồng người con cả là cụ Hiện
và cụ Lạc.
Cụ Hiện và cụ Lạc sau khi chết không để lại di chúc.
Ngày 06/02/1956, cấp Giấp chứng nhận quyền sỡ hữu ruộng đất đối với một
phần diện tích đất so các cố tạo dựng là 1075,1m cho hộ gia đình gồm 5 người: Cụ
2
4

Nguyễn Thị Lạc, ông Lê Văn Miện, bà Nguyễn Thị Hoài (vợ ông Miện), ông Lê
Văn Chỉnh và ông Lê Văn Chảng (các con của ông Miện, bà Hoài).
Sau khi cụ Lạc, ông Miện, bà Hoài chết thì toàn bộ di sản mà các cố để lại do
ông Chỉnh quản lý, sử dụng và đã lấp ao thành vườn.
Ngoài tài sản nêu trên còn thửa đất số 298 diện tích 566m nhưng bà Hoài (vợ
2

ông Miện) đã chuyển nhượng từ 1992 để mua nhà cho ông Chảng và khoảng 70m 2

đất gần nhà cổ 5 gian mà ông Chỉnh đã chuyển nhượng từ năm 1990 (ông Tiếu
không tranh chấp vì phần đất này đã chuyển nhượng).

*Lời khai của ông Lê Văn Chỉnh:


Cụ Hiện có 2 người con trai là ông Miện và ông Tiếu (ngoài ra không
còn ai cả).
Cụ Hiện đã chia cho ông Miện ngôi nhà cổ 5 gian, 1 ao, 1 vườn trên tổng
diện tích gần 1000m nhưng là đất liền kề.
2

Năm 1956, ông Miện được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất
nên nhà đất là của gđ ông Miện.
Trong quá trình quản lý và sử dụng nhà đất, ông đã sửa chữa nhà cổ
nhiều lần với chi phí 15 triệu đồng. Trên phần đất tranh chấp vợ chồng
ông xây thêm một số nhà cấp 4 để cho thuê.
Ông Tiếu đã được cụ Hiện chia cho mảnh đất gần 400 tại thửa số 298 và
2

đã đổi thửa đất này cho cụ Lê Văn Vũ (con trai cả của cố Cơ và cố Liên)
để lấy thửa đất hiện ông Tiếu đang ở.
Sau đó cụ Vũ chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị Lạc thửa đất này,
việc chuyển nhượng sử dụng đất không có giấy tờ. Sau khi nhận chuyển
nhượng, bà đã xây nhà cho ông Chảng ở và đến năm 1992 thì bà lại
chuyển nhượng cho người khác để lấy tiền mua nhà cho ông Chảng. Tuy
nhiên, khi chuyển nhượng đất phải hờ ông Tiếu cùng đứng tên trong giấu
chuyển nhượng.
=> Ông Chỉnh không đồng ý với đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế vì
ông Tiếu đã được các cụ chia đất rồi.
Năm 2001, giữa ông Chỉnh và ông Chảng (em trai ông Chỉnh) có sự thỏa
thuận chia thừa kế, ông Chỉnh chia cho ông Chảng thêm 105m đất nữa
2
5

trên phần đất vườn (có lập Bản cam kết ngày 26/9/2001). Sau đó ông đã
giao đất cho ông Chảng và bà Nguyễn Thị Chung (vợ ông Chảng).
Ông Chảng cưới bà Chung năm 1975, có đăng ký kết hôn. Đến năm
1994 thì bà Chung chuyển ra chỗ khác ở.

*Lời khai của ông Lê Văn Chảng:


Toàn bộ khi đất thổ cư có tổng diện tích là 1680m được cấp Giấy chứng
2

nhận quyền sở hữu ruộng đất cho 5 ng. Như vậy quyền sở hữu khu đất
thuộc về 5 ng nhưng ông Chỉnh sử dụng tòa bộ và coi đó là tài sản của
mình là không dúng.
Ông Chảng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung là toàn bộ diện tích đất
ông Chỉnh đang quản lý và chia riêng phần thừa kế của các cụ mà ông
Chảng được hưởng theo quy định của pháp luật, không đồng ý với ông
Chỉnh.
Năm 2001, có việc thỏa thuận giữa ông Chảng và ông Chỉnh nhưng ông
Chảng chưa được nhận đất mà đất vẫn do ông Chỉnh quản lý, sử dụng.
Hiện nay, ông Chảng đang sống với bà Nguyễn Thị Bích, có đăng ký kết
hôn ngày 15/10/2001. Còn bà Chung chỉ là người ông Chảng có quan hệ,
không có đăng ký kết hôn, không chung sống.

*Lời khai của bà Nguyễn Thị Chung:


Bà là vợ của ông Lê Văn Chảng. Năm 1975, bà và ông Chảng có đăng ký
kết hôn tại UBND xã Dịch Vọng. Do giấy chứng nhận đăng ký kết hôn
của bà và ông Chảng đã bị thất lạc nên không có để xuất trình cho Tòa
án.
Ông Chỉnh cho ông Chảng đất theo Bản cam kết ngày 26/9/2001 đã thực
hiện xong, cụ thể ông Chỉnh đã cắm mốc giới đất và vợ chồng bà đã
nhận phần đất được chia.
Sau khi được ông Chỉnh cho đất thì ông Chảng cho bà phần đất nàu năm
2001 nhưng không lập thành văn bản và cũng chưa làm thủ tục sang tên
tại cơ quan có thẩm quyền. Thực tế bà đã quản lý phần đất vườn có vị trí
ở phía Tây của khu đất (kích thước chiều ngang chạy theo đường bê tông
là 7m, chiều dọc là 15m) và trồng một số cây bưởi trên đất.
6

Bà xác định bà là vợ chính thức của ông Chảng, còn ông Chảng kết hôn
với bà Bích là bất hợp pháp.

*Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2008/DSST ngày 31/01/2008, TAND


thành phố Hà Nội quyết đinh:
1. Chấp nhận yêu cầu xin thừa kế của ông Lê Văn Tiếu đối với ông Lê Văn Chỉnh.

