You are on page 1of 4

* Quản lý di sản

1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di


sản của ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?

- Trong Bản án số 11, Tòa án đã xác định người có quyền quản lý di sản của
ông Đ và bà T là anh Phạm Tiến H, đoạn của Bản án cho thấy điều đó là: “Quá
trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người còn lại ở hàng thừa kế
thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ,
bà T. Xét thấy, các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng
lực hành vi dân sự; quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị
lừa dối, ép buộc; không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo
đức xã hội. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm giao quyền quản lý di sản cho anh
Phạm Tiến H là phù hợp”.

- Việc xác định của Tòa án như trên là có thuyết phục. Vì căn cứ theo quy
định tại Khoản 1 Điều 616 BLDS năm 2015: “Người quản lý di sản là người
được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra”.
Căn cứ theo Bản án trên thì khi ông Đ và bà T chết, có để lại một khối tài sản
gồm diện tích đất 311m2 và một ngôi nhà gỗ 4 gian lợp ngói nhưng cả hai đều
không để lại di chúc giao quyền quản lý di sản thừa kế cho ai. Tuy nhiên, theo
xác minh cùng với quy định tại Khoản 1 Điều 616 thì anh Phạm Tiến H được
quyền quản lý di sản thừa kế là hoàn toàn hợp lý do anh đã được các đồng thừa
kế bao gồm các bà Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đồng ý giao cho anh ủy
quyền, đứng ra trông coi, quản lý, sửa chữa và tôn tạo lại đất, tài sản của cha mẹ
anh đã để lại.

2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người
quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Trong Bản án số 11 cho thấy năm 2012, sau khi bà T chết, ông Thiện là
người đang trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản của ông bà
Đ, T. Cùng thời điểm đó vẫn chưa xác định được ai là người có quyền quản lý
di sản thừa kế, vì thế căn cứ theo Khoản 2 Điều 616 quy định: “Trường hợp di
chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được
người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục
quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di
sản”.

- Từ những phân tích trên, có thể kết luận được rằng ông Thiện trước khi đi
chấp hành án là người quản lý di sản.

3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền
quản lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiệu (Tiến H) quyền quản
lý di sản thừa kế là thuyết phục. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 616 BLDS năm
2015 quy định: “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc
hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra”. Theo nội dung đơn kiện của
anh Phạm Tiến H, anh đã được các đồng thừa kế gồm các bà Liền, Nhi,
Nhường, Hoài, Hài đồng ý ủy quyền cho anh, đứng ra trông coi, quản lý, sửa
chữa và tôn tạo lại đất, tài sản do bố mẹ anh để lại. Xét thấy, các ông Hiệu,
Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng lực hành vi dân sự; quyết định
dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép buộc; không vi phạm
điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Do đó, việc Tòa án
giao cho anh Hiệu quyền quản lý di sản là hoàn toàn phù hợp.

4. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu
sửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa
lại di sản như trong Bản án số 11. Căn cứ theo quy định tại Điểm b Khoản 1
Điều 617 BLDS năm 2015: “Người quản lý di sản theo quy định tại Khoản 1 và
Khoản 3 Điều 616 BLDS năm 2015 có nghĩa vụ bảo quản di sản; không được
bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức
khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản”. Bên cạnh
đó, theo như Bản án số 11 có cho biết tài sản mà ông Đ và bà T để lại không có
ai quản lý, bản thân anh Hiệu và anh Thiện đều phải đi chấp hành án nên dẫn
đến việc ngôi nhà đã xuống cấp trầm trọng. Hơn nữa cùng với việc để thực hiện
nguyện vọng của các anh chị em trong nhà là tu sửa, bảo quản căn nhà thật tốt
để làm nơi thờ cúng bố mẹ. Từ đó căn cứ theo quy định tại Điểm b Khoản 1
Điều 617 BLDS năm 2015 cùng với những phân tích trên, anh Hiệu (người
quản lý di sản) có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản, để bảo quản di sản một cách
tốt nhất.

5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho
con trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản không có quyền giao lại
cho người khác quản lý di sản (trường hợp của ông Thiện và con trai). Căn cứ
theo Khoản 2 Điều 617 BLDS năm 2015 quy định:

“Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại Khoản 2 Điều
616 của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:

a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp
hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;

b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

c) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản
hoặc theo yêu cầu của người thừa kế”.

- Theo quy định tại Điểm d của Điều luật trên thì ông Thiện không có quyền
giao lại quyền quản lý di sản cho con trai là anh Nghĩa (Phạm Tiến N), trừ
trường hợp giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di
sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

6. Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có
quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý di sản không có
quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là thuyết phục. Vì theo
như trong Quyết định có cho thấy thửa đất 525 là tài sản chung của ông Ngót và
bà Chơi ạo dựng trong thời kỳ hôn nhân. Ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản
của ông Ngót và phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà Chơi, chứ
không có quyền định đoạt. Tuy nhiên, ông Nhỏ lại tự ý thỏa thuận cho ông Đạm
mở lối đi khi không được sự đồng ý của bà Chơi cùng các đồng thừa kế thứ nhất
của ông Ngót là vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 617 BLDS năm
2015: “Người quản lý di sản theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 616
BLDS năm 2015 có nghĩa vụ bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng
cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không
được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản”.

You might also like