*Nhận định của Tòa án:


[1] Về tố tụng:
Tại “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày
18/12/2007, Hội đồng giám định y khoa Trung ương - Bộ Y tế xác định
ông Chảng “... Không tự đi lại được. Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng,
liệt hoàn toàn ½ người phải. Rối loạn cơ tròn kiểu trung ương, tai biến
mạch máu não lần 2. Tâm thần: Sa sút trí tuệ. Hiện tại không đủ năng lực
hành vi lập di chúc. Được xác định tỷ lệ mất khả năng lao động do bệnh
tật là: 91% …”.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào “Biên bản giám định khả năng
lao động” nêu trên và “Giấy chứng nhận kết hôn – Đăng ký lại” ngày
15/10/2001 do bà Bích xuất trình để xác định bà Bích là vợ ông Chảng,
đồng thời là người giám hộ của ông Chảng là không đúng quy định tại
khoản 1 Điều 22, 58, 62 BLDS 2005.
Sau khi xét xử phúc thẩm, UBND phường Yên Nghĩa có Công văn số
31/UBND-TP ngày 08/3/2019 xác nhận: “…Qua kiểm tra xác minh sổ
đăng ký kết hôn năm 2001 của phường cho thấy không có trường hợp
đăng ký kết hôn nào có tên ông Lê Văn Chảng và bà Nguyễn Thị
Bích…”.
Tại Công văn số 62 ngày 21/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
quận Hà Đông xác định về đăng ký hộ tịch, nhưng vẫn ký xác nhận giấu
đăng ký kết hôn và trình Lãnh đạo UBND phường Yên Nghĩa ký của ông
Bùi Viết Tách (cán bộ tư pháp UBND phường Yên Nghĩa) có dấu hiệu vi
phạm pháp luật.
=> Do đó bà Bích không đủ điều kiện được xử làm người giám hộ cho
ông Chảng theo quy định tại khoản 1 Điều 62 BLDS 2005.
7

Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Chung chung sống với ông
Chảng từ năm 1975, có tổ chức đám cưới và có con chung. Do đó, có căn
cứ xác định bà Chung và ông Chảng chung sống với nhau như vợ chồng
từ trước ngày 03/01/2987, trường hợp này bà Chung và ông Chảng được
công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại điểm a mục 3 Nghị
quyết số 35/2000/NQ-QH10 nagfy 09/6/2000 của QH về việc thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình.
=> Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Bích là vợ hợp pháp của ông Chảng,
từ đó cử bà Bích làm người giám hộ cho ông Chảng là không đúng.

[2] Về nội dung:


Khi phân chia tài sản chung, Tòa án cấp sơ thẩm đã tính công sức trong
việc quản lý, tôn tạo tài sản cho ông Chỉnh là 3.583.666.666 đồng nhưng
khi chia di sản của vợ chồng ông Miện, bà Hoài trong tổng diện tích
1075,1m , Tòa án cấp sơ thẩm lại tiếp tục tính công sức cho ông Chỉnh
2

thêm 1 lần nữa nên phần di sản của ông Miện, bà Hoài lẽ ra được chia
đều cho 2 ng con là ông Chỉnh và ông Chảng thì lại chia thành 3 phần,
ông Chỉnh 2, ông Chảng 1.
Mặc dù, việc phân chia tài sản gây thiệt hại cho ông Chảng nhưng bà
Bích (tự xưng là giám hộ của ông Chảng và được Tòa sơ thẩm và phúc
thẩm đồng ý) không kháng cáo yêu cầu chia lại, dẫn đến quyền và lợi ích
hợp pháp của ông Chảng không được pháp luật bảo vệ.
Còn bà Chung mặc dù là vợ hợp pháp nhưng không được Tòa án xác
định là người đại diện hợp pháp của ông Chảng nên bà Chung không
thực hiện được quyền kháng cáo để bảo vệ quyền lợi của ông Chảng.
=> Do việc xác định không đúng người đại hiện hợp pháp của ông
Chảng cho nên đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông Chảng
trong việc chia tài sản chung và chia thừa kế.
Bà Chung là vợ hợp pháp của ông Chảng, chung sống cùng gđ ông
Chảng. Ông Chỉnh cũng xác nhận bà Chung và ông Chảng có chung
sống với nhau, bà Chung thực hiện tốt bổn phận làm dâu, làm vợ.
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không xác định bà Chung là vợ hợp pháp
của ông Chảng nên không xem xét công sức đóng góp của bà Chung
8

trong việc trông nom, bảo quản nhà đất là không đảm bảo quyền lợi của
bà Chung.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định công sức đóng góp của bà Chung có thể
được giải quyết bằng một vụ khác trong phạm vi giá trị tài sản mà ông
Chảng được sở hữu và được chia thừa kế là không giải quyết triệt để vụ
án.
Quyết định số 15/2020/QĐST-DS của Tòa án nhân dân Quận S, TP. Đà
Nẵng.
*Bà Lê Thị A trình bày:
Cha mẹ bà là ông Lê Đức H (sinh năm 1934, chết) và bà Nguyễn Thị E
(sinh năm 1935) sinh dược 12 ng con:
- Lê Thị A (sinh năm 1952)
- Lê Thị C (sinh năm 1959, chết)
- Lê Đức Đ (sinh năm 1960, chết)
- Lê Thị B (sinh năm 1961, chết)
- Lê Thị Q (sinh năm 1964)
- Lê Đức T (sinh năm 1965, chết)
- Lê Đức T1 (sinh năm 1973, chết)
- Lê Đức D (sinh năm 1970)
- Lê Thị N (sinh năm 1972)
- Lê Đức T2 (sinh năm 1947, chết)
- Lê Thị H (sinh năm 1977)
- Lê Đức L (sinh năm 1979)
Bà Nguyễn Thị E có tiền sử sinh đẻ, phát triển về thể chất và tâm thần
hoàn toàn bình thường, học vấn 3/12. Lớn lên, bà E làm nghề buôn bán
vặt kiếm sống, đến năm 60t thì nghỉ bán.
Bà E có tiền sử bị cao huyết áp cách đây 4 năm, có khám, sau đó về nhà
uống thuốc hạ huyết áp tương đối đều cho đến nay. Khoảng 1 năm trở lại
đây, bà E bắt đầu có biểu hiện lúc nhớ lúc quên, thỉnh thoảng để quên đồ
đạc, tiền bạc.
Gđ có đưa bà E đến khám và điều trị nội trú từ ngày 19->20/7/2020 với
chuẩn đoán: “Rối loạn tiêu hóa (K29)/ Tăng huyết áp (I10)”, ra viện
9

uống thuốc theo đơn. Hiện nay, bà E có thể tự mặc quần áo, tắm rửa
được nhưng hơi chậm, còn đi chợ và làm được một số công việc đơn
giản trong gia đình.
=> Xét thấy bệnh tình bà E không thuyên giảm do đó bà Lê Thị A yêu
cầu Tòa án tuyên bố bà Nguyễn Thị E khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi đồng thời chỉ định bà Lê Thị A làm người giám hộ, đại diện theo
pháp luật cho bà Nguyễn Thị E. Bà A sẽ đại diện cho bà E trong việc xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy
định của pháp luật.
Bà Lê Thị Q, ông Lê Đức D, bà Lê Thị N, bà Lê Thị H và ông Lê Đức L:
Thống nhất với lời trình bày của bà Lê Thị A về việc yêu cầu Tòa án
tuyên bố mẹ ruột là bà Nguyễn Thị E có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi. Đồng thời cũng thống nhất cử Bà A (là chị cả trong gia
đình) làm người giám hộ cho bà E, Bà A sẽ đại diện cho bà E trong các
giao dịch dân sự cần thiết theo quy định pháp luật.

*Nhận định của Tòa án:


[1] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật:
Bà Lê Thị A có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố mẹ ruột của bà là bà
Nguyễn Thị E có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

[2] Xét yêu cầu của bà Lê Thị A:


Căn cứ vào Kết luận giám định pháp y tâm thần số 1032/KLGĐTC ngày
01/12/2020 của Trung tâm pháp y thâm thần đối với trường hợp bà
Nguyễn Thị E thì tại thời điểm hiện tại kết luận về y học: Mất trí không
biệt định (F03)
=> Kết luận về năng lực hành vi dân sự: Khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi.
Về việc chỉ định người giám hộ: Chồng bà Nguyễn Thị E đã chết, bà Lê
Thị A là con cả trong gia đình. Đồng thời các con của bà E là bà Lê Thị
Q, ông Lê Đức D, bà Lê Thị N, bà Lê Thị H và ông Lê Đức L cũng
thống nhất chỉ định Bà A làm người giám hộ cho bà E. Xét thấy Bà A có
10

đầy đủ điều kiện của cá nhân làm người giám hộ theo quy định tại điều
46, 47, 48, 49, 53, 54, 136 Bộ luật Dân sự nên cần chấp nhận.
1) Trong quyết định số 52, Toà án nhân dân tối cao đã xác định năng lực hành vi
dân sự của ông Chảng như thế nào?
Tại “Biên bản giám định khả năng lao động” số 84/GĐYK-KNLĐ ngày
18/12/2007, Hội đồng giám định y khoa Trung ương - Bộ Y tế xác định ông Chảng
“…Không tự đi lại được. Tiếp xúc khó, thất vận ngôn nặng, liệt hoàn toàn ½ người
phải. Rối loạn cơ tròn kiểu Trung ương, tai biến mạch máu não lần 2. Tâm thần: Sa
sút trí tuệ. Hiện tại không đủ năng lực hành vi lập di chúc. Được xác định tỷ lệ mất
khả năng lao động do bệnh tật là: 91%…”. Do đó, trong quyết định số 52, Toà án
nhân dân tối cao đã xác định ông Chảng mất năng lực hành vi dân sự.
2) Hướng của Toà án nhân dân tối cao trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì
sao?
Hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao về việc xác định năng lực
hành vi dân sự của ông Chảng là có thuyết phục.
Vì theo Điều 22 của Bộ luật Dân sự 2015: “ Khi một người do bị bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo
yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan,
Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên
cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.” và “Biên bản giám định khả năng lao
động” của Hội đồng giám định y khoa trung ương - Bộ Y tế để xác định ông Chảng
mất năng lực hành vi dân sự là thuyết phục.
3) Theo Toà án nhân dân tối cao, ai không thể là người giám hộ và ai mới có thể là
người giám hộ của ông Chảng? Hướng của Toà án nhân dân tối cao như vậy có
thuyết phục không, vì sao?
Theo Tòa án nhân dân tối cao:
+ Bà Nguyễn Thị Bích không thể là người giám hộ cho ông Lê Văn
Chảng.
+ Bà Nguyễn Thị Chung là người có thể giám hộ cho ông Lê Văn Chảng.
Toà án nhân dân cấp sơ thẩm đã căn cứ vào “Biên bản giám định khả năng lao
động” nêu trên và giấy chứng nhận kết hôn – Đăng kí lại” ngày 15/10/2001 do bà
Bích xuất trình để xác định bà Bích là vợ ông Chảng, đồng thời là người giám hộ
11

cho ông Chảng là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 22, Điều 58 và Điều 62 Bộ
luật dân sự năm 2005 (khoản 1 Điều 22, khoản 1 Điều 46, Điều 47, Điều 53 Bộ luật
dân sự 2015). Với những tài liệu thể hiện chứng cứ “Giấy chứng nhận kết hôn -
Đăng kí lại” ngày 15/10/2001 giữa bà Bích và ông Chảng do bà Bích xuất trình
không đúng thực tế và không có việc đăng kí kết hôn giữa bà Bích và ông Chảng.
Như vậy, Toà án quyết định bà Bích không phải là vợ hợp pháp của ông Chảng và
không đủ điều kiện là người giám hộ cho ông Chảng theo quy định tại khoản 1 Điều
62 Bộ luật dân sự 2005 (khoản 1 Điều 53 Bộ luật dân sự 2015). Ngoài ra, tài liệu có
trong hồ sơ vụ án còn thể hiện bà Chung chung sống với ông Chảng từ năm 1975,
có tổ chức đám cưới và có con chung. Do đó, có căn cứ xác định bà Chung và ông
Chảng sống chung với nhau như vợ chồng nên trường hợp này được công nhận là
vợ chồng hợp pháp theo quy định tại điểm a mục nghị quyết số 35/2000/NQ -
QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
Toà án cấp sơ thẩm xác định và Bích là vợ hợp pháp của ông Chảng và là người
giám hộ cho ông Chảng là không đúng.
Hướng đi của Toà án trong phiên sơ thẩm và phúc thẩm là chưa thuyết phục
vì đã xác định sai người giám hộ cho ông Chảng. Mặc dù, chia tài sản gây thiệt hại
cho ông Chảng nhưng bà Bích không kháng cáo yêu cầu chia lại, dẫn đến quyền và
lợi ích hợp pháp của ông Chảng không được pháp luật bảo vệ. Còn bà Chung mặc
dù là vợ hợp pháp của ông Chảng nhưng không được tòa án xác định là người đại
diện hợp pháp của ông Chảng nên bà Chung không được quyền kháng cáo để bảo
vệ quyền lợi của ông Chảng. Nhưng quyết định tại phiên toà tái thẩm đã thuyết
phục hơn khi xác định bà Chung là vợ hợp pháp của ông Chảng và bà Chung mới là
người giám hộ hợp pháp cho ông Chảng. Do đó, việc xác định không đúng người
đại diện hợp pháp cho ông Chảng nên đã làm ảnh hưởng và lợi ích hợp pháp của
ông Chảng không được pháp luật bảo vệ.
4) Cho biết các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của người
được giám hộ (nêu rõ cơ sở pháp lý).
Quyền của người giám hộ đối với tài sản của người được giám hộ:
Điều 58 Bộ luật Dân sự 2015 về Quyền của người giám hộ:
“1. Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa
vụ sau đây:
a) Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
12

b) Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
c) Quản lý tài sản của người được giám hộ;
d) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi có nghĩa vụ theo quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ quy định
tại khoản 1 Điều này.”
Nghĩa vụ của người giám hộ đối với tài sản của người được giám hộ:
5) Theo quy định và Toà án nhân dân tối cao trong vụ án trên, người giám hộ của
ông Chảng có được tham gia vào việc chia di sản thừa kế (mà ông Chảng được
hưởng) không? Vì sao? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Toà án nhân dân
tối cao về vấn đề vừa nêu.
Theo quy định và Tòa án nhân dân tối cao (trong phiên tòa tái thẩm) trong vụ
án trên, người giám hộ của ông Chảng (là bà Chỉnh) được tham gia vào việc chia di
sản thừa kế (mà ông Chảng được hưởng).
Vì trong phiên sơ thẩm và phúc thẩm bà Bích được xác định là người giám hộ
hợp pháp cho ông Chảng, thế nhưng tại phiên tòa tái thẩm đã chỉ ra rằng bà Bích
xuất trình không đúng thực tế và không đăng ký kết hôn với ông Chảng nên bà Bích
đã không được xem là người giám hộ cho ông Chảng, và bà Bích cũng sẽ không
được tham gia vào việc chia tài sản thừa kế. Còn bà Chung tại phiên tái thẩm đã
được xác định là có chung sống với ông Chảng và có một đứa con chung nên bà
Chung được xác định là vợ pháp của ông Chảng, đồng thời bà Chung cũng được
pháp luật công nhận là người giám hộ hợp pháp cho ông Chảng nên bà Chung được
quyền tham gia vào việc chia tài sản thừa kế.
Việc Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án dân sự phúc thẩm số 07/2009/DSPT
ngày 14/01/2009 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án
dân sự sơ thẩm số 10/2008/DSST ngày 31/01/2008 của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội về án dân sự “Chia thừa kế và chia tài sản thuộc sở hữu chung” giữa nguyên
đơn là ông Lê Văn Tiếu với bị đơn là ông Lê Văn Chỉnh là hoàn toàn đúng đắn và
công bằng.
II. Về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Tóm tắt bản án:
13

1) Cho biết điều kiện để Tòa án có thể tuyên một người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Điều kiện để Tòa án có thể tuyên một người có khăn khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi là căn cứ vào Điều 23 Bộ luật Dân sự 2015:
“1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ
khả
bbbbbbbb năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành
mmmm vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên
quan hhhhhhh hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định
pháp y ttttt tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó
khăn ttttt trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định
qqqqqq quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.”
2) Trong quyết định số 15, Toà án tuyên bà E có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong quyết định số 15, Tòa án tuyên bà E có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi có thuyết phục vì:
Căn cứ vào kết luận giám định pháp y tâm thần số: 1032/KLGĐTC ngày
08/12/2020 của Trung Tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung đối với
trường hợp bà Nguyễn Thị E thì tại thời điểm hiện tại kết luận về y học:
Mất trí không biệt định (F03). Và hiện nay, bà E có thể tự mặc quần áo,
tắm rửa được nhưng hơi chậm, còn đi chợ và làm được một số công việc
đơn giản trong gia đình. Có thể thấy rằng bà E có dù tình trạng thể chất,
tinh thần không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến
mức mất năng lực hành vi dân sự. Vì vậy kết luận về năng lực hành vi
dân sự là: Khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Theo khoản 1
Điều 23 Bộ Luật Dân Sự năm 2015.
Kết luận giám định pháp y tâm thần của Trung Tâm pháp y tâm thần khu
vực Miền Trung thấy phù hợp với lời trình bày của bà Lê Thị A, bà Lê
Thị Q, ông Lê Đức D, bà Lê Thị N, bà Lê Thị H, ông Lê Đức L và tình
trạng hiện tại của bà Nguyễn Thị E. Do đó, yêu cầu của bà Lê Thị A là
có căn cứ theo quy định tại khoản Điều 23 của Bộ luật dân sự năm 2015
nên chấp nhận.
Và theo khoản 1 Điều 23 Bộ luật Dân sự 2015:
14

“1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ
khả
bbbbbbbb năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành
mmmm vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên
quan hhhhhhh hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định
pháp y ttttt tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó
khăn ttttt trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định
qqqqqq quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.”
3) Trong quyết định số 15, Toà án xác định bà A là người giám hộ cho bà E (có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Trong quyết định số 15, Tòa án xác định bà A là người giám hộ cho bà E (có
khó khăn trong nhận thức có thuyết phục.
Vì căn cứ vào:
Kết luận giám định pháp y tâm thần số: 1032/KLGĐTC ngày 08/12/2020
của Trung Tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung đối với trường hợp
bà Nguyễn Thị E thì tại thời điểm hiện tại kết luận về y học: Mất trí
không biệt định (F03); Kết luận về năng lực hành vi dân sự: Khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi và căn cứ theo quy định tại khoản 1
Điều 23 Bộ luật dân sự 2015 thì có đầy đủ căn cứ để xác định bà E là
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Và căn cứ theo quy định tại:


Khoản 3 Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015:
“3. Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải
thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.”

Điểm d khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015:


“1. Người được giám hộ bao gồm:
d) Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
15

Điều 48 Bộ luật Dân sự 2015:


“1. Cá nhân, pháp nhân có đủ điều kiện quy định tại Bộ luật này được
làm người giám hộ.
2. Trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn người
giám hộ cho mình thì khi họ ở tình trạng cần được giám hộ, cá nhân,
pháp nhân được lựa chọn là người giám hộ nếu người này đồng ý. Việc
lựa chọn người giám hộ phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc
chứng thực.
3. Một cá nhân, pháp nhân có thể giám hộ cho nhiều người.”

Điều 49 Bộ luật Dân sự 2015:


“Cá nhân có đủ các điều kiện sau đây có thể làm người giám hộ:
1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
2. Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền,
nghĩa vụ của người giám hộ.
3. Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người
bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
4. Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con
chưa thành niên.”

Khoản 2 Điều 53 Bộ luật Dân sự 2015:


“2. Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một
người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện
làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả
không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ
điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.”

Khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 54 Bộ luật Dân sự 2015:


16

“2. Việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm
người giám hộ.
3. Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý
do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình
trạng tài sản của người được giám hộ.
4. Trừ trường hợp áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này,
người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
do Tòa án chỉ định trong số những người giám hộ quy định tại Điều 53
của Bộ luật này. Trường hợp không có người giám hộ theo quy định trên,
Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện
việc giám hộ.”

Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015:


“2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện
theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.”
4) Trong quyết định số 15, Toà án xác định bà A có quyền đối với tài sản của bà E
(có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) theo Điều 59 Bộ luật Dân sự năm
2015 có thuyết phục không? Vì sao?
Trong quyết định số 15, Tòa án xác định bà A có quyền đối với tài sản của bà
E (có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) theo Điều 59 Bộ luật Dân sự năm
2015 có thuyết phục.
Vì căn cứ vào kết luận giám định pháp y tâm thần số: 1032/KLGĐTC ngày
08/12/2020 của Trung Tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung đối với trường
hợp bà Nguyễn Thị E thì tại thời điểm hiện tại kết luận về y học: Mất trí không biệt
định (F03); Kết luận về năng lực hành vi dân sự: Khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi và căn cứ theo quy định tại Điều 46, 47, 48, 49, 53, 54, 136 Bộ luật dân
sự 2015 thì bà A có đầy đủ điều kiện của cá nhân làm người giám hộ và Tòa án xác
định bà A là người giám hộ cho bà E.
Và căn cứ vào:
Điểm c khoản 1 Điều 57 Bộ luật Dân sự 2015:
“c) Quản lý tài sản của người được giám hộ;”
17

Điều 58 Bộ luật Dân sự 2015:


“1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự có các quyền sau đây:
a) Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho
những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ;
b) Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người
được giám hộ;
c) Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi có quyền theo quyết định của Tòa án trong số các quyền quy định tại
khoản 1 Điều này.”

Điều 59 Bộ luật Dân sự 2015:


“1. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài
sản của chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài
sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ.
Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt
cọc và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được
giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng
cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người
được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô
hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được
giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
2. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi được quản lý tài sản của người được giám hộ theo quyết định của Tòa
án trong phạm vi được quy định tại khoản 1 Điều này.”
18

VẤN ĐỀ 2
TƯ CÁCH PHÁP NHÂN VÀ HỆ QUẢ PHÁP LÝ
Tóm tắt bản án: Bản án số 1117/2012/LĐ-PT ngày 11/9/2012 của Tòa án nhân
dân TP. Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc Hùng.
Bị đơn: Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí
Minh.
Nội dung án Lao động sơ thẩm số 32/2012/LĐST ngày 9/7/2012:
Nguyên đơn trình bày:
Từ ngày 1/3/2008, ông vào làm việc tại Văn phòng Bộ Tài nguyên và
Môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh, có ký hợp đồng lao động xác
định thời hạn với nội dung công việc: tuần tra canh gác, bảo vệ an toàn
tài sản, đảm bảo an ninh trật tự trong cơ quan, ngoài ra còn sửa chữa
điện, nước của cơ quan. Đến này 3/3/2008 chuyển sang ký hợp đồng
không xác định thời hạn.
Ngày 10/12/2008, ông và cơ quan ký phụ lục hợp đồng thay đổi tên
người sử dụng lao động là cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi
trường thành phố Hồ Chí Minh ( sau đây gọi tắt là bị đơn).
Ngày 11/3/2010, tại khu tập thể của cơ quan đại diện Bộ xảy ra việc mất
2 chiếc xe gắn máy của ông Vỹ và ông Dũng.
Ngày 8/9/2011, bị đơn có văn bản số 187/CQĐDPN – HCQT buộc ông
phải bồi thường cho ông Vỹ và ông Dũng mỗi người 10.000.000đ trừ vào
số tiền làm thêm giờ của ông.
Ngày 12/8/2011, bị đơn có thông báo số 169/TB – CQĐDPN chấm dứt
hợp đồng lao động đối với ông, lý do: ông không hoàn thành nhiệm vụ
được giao để xảy ra mất xe.
Ngày 15/9/2011, bị đơn ra quyết định số 192/QĐ – CQĐDPN chấm dứt
hợp đồng lao động đối với ông. Ông không đồng ý với quyết định này
nên khởi kiện yêu cầu Tòa án:
Hủy văn bản số 187/CQĐDPN – HCQT ngày 8/9/2011.
19

Hủy thông báo số 169/TB – CQĐDPN ngày 12/8/2011.


Hủy quyết định số 192/QĐ – CQĐDPN ngày 15/9/2011.
Buộc nhận ông trở lại làm việc, bồi thường thiệt hại cho ông trong những
ngày không được làm việc từ ngày 1/10/2011 cho đến khi giả quyết xong
vụ kiện.
Ngày 21/11/2011, ông Hùng có đơn rút yêu cầu đòi hủy văn bản số 187/
CQĐDPN – HCQT ngày 8/9/2011.
Ngày 20/2/2012, ông Hùng có đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện: Hủy quyết
định số 192/QĐ – CQĐDPN ngày 15/9/2011; không yêu cầu nhận ông trở lại làm
việc; đồng ý chấm dứt hợp đồng lao động; cơ quan phải giải quyết chế độ trợ cấp
thôi việc và giao sổ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; bồi thường khoản tiền
tương đương với tiền lượng trong những ngày không được làm việc cộng với 2
tháng lương.
Ông Trần Đăng Minh – đại diện cho bị đơn trình bày:
Cơ quan không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc
Hùng, việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông Hùng đã thực hiện đúng
quy định của Luật Lao động, các chế độ cũng đã giải quyết theo luật định
Tại quyết định số 192/QĐ – CQĐDPN ngày 15/9/2011, cơ quan đã giải
quyết trợ cấp mất việc cho ông Hùng theo quy định hiện hành với số tiền
15.936.000đ; về sổ bảo hiểm và bảo hiểm thất nghiệp của ông Hùng cơ
quan không chủ trương giữ lại, sẽ trả sổ sau khi giải quyết xong.
Tòa tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
Hủy quyết định số 192/QĐ – CQĐDPN ngày 15/9/2011 của bị đơn về
việc chấm dứt hợp đồng với ông Nguyễn Ngọc Hùng.
Hợp đồng lao động không xác định thời hạn giữa nguyên đơn và bị đơn
chấm dứt kể từ ngày 25/05/2012.
Buộc bị đơn phải bồi thường cho ông Nguyễn Ngọc Hùng các khoản tiền
sau:
Hai tháng tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật là 3.984.000đ.
20

Tiền tương ứng với tiền lương trong những ngày ông Hùng không
được làm việc từ ngày 1/1/2011 đến 25/5/2012 là 15.604.000đ.
Trả tiền trợ cấp thôi việc cho ông Hùng là 7.968.000đ.
Buộc bị đơn giao sổ bảo hiểm xã hội cho ông Hùng thời gian đóng đến
tháng 5/2012.
Bị đơn và ông Hùng phải tiếp tục đóng BHXH và BHTN từ tháng
10/2010 đến tháng 5/2012 theo mức lương của ông Hùng là 1.992.000đ/
tháng.
Đình chỉ xát xử yêu cầu của ông Hùng đòi hủy văn bản số 187/
CQĐDPN – HCQT ngày 8/9/2011 của bị đơn.
Ngày 6/6/2012 ông Lê Đức Hành – người đại diện pháp luật của cơ quan đại
diện Bộ Tài nguyên và Môi trường nộp đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, cho rằng qua
việc mất 2 xe gắn máy của nhân viên cơ quan, ông đã không hoàn thành công tác
bảo vệ an toàn tài sản cơ quan. Việc chấm dứt hợp đồng với ông Hùng phải được
xem là thay đổi cơ cấu vì ông Hùng thuộc diện dôi dư. Vậy nên án sơ thẩm xử như
vậy là chưa thảo đáng và không khách quan.

Nội dung phiên tòa phúc thẩm:


Ông Trần Đăng Minh – đại diện cho bị đơn trình bày: Cơ quan không
phân bố chỉ tiêu người sửa chữa điện nước, cơ quan có sự thay đổi cơ
cấu, có thông báo chuyển ông Hùng qua làm sửa chữa điện nước là tạm
thời. Do sắp xếp lại cơ cấu, ông Hùng không có trình độ chuyên môn nên
cơ quan chấm dứt hợp đồng lao động là đúng nên yêu cầu xử sửa án sơ
thẩm, bác yêu cầu của ông Hùng.
Bà Lê Thị Bé đại diện cho ông Nguyễn Ngọc Hùng yêu cầu xử y án sơ
thẩm
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xác định về
phần thủ tục, án sơ thẩm xác định tư cách bị đơn tham gia tố tụng chưa
phù hợp với quy định của Điều 92 Bộ luật dân sự năm 2005, đưa Cơ
quan đại diện Bộ tham gia tố tụng là không đúng, mà phải đưa Bộ Tài
nguyên và Môi trường vào tham gia với tư cách bị đơn mới đúng, nên đề
nghị hủy án.
21

Tòa quyết định:


Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Cơ quan đại diện Bộ Tài
nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh
Hủy bản án Lao động sơ thẩm số 07/2012/LĐ – ST ngày 25/05/2012 về
việc “Tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động” của Tòa án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Chuyển hồ
sơ về cho Tòa án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại
sơ thẩm vụ án
Án phí Lao động sơ thẩm sẽ xác định lại khi giải quyết sơ thẩm vụ án.
Án phí Lao động phúc thẩm: Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi
trường thành phố Hồ Chí Minh được hoàn lại 200.000đ theo biên lai số
05271 ngày 8/6/2012 của Chi cục Thi hành án dân sự quận 1.
1. Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân (nêu rõ từng điều
kiện).
Theo khoản 1 Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015:
“1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện
sau đây:
a) Được thành lập theo bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.”

Theo Điều 82 Bộ luật Dân sự 2015:


“1. Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, pháp nhân
hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Đăng ký pháp nhân bao gồm đăng ký thành lập, đăng ký thay đổi và
đăng ký khác theo quy định của pháp luật.
3. Việc đăng ký pháp nhân phải được công bố công khai.”
22

Theo Điều 83 Bộ luật Dân sự 2015:


“1. Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của
pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
2. Pháp nhân có cơ quan khác theo quy định của pháp nhân hoặc theo
quy định của pháp luật.”

Theo Điều 87 Bộ luật Dân sự 2015:


“Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu
trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do
người của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ
trường hợp luật có quy định khác.”
2. Trong Bản án số 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại diện của
Bộ tài nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân không? Đoạn nào của Bản án
có câu trả lời.
Trong Bản án số 1117, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Cơ quan đại diện
của Bộ Tài nguyên và Môi trường có tư cách pháp nhân nhưng là tư cách pháp nhân
không đầy đủ.
Dựa vào đoạn thứ 15 phần Xét thấy của Bản án: “ Như vậy cơ quan đại diện
Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị trực thuộc Bộ Tài
nguyên và Môi trường là cơ quan đại diện hạch toán báo sổ khi thực hiện dự toán,
quyết toán phải theo phân cấp của Bộ, phụ thuộc theo sự phân bổ ngân sách của
Nhà nước và phân cấp của Bộ Tài Nguyên và Môi trường chứ không phải là một cơ
quan hạch toán độc lập. Mặc dù trong quyết định 1367 nói trên có nội dung “Cơ
quan đại diện có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng" nhưng là cơ
quan đại diện Bộ phải hạch toán báo sổ nên cơ quan này có tư cách pháp nhân
nhưng là tư cách pháp nhân không đầy đủ”.
3. Trong Bản án số 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ tài
nguyên và môi trường không có tư cách pháp nhân?
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 92 Bộ luật dân sự 2005
hoặc khoản 1 Điều 84 Bộ luật dân sự 2015 thì văn phòng đại diện (cơ quan đại diện)
hay chi nhánh chỉ là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân và không phải là pháp nhân.
23

Và Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường là đơn vị trực thuộc Bộ
tài nguyên và môi trường, là cơ quan đại diện hạch toán báo sổ khi thực hiện dự
toán, quyết toán phải theo phân cấp của Bộ, phụ thuộc theo sự phân bổ ngân sách
của Nhà nước và phân cấp của Bộ tài nguyên và môi trường chứ không phải là một
cơ quan hạch toán độc lập.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Hướng giải quyết của Tòa án là thỏa đáng, phù hợp, bảo đảm quyền lợi của
nguyên đơn và bị đơn. Căn cứ vào bản án “...Vì vậy, Cơ quan đại diện Bộ là đơn vị
phụ thuộc của pháp nhân là Bộ Tài nguyên và Môi trường nhưng ông Hùng là
nguyên đơn và Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định bị đơn trong vụ án là cơ quan đại
diện Bộ Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh là xác định không đúng
quy định của luật về pháp nhân của bị đơn.

Khi khởi kiện ông Hùng phải kiện Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tòa án sơ
thẩm thụ lý thấy nguyên đơn kiện không đúng đối tượng Tòa án sơ thẩm phải
hướng dẫn nguyên đơn xác định lại nhưng Tòa án sơ thẩm không giải thích cho
nguyên đơn mà vẫn xác định đơn vị chi nhánh không có tư cách pháp nhân là bị đơn
là sai, vì vậy xét thấy án sơ thẩm xác định sai tư cách bị đơn. Xét để đảm bảo cho
ông Nguyễn Ngọc Hùng - nguyên đơn có quyền khởi kiện lại cho đúng đối tượng
mà không để quá thời hiệu khởi kiện vụ án nên cần phải hủy án sơ thẩm để Tòa án
cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án với hội đồng xét xử khác”.

Về phía nguyên đơn – ông Nguyễn Ngọc Hùng: xác định sai tư cách bị đơn.
Vì khi khởi kiện ông Hùng phải kiện pháp nhân là Bộ Tài nguyên và Môi trường
chứ không phải là cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường, tuy nhiên do Tòa
án xét xử sơ thẩm không giải thích cho nguyên đơn mà vẫn xác định cơ quan đại
diện Bộ Tài nguyên và Môi trường là đơn vị không có tư cách pháp nhân là sai.

Về phía bị đơn - Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường Thành phố
Hồ Chí Minh: đưa ra yêu cầu kháng cáo. Vì có đưa một số nội dung và cho nó là
đúng và Tòa xử chưa khách quan.
24

Vì vậy để đảm bảo ông Hùng – nguyên đơn có quyền khởi kiện lại cho đúng
đối tượng mà không để quá thời hiệu khởi kiện vụ án nên cần phải hủy án sơ thẩm
để Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án với hội đồng xét xử khác. Chuyển hồ sơ về
Tòa án nhân dân quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại sơ thẩm vụ án.

=> Từ đó ta thấy được sự nghiêm minh và công bằng trong công tác xét xử của Tòa
án.

5. Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhau về năng lực pháp luật dân sự ? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời (nhất là trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật
Dân sự 2015).
Tiêu chí Pháp nhân Cá nhân
Năng lực pháp luật dân Năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân là khả sự của cá nhân là khả
năng của pháp nhân có năng của cá nhân có
các quyền, nghĩa vụ dân quyền dân sự và nghĩa vụ
sự. Năng lực pháp luật dân sự. (Khoản 1 Điều 16
Khái niệm dân sự của pháp nhân Bộ luật Dân sự 2015)
không bị hạn chế, trừ
trường hợp Bộ luật này,
luật khác có liên quan
quy định khác. (Khoản 1
Điều 86 Bộ luật Dân sự
2015)
Thời điểm phát sinh Năng lực pháp luật dân Năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân phát sự của cá nhân có từ khi
sinh từ thời điểm được cơ người đó sinh ra. (Khoản
quan nhà nước có thẩm 3 Điều 14 Bộ luật Dân sự
quyền thành lập hoặc cho 2005 và Khoản 3 Điều 16
phép thành lập; nếu pháp Bộ luật Dân sự 2015)
nhân phải đăng ký hoạt
động thì năng lực pháp
25

luật dân sự của pháp nhân


phát sinh từ thời điểm ghi
vào sổ đăng ký. (Khoản 2
Điều 86 Bộ luật Dân sự
2015)
Năng lực pháp luật dân Năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân chấm sự của cá nhân chấm dứt
dứt kể từ thời điểm chấm khi người đó chết.
Thời điểm chấm dứt
dứt pháp nhân. (Khoản 2 (Khoản 3 Điều 14 Bộ luật
Điều 86 Bộ luật Dân sự Dân sự 2005 và Khoản 3
2005 và Khoản 3 Điều 86 Điều 16 Bộ luật Dân sự
Bộ luật Dân sự 2015) 2015)
Năng lực pháp luật dân Năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân không sự của cá nhân không bị
bị hạn chế, trừ trường hạn chế, trừ trường hợp
hợp Bộ luật này, luật Bộ luật này, luật khác có
khác có liên quan quy liên quan quy định khác.
định khác. (Khoản 1 Điều (Điều 18 Bộ luật Dân sự
Hạn chế
86 Bộ luật Dân sự 2015) 2015)
Năng lực pháp luật dân
sự của mọi cá nhân là
như nhau ( khoản 2 Điều
14 Bộ luật Dân sự 2005
và khoản 2 Điều 16 Bộ
luật Dân sự 2015)
Được xác định trong Được xác định trong các
Hình thức
quyết định thành lập, điều văn bản pháp luật.
lệ của pháp nhân đó.
Pháp nhân chịu trách Cá nhân có quyền và
Trách nhiệm, quyền và nhiệm về quyền và nghĩa nghĩa vụ dân sự ( khoản 1
nghĩa vụ vụ dân sự do người đại Điều 16 Bộ luật Dân sự
diện pháp nhân ( khoản 1 2015)
26

Điều 87 Bộ luật Dân sự


2005)
Không liên quan đến giới Có năng lực pháp dân sự
tính, huyết thống (liên liên quan đến nhân thân
quan đến tính chất của như quyền xác định giới
Năng lực dân sự liên
con người). tính (Điều 36 Bộ luật Dân
quan đến giới tính, huyết
sự 2015), chuyển đổi giới
thống
tính (Điều 37 Bộ luật Dân
sự 2015)

5. Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có
ràng buộc pháp nhân không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân là có
ràng buộc pháp nhân. Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 93 Bộ luật Dân sự
2005 và khoản 1 Điều 87 Bộ luật Dân sự 2015 thì pháp nhân phải chịu trách nhiệm
dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực
hiện nhân danh pháp nhân.
6. Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có ràng buộc Công
ty Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà có ràng buộc
công ty Bắc Sơn.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 84, khoản 2 Điều 83, khoản 1 Điều 87 BLDS
2015. Cụ thể:
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 84 Bộ luật Dân sự 2015: “ Chi
nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, không
phải là pháp nhân” thì chi nhánh công ty Bắc Sơn tại Thành phố Hồ Chí
Minh có tư cách pháp nhân là vô lý vì đó chỉ là một chi nhánh của Công
ty Bắc Sơn có chức năng sản xuất phụ tùng ô tô xe máy, lắp ráp xe máy
mới, sửa chữa và phục chế xe máy cũ; đại lý mua bán ký gửi hàng hóa.
Các giao dịch do chi nhánh Công ty Bắc Sơn, trong phạm vi thời hạn
được uỷ quyền thì đều làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với công ty.
27

Vì vậy hợp đồng kí kết với Công ty Hà Nam có sự ràng buộc với Công ty
Bắc Sơn.

Căn cứ theo cơ sở pháp lý khoản 2 Điều 83 Bộ luật dân sự 2015 quy


định:
“Pháp nhân có cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo
quy định của pháp luật.”

Bên cạnh đó, theo khoản 1 Điều 87 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.”
Vì thế quy chế quy định “Chi nhánh là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp
nhân, hạch toán kinh tế độc lập” là quy định vô căn cứ, thiếu tính chính xác và thiết
thực. Xét trong trường hợp trên, Chi nhánh công ty Bắc Sơn đã ký kết hợp đồng với
công ty Nam Hà, vậy hợp đồng này sẽ ràng buộc Công ty Bắc Sơn chứ không phải
chi nhánh của công ty đó.
28

VẤN ĐỀ 3
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN
Tóm tắt bản án: Bản án số 10/2016/KDTM-PT ngày 17/03/2016 của Tòa án nhân
dân tỉnh An Giang.
Nguyên đơn: Công ty TNHH Dịch vụ- Xây dựng- Thương mại Ngọc Bích.
Đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Anh Trí.
Bị đơn: Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại Xuyên Á, Gíam đốc:
Ông Trần Ngọc Phong.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng: Ông Trần Ngọc Phong và Bà Võ
Thị Thanh Hiền.
Người đại diện theo ủy quyền: bà Hồ Hoàng Phượng.
Nội dung sơ thẩm:
Ông Nguyễn Anh Trí đại diện Công ty TNHH Dịch vụ- Xây dựng- Thương
mại Ngọc Bích trình bày:
Ngày 13/6/2011, Công ty Xuyên Á đặt mua hàng gạch men, tổng số tiền
là 77.000.752đ.
Ngày 10/6/2011, Công ty Xuyên Á mở ủy nhiệm cho thấy đã chuyển vào
Ngân hàng Sacombank với số tiền 77.000.752đ nhưng thực tế không có
chuyển tiền.

Ngày 22/6/2011, Công ty Xuyên Á thông báo thanh lý nợ và chỉ đồng ý


trả cho công ty Ngọc Bích số tiền 36.179.500đ.

Nay do Công Ty Xuyên A giải thể nên yêu cầu ông Phong, bà Hiền phải
trả cho Công ty Ngọc Bích số tiền vốn 77.000.752đ và yêu cầu tính lãi từ
ngày 16/6/2011 đến nay theo mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà
Nước quy định.
Bà Hồ Hoàng Phượng đại diện theo ủy quyền của ông Trần Ngọc Phong trình
bày:
Thừa nhận có đặt mua hàng gạch men.
29

Ông Trần Ngọc Phong chỉ đồng ý trả cho Công ty Ngọc Bích số tiền
36.179.500đ.
Lý do: gạch không đúng chuẩn, bị lệch màu, khách hàng không đồng ý nên
Công ty Xuyên Á phải thay bằng gạch khác và chịu các ci phí tổng cộng là
40.829.500đ.
Bà Võ Thị Thanh Hiền mặc dù được Tòa Án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình
không đến nên không tiến hành lấy lời khai được.
Tranh chấp: Nợ chưa thanh toán.
Lý do: Công ty Ngọc Bích khởi kiện Công ty Xuyên Á vì công ty Xuyên Á
đã đặt mua một số sản phẩm hàng hóa Công ty Ngọc Bích nhưng không thanh toán
đầy đủ số tiền như thỏa thuận.
Tòa án giải quyết: Tại phiên tòa phúc thẩm, nhận thấy bà Hiền không có
quyền và nghĩa vụ thay mặt Công ty TNHH Xuyên Á trà nợ nên Tòa án đã hủy bản
án TAND huyện Tri Tôn và giao hồ sơ cho TAND huyện Tri Tôn giải quyết lại vụ
án.
1. Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên và trách nhiệm
của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân.
Cơ sở pháp lí: Căn cứ theo Điều 87 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về
trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên và trách nhiệm của
các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân như sau:
“1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại
diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp
nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu
trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do
người của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ
trường hợp luật có quy định khác.
30

3. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp
nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường
hợp luật có quy định khác.”
2. Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của Công ty Xuyên Á
không? Vì sao?
Trong Bản án được bình luận, thì bà Hiền là thành viên của Công ty Xuyên
Á. Vì bà Hiền có vốn góp 26,05% trong công ty này và bản án phúc thẩm còn xét
thấy Công ty TNHH xuất nhập khẩu thương mại Xuyên Á là một pháp nhân, bà Võ
Thị Thanh Hiền là thành viên của pháp nhân.
3. Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á hay của bà
Hiền? Vì sao?
Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á, bà
Hiền không có nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích.
Giải thích: Người đại diện theo pháp luật cho Công ty Xuyên Á đồng thời là
giám đốc công ty - ông Phong về phần bà Hiền chỉ là người góp vốn trong số những
cổ đông góp vốn của công ty và bà chỉ là thành viên của pháp nhân.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 87 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Người của pháp
nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do
pháp nhân xác lập,thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Khi xác lập
mối quan hệ giữa pháp nhân với chủ thể khác thì pháp nhân phải lấy danh nghĩa của
mình, không lấy danh nghĩa của thành viên để sáng lập ra pháp nhân. Ở trong bản
án này, cả hai công ty đều lấy danh nghĩa của chính mình để ký kết giao dịch hợp
đồng do đại diện hai bên ký kết xác lập. Vì vậy, khi thực hiện nghĩa vụ thì phải quy
kết trách nhiệm nghĩa vụ giữa các công ty với nhau chứ không thể quy kết nghĩa vụ,
trách nhiệm cho thành viên của pháp nhân. Trong bản án này, bà Hiền chỉ là người
góp vốn trong công ty Xuyên Á, là thành viên của pháp nhân theo quy định tại
Khoản 3 Điều 87 Bộ luật dân sự 2015 thì bà không phải chịu trách nhiệm trả lại
khoản tiền cho Công ty Ngọc Bích.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa cấp sơ thẩm và Tòa cấp phúc
thẩm liên quan đến nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích.
Xét thấy hướng giải quyết của Tòa cấp sơ thẩm còn chưa hợp lí. Căn cứ theo
khoản 3 Điều 87 Bộ luật dân sự năm 2015 và bà Hiền là thành viên của pháp nhân
31

nên không phải chịu trách nhiệm bồi thường khoản nợ mà Công ty Xuyên Á nợ
Công ty Ngọc Bích. Vì vậy, Tòa cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
Còn đối với hướng giải quyết của Tòa cấp phúc thẩm có điểm hợp lí và chưa
hợp lí.
+ Điểm hợp lí: vì Tòa cấp sơ thẩm còn nhiều thiếu xót trong quá trình thụ
nlý nên mở phiên Tòa phúc thẩm để giải quyết lại vụ án.

+ Điểm chưa hợp lí: Tòa cấp phúc thẩm chưa giải quyết đầy đủ khoản nợ
mà Công ty Xuyên Á nợ Công ty Ngọc Bích. Công ty Ngọc Bích đã
thực hiện theo đúng thỏa thuận đôi bên là giao cho Công ty Xuyên Á
với số gạch mà Công ty đã yêu cầu. Nếu không hài lòng về sản phẩm
thì Công ty Xuyên Á phải thông báo lại cho Ngọc Bích ngay tại thời
điểm đó. Theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Trước
khi giải thể, pháp nhân phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về tài sản”.
Trong bản án có nêu Công ty Xuyên Á giải thể nhưng Tòa chưa có
bằng chứng và căn cứ cụ thể về việc giải thể của Công ty; tài sản khi
giải thể và nghĩa vụ về tài sản của công ty để giải quyết theo pháp luật.
Việc này đã ảnh hưởng đến Điều 94 Bộ luật dân sự 2015 về thanh toán
tài sản của pháp nhân bị giải thể.
5. Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công ty Xuyên Á đã
bị giải thể?
Để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công ty Xuyên Á đã bị giải
thể cần:
+ Tìm rõ lý do giải thể Công ty Xuyên Á.
+ Nghĩa vụ của công ty khi bị giải thể.
+ Tài sản khi bị giải thể, nếu khi bị giải thể mà Công ty Xuyên Á cố tình
trốn tránh không giải quyết hết các khoản nợ thì đang cố tình không kê
khai các khoản nợ khi làm hồ sơ giải thể. Theo đó, Công ty Ngọc Bích
có thể khởi kiện theo khoản 1 Điều 94 Bộ luật dân sự:
“1.Tài sản của pháp nhân bị giải thể được thanh toán theo thứ tự sau đây:
a) Chi phí giải thể pháp nhân;
32

b) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
đối với người lao động theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác
của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động
đã ký kết;
c) Nợ thuế và các khoản nợ khác.”

You might also like